/43
lOMoARcPSD| 61601299
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH &
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC
VÀ GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG HỒ CHÍ MINH
TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn:
Thị
Nhóm:
3
Học phần:
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2025
ĐỀTÀI:
lOMoARcPSD| 61601299
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN
TÊN
NỘI DUNG
KHÁC
TIẾN ĐỘ
Nguyễn Lê Hoàng Hưng
- 50.01.606.028
I.1
I.2
- Thuyết
trình I.1. và I.2.
- Kịch bản
100%
Hà Kim Hương -
50.01.902.046
II.1
II.2
100%
Nguyễn Thái Khang -
50.01.607.021
- Ppt
- Hỗ trợ
chỉnh sửa hình
thức tiểu luận
100%
Đỗ Trần Gia Khánh -
50.01.606.030
- Thuyết trình
II.1. và II.2.
100%
Huỳnh Trung Kiên -
50.01.401.087
II.3
II.4
100%
Anh Kiệt -
50.01.606.032
- Thuyết trình
III.1. và III.2.
100%
Dương Văn Bảo Linh -
50.01.401.098
III.3
III.4
100%
Đỗ Thị Cẩm Linh -
50.01.901.082
- Thuyết trình
II.3. và II.4.
100%
Hoàng Thị Kiều Linh -
50.01.754.062
- Thuyết trình
III.3 và III.4.
100%
Lê Kiều Linh -
50.01.901.084
III.1
III.2
100%
lOMoARcPSD| 61601299
LỜI MỞ ĐẦU
Ở đời, cây muốn vươn cao phải bám chắc rễ, người muốn nên nghiệp lớn phải giữ
vững cái gốc. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là cái gốc của người cách mạng, gốc có
bền thì thân cành mới xanh, lời nói mới song hành cùng việc làm, việc nước việc dân mới
nên. Nửa thế kỷ qua, lời dặn ấy vẫn như tiếng chuông sớm giản dị, thấm thía, nhắc người
trẻ chúng ta “tự soi, tự sửa” mỗi ngày, đặc biệt là sinh viên như chúng em càng phải khắc
sâu điều ấy.
Trong nhịp sống gấp gáp hôm nay, sinh viên bước ra khỏi giảng đường là gặp ngay
“biển lớn” hội nhập với tri thức đổi thay từng giờ, công nghệ lật trang không kịp đếm, ng
những cám dỗ của lối sống thực dụng, thích nhanh ngại sâu. Giữa bộn bề ấy, đạo đức
cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh không phải cái áo để cất tủ mà là kim chỉ nam giúp
ta biết chọn điều phải, dám làm điều đúng, sống liêm chính, trách nhiệm với bản thân, n
trường và cộng đồng.
Từ yêu cầu đó, đề tài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức giải
pháp rèn luyện đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh trong sinh viên hiện nay” được triển khai
như một cuộc “về nguồn” có phương pháp cụ thể.
Với tất cả sự trân trọng, xin gửi lời cảm ơn đến ThS. NCS. Thị đã tận tình
định hướng đề tài, góp ý từng luận điểm, gợi mở phương pháp tiếp cận và luôn nhắc chúng
em giữ vững tinh thần học đi đôi với hành”. Những chỉ dẫn tận tụy ấy giúp đề tài bớt rườm
rà, thêm mạch lạc, giữ được chất giản dị mà vẫn chắt lọc được ý hay lời đẹp
Chúng em – nhóm 3 không dám nhận đã nói bao quát hết mọi điều trong đề tài. Chỉ
mong gieo thêm một hạt giống đức vào mảnh đất đề tài này đời sống sinh viên để mỗi
người trẻ khi “tự soi” đều thấy việc hôm nay làm đã khớp với điều mình nói ngày mai
lại tốt hơn ngày hôm nay. Trên hành trình bồi dưỡng lớp người vừa hồng vừa chuyên đó là
lời hẹn bền bỉ mà thế hệ sinh viên chúng ta xin được cùng nhau gìn giữ.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC NỘI DUNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ 5
CỦA ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ........................................................................................ 5
I.1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng .................. 5
I.2. Đạo đức là căn nguyên làm nên tính thu hút của chủ nghĩa xã hội ........................ 14
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ĐƯỢC THỂ HIỆN QUA ..... 21
CÁC CHUẨN MỰC CƠ BẢN THEO QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH .................. 21
lOMoARcPSD| 61601299
II.1. Trung với nước, hiếu với dân ................................................................................ 21
II.2. Cần, kiệm, liêm chính chí công vô tư .................................................................... 23
II.3. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa ...................................................... 25
II.4. Tinh thần quốc tế trong sáng .................................................................................. 28
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG SINH . 32
VIÊN HIỆN NAY .............................................................................................................. 32
III.1. Thực trạng về đạo đức cách mạng của sinh viên hiện nay ................................... 32
a. Trung với nước, hiếu với dân ................................................................................ 32
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư ................................................................. 33
c. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa: .......................................................... 33
d. Tinh thần quốc tế trong sáng: ................................................................................ 34
III.2. Nguyên nhân của thực trạng đạo đức cách mạng của sinh viên hiện nay ............ 34
III.3. Hậu quả của thực trạng đạo đức cách mạng của sinh viên hiện nay .................... 35
a. Đối với nhà trường và bản thân sinh viên: ............................................................ 35
b. Đối với Cộng đồng và Xã hội: .............................................................................. 36
III.4. Cách thức giải pháp để rèn luyện đạo đức cách mạng của sinh viên hiện nay .... 36
a. Nhà trường ............................................................................................................. 36
b. Cộng đồng ............................................................................................................. 38
c. Bản thân Sinh viên ................................................................................................. 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 41
A.SÁCH ........................................................................................................................ 41
B.TÀI LIỆU SỐ ............................................................................................................ 42
C.TRANG WED................................................................................................................ 43
lOMoARcPSD| 61601299
CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC NỘI DUNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI
TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
I.1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tầm vóc của một nhà tư tưởng và một lãnh tụ cách mạng
đại đã đặt vấn đề đạo đức giáo dục đạo đức vị trí trung tâm của sự nghiệp giải phóng
dân tộc và kiến thiết hội mới. Trong di sản tưởng của Người, đạo đức không phải
trang sức cho lời nói, càng không phải khẩu hiệu nhất thời; đó nền móng để tạo dựng
nhân cách, là động lực tinh thần kết tụ trí tuệ và ý chí cộng đồng. Nhờ nền tảng y, văn hóa
Việt Nam hiện đại được bồi đắp hệ giá trị hướng thiện còn phong trào cách mạng có được
sinh lực bền bỉ để đi qua những khúc quanh lịch sử đầy thử thách.
Ở bình diện lý luận, tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh kết cấu chặt chẽ và sáng rõ.
Người khởi đi từ một tiền đề giản dị mà sâu xa: “Đức là gốc”. Cái “gốc” ấy không tách rời
đời sống dân sinh, đạo đức phải gắn với mục tiêu “đem lại hạnh phúc cho nhân dân”, phải
soi rọi vào hành vi, vào chính sách, vào phương thức tổ chức đời sống hội. Như vậy, đạo
đức có tính chuẩn mực và có tính công cụ. Chuẩn mực để định hình phẩm chất con người,
công cụ để cải biến hiện thực. Quan niệm ấy cho ta hình dong về một điểm nhìn khoa học
với việc đạo đức được hiểu như một hệ thống khái niệm, nguyên lý, tiêu chí đánh giá
phương pháp giáo dục chứ không dừng ở kinh nghiệm vụn vặt.
Đáng chú ý, Hồ CMinh luôn đặt đạo đức trong quan hệ hữu với tri thức
năng lực thực hành. Đức tài ơng tựa nhau, đạo đức cung cấp định hướng còn năng
lực chuyên môn bảo đảm hiệu quả. Vì vậy, Người nhấn mạnh “học đi đôi với hành”, xem
giáo dục đạo đức một bộ phận của giáo dục toàn diện, mỗi con người rèn đức để biết
sống cho cộng đồng đồng thời rèn tài đlàm việc ích. Cách nhìn ấy loại bỏ tình trạng
đạo đức tách rời công việc hoặc học vấn không gắn trách nhiệm hội. Một điểm nổi bật
khác về tính đại chúng. Hồ Chí Minh diễn đạt vấn đề đạo đức bằng ngôn ngữ giản dị, hình
ảnh gần gũi, phù hợp với trình độ tiếp nhận của nhiều tầng lớp. Người tiếp biến tinh hoa
đạo đức truyền thống- nhân ái, nghĩa tình, thủy chung, lòng tự trọng rồi kết hợp với
tưởng giải phóng của thời đại, tạo n hệ giá trị vừa dân tộc vừa hiện đại. Chính nhờ tính
đại chúng, các chuẩn mực đạo đức thấm vào sinh hoạt cộng đồng, đi vào phong trào thi
đua, trở thành động lực xã hội chứ không nằm trong sách vở.
Từ bình diện chính trị - xã hội, tư tưởng đạo đức ấy bảo đảm tính chính danh và sức
huy động của một cuộc cách mạng lâu dài. Khi người lãnh đạo thiết chế công gắn với
lợi ích của dân, gắn với với việc làm của mình, lòng tin xã hội được củng cố. Lòng tin tạo
nên vốn hội - thứ vốn hình nhưng quyết định sự bền vững của một thời đại, một
phong trào đặt trong mối tương quan với quan hệ hội. Nhờ vốn hội ấy, c chủ trương
lớn nhận được sự ủng hộ tự nguyện, các hy sinh gian khó ý nghĩa sự quyết tâm của
lOMoARcPSD| 61601299
một tập thể nhỏ chuyển thành kết quả thực tế của một cộng đồng. Có thể nói, những thắng
lợi quan trọng của cách mạng Việt Nam thế kỷ XX gắn liền với việc xây dựng nền đạo đức
cách mạng bền gốc.
Trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra con đường “quốc” tiến đến thành công
, “dân” tiến đến trách nhiệm. Trường học, gia đình, xã hội cần phối hợp để tạo “khí hậu đạo
đức” thống nhất; người thầy dạy bằng tri thức, bằng nhân cách; người học rèn tính tự giác,
biết tự phê bình và phê bình với tinh thần xây dựng. Nơi làm việc chốn công sở hay đó có
thể toàn cộng đồng, tổ chức phong trào thi đua sao cho ai cũng hội làm việc tốt,
ghi nhận kịp thời, nhân rộng điển hình. Tất cả tạo thành một hệ sinh thái đạo đức.
Nhìn từ hiện tại tư tưởng đạo đức của Người tiếp tục chiếu rọi vào các vấn đề nóng
của phát triển: phòng, chống tham nhũng; xây dựng chính phủ phục vụ nhân dân; chuyển
đổi số trách nhiệm; phát triển bền vững dựa trên liêm chính dữ liệu công bằng tiếp
cận. Khi công nghệ thay đổi nhanh, chuẩn mực đạo đức càng cần vững vàng để dẫn dắt lựa
chọn chính sách, để tiến bộ kỹ thuật đi kèm tiến bộ xã hội.
tưởng đạo đức giáo dục đạo đức của Hồ Chí Minh di sản vô giá của văn
hóa Việt Nam đồng thời góp phần vào kho tàng trí tuệ nhân loại. Tính sâu sắc ở tầm luận,
tính sống động trong thực tiễn cùng sức gợi mở đối với hiện tại đã làm nên sinh lực bền bỉ
cho xã hội. Mỗi khi đối diện thử thách mới, quay về với “gốc” đạo đức với chuẩn mực, với
nêu gương, với tinh thần dân chúng ta lại tìm được la bàn để định hướng, nguồn lực để
tiến bước, niềm tin để đi xa.
Ngay từ rất sớm, Người khẳng định trong c phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947):
“sông thì nguồn mới nước, cây phải gốc, không gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Ẩn dưới hình ảnh tự nhiên là một luận đề có tính nguyên lý về cấu trúc của nhân
cách khi đức được giữ vai trò bản thể, tài là biểu hiện, gốc vững thì ngọn mới bền”.
Tư duy ấy không xuất hiện trong khoảng trống. Nó kết tinh từ trải nghiệm thực tiễn
của một người suốt đời dấn thân vì độc lập dân tộc, tiếp nhận tinh hoa đạo phương Đông
lẫn tinh thần khoa học nhân văn của thời đại. Từ truyền thống Việt Nam với “nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín” đến chủ nghĩa Mác - Lênin với yêu cầu giải phóng con người; tất cả gặp nhau ở
điểm quy chiếu chung đặt đạo đức gắn với mục tiêu, cộng sinh với động lực của sự phát
triển xã hội. Bởi lẽ, mọi cuộc cải biến lớn lao đều cần một nền tảng giá trị dẫn đường, nếu
không, hành động dễ trượt vào chủ nghĩa vị kỷ, quyền lực dễ rơi vào tha hóa bản ngã.
Đối với thế hệ trẻ, thông điệp “gốc - nguồn” gợi mở một chương trình phát triển bản
thân kiến tạo lý tưởng phục vụ, xây dựng thói quen lao động có kỷ luật, rèn bản lĩnh trước
cám dỗ, coi trọng lợi ích cộng đồng. Học để biết, để làm việc giỏi, song học còn để sống
lOMoARcPSD| 61601299
tử tế. Khi mỗi người giữ được “ngọn lửa lương tâm”, xã hội hình thành một khí quyển đạo
đức nâng đỡ cả cộng đồng.
Hình ảnh sông - nguồn, cây - gốc Hồ Chí Minh sử dụng không đơn thuần so
sánh mỹ lệ đó là kết tinh của triết lý hành động. Khi gốc vững, nguồn trong thì tài năng, trí
tuệ, sáng tạo mới có nơi nương tựa để lớn lên và niềm tin của nhân dân trở thành sức mạnh
biến khát vọng thành hiện thực.
Không chỉ dừng lại ở biểu tượng “gốc” - “nguồn” mà hình ảnh con người gánh nặng
trên đôi vai rắn rỏi và bền bỉ đi tới đích xa xăm gợi mở một luận đề cốt lõi nếu muốn đảm
đương sứ mệnh lịch sử, trước hết phải xây nền sức mạnh. Sức ấy không thuần túy cơ bắp
hay khí thế phút chốc trước hết phải xuất phát từ tổng hòa giữa thể lực, trí lực và tâm lực,
kết tinh trong đạo đức cách mạng làm gốc. Do đó, Người khẳng định trong tác phẩm Đạo
đức cách mạng (1958): “Sức mạnh mới gánh được nặng đi được xa. Người cách
mạng phải cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vàng”
đạo đức giữ vai trò nền móng để người chiến giữ trọn nhiệm vụ vvang, bảo đảm cho
bước chân cách mạng tiến xa, vững, chắc.
Xét theo lô-gích khoa học “gánh nặng” của cách mạng bao gồm hai lớp ý nghĩa. Thứ
nhất, đó là những mục tiêu khách quan là độc lập dân tộc, là hạnh phúc của nhân dân, xây
dựng một hội công bằng - văn minh. Thứ hai, đó những thách thức chủ quan sự
khắc nghiệt của gian khổ, cám dỗ của quyền lực, sức ì của thói quen định kiến. Cả hai
lớp gánh ấy đòi hỏi một chủ thể có “sức mạnh hệ thống”, thân thể đủ bền, trí tuệ đsáng,
ý chí đủ dẻo dai, lương tâm đủ trong. Khoa học hiện đại về tổ chức lãnh đạo gọi đây
năng lực thích ứng có nguyên tắc linh hoạt trước biến động nhưng kiên định giá trị cốt lõi.
tưởng Hồ Chí Minh đã khái quát điều này bằng ngôn ngữ gần gũi đạo đức gốc giúp
con người “đi được xa”.
Đi xa cần sức bền. Sức bền đạo đức được tạo bởi thói quen tốt môi trường lành.
nhân n luyện từng ngày; tổ chức xây cơ chế bảo vệ điều thiện loại bỏ điều xấu.
Pháp luật minh bạch, kiểm soát quyền lực hiệu quả, khen chê công tâm đó là “dinh dưỡng”
cho đạo đức phát triển hấp thu. Khi cá nhân nỗ lực mà hệ thống hỗ trợ, giá trị tốt đẹp không
bị đơn độc, người tử tế không bị lạc lõng. Bước chân tập thể nhờ vậy dài hơn, vững hơn.
Tính học thuật của luận đề “sức mạnh mới gánh được nặng đi được xa” còn
thể hiện mối quan hệ nhân - quả nh tất yếu lịch sử. Nhân: rèn đạo đức, nâng năng
lực, tổ chức kỷ cương. Quả: hoàn thành nhiệm vụ, tạo niềm tin xã hội, tích lũy vốn xã hội
cho tương lai. Tất yếu: cộng đồng thiếu nền tảng đạo đức sẽ bị khủng hoảng niềm tin, kéo
theo suy giảm hiệu lực công việc và ngược lại, cộng đồng kết tinh giá trị tốt đẹp sẽ có lực
đẩy mềm” đi cùng “lực đẩy cứng”. Đây quy luật thể kiểm chứng qua mọi giai đoạn
phát triển.
lOMoARcPSD| 61601299
Khi trở về với cốt tủy, ta chợt thấy sức mạnh của đạo đức có khi nền, trí tuệ cột,
có khi hành động là mái; cả ba liên kết thì ngôi nhà cách mạng trường tồn. Gánh nặng lịch
sử không hề nhỏ; con đường đi tới mục tiêu chung còn dài. Chính thế, vun bồi đạo đức
cách mạng như nuôi dưỡng mạch ớc ngầm phải âm thầm, kiên nhẫn, liên tục. Mạch nước
ấy càng trong, càng đầy, bước chân tập thể càng dẻo dai và nhiệm vụ vẻ vang càng gần tới
đích.
Đạo đức cách mạng không phải thứ trang sức treo trên trán như một nhãn hiệu.
luôn được Người coi nền móng tạo dựng niềm tin của nhân dân điều kiện tồn tại
của một đảng cách mạng chân chính. Dân chỉ gửi gắm tình cảm và sự tín nhiệm cho những
cán bộ, đảng viên có cách, có phẩm hạnh, sống nhất quán với lời nói. thế, danh xưng
hay biểu tượng không bảo đảm uy tín giá trị được chứng thực qua nhân cách, qua nh vi
vì dân, nước trong từng công việc nhỏ lẫn việc hệ trọng. Từ điểm nhìn ấy, lời dặn “giải
phóng dân tộc, giải phóng loài người” là sứ mệnh lớn lao kéo theo một hệ quả tất yếu, chủ
thể đảm đương sự nghiệp phải có nền tảng đạo đức vững chãi. Công việc càng to lớn, yêu
cầu về phẩm chất càng khắt khe. Một người đã sa vào hủ hóa, đã đánh mất căn cốt luân lý
sẽ sớm kiệt lực trước thử thách, dễ bị lợi ích riêng kéo chệch khỏi mục tiêu chung. Nói theo
-gích chính trị - hội, thiếu đạo đức thì tính chính đáng bị xói mòn, uy tín suy giảm,
hiệu lực lãnh đạo và sức huy động xã hội cũng suy kiệt.
Đạo đức thể hiện ở sự trong sạch của cá nhân, ở cách người cán bộ có đặt mình vào
vị trí người dân, thấu hiểu nhu cầu, giảm bớt thủ tục, đem dịch vụ công đến gần hơn, chăm
lo cho đối tượng yếu thế. Khi mỗi quyết định đều được soi chiếu bởi câu hỏi “điều này có
lợi cho dân hay không?”, đạo đức biến thành tiêu chuẩn thực hành không phải những lời
nói đẹp. Điều này cũng đã được Bác đề cập đến trong Bài nói bế mạc tại Hội nghị cán bộ
của Đảng lần thứ 6 (18/01/1949) được in trong Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 6 (1949-1950),
tr.16 như sau: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta
được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng
dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Đồng chí ta nhiều người
đã làm được nhưng vẫn còn những người hủ hóa. Đảng trách nhiệm gột rửa cho các
đồng chí đó”.
Trong hoàn cảnh Đảng nắm quyền lãnh đạo đất nước, Hồ Chí Minh luôn day dứt
trước một hiểm họa âm thầm về quyền lực nếu thiếu kiểm soát sẽ tạo khoảng cách với cuộc
sống đời thường, o mòn mối liên hệ với quần chúng, nảy sinh thoái hóa biến chất
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ nỗi lo ấy, Người khẳng định một tiêu chí có giá
trị như kim chỉ nam Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Công thức ngắn gọn ấy bao quát
cả nền tảng giá trị lẫn phương pháp hành động. “Đạo đức” nói đến phẩm chất, đến cái gốc
nhân cách của người cách mạng. “Văn minh” chỉ tầm vóc trí tuệ, tác phong tổ chức, kỷ luật
khoa học, năng lực tiếp thu tinh hoa nhân loại để phụng sự quốc dân.
lOMoARcPSD| 61601299
Ý nghĩa đó hòa nhịp với gợi mở của V.I. Lênin trong tác phẩm V.I. Lênin Toàn tập
(2005) “Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc thời
đại”. Nhìn từ lăng kính Hồ Chí Minh, “trí tuệ” đòi hỏi năng lực học tập suốt đời, khả năng
nắm bắt quy luật phát triển; “danh dự” gắn với lời hứa trước nhân n, với sự trong ng
trong từng quyết định; “lương tâm” là thước đo tự kiểm, là điểm tựa để mỗi đảng viên biết
tự hổ thẹn trước cái sai, biết tự điều chỉnh khi sa vào cám dỗ. Cả ba thành tố kết lại tạo nên
uy tín chính trị bền vững, giúp Đảng đứng vững giữa biến động của lịch sử.
Trong Di chúc (1969), Hồ Chí Minh gửi gắm một chuẩn mực đạo đức sự chặt
chẽ, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công . Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật TRUNG THÀNH của nhân dân.” Lời căn
dặn ấy vừa là tiêu chuẩn, vừa là phương thuốc “giải độc”.
Gắn liền với “đạo đức” “văn hóa Đảng”. Hồ Chí Minh coi văn hóa như dưỡng
chất của chính trị, văn hóa định hình lối sống, định chuẩn giao tiếp, điều chỉnh động
công vụ. Văn hóa Đảng biểu hiện trong lời nói đi đôi với việc làm, trong thái độ tôn trọng
nhân dân, trong phong cách gần gũi, giản dị. Một buổi tiếp dân được tổ chức nghiêm túc,
một lời xin lỗi kịp thời khi xử lý chậm trễ, một quyết định dũng cảm loại bỏ lợi ích cục bộ
những chi tiết ấy bồi đắp “danh dự chính trị” tốt hơn bất cứ bản báo cáo nào.
Khái niệm “người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân” diễn tả sự thống
nhất giữa quyền dẫn dắt và trách nhiệm phục vụ. Lãnh đạo là chức năng lựa chọn mục tiêu,
điều phối nguồn lực, chịu trách nhiệm về kết quả. Phục vụ đạo đặt người dân vị trí
trung tâm, coi sự hài lòng của công chúng như thước đo cuối cùng. Hai vế bổ sung cho
nhau để chống lại thói háo danh, để biến quyền lực thành công cụ kiến tạo sự phát triển.
Khi cán bộ ý thức mình “công bộc”, mọi đặc quyền tự triệt tiêu, khi tchức khẳng
định vai trò “lãnh đạo”, mọi quyết định phải dựa trên tri thức, trên nguyên tắc pháp quyền.
Lời dặn trong Di chúc (1969) không phải khẩu hiệu trang trí mà hệ quy chiếu để soi
rọi từng hành vi, từng chính sách, từng lựa chọn của n bộ, đảng viên. Khi mỗi cán bộ
“thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” sẽ được xem “là đạo đức, là văn minh”; khi
trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc thời đại kết tinh trong phong cách lãnh đạo
phục vụ thì Đảng xứng đáng với vai trò “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”, đáp ứng kỳ vọng lịch sử và niềm tin của nhân dân.
Hơn hết, đạo đức sống trong hành động. Giá trị không treo trên vách như một bức
phù điêu để chiêm ngắm, vận động trong lao động, tổ chức, phục vụ nhân dân kiến
tạo đời sống mới. Thước đo của đạo đức thế gắn với hiệu quả thực tế kết quả công
việc, đổi thay tích cực ở sở, sự tin yêu của quần chúng, chất lượng sản xuất và sức bền
của tổ chức. Từ điểm xuất phát này, hệ chuẩn mực Người kiến tạo hiện lên giàu tính
lOMoARcPSD| 61601299
khoa học, giàu luận song vẫn giản dị, gần gũi: nói đi đôi với làm, đức đi cùng tài, ý chí
được kiểm chứng qua thành quả.
Tinh thần ấy kết tinh trong quan niệm lấy kết quả thiết thực làm thước đo ý chí
cách mạng. Người nói: “phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất
lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông,
thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”. đây,
phạm trù “sản xuất” cần hiểu rộng đo không chỉ chuỗi công đoạn kinh tế còn sản
sinh giá trị hội từ giáo dục, y tế, văn hóa đến hạ tầng, thể chế. Ý chí cách mạng thế
hiện diện trong năng lực chuyển hóa nghị quyết thành kết quả, ý định tốt thành lợi ích c
thể cho nhân dân.
Nhìn sâu hơn, mệnh đ“chống bệnh nói suông, phô trương hình thức” lời cảnh
báo về một căn bệnh hình thức đang diễn ra lấn át thực chất, báo cáo đẹp che mờ hiệu quả,
hội họp dày hành động mỏng. Hồ Chí Minh đề nghị chữa trị bằng cơ chế kỷ luật công
vụ dựa trên mục tiêu ràng, trách nhiệm giải trình, kiểm tra thường xuyên. Bất kỳ kế
hoạch nào cũng phải có tiêu chí đầu ra, chuẩn mực định lượng, lịch trình người
chịu trách nhiệm. Tổng kết, phê bình tự phê bình diễn ra nền nếp để phát hiện sớm sai
sót, điều chỉnh kịp thời.
Cũng cần nhấn mạnh tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không đối lập với tự do sáng
tạo; nó cung cấp không gian cho sáng kiến thông qua yêu cầu “làm cho việc nên”. Khi mục
tiêu ràng, con người được trao quyền chịu trách nhiệm, sáng kiến sẽ nảy nở ngay
nơi công việc diễn ra. Đó là lý do Người đề cao tinh thần tự lực, tự cường, coi “trí tuệ quần
chúng” nguồn vốn quý. Sáng tạo lợi ích chung chính biểu hiện đẹp của đạo đức
trong lao động.
Trong chỉnh thể tư tưởng Hồ Chí Minh, con người cách mạng hiện lên như một cây
cổ thụ vươn cao giữa gió bão lịch sử, rễ ăn sâu xuống mạch nguồn đạo lý, thân cành vững
vàng nhờ trí tuệ, tán lá tươi tốt bởi thành quả phụng sự nhân dân. Nói cách khác, “đức tài”,
“hồng - chuyên”, “phẩm chất - năng lực” kết nên một khối hữu cơ. đó, đạo đức giữ vai
trò căn để; chính trị lý tưởng dẫn đường cho chuyên môn; phẩm chất định hình quỹ đạo
vận động của năng lực. Tài năng hiện ra như biểu hiện sống động của đạo đức trong hiệu
quả hành động.
tưởng Hồ Chí Minh về con người là một chỉnh thể giá trị - năng lực - hiệu quả.
Đức giữ vai trò gốc rễ; “hồng” dẫn dắt “chuyên”; phẩm chất nuôi ỡng năng lực; tài năng
được kiểm chứng trong kết quả phục vụ nhân dân. Khi gốc sâu, thân thẳng, quả ngọt,
hội có đội ngũ vừa sáng tâm trí, vừa vững tay nghề, vừa giàu năng lực kiến tạo. Đó con
đường xây dựng một nền văn minh tiến bộ.
lOMoARcPSD| 61601299
Thực tiễn chứng minh cho thấy từ “hũ gạo cứu đói” đến “Tuần lễ Vàng” (1945) đây
là sự kiện được đánh giá khách quan dựa trên đạo đức nhân ái và tiết kiệm biến thành năng
lực kiến quốc.
Bối cảnh sau Cách mạng Tháng Tám khẩn cấp về cả nhân đạo tài chính. Nạn
đói 1944–1945 để lại vết thương sâu, còn ngân khố quốc gia gần ntrống rỗng. Ngày
3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh nêu sáu vấn đề
cấp bách, đặt việc diệt “giặc đói” lên hàng đầu, kêu gọi tăng gia sản xuất và mở lạc quyên
gạo. Ít lâu sau, Sẻ cơm nhường áo” (28/9/1945) đề nghị mỗi người mười ngày nhịn ăn
một bữa, gửi gạo vào “hũ gạo cứu đói”, và Người cam kết làm trước. Lời kêu gọi lựa chọn
ngôn ngữ đạo đức bình dị sẻ chia để cứu người, tiết kiệm để dựng đời sống mới; chính
vậy nó chạm tới lương tri phổ quát, ghép nối thiện chí của ng triệu hộ gia đình thành một
chế cứu trợ phân tán nhưng cực kỳ nhanh nhạy. “Hũ gạo” cách chuyển đức tính
nhân (nhân ái, kiệm ước) thành năng lực tập thể lương thực dồn về đúng nơi thiếu đói, thói
quen kỷ luật tiêu dùng được gieo trồng, còn niềm tin đối với chính quyền mới được bồi đắp
bằng trải nghiệm sẻ chia hằng ngày.
Cùng mạch tưởng y, “Tuần lễ Vàng” khai hội lúc 8 giờ sáng 16/9/1945 tại Nhà
hát Lớn Hà Nội và lan rộng ra cả nước. Chỉ trong một tuần (16–22/9), nhân n quyên góp
370 cân vàng, 20 triệu đồng cho Quỹ Độc lập, thêm 40 triệu đồng cho Quỹ Đảm phụ Quốc
phòng. Những “ngày vàng” kế tiếp Nội ghi nhận dòng người của cải đổ về: từ
835,2 lạng vàng ngay ngày đầu đến tổng cộng 2.201 lạng vàng, 920 tạ thóc cùng tiền bạc
hiện vật khi bế mạc; các địa phương như Hải Phòng, Nam Định, rồi dải miền Trung từ 1/10
đến 22/11 tiếp tục góp hàng trăm cân vàng chuyển về Bộ Tài chính, bổ sung kịp thời cho
ngân khố quốc gia. Số liệu ấy không chỉ nói về tiền vàng nó đo được độ sâu của “lòng
dân” với chính thể non trẻ, vì người đóng góp đã biến đạo đức yêu nước và tinh thần kiệm
ước thành nghĩa vụ công. cấp đchính trị, chiến dịch cho thấy đạo đức tạo ra lợi thế
động viên chính quyền không phải cưỡng bách bằng sắc lệnh nặng nề vẫn huy động
được nguồn lực quy mô lớn trong thời gian cực ngắn; ở cấp độ xã hội, chuẩn mực “lá lành
đùm rách” được tái lập như tập quán công dân, giúp chữa lành sau thảm họa đói kém.
Nhờ đó, nhà ớc có ngay “vốn mồi” tài chính, còn cộng đồng có ngay hạ tầng đạo đức để
tiếp tục chịu đựng gian khó của kháng chiến sắp tới.
Ý nghĩa sâu xa của dụ 1945 khi nhà lãnh đạo nêu vấn đề đạo đức bằng những
yêu cầu cụ thể tự mình thực hành trước, lời kêu gọi hóa thành ràng buộc đạo chung,
rồi chuyển thành hành vi thể đo đếm. Từ đó, đạo đức không đứng ngoài chính trị;
thiết kế chế huy động, định hình kvọng công bằng, tiếp tế “vốn hội” cho một
nhà ớc vừa ra đời. Nói cách khác, tưởng “đạo đức gốc” đây được kiểm chứng
bằng khả năng biến lòng trắc ẩn và tinh thâbnf tiết kiệm thành năng lượng kiến quốc.
lOMoARcPSD| 61601299
Không chỉ “hủ gạo cứu đói”, không chỉ “Tuần lễ vàng”, vào tháng 3/1952
trong bài phát biểu về Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu,
Người nhấn mạnh: “Phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí bệnh quan liêu. Nếu không, thì
sẽ làm hại đến công việc của ta”. Người chỉ rõ: tham ô, lãng phí đã kìm hãm sản xuất,
phá hoại sản xuất, m chán nản và giảm sút ý chí phấn đấu của nhân dân, làm suy yếu tinh
thần của cán bộ, sức mạnh của tổ chức... đây cũng được xem là một hàng rào đạo đức liêm
chính để tự vệ của nhà nước cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải nghiêm trị các hành vi tham ô, lãng phí
theo quy định của pháp luật, không được nể nang người chức vụ, địa vị, với mục đích
bảo vệ công lý, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, răn đe, m gương cho những
người đang hoặc có ý định tham ô. Người chỉ thị “nếu tìm ra, điều tra ra những vụ tham ô,
Đảng sẽ thẳng tay kỷ luật và Chính phủ sẽ thẳng tay trừng trị”(4). Năm 1950, Đại tá Trần
Dụ Châu - Cục trưởng Cục Quân nhu (Bộ Quốc phòng) biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá
hoại công cuộc kháng chiến, bị kết án tử hình. Trước ngày thi hành án, Trần Dụ Châu gửi
đơn lên Bác xin được khoan hồng. Phút cuối, ông Trần Đăng Ninh đến gặp Bác Hồ xin ý
kiến, Bác chỉ cho xem một cây xoan héo lá, úa ngọn và hỏi lý do tại sao cây sắp chết.
Ông Ninh trả lời: “Dạ, vì thân cây bị sâu đục một lỗ rất to, chảy hết nhựa!”.
Bác hỏi: “Thế theo chú muốn cứu cây thì phải làm gì?”.
Ông Ninh trả lời: “Dạ, phải bắt và giết hết những con sâu ấy đi ạ”.
Bác gật đầu: “Chú nói đúng đấy, với loài sâu mọt đục khoét nhân dân cũng vậy. Nếu
phải giết đi một con cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa nhân
đạo”(5).
Đạo đức được dùng như thước đo tính chính danh. Một chính quyền thể thắng
trên chiến trường, nhưng sự chính danh sẽ hao mòn nếu người thi hành công vụ lợi dụng
vị trí để trục lợi. Khi gọi quan liêu, tham ô, lãng phí là “tội ác”, Hồ Chí Minh đã đồng thời
ấn định cơ sở trừng phạt (vì gây hại cho dân và cho kháng chiến) cơ sở phòng ngừa (vì
yêu cầu lối sống liêm chính). Từ đó, đạo đức vận hành như “luật mềm” hỗ trợ luật cứng.
Đó là hai góc nhìn của đạo đức chiều lịch sử, còn đối với thực tiễn đời sống hiện
nay đạo đức đức là gốc được thể hiện ở:
Thứ nhất, mạng lưới thiện nguyện cộng đồng trong thiên tai khủng hoảng. Khi
các tỉnh miền Trung ớc vào mùa mưa lũ, không ít nhóm dân sự, đoàn thể thanh niên, hội
phụ nữ, giáo xứ, chùa chiền, doanh nghiệp địa phương cùng lập bếp ăn chiến, gom áo
phao, chuẩn bị xuồng, dựng điểm phân phối nhu yếu phẩm. Hoạt động ấy không xuất phát
từ mệnh lệnh hành chính, khởi sinh từ nhận thức đạo lý: “thấy người hoạn nạn thì cứu”,
lOMoARcPSD| 61601299
“lá lành đùm rách”. Nhận thức đạo không tồn tại lửng, được dồn nén trong các
đức tính Hồ Chí Minh đề cao về tình thương dân, trọng dân, đặt lợi ích đồng bào lên trước.
Tác phong “nói đi đôi với làm” buộc nhóm thiện nguyện phải báo cáo kết quả minh
bạch, qua ảnh, video, sổ sách. Khi các lớp chuẩn mực ấy vận hành, chi phí điều phối giảm
xuống, người xa lạ cũng có thể phối hợp trơn tru, thời gian phản ứng rút ngắn. Hệ quả thấy
rõ bởi trợ giúp đến sớm hơn, đúng địa chỉ hơn, ít thất thoát hơn.
Từ góc nhìn văn hóa - chính trị, cảm hứng đạo đức còn tạo hiệu ứng khuếch đại.
Mỗi hành vi tử tế khơi dậy thêm hành vi tử tế khác, thiết lập “vốn hội” mới trong cộng
đồng. Cán bộ tại chỗ nhận thêm tình nguyện viên, nhận thêm dữ liệu nhu cầu, nhận thêm
mắt xích vận chuyển. Hoạt động cứu trợ vì vậy đi vào quy củ nhanh hơn, vượt qua tâm
chờ đợi, nâng sức chống chịu của địa phương.
nhiên, mọi nguồn lực đều đối diện rủi ro lệch chuẩn như phô trương, thiên vị,
trùng lặp hỗ trợ tuy nhiên khi nhóm thiện nguyện công khai tiêu chí phân phối, đối chiếu
danh sách thụ hưởng, chấp nhận giám sát chéo, họ biến đạo đức từ khẩu hiệu thành thiết
chế, biến lòng tốt thành năng lực tổ chức. Chính ở điểm này, “gốc” đạo đức không dừng
xúc cảm, nó đã hóa thành kỹ năng dựa trên tin cậy xã hội.
Ta còn quan sát thấy những doanh nghiệp nông nghiệp đang xây chuỗi giá trị công
bằng và minh bạch.
Một hợp tác trồng trái cây Đồng bằng sông Cửu Long liên kết nông hộ theo
hợp đồng dài hạn, cam kết thu mua với giá sàn ổn định, đồng thời đầu tập huấn quy trình
canh tác an toàn, lắp hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng mã QR. Quyết định ấy đòi hỏi chi
phí ban đầu đáng kể song lại bộc lộ một triết đạo đức muốn đạt được lợi ích doanh nghiệp
phải gắn với lợi ích của người trồng và quyền lợi người tiêu dùng.
Chuỗi giá trị minh bạch tạo ra hiệu ứng lan truyền. Nông hộ yên tâm đầu vườn
cây đầu ra ổn định; người tiêu dùng trả tiền cho sự n tâm họ đọc được sản phẩm;
nhà bán lẻ giảm rủi ro khi kiểm soát hàng tồn kho theo truy xuất. Về dài hạn, doanh
nghiệp nắm lợi thế cạnh tranh bởi nông hộ họ đã dần niềm tin, nhờ vậy chi phí
marketing giảm dần; rủi ro pháp lý thu hẹp; khả năng tiếp cận thị trường khó tính được mở
rộng. Đây không chỉ chiến lược kinh doanh, mà là sự hiện thực hóa một nguyên tắc Hồ
Chí Minh luôn nhấn mạnh “nói đi đôi với làm”, lời hứa chất lượng phải biến thành quy
trình, thành dữ liệu, thành kiểm định độc lập.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, lập trường đạo đức giúp hệ thống tránh vòng
xoáy “đua xuống đáy”. Một khi gốc” đã sâu, doanh nghiệp nông hộ thể chịu được
biến động giá cả sự gắn kết không chỉ dựa vào lợi nhuận tức thời dựa vào niềm tin
hợp tác lâu dài.
lOMoARcPSD| 61601299
I.2. Đạo đức là căn nguyên làm nên tính thu hút của chủ nghĩa xã hội
Sức hút của chủ nghĩa hội không khởi phát từ một bức tranh viễn về phồn
vinh vật chất hay một khẩu hiệu rực rỡ về tự do tinh thần. Nguồn lực lôi cuốn ấy trước hết
được nuôi dưỡng bởi đạo đức cách mạng được kiểm chứng trong đời sống hằng ngày
của những con người đang phụng sự lý tưởng. Cách đặt vấn đề như vậy chuyển trọng tâm
từ hình ảnh hứa hẹn ở tương lai sang giá trị sống có thể kiểm tra ở hiện tại, từ lời nói sang
phẩm chất, từ mong ước trừu tượng sang thước đo có thể quan sát ngay trong quan hệ giữa
cán bộ với nhân dân, giữa tổ chức với xã hội.
Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh “đức gốc” của người cách mạng, đạo đức
đem lại tính chính đáng cho mục tiêu bảo đảm cho phương tiện. Khi nói đến sức hấp
dẫn, Người không đồng nhất nó với sự lạ lẫm hay mới mẻ tạm bợ. Thuật ngữ “hấp dẫn”
đây được hiểu như năng lực tạo lòng tin bền vững. Lòng tin ấy chỉ nảy nở khi người dân
cảm nhận được sự công tâm, liêm khiết, tận tụy trong từng quyết định hành vi của những
người đại diện cho tưởng. tưởng hội chủ nghĩa thể cao đẹp đến đâu, nếu tách
rời khỏi đạo đức của chủ thể thực hiện thì sức thuyết phục sẽ suy giảm bởi quần chúng
đánh giá không phải bằng diễn từ mà bằng kết quả của ứng xử hằng ngày.
Đạo đức theo Hồ Chí Minh không phải một bộ u tập mỹ từ càng không phải lớp
phấn tô điểm cho một hệ thống chính trị. Đó là năng lực tự chủ, tự rèn, tự kiểm, hướng con
người về cái lợi chung. Một hệ thống lý tưởng chỉ sống trong lòng xã hội khi có những con
người làm “vật chứng sống” cho hệ thống ấy. Khi cán bộ sống giản dị, làm việc kỷ luật,
giải quyết việc dân minh bạch thì người dân hình dung chủ nghĩa hội trông như thế
nào trong đời sống cụ thể đó thủ tục hành chính gọn ghẽ, bệnh viện không vòi vĩnh,
là trường học coi trọng năng lực nhân phẩm, là quan công quyền xem phục vụ nhân
dân như lý do tồn tại.
Một số người cho rằng sức hút của một học thuyết chính trị chủ yếu do lời hứa về
sung túc vật chất. Hồ Chí Minh không phủ nhận tầm quan trọng của phát triển kinh tế. Tuy
vậy, Người đặt đạo đức lên trước kinh tế thiếu nền tảng đạo rất dễ biến dạng. ng
trưởng dựa vào đặc quyền, vào đặc lợi sẽ mở rộng khoảng cách hội xói mòn niềm
tin. Ngược lại, đạo đức công vụ giúp phân phối nguồn lực theo nguyên tắc công bằng
hiệu quả, từ đó tạo động lực nội sinh cho phát triển bền vững. Đạo đức điều kiện khả
dụng để những mục tiêu vật chất trở nên chính đáng và bền bỉ; vật chất phát triển kết quả
tự nhiên khi đạo đức và thể chế vận hành tốt.
Sự hấp dẫn cũng nảy sinh từ khả ng tự chỉnh đốn. Hồ Chí Minh coi phê bình
tự phê bình là quy luật phát triển tổ chức, bởi không tổ chức nào miễn nhiễm sai lầm. Một
tập thể dám đối diện khuyết điểm sẽ gửi đi tín hiệu mạnh lý tưởng không phải lá chắn cho
sai sót, tưởng chuẩn mực để sửa sai. Khnăng sửa sai sẽ củng cố lòng tin; lòng tin
lOMoARcPSD| 61601299
được bồi đắp lại htrợ công cuộc cải cách tiếp theo. Vòng tuần hoàn tích cực ấy một
nguồn hấp lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn.
Từ tất cả luận điểm trên, có thể i rằng trong tư ởng Hồ Chí Minh, điểm sáng thu
hút của chnghĩa hội không nằm lời hứa xa xôi, cũng không hệ tại vài cột mốc định
lượng về vật chất hay khẩu hiệu về tự do. Giá trị cốt lõi nằm đạo đức cách mạng được
thể hiện bằng những con người nêu gương, biết biến chuẩn mực thành nh động, biến
hành động thành kết quả có lợi cho n và biến kết quả ấy thành niềm tin. Nơi nào đạo đức
được đặt ở vị trí gốc rễ, nơi ấy lý tưởng có cơ hội đâm chồi trên đất tốt. Nơi nào nêu ơng
trở thành thói quen văn hóa, nơi ấy sức hấp dẫn của chnghĩa hội hiện ra nmột lực
từ trường lặng lẽ nhưng bền bỉ, dẫn dắt xã hội tiến về phía trước.
Ngoài ra, sự trưởng thành của phong trào cộng sản công nhân quốc tế được
giải như một tất yếu lịch sử dựa trên hai trụ cột tính khoa học cách mạng của đường lối và
nền tảng đạo đức của lực lượng tiên phong. Khẳng định y không phát xuất từ cảm hứng
tuyên truyền bắt nguồn từ quan sát thực tiễn dài lâu, chiến lược đúng đắn dẫn dắt
bước đi của quần chúng, đồng thời phẩm chất nhân văn tạo nên niềm tin ý chí bền bỉ.
Nhờ sự kết hợp ấy, phong trào mới vươn lên vị thế lực lượng có khả năng định đoạt chiều
hướng vận động của lịch sử nhân loại.
Trước hết, nói đến chiến lược sách lược theo Hồ Chí Minh nói đến năng lực
xác định mục tiêu tối hậu cùng những bước đi thích ứng với hoàn cảnh, sao cho mục tiêu
lâu dài không bị hy sinh vì thắng lợi trước mắt. Chiến lược vạch ra con đường giải phóng
con người khỏi áp bức, còn sách lược giúp lực lượng ch mạng gắn với điều kiện cụ
thể của từng dân tộc, từng giai đoạn. Khi hai tầng tư duy này ăn khớp, tổ chức cách mạng
mới huy động được nguồn lực hội, phối hợp các hình thức đấu tranh xử những
bước ngoặt lịch sử bằng quyết đoán kèm theo thận trọng có khoa học.
Sự thiên tài của đường lối không nằm khẩu hiệu kêu gọi, trái lại, nằm trong khả
năng chuyển tri thức lý luận của chủ nghĩa Mác–Lênin thành phương pháp tổ chức thực
tiễn. Hồ Chí Minh đánh giá cao việc lấy dân làm gốc vì nguyên tắc ấy bảo đảm cho mọi
quyết định chính trị nền đỡ hội. Khi người dân hiểu mục tiêu, thấy lợi ích của nh
được tôn trọng, họ sẵn sàng hy sinh sáng tạo. Từ đó, chiến lược không còn n bản
treo trên tường nó dần trở thành hành động thường ngày của hàng triệu con người.
Song, chỉ có kỹ năng vận hành chiến lược vẫn chưa đủ để biến phong trào thành lực
lượng có sức định đoạt. Theo Hồ Chí Minh, một yếu tố ít hữu hình hơn lại giữ vai trò nền
tảng đó chính đạo đức cách mạng. Đạo đức tạo nên thước đo đối với quyền lực, định
hình động cơ cống hiến và bảo vệ tổ chức trước cám dỗ của đặc quyền.
Đạo đức còn giữ vai trò gắn kết quốc tế. Hồ Chí Minh đề cao tình hữu ái giữa các
dân tộc bị áp bức vì tình cảm ấy phản ánh một chuẩn mực nhân văn phổ quát là giải phóng
lOMoARcPSD| 61601299
cho mình gắn với giải phóng cho người. Khi phong trào đặt lợi ích con người lên trên mọi
toan tính vị kỷ, hình thành mạng lưới liên đới vượt qua biên giới, từ đó tạo nên sức mạnh
hội tụ. Sự hội tụ này không chỉ dựa vào thỏa thuận lợi ích dựa vào lòng tin rằng mỗi
chiến thắng riêng lẻ đều góp phần cho mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ.
Ở bình diện chế, đạo đức vận nh như vốn hội của cách mạng. Vốn ấy biểu
hiện qua sự sẵn sàng hợp tác, khả năng chịu đựng gian khổ, và tinh thần tự quản trong cộng
đồng. Khi vốn hội cao, chi phí giám sát giảm xuống, tốc độ phối hợp tăng lên, c
quyết sách được thực thi với ít mệnh lệnh ỡng bức. Hiệu ứng này giải thích sao một
tập thể thấm nhuần giá trị nhân văn có thể kiên cường trước khủng hoảng, trong khi tập thể
thiếu chuẩn mực dễ bị xói mòn từ bên trong.
Nhìn ới góc độ luận, chiến ợc đạo đức tạo thành hai mặt bổ sung trong
một chỉnh thể. Chiến lược trao hướng đi, còn đạo đức cung cấp nguồn năng lượng tinh thần
để bước tiếp, nhất giai đoạn gian khó. Đạo đức cũng giữ vai trò kiểm soát mục tiêu,
giúp phong trào tránh rơi vào cực đoan.
lẽ đó, luận điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh “vô địch” của chủ nghĩa cộng
sản không hề dựa trên niềm tin cảm tính. Tính “vô địch” ở đây nên được hiểu như khả năng
bền bỉ vượt qua thử thách lịch sử khi hai điều kiện cùng hiện diện: một, đường lối có cơ s
khoa học phù hợp thực tiễn; hai, đạo đức của lực lượng nòng cốt đủ trong sáng để quy
tụ lòng người. Khi hai điều kiện tương tác, quyền lực chính trị đạt được chính danh, còn tổ
chức đạt được năng lực tự cải cách để tránh trì trệ.
Từ tất cả những phân tích trên, thể diễn giải theo cách chín chắn hơn nsau
phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng tầm quyết định đối với
vận mệnh nhân loại hội tụ trí tuệ chính trị cùng đạo đức cách mạng. Ttuệ chỉ đường;
đạo đức giữ lửa. Một bên đảm bảo hiệu quả, bên kia bảo đảm chính nghĩa. Khi hiệu qu
gắn chặt với chính nghĩa, sức mạnh tinh thần của con người được khơi mở ở mức cao nhất,
tạo nên sức bật vượt qua trở lực lịch sử.
Như vậy, ởng Hồ Chí Minh không dừng sự kết hợp học giữa luận
đạo đức; đó là một cấu trúc hữu cơ. Cấu trúc ấy giải thích vì sao một phong trào có thể tiến
lên qua nhiều thăng trầm, bởi vừa hiểu mình đi về đâu vừa hiểu mình sống ai.
tưởng ấy vẫn giá trị định ớng cho mọi nỗ lực khai mở tự do, công bằng, hạnh phúc
của con người trong thế kỷ XXI.
Hình tượng đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh tỏa chiếu như một chuẩn mực
sống, kết hợp tầm vóc của một nhân với sự giản dị của người lao động bình dị, sức hút
ấy nảy sinh từ sự nhất quán giữa lý tưởng giải phóng con người và cách Người lựa chọn để
biến ởng thành những hành vi cụ thể trong sinh hoạt hằng ngày. Người, sự đại
không trú ngụ trong nghi thức quyền lực hay biểu tượng xa xỉ, hiện lên qua lao động
lOMoARcPSD| 61601299
bền bỉ, sự tiết chế nhu cầu nhân thái độ kính trọng đối với nhân dân, nhờ vậy hình
tượng lãnh tụ trở nên gần gũi đến mức có thể chạm tới
Trong những khúc quanh thử thách của lịch sử, hình tượng ấy trở thành nguồn cổ
mạnh mẽ, bởi cho thấy mục tiêu lớn vẫn thể được theo đuổi bằng phương thức
nhân văn tôn trọng con người. Sự cnày không phải lời hào nhất thời đó cảm
hứng được tích lũy từ trải nghiệm tập thể rằng chuẩn mực đạo đức thể biến thành năng
lực tổ chức, gắn các nhóm hội vào một sợi dây trách nhiệm chung. Từ sở đó, tưởng
đại đoàn kết phát huy sức mạnh: mọi tầng lớp mọi thế hệ đều tìm thấy điểm tựa để đặt lợi
ích dân tộc lợi ích của nhân loại tiến bộ lên trên toan tính vị kỷ, nhờ vậy hợp tác trở
thành lựa chọn hợp lý chứ không phải mệnh lệnh áp đặt.
Quan niệm về dân chủ của Người gắn với quyền làm chủ thực chất của dân, nên mọi
thiết kế thể chế phải nuôi dưỡng năng lực tham gia giám sát. Dân chủ trước hết khung
pháp bảo đảm quyền, đồng thời là văn hóa ứng xử khuyến khích đối thoại trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, để quyền lực luôn được kiểm soát bằng cả đạo đức lẫn pháp luật.
Khi người cầm quyền tự buộc mình vào chuẩn mực, niềm tin chính trị điều kiện nảy
sinh, và niềm tin ấy là tài sản xã hội tạo đà cho phát triển bền vững.
Từ tất cả những điểm đã phân tích, thể thấy tấm gương đạo đức trong sáng của
Hồ Chí Minh mang đồng thời giá trị lý luận và sức sống thực tiễn. Sức hút của hình tượng
không xuất phát từ sự thần thánh hóa; sức hút được tạo bởi tính nhất quán giữa lý tưởng và
hành động, giữa mục tiêu con người phương thức tôn trọng con người. Từ nền tảng
ấy, nhân dân Việt Nam cùng nhân loại yêu chuộng hòa bình có cơ sở tin vào khả năng kiến
tạo một thế giới độc lập, dân chủ, ng bằng, tiến bước trên con đường hội chủ nghĩa
bằng trái tim nhân ái và trí tuệ tỉnh táo.
Để thấy “đạo đức căn nguyên sức hút”, thể phân tích hai dụ tiêu biểu
trong lịch sử - chính trị Việt Nam, thứ nhất về lớp Bình dân học vụ sau Cách mạng Tháng
Tám 1945 và việc ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 cùng Tạm ước 14/9/1946. Mỗi ví dụ
soi chiếu một phương diện khác nhau của đạo đức cách mạng: tôn trọng phẩm giá tri thức
của nhân dân và ưu tiên gìn giữ sinh mạng cộng đồng trong những thời khắc hiểm nghèo.
Cả hai trường hợp cho thấy tưởng HChí Minh vận nh qua sự lựa chọn cụ thể, qua
đó hình thành sức hút bền vững đối với con đường xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, Bình dân học vụ (1945–1946) như thể là đạo đức của tri thức và phẩm giá
công dân.
Ngay sau khi giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đối diện nhiều
thách thức cùng lúc nạn đói vừa tàn phá, hạ tầng giáo dục kiệt quệ, tỉ lệ chữ rất cao,
ngân khố gần như trống rỗng. Trong hoàn cảnh ấy, ưu tiên cho một chiến dịch xoá mù chữ
dường như thiếu thực tế nếu chỉ đo bằng số liệu tài chính, nhà ớc non trẻ còn thiếu
lOMoARcPSD| 61601299
phòng học, thiếu giấy bút, thiếu giáo viên. Tuy vậy, theo Hồ Chí Minh, quyền được học là
quyền nền tảng, bởi tri thức mở đường cho tự do cá nhân, đồng thời tạo nền tảng để người
dân tham gia có cơ sở được hiểu biết. Xác tín đạo đức đó dẫn tới quyết định phát động Bình
dân học vụ như một cuộc vận động toàn dân, biến hành động học chữ thành bổn phận yêu
nước cũng con đường khôi phục phẩm giá sau nhiều thập niên bị tước chiếm đoạt
quyền tự chủ, quyền được sống tự do như một con người.
Cách tổ chức phong trào thể hiệnphương châm “lấy dân làm gốc”. Lớp học mở
trong đình làng, nhà thờ, chùa chiền, sân kho; giờ học linh hoạt để nông dân có thể đến lớp
sau một ngày lao động; chữ Quốc ngữ được chọn làm công cụ cấu trúc đơn giản giúp
người mới biết chữ nhanh chóng để đọc hiểu văn bản công vụ mức cấp. Hàng vạn
thanh niên, trí thức, phụ nữ tình nguyện làm giáo viên, vừa dạy chữ, vừa truyền cảm hứng
về quyền làm chủ của người dân trong một nhà nước mới. Mỗi lựa chọn tổ chức đều đi từ
lý do đạo đức phải trao công cụ để người dân tự cất tiếng nói, phải để công lý và pháp luật
trở nên “đọc được”, “hiểu được”, rồi “dùng được” trong đời sống hằng ngày.
Hiệu ứng chính trị tích luỹ từ đây không đến từ khẩu hiệu đến từ kinh nghiệm
rất cụ thể: người nông dân lần đầu tự đọc tên mình trên giấy tờ, người thợ có thể đọc thông
báo lương, người mẹ biết viết thư cho con ở chiến khu. Khi con người cảm thấy phẩm g
được nâng đỡ bằng tri thức, họ hiểu chủ nghĩa hội không phải lời hứa viển vông bởi
mình được quyền học, quyền biết, quyền n quyền kiểm soát. Tính hấp dẫn của
tưởng vì thế không nảy sinh từ sự áp đặt mà xuất hiện như kết quả của một “giao ước đạo
đức” giữa nhà nước nhân dân, chính quyền nỗ lực mở cánh cửa tri thức, người dân đáp
lại bằng niềm tin, bằng sự tham gia kỷ luật o công cuộc dựng nước. Nói đến Bình dân
học vụ chính là nói đến sự khai phóng đạo đức ai cũng xứng đáng được học và một xã hội
xứng đáng được gọi là xã hội chủ nghĩa khi mọi quyết định đều hướng tới mở rộng tri thức
cho số đông.
Thứ hai là về Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) lúc này đạo đức
được đặt trong ưu tiên sinh mạng cộng đồng và cơ hội hoà bình.
Chỉ vài tháng sau ngày độc lập, chính quyền cách mạng đứng trước tình thế cực kỳ
phức tạp nhiều lực lượng phản cách mạng hiện diện, kinh tế kiệt quệ, nguy cơ chiến tranh
cận kề. Trong bối cảnh bị dồn ép, lựa chọn Hiệp định bộ sau đó Tạm ước
quyết định kdễ bị diễn giải theo nhiều hướng. Đặt trong lăng kính đạo đức của Hồ
Chí Minh, quyết định y đi theo một nguyên tắc rệt mạng sống nhân dân hội hoà
bình phải được cân nhắc trước tiên; thời gian là tài sản chiến lược để củng cố nội lực, xây
dựng chính quyền, tổ chức bầu cử, chuẩn bị lực lượng, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Đạo
đức ở đây không phải sự nhượng bộ nguyên tắc đó dũng khí nhận diện ưu tiên đúng
trong hoàn cảnh nhiều rủi ro, đồng thời giữ nguyên mục tiêu tối hậu là độc lập, thống nhất.
lOMoARcPSD| 61601299
Cách thức đàm phán thhiện triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến”: bất biến là quyền
tự quyết dân tộc; vạn biến là biện pháp, nhịp độ và sách lược phù hợp từng thời điểm. Lựa
chọn ấy tạo ra một khoảng lặng chiến ợc để chính quyền trẻ củng cố pháp lý, chuẩn bị
nguồn lực, sắp xếp lại bộ máy, ổn định hội, duy trì đường dây hậu cần. Hiệu ứng đạo
đức xuất hiện khi n chúng thấy lãnh đạo sẵn sàng kiềm chế, chấp nhận hy sinh lợi ích
nhằm giảm tổn thất về người của. Niềm tin chính trtrong trường hợp này không hình
thành từ lời lẽ cứng rắn, nó sinh ra từ cảm nhận rằng sinh mệnh của từng gia đình được đặt
lên bàn cân một cách nghiêm túc, rằng hoà bình - nếu còn cơ hội - phải được thử đến cùng.
Trong tầm nhìn dài hạn, chuỗi quyết định ấy còn góp phần xây dựng hình ảnh một
nhà nước có trách nhiệm, biết thương lượng, biết chịu trách nhiệm trước lịch sử, từ đó làm
tăng sức thuyết phục của hình phát triển ớng đến công bằng nhân ái. Một chủ
nghĩa xã hội đặt lên trước hết quyền sống phẩm giá của cộng đồng khnăng quy tụ
rộng rãi hơn, bởi công lý đi chung với lòng nhân tạo nên uy tín bền vững. Chính ở đây, đạo
đức không chỉ lời răn dạy cho nhân; đạo đức trở thành tiêu chuẩn cho toàn bộ hành
động nhà nước.
Sức hút chỉ thực sự xuất hiện khi đạo đức trở thành hành động tập thể, được nhìn
thấy trong đời sống thường ngày. Dưới đây hai dụ thực tiễn tại Việt Nam thsoi
chiếu mạch tư tưởng ấy, mỗi dụ cho thấy đạo đức vận hành như một “vốn xã hội”, tạo ra
niềm tin, từ đó mở lối cho chủ nghĩa xã hội đi vào lòng người.
Trước tiên, tôi muốn đề cập đến phong trào hiến đất làm đường trong xây dựng nông
thôn mới.
nhiều tỉnh hiện nay, người dân tự nguyện hiến đất, tháo dỡ một phần nhà cửa, góp
ngày công để mở rộng đường giao thông nông thôn và chỉnh trang hạ tầng. Nếu nhìn thuần
túy từ lợi ích kinh tế, quyết định hy sinh một phần tài sản trước mắt rất khó giải. do
sâu hơn nằm ở nền đạo đức cộng đồng đã hình thành người dân tin rằng con đường mới sẽ
phục vụ con em đi học an toàn, nông sản bán được giá hơn, hàng xóm qua lại thuận tiện,
làng xóm khang trang. Lợi ích ấy không tách rời từng nhân, gắn với cảm giác “chúng
ta lớn lên cùng nhau”, một cảm giác chỉ nảy nở khi các chuẩn mực đạo đức chung đó
tình làng nghĩa xóm, đó là vị tha, đó là tôn trọng lợi ích công được củng cố qua nhiều mùa
vụ, nhiều kỳ họp thôn, nhiều lần cán bộ đến vận động và cam kết minh bạch.
Dưới góc nhìn tư tưởng Hồ Chí Minh, phong trào hiến đất làm đường phản ánh sâu
sắc quan niệm “dân gốc”. Gốc đây không phải khẩu hiệu trừu tượng. “Gốc” chính
chủ thể định đoạt thành bại của việc công. Khi đạo đức công dân được thức tỉnh được
dẫn dắt bằng quy trình dân chủ, nh động tập thể sẽ xuất hiện với chi phí cưỡng chế gần
như bằng không. Từ đó, hấp lực của chủ nghĩa hội hiện ra rất tự nhiên người dân nhìn
thấy một trật tự hội biết tôn trọng họ, khích lệ họ, trả lại cho họ những tiện ích công
lOMoARcPSD| 61601299
bằng, đồng thời họ còn tự hào đã “đồng tác giả” của những con đường mới. Cảm giác
được tôn trọng và được tham dự này chính là chất keo gắn kết mạnh hơn bất kỳ khẩu hiệu
tuyên truyền nào.
Một khía cạnh khác cũng đáng lưu ý sự công tâm trong khâu đền - hỗ trợ, sự
minh bạch thông tin, cách ứng xử mềm mỏng của cán bộ khi phát sinh. Những yếu t
ấy tạo n “đạo đức công vụ” một bộ phận cấu thành đạo đức hội chủ nghĩa trong
tưởng Hồ Chí Minh. Khi người thi hành công vụ giữ gìn liêm chính, định mức hỗ trợ
ràng, tranh chấp được giải quyết bằng đối thoại, người dân cảm nhận nhà nước như một
đối tác đáng tin. Từ lòng tin ấy, các chương trình công tiếp theo trở nên dễ triển khai hơn,
tạo hiệu ứng tích lũy niềm tin.
Tổng kết dụ thứ nhất, thể nói sức t của chủ nghĩa hội không tỏa ra từ
những con số đầu tư hạ tầng thuần túy mà đến từ câu chuyện đạo đức ẩn dưới hạ tầng - câu
chuyện về sự hy sinh được tôn vinh, về công bằng được thực thi, về người dân trở thành
chủ thể kiến tạo không gian sống của chính mình.
Hay thời kỳ dịch bệnh COVID – 19, những cây “ATM gạo”, “siêu thị 0 đồng” mọc
lên như nấm phải chăng đạo đức “sẻ cơm nhường áo” trong nhịp sống của hội chủ nghĩa?
Trong giai đoạn dịch bệnh, nhiều sáng kiến cộng đồng xuất hiện như máy phát gạo
tự động phục vụ người khó khăn, “siêu thị 0 đồng” cung cấp nhu yếu phẩm, bếp ăn thiện
nguyện cung cấp suất cơm cho lực lượng tuyến đầu lao động mất việc. Những sáng kiến
này vận hành trên nền tảng tự nguyện, liên kết doanh nghiệp với nhóm thiện nguyện với
chính quyền địa phương. Cách thức rất giản dai của góp của, ai công góp công, ai
sáng kiến góp sáng kiến. Mấu chốt đây không phải kỹ thuật của chiếc máy hay
hình vận hành cửa hàng miễn phí, mấu chốt nằm ở một trực giác đạo đức, trong hoạn nạn,
bảo toàn phẩm giá người khó khăn quan trọng không kém việc giúp họ sống qua ngày.
Tại sao một cấu trúc tương trợ như vậy lại hấp dẫn nhận được đồng thuận rộng
rãi? Trước hết, giải quyết đồng thời nhu cầu vật chất nhu cầu tôn trọng. Người đến
nhận gạo, nhận thực phẩm không cảm thấy mình bị ban ơn, họ được mời gọi đến lấy “phần
của mình” giai tầng nào cũng được quyền nhận. Sự sắp đặt bằng máy, bằng quy trình
xếp hàng, bằng phiếu nhận quà, bằng khẩu trang nước sát khuẩn cho thấy một thông
điệp rõ ràng nếutôn trọng luật lệ chính là cách tôn trọng phẩm giá của nhau. Khi phẩm giá
được bảo vệ, người nhận trợ giúp gìn giữ lòng tự trọng, người trao trợ giúp gìn giữ cảm
thức liêm chính. Đó đạo đức theo đúng nghĩa Hồ Chí Minh thương dân đi liền với tôn
trọng dân.
vậy, các hình tương trợ gắn kết khu vực nhà nước với khu vực hội theo
tinh thần “lấy dân làm trung tâm”. Chính quyền không thể bao phủ mọi ngóc ngách, mạng
lưới thiện nguyện len vào khoảng trống ấy với tốc độ nhanh hơn. Tuy nhiên, để đảm bảo

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601299
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH & ĐỀTÀI:
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC
VÀ GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG HỒ CHÍ MINH
TRONG SINH VIÊN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Lê Thị Hà Nhóm: 3 Học phần:
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2025 lOMoAR cPSD| 61601299
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN TÊN NỘI DUNG KHÁC TIẾN ĐỘ Nguyễn Lê Hoàng Hưng I.1 - Thuyết 100% - 50.01.606.028 trình I.1. và I.2. I.2 - Kịch bản Hà Kim Hương - II.1 100% 50.01.902.046 II.2 Nguyễn Thái Khang - - Ppt 100% 50.01.607.021 - Hỗ trợ chỉnh sửa hình thức tiểu luận Đỗ Trần Gia Khánh - - Thuyết trình 100% 50.01.606.030 II.1. và II.2. Huỳnh Trung Kiên - II.3 100% 50.01.401.087 II.4 Võ Anh Kiệt - - Thuyết trình 100% 50.01.606.032 III.1. và III.2. Dương Văn Bảo Linh - III.3 100% 50.01.401.098 III.4 Đỗ Thị Cẩm Linh - - Thuyết trình 100% 50.01.901.082 II.3. và II.4. Hoàng Thị Kiều Linh - - Thuyết trình 100% 50.01.754.062 III.3 và III.4. Lê Kiều Linh - III.1 100% 50.01.901.084 III.2 lOMoAR cPSD| 61601299 LỜI MỞ ĐẦU
Ở đời, cây muốn vươn cao phải bám chắc rễ, người muốn nên nghiệp lớn phải giữ
vững cái gốc. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là cái gốc của người cách mạng, gốc có
bền thì thân cành mới xanh, lời nói mới song hành cùng việc làm, việc nước việc dân mới
nên. Nửa thế kỷ qua, lời dặn ấy vẫn như tiếng chuông sớm giản dị, thấm thía, nhắc người
trẻ chúng ta “tự soi, tự sửa” mỗi ngày, đặc biệt là sinh viên như chúng em càng phải khắc sâu điều ấy.
Trong nhịp sống gấp gáp hôm nay, sinh viên bước ra khỏi giảng đường là gặp ngay
“biển lớn” hội nhập với tri thức đổi thay từng giờ, công nghệ lật trang không kịp đếm, cùng
những cám dỗ của lối sống thực dụng, thích nhanh mà ngại sâu. Giữa bộn bề ấy, đạo đức
cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh không phải cái áo để cất tủ mà là kim chỉ nam giúp
ta biết chọn điều phải, dám làm điều đúng, sống liêm chính, trách nhiệm với bản thân, nhà trường và cộng đồng.
Từ yêu cầu đó, đề tài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức và giải
pháp rèn luyện đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh trong sinh viên hiện nay” được triển khai
như một cuộc “về nguồn” có phương pháp cụ thể.
Với tất cả sự trân trọng, xin gửi lời cảm ơn đến ThS. NCS. Lê Thị Hà đã tận tình
định hướng đề tài, góp ý từng luận điểm, gợi mở phương pháp tiếp cận và luôn nhắc chúng
em giữ vững tinh thần “học đi đôi với hành”. Những chỉ dẫn tận tụy ấy giúp đề tài bớt rườm
rà, thêm mạch lạc, giữ được chất giản dị mà vẫn chắt lọc được ý hay lời đẹp
Chúng em – nhóm 3 không dám nhận đã nói bao quát hết mọi điều trong đề tài. Chỉ
mong gieo thêm một hạt giống đức vào mảnh đất đề tài này và đời sống sinh viên để mỗi
người trẻ khi “tự soi” đều thấy việc hôm nay làm đã khớp với điều mình nói và ngày mai
lại tốt hơn ngày hôm nay. Trên hành trình bồi dưỡng lớp người vừa hồng vừa chuyên đó là
lời hẹn bền bỉ mà thế hệ sinh viên chúng ta xin được cùng nhau gìn giữ. MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC NỘI DUNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ 5
CỦA ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ........................................................................................ 5
I.1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng .................. 5
I.2. Đạo đức là căn nguyên làm nên tính thu hút của chủ nghĩa xã hội ........................ 14
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ĐƯỢC THỂ HIỆN QUA ..... 21
CÁC CHUẨN MỰC CƠ BẢN THEO QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH .................. 21 lOMoAR cPSD| 61601299
II.1. Trung với nước, hiếu với dân ................................................................................ 21
II.2. Cần, kiệm, liêm chính chí công vô tư .................................................................... 23
II.3. Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa ...................................................... 25
II.4. Tinh thần quốc tế trong sáng .................................................................................. 28
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG TRONG SINH . 32
VIÊN HIỆN NAY .............................................................................................................. 32
III.1. Thực trạng về đạo đức cách mạng của sinh viên hiện nay ................................... 32
a. Trung với nước, hiếu với dân ................................................................................ 32
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư ................................................................. 33
c. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa: .......................................................... 33
d. Tinh thần quốc tế trong sáng: ................................................................................ 34
III.2. Nguyên nhân của thực trạng đạo đức cách mạng của sinh viên hiện nay ............ 34
III.3. Hậu quả của thực trạng đạo đức cách mạng của sinh viên hiện nay .................... 35
a. Đối với nhà trường và bản thân sinh viên: ............................................................ 35
b. Đối với Cộng đồng và Xã hội: .............................................................................. 36
III.4. Cách thức giải pháp để rèn luyện đạo đức cách mạng của sinh viên hiện nay .... 36
a. Nhà trường ............................................................................................................. 36
b. Cộng đồng ............................................................................................................. 38
c. Bản thân Sinh viên ................................................................................................. 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 41
A.SÁCH ........................................................................................................................ 41
B.TÀI LIỆU SỐ ............................................................................................................ 42
C.TRANG WED................................................................................................................ 43 lOMoAR cPSD| 61601299
CHƯƠNG I: SƠ LƯỢC NỘI DUNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI
TRÒ CỦA ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
I.1. Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tầm vóc của một nhà tư tưởng và một lãnh tụ cách mạng
vĩ đại đã đặt vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức ở vị trí trung tâm của sự nghiệp giải phóng
dân tộc và kiến thiết xã hội mới. Trong di sản tư tưởng của Người, đạo đức không phải là
trang sức cho lời nói, càng không phải khẩu hiệu nhất thời; đó là nền móng để tạo dựng
nhân cách, là động lực tinh thần kết tụ trí tuệ và ý chí cộng đồng. Nhờ nền tảng ấy, văn hóa
Việt Nam hiện đại được bồi đắp hệ giá trị hướng thiện còn phong trào cách mạng có được
sinh lực bền bỉ để đi qua những khúc quanh lịch sử đầy thử thách.
Ở bình diện lý luận, tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh kết cấu chặt chẽ và sáng rõ.
Người khởi đi từ một tiền đề giản dị mà sâu xa: “Đức là gốc”. Cái “gốc” ấy không tách rời
đời sống dân sinh, đạo đức phải gắn với mục tiêu “đem lại hạnh phúc cho nhân dân”, phải
soi rọi vào hành vi, vào chính sách, vào phương thức tổ chức đời sống xã hội. Như vậy, đạo
đức có tính chuẩn mực và có tính công cụ. Chuẩn mực để định hình phẩm chất con người,
công cụ để cải biến hiện thực. Quan niệm ấy cho ta hình dong về một điểm nhìn khoa học
với việc đạo đức được hiểu như một hệ thống khái niệm, nguyên lý, tiêu chí đánh giá và
phương pháp giáo dục chứ không dừng ở kinh nghiệm vụn vặt.
Đáng chú ý, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức trong quan hệ hữu cơ với tri thức và
năng lực thực hành. Đức và tài nương tựa nhau, đạo đức cung cấp định hướng còn năng
lực chuyên môn bảo đảm hiệu quả. Vì vậy, Người nhấn mạnh “học đi đôi với hành”, xem
giáo dục đạo đức là một bộ phận của giáo dục toàn diện, mỗi con người rèn đức để biết
sống cho cộng đồng đồng thời rèn tài để làm việc có ích. Cách nhìn ấy loại bỏ tình trạng
đạo đức tách rời công việc hoặc học vấn không gắn trách nhiệm xã hội. Một điểm nổi bật
khác về tính đại chúng. Hồ Chí Minh diễn đạt vấn đề đạo đức bằng ngôn ngữ giản dị, hình
ảnh gần gũi, phù hợp với trình độ tiếp nhận của nhiều tầng lớp. Người tiếp biến tinh hoa
đạo đức truyền thống- nhân ái, nghĩa tình, thủy chung, lòng tự trọng rồi kết hợp với lý
tưởng giải phóng của thời đại, tạo nên hệ giá trị vừa dân tộc vừa hiện đại. Chính nhờ tính
đại chúng, các chuẩn mực đạo đức thấm vào sinh hoạt cộng đồng, đi vào phong trào thi
đua, trở thành động lực xã hội chứ không nằm trong sách vở.
Từ bình diện chính trị - xã hội, tư tưởng đạo đức ấy bảo đảm tính chính danh và sức
huy động của một cuộc cách mạng lâu dài. Khi người lãnh đạo và thiết chế công gắn với
lợi ích của dân, gắn với với việc làm của mình, lòng tin xã hội được củng cố. Lòng tin tạo
nên vốn xã hội - thứ vốn vô hình nhưng quyết định sự bền vững của một thời đại, một
phong trào đặt trong mối tương quan với quan hệ xã hội. Nhờ vốn xã hội ấy, các chủ trương
lớn nhận được sự ủng hộ tự nguyện, các hy sinh gian khó có ý nghĩa và sự quyết tâm của lOMoAR cPSD| 61601299
một tập thể nhỏ chuyển thành kết quả thực tế của một cộng đồng. Có thể nói, những thắng
lợi quan trọng của cách mạng Việt Nam thế kỷ XX gắn liền với việc xây dựng nền đạo đức cách mạng bền gốc.
Trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra con đường “quốc” tiến đến thành công
, “dân” tiến đến trách nhiệm. Trường học, gia đình, xã hội cần phối hợp để tạo “khí hậu đạo
đức” thống nhất; người thầy dạy bằng tri thức, bằng nhân cách; người học rèn tính tự giác,
biết tự phê bình và phê bình với tinh thần xây dựng. Nơi làm việc chốn công sở hay đó có
thể là toàn cộng đồng, tổ chức phong trào thi đua sao cho ai cũng có cơ hội làm việc tốt,
ghi nhận kịp thời, nhân rộng điển hình. Tất cả tạo thành một hệ sinh thái đạo đức.
Nhìn từ hiện tại tư tưởng đạo đức của Người tiếp tục chiếu rọi vào các vấn đề nóng
của phát triển: phòng, chống tham nhũng; xây dựng chính phủ phục vụ nhân dân; chuyển
đổi số có trách nhiệm; phát triển bền vững dựa trên liêm chính dữ liệu và công bằng tiếp
cận. Khi công nghệ thay đổi nhanh, chuẩn mực đạo đức càng cần vững vàng để dẫn dắt lựa
chọn chính sách, để tiến bộ kỹ thuật đi kèm tiến bộ xã hội.
Tư tưởng đạo đức và giáo dục đạo đức của Hồ Chí Minh là di sản vô giá của văn
hóa Việt Nam đồng thời góp phần vào kho tàng trí tuệ nhân loại. Tính sâu sắc ở tầm lý luận,
tính sống động trong thực tiễn cùng sức gợi mở đối với hiện tại đã làm nên sinh lực bền bỉ
cho xã hội. Mỗi khi đối diện thử thách mới, quay về với “gốc” đạo đức với chuẩn mực, với
nêu gương, với tinh thần vì dân chúng ta lại tìm được la bàn để định hướng, nguồn lực để
tiến bước, niềm tin để đi xa.
Ngay từ rất sớm, Người khẳng định trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947):
“sông thì có nguồn mới có nước, cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Ẩn dưới hình ảnh tự nhiên là một luận đề có tính nguyên lý về cấu trúc của nhân
cách khi đức được giữ vai trò bản thể, tài là biểu hiện, gốc vững thì ngọn mới bền”.
Tư duy ấy không xuất hiện trong khoảng trống. Nó kết tinh từ trải nghiệm thực tiễn
của một người suốt đời dấn thân vì độc lập dân tộc, tiếp nhận tinh hoa đạo lý phương Đông
lẫn tinh thần khoa học nhân văn của thời đại. Từ truyền thống Việt Nam với “nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín” đến chủ nghĩa Mác - Lênin với yêu cầu giải phóng con người; tất cả gặp nhau ở
điểm quy chiếu chung đặt đạo đức gắn với mục tiêu, cộng sinh với động lực của sự phát
triển xã hội. Bởi lẽ, mọi cuộc cải biến lớn lao đều cần một nền tảng giá trị dẫn đường, nếu
không, hành động dễ trượt vào chủ nghĩa vị kỷ, quyền lực dễ rơi vào tha hóa bản ngã.
Đối với thế hệ trẻ, thông điệp “gốc - nguồn” gợi mở một chương trình phát triển bản
thân kiến tạo lý tưởng phục vụ, xây dựng thói quen lao động có kỷ luật, rèn bản lĩnh trước
cám dỗ, coi trọng lợi ích cộng đồng. Học để biết, để làm việc giỏi, song học còn để sống lOMoAR cPSD| 61601299
tử tế. Khi mỗi người giữ được “ngọn lửa lương tâm”, xã hội hình thành một khí quyển đạo
đức nâng đỡ cả cộng đồng.
Hình ảnh sông - nguồn, cây - gốc mà Hồ Chí Minh sử dụng không đơn thuần là so
sánh mỹ lệ đó là kết tinh của triết lý hành động. Khi gốc vững, nguồn trong thì tài năng, trí
tuệ, sáng tạo mới có nơi nương tựa để lớn lên và niềm tin của nhân dân trở thành sức mạnh
biến khát vọng thành hiện thực.
Không chỉ dừng lại ở biểu tượng “gốc” - “nguồn” mà hình ảnh con người gánh nặng
trên đôi vai rắn rỏi và bền bỉ đi tới đích xa xăm gợi mở một luận đề cốt lõi nếu muốn đảm
đương sứ mệnh lịch sử, trước hết phải xây nền sức mạnh. Sức ấy không thuần túy là cơ bắp
hay khí thế phút chốc trước hết phải xuất phát từ tổng hòa giữa thể lực, trí lực và tâm lực,
kết tinh trong đạo đức cách mạng làm gốc. Do đó, Người khẳng định trong tác phẩm Đạo
đức cách mạng (1958)
: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách
mạng phải có cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vàng”
đạo đức giữ vai trò nền móng để người chiến sĩ giữ trọn nhiệm vụ vẻ vang, bảo đảm cho
bước chân cách mạng tiến xa, vững, chắc.
Xét theo lô-gích khoa học “gánh nặng” của cách mạng bao gồm hai lớp ý nghĩa. Thứ
nhất, đó là những mục tiêu khách quan là độc lập dân tộc, là hạnh phúc của nhân dân, xây
dựng một xã hội công bằng - văn minh. Thứ hai, đó là những thách thức chủ quan là sự
khắc nghiệt của gian khổ, cám dỗ của quyền lực, sức ì của thói quen và định kiến. Cả hai
lớp gánh ấy đòi hỏi một chủ thể có “sức mạnh hệ thống”, thân thể đủ bền, trí tuệ đủ sáng,
ý chí đủ dẻo dai, lương tâm đủ trong. Khoa học hiện đại về tổ chức và lãnh đạo gọi đây là
năng lực thích ứng có nguyên tắc linh hoạt trước biến động nhưng kiên định giá trị cốt lõi.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã khái quát điều này bằng ngôn ngữ gần gũi đạo đức là gốc giúp
con người “đi được xa”.
Đi xa cần sức bền. Sức bền đạo đức được tạo bởi thói quen tốt và môi trường lành.
Cá nhân rèn luyện từng ngày; tổ chức xây cơ chế bảo vệ điều thiện và loại bỏ điều xấu.
Pháp luật minh bạch, kiểm soát quyền lực hiệu quả, khen chê công tâm đó là “dinh dưỡng”
cho đạo đức phát triển hấp thu. Khi cá nhân nỗ lực mà hệ thống hỗ trợ, giá trị tốt đẹp không
bị đơn độc, người tử tế không bị lạc lõng. Bước chân tập thể nhờ vậy dài hơn, vững hơn.
Tính học thuật của luận đề “sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa” còn
thể hiện ở mối quan hệ nhân - quả và tính tất yếu lịch sử. Nhân: rèn đạo đức, nâng năng
lực, tổ chức kỷ cương. Quả: hoàn thành nhiệm vụ, tạo niềm tin xã hội, tích lũy vốn xã hội
cho tương lai. Tất yếu: cộng đồng thiếu nền tảng đạo đức sẽ bị khủng hoảng niềm tin, kéo
theo suy giảm hiệu lực công việc và ngược lại, cộng đồng kết tinh giá trị tốt đẹp sẽ có “lực
đẩy mềm” đi cùng “lực đẩy cứng”. Đây là quy luật có thể kiểm chứng qua mọi giai đoạn phát triển. lOMoAR cPSD| 61601299
Khi trở về với cốt tủy, ta chợt thấy sức mạnh của đạo đức có khi là nền, trí tuệ là cột,
có khi hành động là mái; cả ba liên kết thì ngôi nhà cách mạng trường tồn. Gánh nặng lịch
sử không hề nhỏ; con đường đi tới mục tiêu chung còn dài. Chính vì thế, vun bồi đạo đức
cách mạng như nuôi dưỡng mạch nước ngầm phải âm thầm, kiên nhẫn, liên tục. Mạch nước
ấy càng trong, càng đầy, bước chân tập thể càng dẻo dai và nhiệm vụ vẻ vang càng gần tới đích.
Đạo đức cách mạng không phải thứ trang sức treo trên trán như một nhãn hiệu. Nó
luôn được Người coi là nền móng tạo dựng niềm tin của nhân dân và là điều kiện tồn tại
của một đảng cách mạng chân chính. Dân chỉ gửi gắm tình cảm và sự tín nhiệm cho những
cán bộ, đảng viên có tư cách, có phẩm hạnh, sống nhất quán với lời nói. Vì thế, danh xưng
hay biểu tượng không bảo đảm uy tín giá trị được chứng thực qua nhân cách, qua hành vi
vì dân, vì nước trong từng công việc nhỏ lẫn việc hệ trọng. Từ điểm nhìn ấy, lời dặn “giải
phóng dân tộc, giải phóng loài người” là sứ mệnh lớn lao kéo theo một hệ quả tất yếu, chủ
thể đảm đương sự nghiệp phải có nền tảng đạo đức vững chãi. Công việc càng to lớn, yêu
cầu về phẩm chất càng khắt khe. Một người đã sa vào hủ hóa, đã đánh mất căn cốt luân lý
sẽ sớm kiệt lực trước thử thách, dễ bị lợi ích riêng kéo chệch khỏi mục tiêu chung. Nói theo
lô-gích chính trị - xã hội, thiếu đạo đức thì tính chính đáng bị xói mòn, uy tín suy giảm,
hiệu lực lãnh đạo và sức huy động xã hội cũng suy kiệt.
Đạo đức thể hiện ở sự trong sạch của cá nhân, ở cách người cán bộ có đặt mình vào
vị trí người dân, thấu hiểu nhu cầu, giảm bớt thủ tục, đem dịch vụ công đến gần hơn, chăm
lo cho đối tượng yếu thế. Khi mỗi quyết định đều được soi chiếu bởi câu hỏi “điều này có
lợi cho dân hay không?”, đạo đức biến thành tiêu chuẩn thực hành không phải những lời
nói đẹp. Điều này cũng đã được Bác đề cập đến trong Bài nói bế mạc tại Hội nghị cán bộ
của Đảng lần thứ 6 (18/01/1949)
được in trong Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 6 (1949-1950),
tr.16
như sau: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta
được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng
dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Đồng chí ta nhiều người
đã làm được nhưng vẫn còn những người hủ hóa. Đảng có trách nhiệm gột rửa cho các đồng chí đó”.
Trong hoàn cảnh Đảng nắm quyền lãnh đạo đất nước, Hồ Chí Minh luôn day dứt
trước một hiểm họa âm thầm về quyền lực nếu thiếu kiểm soát sẽ tạo khoảng cách với cuộc
sống đời thường, bào mòn mối liên hệ với quần chúng, nảy sinh thoái hóa và biến chất
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ nỗi lo ấy, Người khẳng định một tiêu chí có giá
trị như kim chỉ nam Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Công thức ngắn gọn ấy bao quát
cả nền tảng giá trị lẫn phương pháp hành động. “Đạo đức” nói đến phẩm chất, đến cái gốc
nhân cách của người cách mạng. “Văn minh” chỉ tầm vóc trí tuệ, tác phong tổ chức, kỷ luật
khoa học, năng lực tiếp thu tinh hoa nhân loại để phụng sự quốc dân. lOMoAR cPSD| 61601299
Ý nghĩa đó hòa nhịp với gợi mở của V.I. Lênin trong tác phẩm V.I. Lênin Toàn tập
(2005) “Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời
đại”. Nhìn từ lăng kính Hồ Chí Minh, “trí tuệ” đòi hỏi năng lực học tập suốt đời, khả năng
nắm bắt quy luật phát triển; “danh dự” gắn với lời hứa trước nhân dân, với sự trong sáng
trong từng quyết định; “lương tâm” là thước đo tự kiểm, là điểm tựa để mỗi đảng viên biết
tự hổ thẹn trước cái sai, biết tự điều chỉnh khi sa vào cám dỗ. Cả ba thành tố kết lại tạo nên
uy tín chính trị bền vững, giúp Đảng đứng vững giữa biến động của lịch sử.
Trong Di chúc (1969), Hồ Chí Minh gửi gắm một chuẩn mực đạo đức có sự chặt
chẽ, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật TRUNG THÀNH của nhân dân.” Lời căn
dặn ấy vừa là tiêu chuẩn, vừa là phương thuốc “giải độc”.
Gắn liền với “đạo đức” là “văn hóa Đảng”. Hồ Chí Minh coi văn hóa như dưỡng
chất của chính trị, văn hóa định hình lối sống, định chuẩn giao tiếp, điều chỉnh động cơ
công vụ. Văn hóa Đảng biểu hiện trong lời nói đi đôi với việc làm, trong thái độ tôn trọng
nhân dân, trong phong cách gần gũi, giản dị. Một buổi tiếp dân được tổ chức nghiêm túc,
một lời xin lỗi kịp thời khi xử lý chậm trễ, một quyết định dũng cảm loại bỏ lợi ích cục bộ
những chi tiết ấy bồi đắp “danh dự chính trị” tốt hơn bất cứ bản báo cáo nào.
Khái niệm “người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân” diễn tả sự thống
nhất giữa quyền dẫn dắt và trách nhiệm phục vụ. Lãnh đạo là chức năng lựa chọn mục tiêu,
điều phối nguồn lực, chịu trách nhiệm về kết quả. Phục vụ là đạo lý đặt người dân ở vị trí
trung tâm, coi sự hài lòng của công chúng như thước đo cuối cùng. Hai vế bổ sung cho
nhau để chống lại thói háo danh, để biến quyền lực thành công cụ kiến tạo sự phát triển.
Khi cán bộ ý thức rõ mình là “công bộc”, mọi đặc quyền tự triệt tiêu, khi tổ chức khẳng
định vai trò “lãnh đạo”, mọi quyết định phải dựa trên tri thức, trên nguyên tắc pháp quyền.
Lời dặn trong Di chúc (1969) không phải khẩu hiệu trang trí mà hệ quy chiếu để soi
rọi từng hành vi, từng chính sách, từng lựa chọn của cán bộ, đảng viên. Khi mỗi cán bộ
“thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” sẽ được xem “là đạo đức, là văn minh”; khi
trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại kết tinh trong phong cách lãnh đạo và
phục vụ thì Đảng xứng đáng với vai trò “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”, đáp ứng kỳ vọng lịch sử và niềm tin của nhân dân.
Hơn hết, đạo đức sống trong hành động. Giá trị không treo trên vách như một bức
phù điêu để chiêm ngắm, nó vận động trong lao động, tổ chức, phục vụ nhân dân và kiến
tạo đời sống mới. Thước đo của đạo đức vì thế gắn với hiệu quả thực tế là kết quả công
việc, đổi thay tích cực ở cơ sở, sự tin yêu của quần chúng, chất lượng sản xuất và sức bền
của tổ chức. Từ điểm xuất phát này, hệ chuẩn mực mà Người kiến tạo hiện lên giàu tính lOMoAR cPSD| 61601299
khoa học, giàu lý luận song vẫn giản dị, gần gũi: nói đi đôi với làm, đức đi cùng tài, ý chí
được kiểm chứng qua thành quả.
Tinh thần ấy kết tinh rõ trong quan niệm lấy kết quả thiết thực làm thước đo ý chí
cách mạng. Người nói: “phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và
lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông,
thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất”. Ở đây,
phạm trù “sản xuất” cần hiểu rộng đo không chỉ là chuỗi công đoạn kinh tế mà còn là sản
sinh giá trị xã hội từ giáo dục, y tế, văn hóa đến hạ tầng, thể chế. Ý chí cách mạng vì thế
hiện diện trong năng lực chuyển hóa nghị quyết thành kết quả, ý định tốt thành lợi ích cụ thể cho nhân dân.
Nhìn sâu hơn, mệnh đề “chống bệnh nói suông, phô trương hình thức” là lời cảnh
báo về một căn bệnh hình thức đang diễn ra lấn át thực chất, báo cáo đẹp che mờ hiệu quả,
hội họp dày mà hành động mỏng. Hồ Chí Minh đề nghị chữa trị bằng cơ chế kỷ luật công
vụ dựa trên mục tiêu rõ ràng, trách nhiệm giải trình, và kiểm tra thường xuyên. Bất kỳ kế
hoạch nào cũng phải có tiêu chí đầu ra, có chuẩn mực định lượng, có lịch trình và người
chịu trách nhiệm. Tổng kết, phê bình và tự phê bình diễn ra nền nếp để phát hiện sớm sai
sót, điều chỉnh kịp thời.
Cũng cần nhấn mạnh tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không đối lập với tự do sáng
tạo; nó cung cấp không gian cho sáng kiến thông qua yêu cầu “làm cho việc nên”. Khi mục
tiêu rõ ràng, con người được trao quyền và chịu trách nhiệm, sáng kiến sẽ nảy nở ở ngay
nơi công việc diễn ra. Đó là lý do Người đề cao tinh thần tự lực, tự cường, coi “trí tuệ quần
chúng” là nguồn vốn quý. Sáng tạo vì lợi ích chung chính là biểu hiện đẹp của đạo đức trong lao động.
Trong chỉnh thể tư tưởng Hồ Chí Minh, con người cách mạng hiện lên như một cây
cổ thụ vươn cao giữa gió bão lịch sử, rễ ăn sâu xuống mạch nguồn đạo lý, thân cành vững
vàng nhờ trí tuệ, tán lá tươi tốt bởi thành quả phụng sự nhân dân. Nói cách khác, “đức tài”,
“hồng - chuyên”, “phẩm chất - năng lực” kết nên một khối hữu cơ. Ở đó, đạo đức giữ vai
trò căn để; chính trị lý tưởng dẫn đường cho chuyên môn; phẩm chất định hình quỹ đạo
vận động của năng lực. Tài năng hiện ra như biểu hiện sống động của đạo đức trong hiệu quả hành động.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là một chỉnh thể giá trị - năng lực - hiệu quả.
Đức giữ vai trò gốc rễ; “hồng” dẫn dắt “chuyên”; phẩm chất nuôi dưỡng năng lực; tài năng
được kiểm chứng trong kết quả phục vụ nhân dân. Khi gốc sâu, thân thẳng, quả ngọt, xã
hội có đội ngũ vừa sáng tâm trí, vừa vững tay nghề, vừa giàu năng lực kiến tạo. Đó là con
đường xây dựng một nền văn minh tiến bộ. lOMoAR cPSD| 61601299
Thực tiễn chứng minh cho thấy từ “hũ gạo cứu đói” đến “Tuần lễ Vàng” (1945) đây
là sự kiện được đánh giá khách quan dựa trên đạo đức nhân ái và tiết kiệm biến thành năng lực kiến quốc.
Bối cảnh sau Cách mạng Tháng Tám là khẩn cấp về cả nhân đạo và tài chính. Nạn
đói 1944–1945 để lại vết thương sâu, còn ngân khố quốc gia gần như trống rỗng. Ngày
3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh nêu sáu vấn đề
cấp bách, đặt việc diệt “giặc đói” lên hàng đầu, kêu gọi tăng gia sản xuất và mở lạc quyên
gạo. Ít lâu sau, “Sẻ cơm nhường áo” (28/9/1945) đề nghị mỗi người mười ngày nhịn ăn
một bữa, gửi gạo vào “hũ gạo cứu đói”, và Người cam kết làm trước. Lời kêu gọi lựa chọn
ngôn ngữ đạo đức bình dị sẻ chia để cứu người, tiết kiệm để dựng đời sống mới; chính vì
vậy nó chạm tới lương tri phổ quát, ghép nối thiện chí của hàng triệu hộ gia đình thành một
cơ chế cứu trợ phân tán nhưng cực kỳ nhanh nhạy. “Hũ gạo” là cách chuyển đức tính cá
nhân (nhân ái, kiệm ước) thành năng lực tập thể lương thực dồn về đúng nơi thiếu đói, thói
quen kỷ luật tiêu dùng được gieo trồng, còn niềm tin đối với chính quyền mới được bồi đắp
bằng trải nghiệm sẻ chia hằng ngày.
Cùng mạch tư tưởng ấy, “Tuần lễ Vàng” khai hội lúc 8 giờ sáng 16/9/1945 tại Nhà
hát Lớn Hà Nội và lan rộng ra cả nước. Chỉ trong một tuần (16–22/9), nhân dân quyên góp
370 cân vàng, 20 triệu đồng cho Quỹ Độc lập, thêm 40 triệu đồng cho Quỹ Đảm phụ Quốc
phòng. Những “ngày vàng” kế tiếp ở Hà Nội ghi nhận dòng người và của cải đổ về: từ
835,2 lạng vàng ngay ngày đầu đến tổng cộng 2.201 lạng vàng, 920 tạ thóc cùng tiền bạc
hiện vật khi bế mạc; các địa phương như Hải Phòng, Nam Định, rồi dải miền Trung từ 1/10
đến 22/11 tiếp tục góp hàng trăm cân vàng chuyển về Bộ Tài chính, bổ sung kịp thời cho
ngân khố quốc gia. Số liệu ấy không chỉ nói về tiền và vàng nó đo được độ sâu của “lòng
dân” với chính thể non trẻ, vì người đóng góp đã biến đạo đức yêu nước và tinh thần kiệm
ước thành nghĩa vụ công. Ở cấp độ chính trị, chiến dịch cho thấy đạo đức tạo ra lợi thế
động viên chính quyền không phải cưỡng bách bằng sắc lệnh nặng nề mà vẫn huy động
được nguồn lực quy mô lớn trong thời gian cực ngắn; ở cấp độ xã hội, chuẩn mực “lá lành
đùm lá rách” được tái lập như tập quán công dân, giúp chữa lành sau thảm họa đói kém.
Nhờ đó, nhà nước có ngay “vốn mồi” tài chính, còn cộng đồng có ngay hạ tầng đạo đức để
tiếp tục chịu đựng gian khó của kháng chiến sắp tới.
Ý nghĩa sâu xa của ví dụ 1945 là khi nhà lãnh đạo nêu vấn đề đạo đức bằng những
yêu cầu cụ thể và tự mình thực hành trước, lời kêu gọi hóa thành ràng buộc đạo lý chung,
rồi chuyển thành hành vi có thể đo đếm. Từ đó, đạo đức không đứng ngoài chính trị; nó
thiết kế cơ chế huy động, định hình kỳ vọng công bằng, và tiếp tế “vốn xã hội” cho một
nhà nước vừa ra đời. Nói cách khác, tư tưởng “đạo đức là gốc” ở đây được kiểm chứng
bằng khả năng biến lòng trắc ẩn và tinh thâbnf tiết kiệm thành năng lượng kiến quốc. lOMoAR cPSD| 61601299
Không chỉ có “hủ gạo cứu đói”, không chỉ có “Tuần lễ vàng”, vào tháng 3/1952
trong bài phát biểu về Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu,
Người nhấn mạnh: “Phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Nếu không, thì
nó sẽ làm hại đến công việc của ta”. Người chỉ rõ: tham ô, lãng phí đã kìm hãm sản xuất,
phá hoại sản xuất, làm chán nản và giảm sút ý chí phấn đấu của nhân dân, làm suy yếu tinh
thần của cán bộ, sức mạnh của tổ chức... đây cũng được xem là một hàng rào đạo đức liêm
chính để tự vệ của nhà nước cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải nghiêm trị các hành vi tham ô, lãng phí
theo quy định của pháp luật, không được nể nang người có chức vụ, địa vị, với mục đích
bảo vệ công lý, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, răn đe, làm gương cho những
người đang hoặc có ý định tham ô. Người chỉ thị “nếu tìm ra, điều tra ra những vụ tham ô,
Đảng sẽ thẳng tay kỷ luật và Chính phủ sẽ thẳng tay trừng trị”(4). Năm 1950, Đại tá Trần
Dụ Châu - Cục trưởng Cục Quân nhu (Bộ Quốc phòng) biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá
hoại công cuộc kháng chiến, bị kết án tử hình. Trước ngày thi hành án, Trần Dụ Châu gửi
đơn lên Bác xin được khoan hồng. Phút cuối, ông Trần Đăng Ninh đến gặp Bác Hồ xin ý
kiến, Bác chỉ cho xem một cây xoan héo lá, úa ngọn và hỏi lý do tại sao cây sắp chết.
Ông Ninh trả lời: “Dạ, vì thân cây bị sâu đục một lỗ rất to, chảy hết nhựa!”.
Bác hỏi: “Thế theo chú muốn cứu cây thì phải làm gì?”.
Ông Ninh trả lời: “Dạ, phải bắt và giết hết những con sâu ấy đi ạ”.
Bác gật đầu: “Chú nói đúng đấy, với loài sâu mọt đục khoét nhân dân cũng vậy. Nếu
phải giết đi một con mà cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa là nhân đạo”(5).
Đạo đức được dùng như thước đo tính chính danh. Một chính quyền có thể thắng
trên chiến trường, nhưng sự chính danh sẽ hao mòn nếu người thi hành công vụ lợi dụng
vị trí để trục lợi. Khi gọi quan liêu, tham ô, lãng phí là “tội ác”, Hồ Chí Minh đã đồng thời
ấn định cơ sở trừng phạt (vì gây hại cho dân và cho kháng chiến) và cơ sở phòng ngừa (vì
yêu cầu lối sống liêm chính). Từ đó, đạo đức vận hành như “luật mềm” hỗ trợ luật cứng.
Đó là hai góc nhìn của đạo đức ở chiều lịch sử, còn đối với thực tiễn đời sống hiện
nay đạo đức đức là gốc được thể hiện ở:
Thứ nhất, mạng lưới thiện nguyện cộng đồng trong thiên tai và khủng hoảng. Khi
các tỉnh miền Trung bước vào mùa mưa lũ, không ít nhóm dân sự, đoàn thể thanh niên, hội
phụ nữ, giáo xứ, chùa chiền, doanh nghiệp địa phương cùng lập bếp ăn dã chiến, gom áo
phao, chuẩn bị xuồng, dựng điểm phân phối nhu yếu phẩm. Hoạt động ấy không xuất phát
từ mệnh lệnh hành chính, nó khởi sinh từ nhận thức đạo lý: “thấy người hoạn nạn thì cứu”, lOMoAR cPSD| 61601299
“lá lành đùm lá rách”. Nhận thức đạo lý không tồn tại lơ lửng, nó được dồn nén trong các
đức tính Hồ Chí Minh đề cao về tình thương dân, trọng dân, đặt lợi ích đồng bào lên trước.
Tác phong “nói đi đôi với làm” buộc nhóm thiện nguyện phải báo cáo kết quả minh
bạch, qua ảnh, video, sổ sách. Khi các lớp chuẩn mực ấy vận hành, chi phí điều phối giảm
xuống, người xa lạ cũng có thể phối hợp trơn tru, thời gian phản ứng rút ngắn. Hệ quả thấy
rõ bởi trợ giúp đến sớm hơn, đúng địa chỉ hơn, ít thất thoát hơn.
Từ góc nhìn văn hóa - chính trị, cảm hứng đạo đức còn tạo hiệu ứng khuếch đại.
Mỗi hành vi tử tế khơi dậy thêm hành vi tử tế khác, thiết lập “vốn xã hội” mới trong cộng
đồng. Cán bộ tại chỗ nhận thêm tình nguyện viên, nhận thêm dữ liệu nhu cầu, nhận thêm
mắt xích vận chuyển. Hoạt động cứu trợ vì vậy đi vào quy củ nhanh hơn, vượt qua tâm lý
chờ đợi, nâng sức chống chịu của địa phương.
Dĩ nhiên, mọi nguồn lực đều đối diện rủi ro lệch chuẩn như phô trương, thiên vị,
trùng lặp hỗ trợ tuy nhiên khi nhóm thiện nguyện công khai tiêu chí phân phối, đối chiếu
danh sách thụ hưởng, chấp nhận giám sát chéo, họ biến đạo đức từ khẩu hiệu thành thiết
chế, biến lòng tốt thành năng lực tổ chức. Chính ở điểm này, “gốc” đạo đức không dừng ở
xúc cảm, nó đã hóa thành kỹ năng dựa trên tin cậy xã hội.
Ta còn quan sát thấy những doanh nghiệp nông nghiệp đang xây chuỗi giá trị công bằng và minh bạch.
Một hợp tác xã trồng trái cây ở Đồng bằng sông Cửu Long liên kết nông hộ theo
hợp đồng dài hạn, cam kết thu mua với giá sàn ổn định, đồng thời đầu tư tập huấn quy trình
canh tác an toàn, lắp hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng mã QR. Quyết định ấy đòi hỏi chi
phí ban đầu đáng kể song lại bộc lộ một triết lý đạo đức muốn đạt được lợi ích doanh nghiệp
phải gắn với lợi ích của người trồng và quyền lợi người tiêu dùng.
Chuỗi giá trị minh bạch tạo ra hiệu ứng lan truyền. Nông hộ yên tâm đầu tư vườn
cây vì đầu ra ổn định; người tiêu dùng trả tiền cho sự yên tâm vì họ đọc được sản phẩm;
nhà bán lẻ giảm rủi ro khi kiểm soát hàng tồn kho theo lô truy xuất. Về dài hạn, doanh
nghiệp nắm lợi thế cạnh tranh bởi vì nông hộ họ đã dần có niềm tin, nhờ vậy chi phí
marketing giảm dần; rủi ro pháp lý thu hẹp; khả năng tiếp cận thị trường khó tính được mở
rộng. Đây không chỉ là chiến lược kinh doanh, mà là sự hiện thực hóa một nguyên tắc Hồ
Chí Minh luôn nhấn mạnh là “nói đi đôi với làm”, lời hứa chất lượng phải biến thành quy
trình, thành dữ liệu, thành kiểm định độc lập.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, lập trường đạo đức giúp hệ thống tránh vòng
xoáy “đua xuống đáy”. Một khi “gốc” đã sâu, doanh nghiệp và nông hộ có thể chịu được
biến động giá cả vì sự gắn kết không chỉ dựa vào lợi nhuận tức thời mà dựa vào niềm tin hợp tác lâu dài. lOMoAR cPSD| 61601299
I.2. Đạo đức là căn nguyên làm nên tính thu hút của chủ nghĩa xã hội
Sức hút của chủ nghĩa xã hội không khởi phát từ một bức tranh viễn mơ về phồn
vinh vật chất hay một khẩu hiệu rực rỡ về tự do tinh thần. Nguồn lực lôi cuốn ấy trước hết
được nuôi dưỡng bởi đạo đức cách mạng và được kiểm chứng trong đời sống hằng ngày
của những con người đang phụng sự lý tưởng. Cách đặt vấn đề như vậy chuyển trọng tâm
từ hình ảnh hứa hẹn ở tương lai sang giá trị sống có thể kiểm tra ở hiện tại, từ lời nói sang
phẩm chất, từ mong ước trừu tượng sang thước đo có thể quan sát ngay trong quan hệ giữa
cán bộ với nhân dân, giữa tổ chức với xã hội.
Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh “đức là gốc” của người cách mạng, vì đạo đức
đem lại tính chính đáng cho mục tiêu và bảo đảm cho phương tiện. Khi nói đến sức hấp
dẫn, Người không đồng nhất nó với sự lạ lẫm hay mới mẻ tạm bợ. Thuật ngữ “hấp dẫn” ở
đây được hiểu như năng lực tạo lòng tin bền vững. Lòng tin ấy chỉ nảy nở khi người dân
cảm nhận được sự công tâm, liêm khiết, tận tụy trong từng quyết định và hành vi của những
người đại diện cho lý tưởng. Lý tưởng xã hội chủ nghĩa có thể cao đẹp đến đâu, nếu tách
rời khỏi đạo đức của chủ thể thực hiện thì sức thuyết phục sẽ suy giảm bởi quần chúng
đánh giá không phải bằng diễn từ mà bằng kết quả của ứng xử hằng ngày.
Đạo đức theo Hồ Chí Minh không phải một bộ sưu tập mỹ từ càng không phải lớp
phấn tô điểm cho một hệ thống chính trị. Đó là năng lực tự chủ, tự rèn, tự kiểm, hướng con
người về cái lợi chung. Một hệ thống lý tưởng chỉ sống trong lòng xã hội khi có những con
người làm “vật chứng sống” cho hệ thống ấy. Khi cán bộ sống giản dị, làm việc kỷ luật,
giải quyết việc dân minh bạch thì người dân hình dung rõ chủ nghĩa xã hội trông như thế
nào trong đời sống cụ thể đó là thủ tục hành chính gọn ghẽ, là bệnh viện không vòi vĩnh,
là trường học coi trọng năng lực và nhân phẩm, là cơ quan công quyền xem phục vụ nhân dân như lý do tồn tại.
Một số người cho rằng sức hút của một học thuyết chính trị chủ yếu do lời hứa về
sung túc vật chất. Hồ Chí Minh không phủ nhận tầm quan trọng của phát triển kinh tế. Tuy
vậy, Người đặt đạo đức lên trước vì kinh tế thiếu nền tảng đạo lý rất dễ biến dạng. Tăng
trưởng dựa vào đặc quyền, vào đặc lợi sẽ mở rộng khoảng cách xã hội và xói mòn niềm
tin. Ngược lại, đạo đức công vụ giúp phân phối nguồn lực theo nguyên tắc công bằng và
hiệu quả, từ đó tạo động lực nội sinh cho phát triển bền vững. Đạo đức là điều kiện khả
dụng để những mục tiêu vật chất trở nên chính đáng và bền bỉ; vật chất phát triển là kết quả
tự nhiên khi đạo đức và thể chế vận hành tốt.
Sự hấp dẫn cũng nảy sinh từ khả năng tự chỉnh đốn. Hồ Chí Minh coi phê bình và
tự phê bình là quy luật phát triển tổ chức, bởi không tổ chức nào miễn nhiễm sai lầm. Một
tập thể dám đối diện khuyết điểm sẽ gửi đi tín hiệu mạnh lý tưởng không phải lá chắn cho
sai sót, lý tưởng là chuẩn mực để sửa sai. Khả năng sửa sai sẽ củng cố lòng tin; lòng tin lOMoAR cPSD| 61601299
được bồi đắp lại hỗ trợ công cuộc cải cách tiếp theo. Vòng tuần hoàn tích cực ấy là một
nguồn hấp lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn.
Từ tất cả luận điểm trên, có thể nói rằng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, điểm sáng thu
hút của chủ nghĩa xã hội không nằm ở lời hứa xa xôi, cũng không hệ tại vài cột mốc định
lượng về vật chất hay khẩu hiệu về tự do. Giá trị cốt lõi nằm ở đạo đức cách mạng được
thể hiện bằng những con người nêu gương, biết biến chuẩn mực thành hành động, biến
hành động thành kết quả có lợi cho dân và biến kết quả ấy thành niềm tin. Nơi nào đạo đức
được đặt ở vị trí gốc rễ, nơi ấy lý tưởng có cơ hội đâm chồi trên đất tốt. Nơi nào nêu gương
trở thành thói quen văn hóa, nơi ấy sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội hiện ra như một lực
từ trường lặng lẽ nhưng bền bỉ, dẫn dắt xã hội tiến về phía trước.
Ngoài ra, sự trưởng thành của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế được lý
giải như một tất yếu lịch sử dựa trên hai trụ cột tính khoa học cách mạng của đường lối và
nền tảng đạo đức của lực lượng tiên phong. Khẳng định ấy không phát xuất từ cảm hứng
tuyên truyền mà nó bắt nguồn từ quan sát thực tiễn dài lâu, chiến lược đúng đắn dẫn dắt
bước đi của quần chúng, đồng thời phẩm chất nhân văn tạo nên niềm tin và ý chí bền bỉ.
Nhờ sự kết hợp ấy, phong trào mới vươn lên vị thế lực lượng có khả năng định đoạt chiều
hướng vận động của lịch sử nhân loại.
Trước hết, nói đến chiến lược và sách lược theo Hồ Chí Minh là nói đến năng lực
xác định mục tiêu tối hậu cùng những bước đi thích ứng với hoàn cảnh, sao cho mục tiêu
lâu dài không bị hy sinh vì thắng lợi trước mắt. Chiến lược vạch ra con đường giải phóng
con người khỏi áp bức, còn sách lược giúp lực lượng cách mạng gắn bó với điều kiện cụ
thể của từng dân tộc, từng giai đoạn. Khi hai tầng tư duy này ăn khớp, tổ chức cách mạng
mới huy động được nguồn lực xã hội, phối hợp các hình thức đấu tranh và xử lý những
bước ngoặt lịch sử bằng quyết đoán kèm theo thận trọng có khoa học.
Sự thiên tài của đường lối không nằm ở khẩu hiệu kêu gọi, trái lại, nằm trong khả
năng chuyển tri thức lý luận của chủ nghĩa Mác–Lênin thành phương pháp tổ chức thực
tiễn. Hồ Chí Minh đánh giá cao việc lấy dân làm gốc vì nguyên tắc ấy bảo đảm cho mọi
quyết định chính trị có nền đỡ xã hội. Khi người dân hiểu mục tiêu, thấy lợi ích của mình
được tôn trọng, họ sẵn sàng hy sinh và sáng tạo. Từ đó, chiến lược không còn là văn bản
treo trên tường nó dần trở thành hành động thường ngày của hàng triệu con người.
Song, chỉ có kỹ năng vận hành chiến lược vẫn chưa đủ để biến phong trào thành lực
lượng có sức định đoạt. Theo Hồ Chí Minh, một yếu tố ít hữu hình hơn lại giữ vai trò nền
tảng đó chính là đạo đức cách mạng. Đạo đức tạo nên thước đo đối với quyền lực, định
hình động cơ cống hiến và bảo vệ tổ chức trước cám dỗ của đặc quyền.
Đạo đức còn giữ vai trò gắn kết quốc tế. Hồ Chí Minh đề cao tình hữu ái giữa các
dân tộc bị áp bức vì tình cảm ấy phản ánh một chuẩn mực nhân văn phổ quát là giải phóng lOMoAR cPSD| 61601299
cho mình gắn với giải phóng cho người. Khi phong trào đặt lợi ích con người lên trên mọi
toan tính vị kỷ, nó hình thành mạng lưới liên đới vượt qua biên giới, từ đó tạo nên sức mạnh
hội tụ. Sự hội tụ này không chỉ dựa vào thỏa thuận lợi ích nó dựa vào lòng tin rằng mỗi
chiến thắng riêng lẻ đều góp phần cho mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ.
Ở bình diện cơ chế, đạo đức vận hành như vốn xã hội của cách mạng. Vốn ấy biểu
hiện qua sự sẵn sàng hợp tác, khả năng chịu đựng gian khổ, và tinh thần tự quản trong cộng
đồng. Khi vốn xã hội cao, chi phí giám sát giảm xuống, tốc độ phối hợp tăng lên, và các
quyết sách được thực thi với ít mệnh lệnh cưỡng bức. Hiệu ứng này giải thích vì sao một
tập thể thấm nhuần giá trị nhân văn có thể kiên cường trước khủng hoảng, trong khi tập thể
thiếu chuẩn mực dễ bị xói mòn từ bên trong.
Nhìn dưới góc độ lý luận, chiến lược và đạo đức tạo thành hai mặt bổ sung trong
một chỉnh thể. Chiến lược trao hướng đi, còn đạo đức cung cấp nguồn năng lượng tinh thần
để bước tiếp, nhất là ở giai đoạn gian khó. Đạo đức cũng giữ vai trò kiểm soát mục tiêu,
giúp phong trào tránh rơi vào cực đoan.
Vì lẽ đó, luận điểm của Hồ Chí Minh về sức mạnh “vô địch” của chủ nghĩa cộng
sản không hề dựa trên niềm tin cảm tính. Tính “vô địch” ở đây nên được hiểu như khả năng
bền bỉ vượt qua thử thách lịch sử khi hai điều kiện cùng hiện diện: một, đường lối có cơ sở
khoa học và phù hợp thực tiễn; hai, đạo đức của lực lượng nòng cốt đủ trong sáng để quy
tụ lòng người. Khi hai điều kiện tương tác, quyền lực chính trị đạt được chính danh, còn tổ
chức đạt được năng lực tự cải cách để tránh trì trệ.
Từ tất cả những phân tích trên, có thể diễn giải theo cách chín chắn hơn như sau
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng có tầm quyết định đối với
vận mệnh nhân loại vì hội tụ trí tuệ chính trị cùng đạo đức cách mạng. Trí tuệ chỉ đường;
đạo đức giữ lửa. Một bên đảm bảo hiệu quả, bên kia bảo đảm chính nghĩa. Khi hiệu quả
gắn chặt với chính nghĩa, sức mạnh tinh thần của con người được khơi mở ở mức cao nhất,
tạo nên sức bật vượt qua trở lực lịch sử.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh không dừng ở sự kết hợp cơ học giữa lý luận và
đạo đức; đó là một cấu trúc hữu cơ. Cấu trúc ấy giải thích vì sao một phong trào có thể tiến
lên qua nhiều thăng trầm, bởi nó vừa hiểu mình đi về đâu vừa hiểu mình sống vì ai. Tư
tưởng ấy vẫn có giá trị định hướng cho mọi nỗ lực khai mở tự do, công bằng, hạnh phúc
của con người trong thế kỷ XXI.
Hình tượng đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh tỏa chiếu như một chuẩn mực
sống, kết hợp tầm vóc của một vĩ nhân với sự giản dị của người lao động bình dị, sức hút
ấy nảy sinh từ sự nhất quán giữa lý tưởng giải phóng con người và cách Người lựa chọn để
biến lý tưởng thành những hành vi cụ thể trong sinh hoạt hằng ngày. Ở Người, sự vĩ đại
không trú ngụ trong nghi thức quyền lực hay biểu tượng xa xỉ, nó hiện lên qua lao động lOMoAR cPSD| 61601299
bền bỉ, sự tiết chế nhu cầu cá nhân và thái độ kính trọng đối với nhân dân, nhờ vậy hình
tượng lãnh tụ trở nên gần gũi đến mức có thể chạm tới
Trong những khúc quanh thử thách của lịch sử, hình tượng ấy trở thành nguồn cổ
vũ mạnh mẽ, bởi nó cho thấy mục tiêu lớn vẫn có thể được theo đuổi bằng phương thức
nhân văn tôn trọng con người. Sự cổ vũ này không phải là lời hô hào nhất thời đó là cảm
hứng được tích lũy từ trải nghiệm tập thể rằng chuẩn mực đạo đức có thể biến thành năng
lực tổ chức, gắn các nhóm xã hội vào một sợi dây trách nhiệm chung. Từ cơ sở đó, tư tưởng
đại đoàn kết phát huy sức mạnh: mọi tầng lớp mọi thế hệ đều tìm thấy điểm tựa để đặt lợi
ích dân tộc và lợi ích của nhân loại tiến bộ lên trên toan tính vị kỷ, nhờ vậy hợp tác trở
thành lựa chọn hợp lý chứ không phải mệnh lệnh áp đặt.
Quan niệm về dân chủ của Người gắn với quyền làm chủ thực chất của dân, nên mọi
thiết kế thể chế phải nuôi dưỡng năng lực tham gia và giám sát. Dân chủ trước hết là khung
pháp lý bảo đảm quyền, đồng thời là văn hóa ứng xử khuyến khích đối thoại và trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, để quyền lực luôn được kiểm soát bằng cả đạo đức lẫn pháp luật.
Khi người cầm quyền tự buộc mình vào chuẩn mực, niềm tin chính trị có điều kiện nảy
sinh, và niềm tin ấy là tài sản xã hội tạo đà cho phát triển bền vững.
Từ tất cả những điểm đã phân tích, có thể thấy tấm gương đạo đức trong sáng của
Hồ Chí Minh mang đồng thời giá trị lý luận và sức sống thực tiễn. Sức hút của hình tượng
không xuất phát từ sự thần thánh hóa; sức hút được tạo bởi tính nhất quán giữa lý tưởng và
hành động, giữa mục tiêu vì con người và phương thức tôn trọng con người. Từ nền tảng
ấy, nhân dân Việt Nam cùng nhân loại yêu chuộng hòa bình có cơ sở tin vào khả năng kiến
tạo một thế giới độc lập, dân chủ, công bằng, tiến bước trên con đường xã hội chủ nghĩa
bằng trái tim nhân ái và trí tuệ tỉnh táo.
Để thấy rõ “đạo đức là căn nguyên sức hút”, có thể phân tích hai ví dụ tiêu biểu
trong lịch sử - chính trị Việt Nam, thứ nhất về lớp Bình dân học vụ sau Cách mạng Tháng
Tám 1945 và việc ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 cùng Tạm ước 14/9/1946. Mỗi ví dụ
soi chiếu một phương diện khác nhau của đạo đức cách mạng: tôn trọng phẩm giá tri thức
của nhân dân và ưu tiên gìn giữ sinh mạng cộng đồng trong những thời khắc hiểm nghèo.
Cả hai trường hợp cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh vận hành qua sự lựa chọn cụ thể, qua
đó hình thành sức hút bền vững đối với con đường xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, Bình dân học vụ (1945–1946) như thể là đạo đức của tri thức và phẩm giá công dân.
Ngay sau khi giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đối diện nhiều
thách thức cùng lúc nạn đói vừa tàn phá, hạ tầng giáo dục kiệt quệ, tỉ lệ mù chữ rất cao,
ngân khố gần như trống rỗng. Trong hoàn cảnh ấy, ưu tiên cho một chiến dịch xoá mù chữ
dường như thiếu thực tế nếu chỉ đo bằng số liệu tài chính, vì nhà nước non trẻ còn thiếu lOMoAR cPSD| 61601299
phòng học, thiếu giấy bút, thiếu giáo viên. Tuy vậy, theo Hồ Chí Minh, quyền được học là
quyền nền tảng, bởi tri thức mở đường cho tự do cá nhân, đồng thời tạo nền tảng để người
dân tham gia có cơ sở được hiểu biết. Xác tín đạo đức đó dẫn tới quyết định phát động Bình
dân học vụ như một cuộc vận động toàn dân, biến hành động học chữ thành bổn phận yêu
nước và cũng là con đường khôi phục phẩm giá sau nhiều thập niên bị tước chiếm đoạt
quyền tự chủ, quyền được sống tự do như một con người.
Cách tổ chức phong trào thể hiện rõ phương châm “lấy dân làm gốc”. Lớp học mở
trong đình làng, nhà thờ, chùa chiền, sân kho; giờ học linh hoạt để nông dân có thể đến lớp
sau một ngày lao động; chữ Quốc ngữ được chọn làm công cụ vì cấu trúc đơn giản giúp
người mới biết chữ nhanh chóng để đọc hiểu văn bản công vụ ở mức sơ cấp. Hàng vạn
thanh niên, trí thức, phụ nữ tình nguyện làm giáo viên, vừa dạy chữ, vừa truyền cảm hứng
về quyền làm chủ của người dân trong một nhà nước mới. Mỗi lựa chọn tổ chức đều đi từ
lý do đạo đức phải trao công cụ để người dân tự cất tiếng nói, phải để công lý và pháp luật
trở nên “đọc được”, “hiểu được”, rồi “dùng được” trong đời sống hằng ngày.
Hiệu ứng chính trị tích luỹ từ đây không đến từ khẩu hiệu mà đến từ kinh nghiệm
rất cụ thể: người nông dân lần đầu tự đọc tên mình trên giấy tờ, người thợ có thể đọc thông
báo lương, người mẹ biết viết thư cho con ở chiến khu. Khi con người cảm thấy phẩm giá
được nâng đỡ bằng tri thức, họ hiểu chủ nghĩa xã hội không phải lời hứa viển vông bởi
mình được quyền học, quyền biết, quyền bàn và quyền kiểm soát. Tính hấp dẫn của lý
tưởng vì thế không nảy sinh từ sự áp đặt mà xuất hiện như kết quả của một “giao ước đạo
đức” giữa nhà nước và nhân dân, chính quyền nỗ lực mở cánh cửa tri thức, người dân đáp
lại bằng niềm tin, bằng sự tham gia kỷ luật vào công cuộc dựng nước. Nói đến Bình dân
học vụ chính là nói đến sự khai phóng đạo đức ai cũng xứng đáng được học và một xã hội
xứng đáng được gọi là xã hội chủ nghĩa khi mọi quyết định đều hướng tới mở rộng tri thức cho số đông.
Thứ hai là về Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) lúc này đạo đức
được đặt trong ưu tiên sinh mạng cộng đồng và cơ hội hoà bình.
Chỉ vài tháng sau ngày độc lập, chính quyền cách mạng đứng trước tình thế cực kỳ
phức tạp nhiều lực lượng phản cách mạng hiện diện, kinh tế kiệt quệ, nguy cơ chiến tranh
cận kề. Trong bối cảnh bị dồn ép, lựa chọn ký Hiệp định Sơ bộ và sau đó là Tạm ước là
quyết định khó vì dễ bị diễn giải theo nhiều hướng. Đặt trong lăng kính đạo đức của Hồ
Chí Minh, quyết định ấy đi theo một nguyên tắc rõ rệt mạng sống nhân dân và cơ hội hoà
bình phải được cân nhắc trước tiên; thời gian là tài sản chiến lược để củng cố nội lực, xây
dựng chính quyền, tổ chức bầu cử, chuẩn bị lực lượng, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Đạo
đức ở đây không phải sự nhượng bộ vô nguyên tắc đó là dũng khí nhận diện ưu tiên đúng
trong hoàn cảnh nhiều rủi ro, đồng thời giữ nguyên mục tiêu tối hậu là độc lập, thống nhất. lOMoAR cPSD| 61601299
Cách thức đàm phán thể hiện triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến”: bất biến là quyền
tự quyết dân tộc; vạn biến là biện pháp, nhịp độ và sách lược phù hợp từng thời điểm. Lựa
chọn ấy tạo ra một khoảng lặng chiến lược để chính quyền trẻ củng cố pháp lý, chuẩn bị
nguồn lực, sắp xếp lại bộ máy, ổn định xã hội, duy trì đường dây hậu cần. Hiệu ứng đạo
đức xuất hiện khi dân chúng thấy lãnh đạo sẵn sàng kiềm chế, chấp nhận hy sinh lợi ích
nhằm giảm tổn thất về người và của. Niềm tin chính trị trong trường hợp này không hình
thành từ lời lẽ cứng rắn, nó sinh ra từ cảm nhận rằng sinh mệnh của từng gia đình được đặt
lên bàn cân một cách nghiêm túc, rằng hoà bình - nếu còn cơ hội - phải được thử đến cùng.
Trong tầm nhìn dài hạn, chuỗi quyết định ấy còn góp phần xây dựng hình ảnh một
nhà nước có trách nhiệm, biết thương lượng, biết chịu trách nhiệm trước lịch sử, từ đó làm
tăng sức thuyết phục của mô hình phát triển hướng đến công bằng và nhân ái. Một chủ
nghĩa xã hội đặt lên trước hết quyền sống và phẩm giá của cộng đồng có khả năng quy tụ
rộng rãi hơn, bởi công lý đi chung với lòng nhân tạo nên uy tín bền vững. Chính ở đây, đạo
đức không chỉ là lời răn dạy cho cá nhân; đạo đức trở thành tiêu chuẩn cho toàn bộ hành động nhà nước.
Sức hút chỉ thực sự xuất hiện khi đạo đức trở thành hành động tập thể, được nhìn
thấy trong đời sống thường ngày. Dưới đây là hai ví dụ thực tiễn tại Việt Nam có thể soi
chiếu mạch tư tưởng ấy, mỗi ví dụ cho thấy đạo đức vận hành như một “vốn xã hội”, tạo ra
niềm tin, từ đó mở lối cho chủ nghĩa xã hội đi vào lòng người.
Trước tiên, tôi muốn đề cập đến phong trào hiến đất làm đường trong xây dựng nông thôn mới.
Ở nhiều tỉnh hiện nay, người dân tự nguyện hiến đất, tháo dỡ một phần nhà cửa, góp
ngày công để mở rộng đường giao thông nông thôn và chỉnh trang hạ tầng. Nếu nhìn thuần
túy từ lợi ích kinh tế, quyết định hy sinh một phần tài sản trước mắt rất khó lý giải. Lý do
sâu hơn nằm ở nền đạo đức cộng đồng đã hình thành người dân tin rằng con đường mới sẽ
phục vụ con em đi học an toàn, nông sản bán được giá hơn, hàng xóm qua lại thuận tiện,
làng xóm khang trang. Lợi ích ấy không tách rời từng cá nhân, nó gắn với cảm giác “chúng
ta lớn lên cùng nhau”, một cảm giác chỉ nảy nở khi các chuẩn mực đạo đức chung đó là
tình làng nghĩa xóm, đó là vị tha, đó là tôn trọng lợi ích công được củng cố qua nhiều mùa
vụ, nhiều kỳ họp thôn, nhiều lần cán bộ đến vận động và cam kết minh bạch.
Dưới góc nhìn tư tưởng Hồ Chí Minh, phong trào hiến đất làm đường phản ánh sâu
sắc quan niệm “dân là gốc”. Gốc ở đây không phải khẩu hiệu trừu tượng. “Gốc” chính là
chủ thể định đoạt thành bại của việc công. Khi đạo đức công dân được thức tỉnh và được
dẫn dắt bằng quy trình dân chủ, hành động tập thể sẽ xuất hiện với chi phí cưỡng chế gần
như bằng không. Từ đó, hấp lực của chủ nghĩa xã hội hiện ra rất tự nhiên người dân nhìn
thấy một trật tự xã hội biết tôn trọng họ, khích lệ họ, trả lại cho họ những tiện ích công lOMoAR cPSD| 61601299
bằng, đồng thời họ còn tự hào vì đã “đồng tác giả” của những con đường mới. Cảm giác
được tôn trọng và được tham dự này chính là chất keo gắn kết mạnh hơn bất kỳ khẩu hiệu tuyên truyền nào.
Một khía cạnh khác cũng đáng lưu ý sự công tâm trong khâu đền bù - hỗ trợ, sự
minh bạch thông tin, cách ứng xử mềm mỏng của cán bộ khi có phát sinh. Những yếu tố
ấy tạo nên “đạo đức công vụ” một bộ phận cấu thành đạo đức xã hội chủ nghĩa trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Khi người thi hành công vụ giữ gìn liêm chính, định mức hỗ trợ rõ
ràng, tranh chấp được giải quyết bằng đối thoại, người dân cảm nhận nhà nước như một
đối tác đáng tin. Từ lòng tin ấy, các chương trình công tiếp theo trở nên dễ triển khai hơn,
tạo hiệu ứng tích lũy niềm tin.
Tổng kết ví dụ thứ nhất, có thể nói sức hút của chủ nghĩa xã hội không tỏa ra từ
những con số đầu tư hạ tầng thuần túy mà đến từ câu chuyện đạo đức ẩn dưới hạ tầng - câu
chuyện về sự hy sinh được tôn vinh, về công bằng được thực thi, về người dân trở thành
chủ thể kiến tạo không gian sống của chính mình.
Hay ở thời kỳ dịch bệnh COVID – 19, những cây “ATM gạo”, “siêu thị 0 đồng” mọc
lên như nấm phải chăng đạo đức “sẻ cơm nhường áo” trong nhịp sống của xã hội chủ nghĩa?
Trong giai đoạn dịch bệnh, nhiều sáng kiến cộng đồng xuất hiện như máy phát gạo
tự động phục vụ người khó khăn, “siêu thị 0 đồng” cung cấp nhu yếu phẩm, bếp ăn thiện
nguyện cung cấp suất cơm cho lực lượng tuyến đầu và lao động mất việc. Những sáng kiến
này vận hành trên nền tảng tự nguyện, liên kết doanh nghiệp với nhóm thiện nguyện với
chính quyền địa phương. Cách thức rất giản dị ai có của góp của, ai có công góp công, ai
có sáng kiến góp sáng kiến. Mấu chốt ở đây không phải kỹ thuật của chiếc máy hay mô
hình vận hành cửa hàng miễn phí, mấu chốt nằm ở một trực giác đạo đức, trong hoạn nạn,
bảo toàn phẩm giá người khó khăn quan trọng không kém việc giúp họ sống qua ngày.
Tại sao một cấu trúc tương trợ như vậy lại hấp dẫn và nhận được đồng thuận rộng
rãi? Trước hết, nó giải quyết đồng thời nhu cầu vật chất và nhu cầu tôn trọng. Người đến
nhận gạo, nhận thực phẩm không cảm thấy mình bị ban ơn, họ được mời gọi đến lấy “phần
của mình” và giai tầng nào cũng được quyền nhận. Sự sắp đặt bằng máy, bằng quy trình
xếp hàng, bằng phiếu nhận quà, bằng khẩu trang và nước sát khuẩn cho thấy một thông
điệp rõ ràng nếutôn trọng luật lệ chính là cách tôn trọng phẩm giá của nhau. Khi phẩm giá
được bảo vệ, người nhận trợ giúp gìn giữ lòng tự trọng, người trao trợ giúp gìn giữ cảm
thức liêm chính. Đó là đạo đức theo đúng nghĩa Hồ Chí Minh thương dân đi liền với tôn trọng dân.
Vì vậy, các mô hình tương trợ gắn kết khu vực nhà nước với khu vực xã hội theo
tinh thần “lấy dân làm trung tâm”. Chính quyền không thể bao phủ mọi ngóc ngách, mạng
lưới thiện nguyện len vào khoảng trống ấy với tốc độ nhanh hơn. Tuy nhiên, để đảm bảo