Quan điểm của Mác – Lê Nin về dân tộc - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái niệm dung để chỉ nhầu như tất cả các hìnhthức cộng đồng người trong lịch sử: bộ lạc, bộ lạc, bộ tộc… Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

1. Quan điểm của Mác – Lê Nin về dân tộc
1.1. Khái niệm về dân tộc của Mác – Lê Nin
- Khái niệm dân tộc nhiều nghĩa, trong đó hai nghĩa chính, nghĩa rộng
nghĩa hẹp (khoa học và hiện đại).
Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái niệm dung để chỉ nhầu như tất cả các hình
thức cộng đồng người trong lịch sử: bộ lạc, bộ lạc, bộ tộc…
Theo nghĩa hẹp, dân tộc (quốc gia, dân tộc) hình thức cộng đồng người
ổn định, bền vững, được hình thành trong lịch sử lâu dài, trên sở cộng
đồng về ngôn ngữ, về lãnh thổ, về kinh tế và về văn hoá biểu hiện trong tâm
lí, tính cách.
- Đặc trưng của dân tộc: Những đặc trưng của dân tộc có quan hệ chặt chẽ với nhau,
tác động biện chứng với nhau trong lịch sử phát triển lâu dài của dân tộc, trong đó,
xét cho cùng thì nhân tố kinh tế - xã hội có vai trò quyết định, nhân tố chính trị
vai quan trọng:
Một là, cộng đồng về ngôn ngữ - một phương tiện giao tiếp chung, thống
nhất của các thành viên trong cộng đồng dân tộc.
Hai là, cộng đồng về lãnh thổ - đó vùng đát, vùng trời, vùng biển hải
đảo…. thuộc chủ quyền quốc gia, dân tộc. Trong trường hợp nhiều dân
tộc hợp thành thì lãnh thổ quốc gia dân tộc đó bao gồm lãnh thổ của các
dân tộc thuộc quốc gia đó. Lãnh thổ dân tộc ổn địnhn nhiều so với lãnh
thổ bộ tộc, bộ lạc.
Ba là, cộng đồng về kinh tế - một thị trường thống nhất để thực hiện các
hoạt động về kinh tế, các hoạt động này được cũng cố bằng thể chế chính
trị, nhà nước tập quyền. Đây đặc trưng quan trọng nhất, phân biệt với bộ
tộc, bộ lạc. Thiếu sự cộng đồng chặt chẽ, bền cững về kinh tế thì cộng đồng
dân tộc không thể hình thành được.
Bốn là, Cộng đồng về văn hoá, về tâm lý, tính cách – đây yếu tố đặc biệt
quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Văn hoá dân tộc được hình thành
trong quá trình lịch sử lâu i, tạo ra sắc thái riêng của dân tộc. Văn hoá
dân tộc mang nhiều sắc thái của các địa phương, các sắc tộc, tập đoàn
người… nhưng đó vẫn một nền văn háo thống nhất chứ không phải bị
chia cắt, tách rời nhau. Tính thống nhất trong đa dạng đặc trưng của văn
hoá n tộc. Văn hoá dân tộc kết tinh trong tâm lý, tính cách dân tộc, mỗi
dân tộc có tâm lý, tính cách riêng, không thể pha trộn với tâm lý, tính cách
của dân tộc khác. Có thể nói đây là cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc.
1.2. Những nguyên tắc bản trong trong giải quyết vấn đề dân tộc theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong tiến trình cách mạng hội chủ
nghĩa, các vấn đề dân tộc cần phải được giải quyết trên sở các nguyên tắc bản
sau đây:
- Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
Quyền bình đẳng giữa cácn tộc cần phải được coi quyền thiêng liêng bất
khả xâm phạm. Bất kể cộng đồng dân tộc nào (cho dù đó là cộng đồng có đông
người hay ít người; trình độ phát triển cao hay thấp;...) cũng đều quyền
lợi nghĩa vụ như nhau; không thể đặc quyền đặc lợi cho riêng một dân
tộc nào về các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, ngôn ngữ....
Trong phạm vi một quốc gia nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân
tộc cần phải được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật; đồng thời nhà nước cần
phải có chính sách phù hợp trong việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa, hội giữa các dân tộc, tạo nên sự phát triển hài hoà
giữa các dân tộc.
Trong phạm vi quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc trên thế giới, quyền bình
đẳng dân tộc cần phải được gắn kết với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các
nước bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế
nhằm đạt được sự bình đẳng giữa các quốc gia - dân tộc trên phạm vi quốc tế.
- Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết.
Quyền tự quyết của các dân tộc nói đến quyền làm chủ của mỗi dân tộc
trước hết cơ bản quyền các dân tộc có thể tự mình quyết định con đường
phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình, không chịu sự ràng buộc,
cưỡng bức của dân tộc khác.
Quyền tự quyết của các dân tộc bao gồm: quyền tự do phân tách, hình thành
nên cộng đồng quốc gia - dân tộc độc lập vì lợi ích chính đáng của các dân tộc
quyền liên hiệp các dân tộc trên sở tự nguyện bình đẳng của các dân
tộc.
- Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là một nội dung cơ bản trong cương lĩnh
dân tộc của V.I. Lênin; thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân
phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp; phản ánh tính thống nhất biện chứng giữa chủ nghĩa yêu nước
chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc một quan điểm tính nguyên tác
trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa; quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết các
vấn đề thuộc quyền bình đẳng giữa các dân tộc quyền tự quyết của các dân
tộc.
1.3. Đối chiếu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với một số đặc điểm của dân
tộc Việt Nam hiện nay
- Việt Nam 54 dân tộc anh em. Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, 53 dân tộc
còn lại chiếm 13% dân số, phân bố rải rác trên phạm vi cả nước.
- Đăc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc Việt Nam sự gắng kết dân
tộc, sự hòa hợp giữa các n tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành
truyền thống, thành sức mạnh và đã được thử thách trong cuộc đấu tranh chống
xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử cho
đến ngày nay. Đoàn kết xu hướng khách quan gắng kết các dân tộc trên
sở có chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch sử, chung một tương lai. Tuy vậy,
bên cạnh những mặt tích cực thìnơi có lúc cũng xảy ra hiện tượng tiêu cực
trong quan hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc các thế lực thù địch lại luôn luôn
dùng mọi thủ đoạn để chia rẽ dân tộc can thiệp vào nội bộ của nước ta. Do
đó, phát huy truyền thống đoàn kết, xóa bỏ thành kiến, nghi kịn tộc kiên
quyết đập tan âm mưu chia rẽ dân tộc của kẻ thù nhiệm vụ trọng yếu của
nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện
nay.
- Hình thái trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng, tuy trong từng khu
vực nhất định những dân tộc sống tương đối tập trung, nhưng không thành
địa bàn riêng biệt. Do đó, các dân tộc nước ta không lãnh thổ riêng, không
có nền kinh tế riêng sự thống nhất hữu giữa các dân tộc và quốc gia trên
mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng cố.
- Tình hình chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế,văn hóa...giữa cácn tộc,
giữa các vùng dân cư là một đặc trưng cần được quan tâm nhằm khắc phục dần
sự chênh lệch để thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước ta. Do điều kiện
tự nhiên, hội,hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sửn các
dân tộc mới có sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa....
- Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam đều đời sống văn hóa mang bản sắc riêng rất phong phú. Bởi
bất cứ dân tộc nào dù nhiều người hay ít người, đều có nền văn hóa riêng, phản
ánh truyền thống lịch sử, đời sống tinh thần, niềm tự hào dân tộc bằng những
bản sắc văn hóa độc đáo. Đặc trưng của sắc thái văn hóa dân tộc bao gồm ngôn
ngữ, tiếng nói, văn hóa, nghệ thuật, tình cảm dân tộc, y phục, phong tục tập
quán, quan hệ gia đình dòng họ.... dân tộc chữ viết riêng :Thái , Chăm,
Mông, Giarai,...Một số dân tộc thiểu số gắn với một vài tôn giáo truyền thống
như: đạo Phật, Bàlamôn, đạo Tin Lành, đạo Thiên Chúa ...Vì vậy Đảng và Nhà
nước ta luôn luôn tôn trọng bản sắc văn hóa riêng tôn trọng tự do tín
ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa dạng mang bản sắc văn hóa của từng
dân tộc càng làm phong phú thêm nền văn hóa của cộng đồng.
2. Quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại:
Giai cấp, dân tộc và nhân loại ba cấp độ phản ánh khách nhau trong tổ chức hội
loài người. Mỗi bộ phận này có vị trí, nhiệm vụ và chức năng khác nhau, song có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong quan hệ này:
Giai cấp là cơ sở, là nền tảng để hình thanh nên những đặc trưng cơ bản của
dân tộc, nhân loại. Một mặt, giai cấp ra đời sớm n dân tộc, áp bức giai
cấp là nguyễn nhân sâu xa của áp bức dân tộc, cũng như của tính nô dịch, lệ
thuộc trong ứng xử nhân loại. Mặt khác, tuỳ vào giai cấp nào cầm quyền
trong dân tộcnó quyết định bản chất, xu hướng ứng cử của dân tộc đó,
cũng như quyết định tới việc giải quyết các vấn đề nhân loại.
Dân tộc nhân loại tính độc lập tương đốitác dộng trở lại giai cấp:
Khi giai cấp mất đi thì dân tộc vẫn tồn tại. Đồng thời, tính dân tộc tính
nhân loại ảnh hưởng tới sự ứng xử của giai cấp nhất định trong thực tế.
Tính đặc thù của vấn đề giai cấp và dân tộc ở Việt Nam
o Trong lịch sử Việt Nam, giai cấp dân tộc ra đời từ phương thức sản xuất
Châu Á, cùng một tổ tiên, cùng đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống
thiên tai, để tạo nên một nền văn hoá với các giá trị phong phú, đáng tự hào.
Chinh vì vậy, lợi ích của các giai cấp bản giống với lời ích của toàn dân
tộc.
o Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hoá cùng phức tạp, Đảng Cộng sản
Việt Nam chú trọng giải quyết lợi ích quốc gia dân tộc trong quan hệ với lợi
ích nhân loại. Việc giải quyết mối quan hệ này luôn dựa trên các nguyên tác
tính pháp quốc tế. Theo đó, vừa giữ vững chủ quyền quốc gia, dân
tộc, vừa mở rộng quan hệ quốc tế nhằm tạo ra sự hài hoà, lợi ích giữa các
giai cấp trong cộng đồng và nhân loại.
3. Bằng hiểu biết của mình, hãy làm sáng tỏ nội hàm khái niệm bản sắc văn hóa
dân tộc.
Khái niệm văn hóa
phương Đông cổ đại, từ “văn hóa” đã mặt trong đời sống ngôn ngữ Trung Hoa
từ rất sớm. Theo đó, Văn là đẹp, Hóatrở thành, biến cải, Văn hóa làm cho cái
đó trở nên có giá trị.
Ở phương Tây cổ đại, thuật ngữ văn hóa (cultural) sự giáo dục làm cho phong phú
tinh thần và trí tuệ của con người.
Định nghĩa của Edward Burnett Tylor trong cuốn Văn hóa nguyên thủy, xuất bản
Luân Đôn năm 1871, được xem định nghĩa đầu tiên tính kinh điển về văn hóa:
“Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức,
tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực cũng như thói
quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là thành viên trong xã hội”
Như vậy có thể khái quát rằng: Văn hóa là toàn bộ những giá trị liên quan đến vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra trong suốt quá trình hoạt động thực tiễn, xã hội -
lịch sử của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.
Khái niệm bản sắc văn hóa
Cụm từ “Bản sắc” có nguồn gốc từ Hán - Việt, với nội dung chính cái gốc, cái căn
bản, cái cốt lõi… còn hình thức chính sự biểu hiện cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt
nhân đó ra ngoài.
Bản sắc của một sự vật, hiện tượng những nét riêng biệt của sự vật hiện tượng đó
các sự vật hiện tượng khác không có. Bản sắc thể hiện sđộc đáo, đặc biệt, làm
nổi bật sự vật, hiện tượng đó trước các sự vật, hiện tượng khác.
Trong tổng thể các giá trị văn hóa truyền thống sẽ những giá trị cốt lõi, ổn định,
tinh túy nhất làm căn cứ so sánh văn hóa dân tộc này với văn hóa dân tộc khác, đó
chính là cái riêng không thể hòa lẫn của mỗi dân tộc.
Bản sắc văn hóa những nét đặc trưng, độc đáo bản nhất để từ đó chúng ta
nhận diện một nền văn hoá sở phân biệt nền văn hoá này với một nền văn
hoá khác. thể hiểu đơn giản rằng: Bản sắc văn hoá hệ thống các giá trị đặc
trưng, bản chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển theo chiều dài
lịch sử được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa,
các giá trị đặc trưng bản chất cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái
biểu hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn.
Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc
Bản sắc văn hóa dân tộc tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần tinh túy nhất, đặc
trưng, tiêu biểu, phản ánh tính chất, tính cách, phẩm chất của mỗi dân tộc, là dấu hiê |u
cơ bản để phân biê |t văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác. Những giá trị này tiềm
ẩn trong tâm thức, cốt cách của mỗi người được thể hiê |n ra trên mọi mặt của đời
sống, trong mọi hoạt động và quan | của con người trong di sản văn hóa của mỗi
dân tộc.
Bản sắc văn hóa là nét tinh hoa được hình thành trong quá trình lịch sử phát triển của
dân tộc đó. Được con người tạo ra và thể hiện những nét riêng của dân tộc và gắn liền
với sự phát triển kinh tế và xã hội của một quốc gia nào đó, một địa phương nào đó.
Dân tộc nào cũng nền văn hóa truyền thống, đó tổng hợp những hiện tượng văn
hóa-xã hội bao gồm các chuẩn mực giao tiếp, các khuôn mẫu văn hóa, các tư tưởng xã
hội, các phong tục tập quán, các nghi thức, thiết chế hội… được bảo tồn qua năm
tháng, trở thành thói quen trong hoạt động sống của mỗi con người, cũng như của
toàn xã hội, được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Ví dụ: Người phương Tây khi giao tiếp thường bắt tay biểu hiện bàn tay không có vũ
khí. Người phương Đông lại cúi đầu chào, gọi người khác đại nhân (người lớn),
tiên sinh (người sinh ra trước, hiểu biết nhiều như là người anh). Cái đó thuộc về bản
sắc văn hóa chỉ thể tìm thấy nơi này không thể tìm thấy nơi khác,
nghĩa cái đặc trưng của một cộng đồng người, của một tộc người biểu hiện ra
từng cử chỉ, hoạt động sinh tồn của cá thể cũng như của cả cộng đồng.
Mỗi khi nghe một làn điệu dân ca, âm thanh của một nhạc cụ, hay xem một điệu múa
ta thể nhận biết được sắc thái của dân tộc đó. Không một nền văn hóa nào
hình thành phát triển được nếu không thể hiện được tâm hồn, trí tuệ, bản lĩnh, sức
sáng tạo của dân tộc ấy. Văn hóa chỉ tồn tại phát triển khi chứa đựng thể hiện
gần đầy đủ bản sắc dân tộc đã sáng tạo ra nó. Mỗi dân tộc trong quá trình lựa chọn
thái độ, phương thức sống hoạt động để ứng phó với hoàn cảnh, vừa tiếp thu, tiếp
biến các giá trị để nâng cao tinh thần tự chủ, tự cường, tạo nên các tố chất riêng biệt
của dân tộc, cái riêng ấy chính bản sắc văn hóa dân tộc. không chỉ được biểu
hiện bên ngoài như cung cách ứng xử, phong thái sinh hoạt, nghệ thuật kiến trúc
còn được biểu hiện ở cái bên trong như năng lực sáng tạo, tư duy, chiều sâu tâm hồn,
truyền thống đạo lý, thế giới quan, nhân sinh quan.
Trong hội phân chia thành giai cấp, bản sắc văn hóa dân tộc quan hệ chặt chẽ
với hệ tưởng. Các giai cấp thống trị bao giờ cũng dùng hệ tưởng xâm nhập vào
nền văn hóa dân tộc tạo ra sự dính kết giữa cách thức lao động sản xuất, sinh hoạt, ý
thức thường ngày của quần chúng với định hướng giai cấp. Hệ tưởng nào cũng
mong muốn thiết lập được một hệ chuẩn mới xâm nhập thành hạt nhân quyết định cho
sự phát triển của nền văn hóa. Tuy nhiên, tác động ảnh hưởng của hệ tưởng đối với
bản sắc văn hóa như thế nào hoàn toàn tùy thuộc vào giá trị tiến bộ của hệ tưởng
đó. Khi hệ tưởng xâm nhập vào văn hóa dân tộc, mặc dầu trở thành yếu tố định
hướng, yếu tố dính kết của văn hóa, nhưng cũng chịu sự chọn lọc,“ Khúc xạ” ,
"Dân tộc hóa" của bản sắc văn hóa dân tộc, do đó hệ tư tưởng cũng có những yếu tố bị
bản sắc văn hóa dân tộc loại trừ.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng một khi hệ tưởng tiến bộ được vận dụng đúng
đắn, gắn kết với giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc thì phát huy được sức mạnh
của cả dân tộc và thời đại, giai cấp và dân tộc gắn chặt chẽ với nhau: Hệ tư tưởng
trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của dân tộc. Ngược lại khi hệ tưởng
phản động, lạc hậu, hoặc vận dụng không phù hợp các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc thì lập tức sẽ gây ra những đổ vỡ khó lường.
Bản sắc văn hóa dân tộc gắn liền với điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử mà bản thân
các điều kiện này đều biến chuyển theo thời gian, vậy bản sắc văn hóa cũng luôn
luôn vận động, tuy tính ổn định, bền vững nhưng không phảibất biến. Song con
đường vận động, phát triển của bản sắc văn hóa phức tạp hơn nhiều so với các lĩnh
vực kinh tế, chính trị. không phải đi theo đường thẳng, không phải văn hóa thời
đại sau bao giờ cũng cao hơn thời đại trước, có những yếu tố văn hóa cổ mà văn minh
ngày nay chưa thể vượt qua. Bản sắc văn hóa dân tộc cũng vận động, biến đổi theo
trình độ dân trí, qua giao lưu văn hóa thời đại, nhưng vận động, tiếp biến rồi cũng
xoay quanh cái gốc, trở về cái cội nguồn. Nhiều dân tộc bị áp bức bóc lột, bị nô lệ, bị
đàn áp bao thế kỷ, trình độ tuy còn lạc hậu nhưng vẫn bám trụ và vươn dậy trong thời
đại văn minh công nghệ tin học để chứng minh sức mạnh tiềm ẩn trong bản sắc văn
hóa.
Không sức mạnh quân sự nào đè bẹp được sức mạnh văn hóa. Các trận cuồng phong
của quân Nguyên Mông đã tàn phá Đông Âu, Đông Á, nhưng rồi chẳng để lại dấu vết
văn hóa nào. Những cuộc thập tự chinh đẫm máu, những cuộc chiến tranh tàn khốc
của chủ nghĩa đế quốc cũng không tiêu diệt được ý thức độc lập dân tộc. Tiền bạc của
chủ nghĩa bản cũng không đồng hóa được văn hóa dân tộc thuộc địa. Sự vùng lên
của các dân tộc giành quyền độc lập tự do đã chứng minh cho sức mạnh của bản sắc
văn hóa dân tộc.
Xu hướng tìm về bản sắc dân tộc xu hướng hiện đại hóa nền văn hóa nhìn bên
ngoài có vẻ như là đối lập hoàn toàn, nhưng thực chất là hai xu hướng thống nhất biện
chứng.
Hiện đại cái có chất lượng hơn, tốt hơn, văn minh hơn cái trước đây, đáp ứng được
yêu cầu của hiện tại tương lai của sự phát triển. Muốn vượt lên cái cũ, chinh phục
cái mới, phải một nền văn hóa phát triển, đó là con đường duy nhất đúng đắn. Văn
hóa phát triển là một nền văn hóa hiện đại và thường xuyên được hiện đại hóa.
Hiện đại hóa gắn liền với chủ thể dân tộc với điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc ấy.
Nói hiện đại hiện đại một dân tộc, đối với một dân tộc, mang tính chất dân tộc.
Hiện đại cũng nghĩa mang tính thời đại, biểu hiện xu thế phát triển của nhân
loại. Vì vậy, dân tộc - hiện đại - đại chúng và nhân văn đi liền nhau.
Hiện đại hóa là cuộc vận động rộng lớn và sâu sắc của một quốc gia - dân tộc. Nó phụ
thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, tiềm lực con người, tiềm lực kinh tế của dân tộc đó,
đồng thời phụ thuộc vào trình độ trí tuệ, tinh thần nhạy bén, sáng tạo để hội nhập với
thế giới xung quanh. Như vậy hiện đại hóa bằng cách nào, nhanh hay chậm, thành
công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào cách lựa chọn của dân tộc.
Một số dân tộc Nam Mtrước đây tài nguyên phong phú, nhưng công nghệ lạc
hậu đã lựa chọn con đường dựa vào xuất khẩu tài nguyên sản phẩm chế để thu
ngoại tệ, rồi lại dùng ngoại tệ nhập sản phẩm tiêu dùng, nhập máy móc, tiện nghi, tạo
ra một cuộc sống vẻ như hiện đại. Nhưng trước những cuộc khủng hoảng kinh
tế, gốc rễ không bền chắc nên sụp đổ. Ngược lại các nước Nhật Bản, Hàn Quốc vốn
trước đây lệ thuộc vào phương Tây đã nhận thức lại vấn đề rệt hơn để cảm nhận
một chân lý hàng thế kỷ họ đã để mất dần bản sắc văn hóa dân tộc, họ đã cảm thấy
thất bại của Châu Phi tự tìm ra con đường riêng của mình đó là: Chọn lọc những
nhân tố hiện đại trong khoa học công nghệ của phương Tây kết hợp với bản sắc văn
hóa bản địa.
Con đường hiện đại hóa của các nước đã cho chúng ta thấy, nền văn hóa mỗi dân tộc
đều chứa đựng các giá trị văn hóa nhân loại, các giá trị chân, thiện, mỹ không chỉ
giá trị riêng của từng dân tộc mà ngày càng trở thành giá trị chung của loài người. Tuy
vậy, tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ không xóa được biên giới quốc gia - dân
tộc, không thể công nghệ hóa được mọi bản sắc văn hóa. Tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ chỉ làm cho nền văn minh các dân tộc xích lại gần nhau, còn bản sắc văn
hóa thì vẫn là riêng biệt.
Bản sắc văn hóa dân tộc được tôi luyện, đúc kết qua các thế hệ nối tiếp nhau trong
lịch sử, như dòng phù sa bồi tụ những tinh túy nhất làm nên sức sống trường tồn
của dân tộc. Tất cả các quốc gia hiện nay đều chú trọng nghiên cứu di sản văn hóa của
dân tộc mình, họ ý thức được rằng nếu không đề cao bản sắc văn hóa dân tộc thì tính
đa đạng của văn hóa thế giới sẽ bị cạn kiệt do sự lai căng, pha tạp của các nền văn
hóa.
Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy trong văn hóa dân tộc có nhiều yếu tố bảo thủ, níu
kéo văn hóa trở về với quá khứ, làm cho văn hóa dân tộc khó thích nghi với thời đại
mới. Xu hướng bảo thủ có mặt tích cực là tạo ra khả năng tự vệ, rào chắnhiệu quả
các cuộc xâm lăng văn hóa, nhưng bảo thủ sẽ dẫn tới loại trừ các yếu tố tích cực, hiện
đại của văn hóa từ bên ngoài tác động vào.
vậy, phải đứng vững trên quan điểm phủ định biện chứng để kế thừa chọn lọc,
loại trừ yếu tố lạc hậu, bổ sung yếu tố mới, tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của cuộc
sống. Yếu tố hiện đại giúp văn hóa truyền thống thích nghi với sự phát triển, đồng
thời đáp ứng được nhu cầu văn hóa ngày càng tăng lên của dân tộc. Bản sắc văn
hóa dân tộc phải đứng vững trên đôi chân của mình để tiếp nhận các yếu tố hiện đại,
làm cho các yếu tố hiện đại gia nhập và trở thành yếu tố văn hóa truyền thống.
4. Theo Anh/ Chị, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là gì ?
4.1. Bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành phát triển qua hàng ngàn năm
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, qua sự giao lưu và tiếp thu những tinh hoa
văn hóa của các nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới. Về nội dungtinh
thần yêu nước; nhân ái, tôn trọng tình nghĩa, trọng đạo đức; ý thức đoàn kết cộng
động; truyển thống hiếu học,…Về hình thức là ngôn ngữ, phong tục tập quán.
4.2. Đặc trưng cơ bản của bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam:
- Bản sắc dân tộc Việt Nam thể hiện những đặc trưng của nền văn hóa. gốc hình
thành văn hóa từ lâu đời, từ đó ngày càng phát triển, tạo nên những nét riêng biệt
đến nay.
- Bản sắc văn hóa dân tộc mang tính bền vững với thời gian. Thời gian thay đổi
nhưng nét văn hóa dân tộc Việt Nam vẫn sẽ được gìn giữ, không khác biệt với bản
sắc văn hóa dân tộc ban đầu.
- Đặc trưng cơ bản có thể nhìn nhận từ bên ngoài về bản sắc văn hóa dân tộc là sự tôn
kính, thờ cúng tổ tiên, tôn trọng tất cả các giá trị cộng đồng gia đình, các ngành
nghề thủ công mỹ nghệ, người dân lao động cần cù…
- Ở Việt Nam có một nền văn hóa dân tộc phong phú trong cộng đồng 54 dân tộc,
nhiều sinh hoạt cộng đồng, tín ngưỡng, tư tưởng và tôn giáo khác nhau.
- Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thànhphát triển phụ thuộc vào đặc
điểm của từng dân tộc, điều kiện lịch sử, điều kiện tự nhiên, môi trường trú, chế
độ chính trị giao lưu với các nền văn hóa khác.
- Thực tế qua hàng ngàn năm lịch sử chứng minh rằng để bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam được gìn giữ tốt đẹp chính nhờ vào tinh thần đoàn kết, sự gắn chặt
chẽ và gìn giữ của mỗi người dân Việt Nam.
4.3. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được thể hiện thông qua:
Tinh thần dân tộc: tinh thần yêu nước, đoàn kết một lòng, gan góc, dũng cảm
chống lại kẻ thù xâm lược.
Lịch sử hùng hồn từ những thế kỷ đấu tranh chống ngoại bang xâm lược
phương Bắc những giai đoạn chống sự đô hộ, cai trị đến những thắng lợi
vang dội của các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, yêu nước đã thực
sự trở thành một thứ khí tinh thần. Trong bối cảnh hiện tại, tinh thần yêu
nước của dân tộc Việt nam được biểu hiện thông qua lòng tự hào dân tộc, sự tin
tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tinh thần vượt khó, vượt
nghèo, tinh thần đoàn kết, đấu tranh chống lại những cái bảo thủ, trì trệ trong
tư duy, trong suy nghĩ và cách làm, chống lại các thói hư, tật xấu,...
Tinh thần nhân ái, tôn trọng tình nghĩa, trọng đạo đức
Nhân ái tình cảm đạo đức không phải của riêng một dân tộc nào. Tuy nhiên
sự biểu hiện của lòng nhân ái ở mỗi dân tộc là khác nhau dựa trên những cơ sở,
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử môi trường hội khác nhau, kế thừa những
yếu tố tích cực trong các học thuyết Nho, Phật, Lão. Tình yêu thương máu mủ
ruột thịt trong gia đình được mở rộng ra xóm làng rồi cả nước, vị tha với cả kẻ
thù… trở thành một nếp nghĩ, một cách sống, một bản sắc văn hóa dân tộc đặc
sắc. Hiện nay, giá trị bản sắc này đang bị đe dọa, biểu hiện suy giảm trong
lối sống của không ít nhân. Dễ thấy nhất lẽ lối sống ngoại lai ích kỷ,
hẹp hòi, phi nhân tính đang chiều hướng lấn át lối sống giàu nghĩa tình
truyền thống.
Ý thức đoàn kết cộng đồng
Ý thức cộng động (cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc) là một bản sắc quý báu,
một giá trị tinh thần to lớn của dân tộc ta. Ngay từ những nhà nước khai,
người dân nước Việt ta đã biết hợp quần, hợp sức, tạo thành một sự cố kết
chính trị bền vững, giúp ích lớn trong chính cuộc sống - s ra đời của bộ lạc
Văn Lang và nhà nước Âu Lạc. Trong suốt chiều dài lịch sử sau đó, nét bản sắc
văn hóa dân tộc này luôn giữ vững vị trí của một nội dung quan trọng, sự
ảnh hưởng sâu sắc tới không chỉ văn hóa dân tộc, mà còn tới cả sự nghiệp bảo
vệ, giữ gìn, phát triển của Việt Nam.
Truyền thống hiếu học
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học sớm đã hình thành nét bản
sắc văn hóa hiếu học. Hiếu học và tinh thần “tôn sư trọng đạo” đã trở thành nét
đẹp văn hóa của dân tộc ta. góp phần định hướng giá trị trong quá trình
phát triển hội. Toàn cầu hóa gắn liền với kinh tế tri thức một cuộc cạnh
tranh gay gắt nên đặt ra yêu cầu cao về trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn, từ đó buộc người lao động phải tích cực học tập, nâng cao hiểu biết
coi trọng học tập như một nhu cầu bức thiết.
Ngôn ngữ: Ngôn ngữ Việt, Mường, ngôn ngữ Tày Thái, ngôn ngữ Mông -
Dao, ngôn ngữ Ka Đai, ngôn ngữ Tạng Miến....
Phong tục tập quán: Tục ăn trầu, Tết Nguyên Đán, cúng giao thừa, Tết Thanh
minh, Tết Trung thu, Lễ hội cầu an bản Mường, Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội đền
Gióng, Lễ hội Bà chúa Xứ...
Trang phục: áo dài, áo tứ thân, áo bà ba, áo chàm
Phương thức sản xuất: nông nghiệp trồng lúa nước
4.4. Làm thế nào để xây dựng được nền văn hóa tiên tiến đậm bản sắc dân tộc
nước ta hiện nay ?
Giữ gìn bản sắc n hóa dân tộc hành động, việc làm của mỗi người hướng tới
mục tiêu bảo vệ, gìn giữ những nét đặc trưng, tài sản giá, linh hồn của dân tộc
hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước giữ nước, biết bao mồ hôi xương máu
máu của dân tộc Việt Nam.
Giữ gìn, xây dựng phát triển bản sắc văn hoá dân tộc việc làm cần thiết
quan trọng để vận dụng phát triển lâu dài, cách tốt nhất để toàn thể dân tộc
hướng tới hành động bảo vệ hệ thống giá trị văn hóa được hình thành trong suốt
quá trình lịch sử.
Để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta thể thực
hiện bằng những hành động cụ thể như sau:
- Một là, củng cố tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong
phú, đa dạng. Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
đi vào chiều sâu, thiết thực hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia
đình, khu dân cư, quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hóa
thấm sâu vào mọi mặt đời sống. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng
đạo đức, lối sống văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới,
tang, lễ hội. Sớm chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp
phần giữ gìn phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người
Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. hội hóa các hoạt động văn hóa,
chú trọng nâng cao đời sống văn hóa nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp
khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị và
nông thôn...
- Hai là, phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di
sản văn hóa truyền thống, cách mạng. Tiếp tục phát triển nền văn học nghệ
thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ,
vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công
cuộc đổi mới đất nước. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức
thể hiện và phong cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh,
đa dạng bồi dưỡng tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt
thế hệ trẻ. Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, khắc phục yếu kém, nâng cao
tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động luận, phê bình văn học, nghệ
thuật. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những
người hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm giá
trị cao về tư tưởng và nghệ thuật...
- Ba là, phát triển hệ thống thông tin đại chúng. Chú trọng nâng cao tính
tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, tổ chức và phản biện xã hội của
các phương tiện thông tin đại chúng lợi ích của nhân dân đất nước; khắc
phục xu hướng thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo
chí, xuất bản. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo
chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ năng lực đáp
ứng tốt, yêu cầu của thời kỳ mới. Phát triển mở rộng việc sử dụng internet,
đồng thời có biện pháp quản lý, hạn chế mặt tiêu cực,...
- Bốn là, mở rộng nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa; đổi mới,
tăng cường việc giới thiệu, truyền văn hóa, văn học, nghệ thuật, đất nước
con người Việt Nam với thế giới; mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, báo chí, xuất
bản. Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các nước; giới
thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng
Việt Nam; thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ,
quyền tác giả.
| 1/13

Preview text:

1. Quan điểm của Mác – Lê Nin về dân tộc
1.1. Khái niệm về dân tộc của Mác – Lê Nin -
Khái niệm dân tộc có nhiều nghĩa, trong đó có hai nghĩa chính, nghĩa rộng và
nghĩa hẹp (khoa học và hiện đại).
 Theo nghĩa rộng, dân tộc là khái niệm dung để chỉ nhầu như tất cả các hình
thức cộng đồng người trong lịch sử: bộ lạc, bộ lạc, bộ tộc…
 Theo nghĩa hẹp, dân tộc (quốc gia, dân tộc) là hình thức cộng đồng người
ổn định, bền vững, được hình thành trong lịch sử lâu dài, trên cơ sở cộng
đồng về ngôn ngữ, về lãnh thổ, về kinh tế và về văn hoá biểu hiện trong tâm lí, tính cách. -
Đặc trưng của dân tộc: Những đặc trưng của dân tộc có quan hệ chặt chẽ với nhau,
tác động biện chứng với nhau trong lịch sử phát triển lâu dài của dân tộc, trong đó,
xét cho cùng thì nhân tố kinh tế - xã hội có vai trò quyết định, nhân tố chính trị có vai quan trọng:
 Một là, cộng đồng về ngôn ngữ - một phương tiện giao tiếp chung, thống
nhất của các thành viên trong cộng đồng dân tộc.
 Hai là, cộng đồng về lãnh thổ - đó là vùng đát, vùng trời, vùng biển – hải
đảo…. thuộc chủ quyền quốc gia, dân tộc. Trong trường hợp có nhiều dân
tộc hợp thành thì lãnh thổ quốc gia dân tộc đó bao gồm lãnh thổ của các
dân tộc thuộc quốc gia đó. Lãnh thổ dân tộc ổn định hơn nhiều so với lãnh thổ bộ tộc, bộ lạc.
 Ba là, cộng đồng về kinh tế - một thị trường thống nhất để thực hiện các
hoạt động về kinh tế, các hoạt động này được cũng cố bằng thể chế chính
trị, nhà nước tập quyền. Đây là đặc trưng quan trọng nhất, phân biệt với bộ
tộc, bộ lạc. Thiếu sự cộng đồng chặt chẽ, bền cững về kinh tế thì cộng đồng
dân tộc không thể hình thành được.
 Bốn là, Cộng đồng về văn hoá, về tâm lý, tính cách – đây là yếu tố đặc biệt
quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Văn hoá dân tộc được hình thành
trong quá trình lịch sử lâu dài, tạo ra sắc thái riêng của dân tộc. Văn hoá
dân tộc mang nhiều sắc thái của các địa phương, các sắc tộc, tập đoàn
người… nhưng đó vẫn là một nền văn háo thống nhất chứ không phải bị
chia cắt, tách rời nhau. Tính thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn
hoá dân tộc. Văn hoá dân tộc kết tinh trong tâm lý, tính cách dân tộc, mỗi
dân tộc có tâm lý, tính cách riêng, không thể pha trộn với tâm lý, tính cách
của dân tộc khác. Có thể nói đây là cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc.
1.2. Những nguyên tắc cơ bản trong trong giải quyết vấn đề dân tộc theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, các vấn đề dân tộc cần phải được giải quyết trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản sau đây: -
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.
 Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cần phải được coi là quyền thiêng liêng bất
khả xâm phạm. Bất kể cộng đồng dân tộc nào (cho dù đó là cộng đồng có đông
người hay ít người; có trình độ phát triển cao hay thấp;...) cũng đều có quyền
lợi và nghĩa vụ như nhau; không thể có đặc quyền đặc lợi cho riêng một dân
tộc nào về các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, ngôn ngữ....
 Trong phạm vi một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân
tộc cần phải được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật; đồng thời nhà nước cần
phải có chính sách phù hợp trong việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc, tạo nên sự phát triển hài hoà giữa các dân tộc.
 Trong phạm vi quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc trên thế giới, quyền bình
đẳng dân tộc cần phải được gắn kết với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các
nước tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế
nhằm đạt được sự bình đẳng giữa các quốc gia - dân tộc trên phạm vi quốc tế. -
Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết.
 Quyền tự quyết của các dân tộc là nói đến quyền làm chủ của mỗi dân tộc mà
trước hết và cơ bản là quyền các dân tộc có thể tự mình quyết định con đường
phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình, không chịu sự ràng buộc,
cưỡng bức của dân tộc khác.
 Quyền tự quyết của các dân tộc bao gồm: quyền tự do phân tách, hình thành
nên cộng đồng quốc gia - dân tộc độc lập vì lợi ích chính đáng của các dân tộc
và quyền liên hiệp các dân tộc trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng của các dân tộc.
- Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.
 Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là một nội dung cơ bản trong cương lĩnh
dân tộc của V.I. Lênin; nó thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và
phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp; phản ánh tính thống nhất biện chứng giữa chủ nghĩa yêu nước
chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
 Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là một quan điểm có tính nguyên tác
trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa; quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết các
vấn đề thuộc quyền bình đẳng giữa các dân tộc và quyền tự quyết của các dân tộc.
1.3. Đối chiếu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với một số đặc điểm của dân
tộc Việt Nam hiện nay -
Việt Nam có 54 dân tộc anh em. Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số, 53 dân tộc
còn lại chiếm 13% dân số, phân bố rải rác trên phạm vi cả nước. -
Đăc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc Việt Nam là sự gắng kết dân
tộc, sự hòa hợp giữa các dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành
truyền thống, thành sức mạnh và đã được thử thách trong cuộc đấu tranh chống
xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử cho
đến ngày nay. Đoàn kết là xu hướng khách quan gắng kết các dân tộc trên cơ
sở có chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch sử, chung một tương lai. Tuy vậy,
bên cạnh những mặt tích cực thì có nơi có lúc cũng xảy ra hiện tượng tiêu cực
trong quan hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại luôn luôn
dùng mọi thủ đoạn để chia rẽ dân tộc và can thiệp vào nội bộ của nước ta. Do
đó, phát huy truyền thống đoàn kết, xóa bỏ thành kiến, nghi kị dân tộc và kiên
quyết đập tan âm mưu chia rẽ dân tộc của kẻ thù là nhiệm vụ trọng yếu của
nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay. -
Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng, tuy trong từng khu
vực nhất định có những dân tộc sống tương đối tập trung, nhưng không thành
địa bàn riêng biệt. Do đó, các dân tộc nước ta không có lãnh thổ riêng, không
có nền kinh tế riêng và sự thống nhất hữu cơ giữa các dân tộc và quốc gia trên
mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng cố. -
Tình hình chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế,văn hóa...giữa các dân tộc,
giữa các vùng dân cư là một đặc trưng cần được quan tâm nhằm khắc phục dần
sự chênh lệch để thực hiện bình đẳng, đoàn kết dân tộc ở nước ta. Do điều kiện
tự nhiên, xã hội,hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sử nên các
dân tộc mới có sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa.... -
Cùng với nền văn hóa cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam đều có đời sống văn hóa mang bản sắc riêng rất phong phú. Bởi vì
bất cứ dân tộc nào dù nhiều người hay ít người, đều có nền văn hóa riêng, phản
ánh truyền thống lịch sử, đời sống tinh thần, niềm tự hào dân tộc bằng những
bản sắc văn hóa độc đáo. Đặc trưng của sắc thái văn hóa dân tộc bao gồm ngôn
ngữ, tiếng nói, văn hóa, nghệ thuật, tình cảm dân tộc, y phục, phong tục tập
quán, quan hệ gia đình dòng họ.... dân tộc có chữ viết riêng :Thái , Chăm,
Mông, Giarai,...Một số dân tộc thiểu số gắn với một vài tôn giáo truyền thống
như: đạo Phật, Bàlamôn, đạo Tin Lành, đạo Thiên Chúa ...Vì vậy Đảng và Nhà
nước ta luôn luôn tôn trọng bản sắc văn hóa riêng và tôn trọng tự do tín
ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa dạng mang bản sắc văn hóa của từng
dân tộc càng làm phong phú thêm nền văn hóa của cộng đồng.
2. Quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại:
Giai cấp, dân tộc và nhân loại là ba cấp độ phản ánh khách nhau trong tổ chức xã hội
loài người. Mỗi bộ phận này có vị trí, nhiệm vụ và chức năng khác nhau, song có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong quan hệ này:
 Giai cấp là cơ sở, là nền tảng để hình thanh nên những đặc trưng cơ bản của
dân tộc, nhân loại. Một mặt, giai cấp ra đời sớm hơn dân tộc, áp bức giai
cấp là nguyễn nhân sâu xa của áp bức dân tộc, cũng như của tính nô dịch, lệ
thuộc trong ứng xử nhân loại. Mặt khác, tuỳ vào giai cấp nào cầm quyền
trong dân tộc mà nó quyết định bản chất, xu hướng ứng cử của dân tộc đó,
cũng như quyết định tới việc giải quyết các vấn đề nhân loại.
 Dân tộc và nhân loại có tính độc lập tương đối và tác dộng trở lại giai cấp:
Khi giai cấp mất đi thì dân tộc vẫn tồn tại. Đồng thời, tính dân tộc và tính
nhân loại ảnh hưởng tới sự ứng xử của giai cấp nhất định trong thực tế.
Tính đặc thù của vấn đề giai cấp và dân tộc ở Việt Nam
o Trong lịch sử Việt Nam, giai cấp và dân tộc ra đời từ phương thức sản xuất
Châu Á, cùng một tổ tiên, cùng đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống
thiên tai, để tạo nên một nền văn hoá với các giá trị phong phú, đáng tự hào.
Chinh vì vậy, lợi ích của các giai cấp cơ bản giống với lời ích của toàn dân tộc.
o Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hoá vô cùng phức tạp, Đảng Cộng sản
Việt Nam chú trọng giải quyết lợi ích quốc gia dân tộc trong quan hệ với lợi
ích nhân loại. Việc giải quyết mối quan hệ này luôn dựa trên các nguyên tác
có tính pháp lý quốc tế. Theo đó, vừa giữ vững chủ quyền quốc gia, dân
tộc, vừa mở rộng quan hệ quốc tế nhằm tạo ra sự hài hoà, lợi ích giữa các
giai cấp trong cộng đồng và nhân loại.
3. Bằng hiểu biết của mình, hãy làm sáng tỏ nội hàm khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc.
Khái niệm văn hóa
Ở phương Đông cổ đại, từ “văn hóa” đã có mặt trong đời sống ngôn ngữ Trung Hoa
từ rất sớm. Theo đó, Văn là đẹp, Hóa là trở thành, biến cải, Văn hóa là làm cho cái gì
đó trở nên có giá trị.
Ở phương Tây cổ đại, thuật ngữ văn hóa (cultural) là sự giáo dục làm cho phong phú
tinh thần và trí tuệ của con người.
Định nghĩa của Edward Burnett Tylor trong cuốn Văn hóa nguyên thủy, xuất bản ở
Luân Đôn năm 1871, được xem là định nghĩa đầu tiên có tính kinh điển về văn hóa:
“Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức,
tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực cũng như thói
quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là thành viên trong xã hội”
Như vậy có thể khái quát rằng: Văn hóa là toàn bộ những giá trị liên quan đến vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra trong suốt quá trình hoạt động thực tiễn, xã hội -
lịch sử của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.
Khái niệm bản sắc văn hóa
Cụm từ “Bản sắc” có nguồn gốc từ Hán - Việt, với nội dung chính là cái gốc, cái căn
bản, cái cốt lõi… còn hình thức chính là sự biểu hiện cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngoài.
Bản sắc của một sự vật, hiện tượng là những nét riêng biệt của sự vật hiện tượng đó
mà các sự vật hiện tượng khác không có. Bản sắc thể hiện sự độc đáo, đặc biệt, làm
nổi bật sự vật, hiện tượng đó trước các sự vật, hiện tượng khác.
Trong tổng thể các giá trị văn hóa truyền thống sẽ có những giá trị cốt lõi, ổn định,
tinh túy nhất làm căn cứ so sánh văn hóa dân tộc này với văn hóa dân tộc khác, đó
chính là cái riêng không thể hòa lẫn của mỗi dân tộc.
Bản sắc văn hóa là những nét đặc trưng, độc đáo và cơ bản nhất để từ đó chúng ta
nhận diện một nền văn hoá và có cơ sở phân biệt nền văn hoá này với một nền văn
hoá khác. Có thể hiểu đơn giản rằng: Bản sắc văn hoá là hệ thống các giá trị đặc
trưng, bản chất của một nền văn hoá được xác lập, tồn tại, phát triển theo chiều dài
lịch sử và được biểu hiện thông qua nhiều sắc thái văn hóa. Trong bản sắc văn hóa,
các giá trị đặc trưng bản chất là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững; còn các sắc thái
biểu hiện của nó có tính tương đối cụ thể, bộc lộ và biến đổi hơn.
Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc
Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần tinh túy nhất, đặc
trưng, tiêu biểu, phản ánh tính chất, tính cách, phẩm chất của mỗi dân tộc, là dấu hiê |u
cơ bản để phân biê |t văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác. Những giá trị này tiềm
ẩn trong tâm thức, cốt cách của mỗi người và được thể hiê |n ra trên mọi mặt của đời
sống, trong mọi hoạt động và quan hê | của con người và trong di sản văn hóa của mỗi dân tộc.
Bản sắc văn hóa là nét tinh hoa được hình thành trong quá trình lịch sử phát triển của
dân tộc đó. Được con người tạo ra và thể hiện những nét riêng của dân tộc và gắn liền
với sự phát triển kinh tế và xã hội của một quốc gia nào đó, một địa phương nào đó.
Dân tộc nào cũng có nền văn hóa truyền thống, đó là tổng hợp những hiện tượng văn
hóa-xã hội bao gồm các chuẩn mực giao tiếp, các khuôn mẫu văn hóa, các tư tưởng xã
hội, các phong tục tập quán, các nghi thức, thiết chế xã hội… được bảo tồn qua năm
tháng, trở thành thói quen trong hoạt động sống của mỗi con người, cũng như của
toàn xã hội, được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Ví dụ: Người phương Tây khi giao tiếp thường bắt tay biểu hiện bàn tay không có vũ
khí. Người phương Đông lại cúi đầu chào, gọi người khác là đại nhân (người lớn),
tiên sinh (người sinh ra trước, hiểu biết nhiều như là người anh). Cái đó thuộc về bản
sắc văn hóa vì nó chỉ có thể tìm thấy ở nơi này mà không thể tìm thấy ở nơi khác,
nghĩa là cái đặc trưng của một cộng đồng người, của một tộc người biểu hiện ra ở
từng cử chỉ, hoạt động sinh tồn của cá thể cũng như của cả cộng đồng.
Mỗi khi nghe một làn điệu dân ca, âm thanh của một nhạc cụ, hay xem một điệu múa
là ta có thể nhận biết được sắc thái của dân tộc đó. Không có một nền văn hóa nào
hình thành và phát triển được nếu không thể hiện được tâm hồn, trí tuệ, bản lĩnh, sức
sáng tạo của dân tộc ấy. Văn hóa chỉ tồn tại và phát triển khi chứa đựng và thể hiện
gần đầy đủ bản sắc dân tộc đã sáng tạo ra nó. Mỗi dân tộc trong quá trình lựa chọn
thái độ, phương thức sống và hoạt động để ứng phó với hoàn cảnh, vừa tiếp thu, tiếp
biến các giá trị để nâng cao tinh thần tự chủ, tự cường, tạo nên các tố chất riêng biệt
của dân tộc, cái riêng ấy chính là bản sắc văn hóa dân tộc. Nó không chỉ được biểu
hiện bên ngoài như cung cách ứng xử, phong thái sinh hoạt, nghệ thuật kiến trúc mà
còn được biểu hiện ở cái bên trong như năng lực sáng tạo, tư duy, chiều sâu tâm hồn,
truyền thống đạo lý, thế giới quan, nhân sinh quan.
Trong xã hội phân chia thành giai cấp, bản sắc văn hóa dân tộc có quan hệ chặt chẽ
với hệ tư tưởng. Các giai cấp thống trị bao giờ cũng dùng hệ tư tưởng xâm nhập vào
nền văn hóa dân tộc tạo ra sự dính kết giữa cách thức lao động sản xuất, sinh hoạt, ý
thức thường ngày của quần chúng với định hướng giai cấp. Hệ tư tưởng nào cũng
mong muốn thiết lập được một hệ chuẩn mới xâm nhập thành hạt nhân quyết định cho
sự phát triển của nền văn hóa. Tuy nhiên, tác động ảnh hưởng của hệ tư tưởng đối với
bản sắc văn hóa như thế nào hoàn toàn tùy thuộc vào giá trị tiến bộ của hệ tư tưởng
đó. Khi hệ tư tưởng xâm nhập vào văn hóa dân tộc, mặc dầu nó trở thành yếu tố định
hướng, yếu tố dính kết của văn hóa, nhưng nó cũng chịu sự chọn lọc,“ Khúc xạ” ,
"Dân tộc hóa" của bản sắc văn hóa dân tộc, do đó hệ tư tưởng cũng có những yếu tố bị
bản sắc văn hóa dân tộc loại trừ.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng một khi hệ tư tưởng tiến bộ được vận dụng đúng
đắn, gắn kết với giá trị của bản sắc văn hóa dân tộc thì nó phát huy được sức mạnh
của cả dân tộc và thời đại, giai cấp và dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau: Hệ tư tưởng
trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của dân tộc. Ngược lại khi hệ tư tưởng
phản động, lạc hậu, hoặc là vận dụng không phù hợp các giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc thì lập tức sẽ gây ra những đổ vỡ khó lường.
Bản sắc văn hóa dân tộc gắn liền với điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử mà bản thân
các điều kiện này đều biến chuyển theo thời gian, vì vậy bản sắc văn hóa cũng luôn
luôn vận động, tuy có tính ổn định, bền vững nhưng không phải là bất biến. Song con
đường vận động, phát triển của bản sắc văn hóa phức tạp hơn nhiều so với các lĩnh
vực kinh tế, chính trị. Nó không phải đi theo đường thẳng, không phải văn hóa thời
đại sau bao giờ cũng cao hơn thời đại trước, có những yếu tố văn hóa cổ mà văn minh
ngày nay chưa thể vượt qua. Bản sắc văn hóa dân tộc cũng vận động, biến đổi theo
trình độ dân trí, qua giao lưu văn hóa thời đại, nhưng vận động, tiếp biến rồi cũng
xoay quanh cái gốc, trở về cái cội nguồn. Nhiều dân tộc bị áp bức bóc lột, bị nô lệ, bị
đàn áp bao thế kỷ, trình độ tuy còn lạc hậu nhưng vẫn bám trụ và vươn dậy trong thời
đại văn minh công nghệ tin học để chứng minh sức mạnh tiềm ẩn trong bản sắc văn hóa.
Không sức mạnh quân sự nào đè bẹp được sức mạnh văn hóa. Các trận cuồng phong
của quân Nguyên Mông đã tàn phá Đông Âu, Đông Á, nhưng rồi chẳng để lại dấu vết
văn hóa nào. Những cuộc thập tự chinh đẫm máu, những cuộc chiến tranh tàn khốc
của chủ nghĩa đế quốc cũng không tiêu diệt được ý thức độc lập dân tộc. Tiền bạc của
chủ nghĩa tư bản cũng không đồng hóa được văn hóa dân tộc thuộc địa. Sự vùng lên
của các dân tộc giành quyền độc lập tự do đã chứng minh cho sức mạnh của bản sắc văn hóa dân tộc.
Xu hướng tìm về bản sắc dân tộc và xu hướng hiện đại hóa nền văn hóa nhìn bên
ngoài có vẻ như là đối lập hoàn toàn, nhưng thực chất là hai xu hướng thống nhất biện chứng.
Hiện đại là cái có chất lượng hơn, tốt hơn, văn minh hơn cái trước đây, đáp ứng được
yêu cầu của hiện tại và tương lai của sự phát triển. Muốn vượt lên cái cũ, chinh phục
cái mới, phải có một nền văn hóa phát triển, đó là con đường duy nhất đúng đắn. Văn
hóa phát triển là một nền văn hóa hiện đại và thường xuyên được hiện đại hóa.
Hiện đại hóa gắn liền với chủ thể dân tộc với điều kiện lịch sử cụ thể của dân tộc ấy.
Nói hiện đại là hiện đại một dân tộc, đối với một dân tộc, mang tính chất dân tộc.
Hiện đại cũng có nghĩa là mang tính thời đại, biểu hiện xu thế phát triển của nhân
loại. Vì vậy, dân tộc - hiện đại - đại chúng và nhân văn đi liền nhau.
Hiện đại hóa là cuộc vận động rộng lớn và sâu sắc của một quốc gia - dân tộc. Nó phụ
thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, tiềm lực con người, tiềm lực kinh tế của dân tộc đó,
đồng thời phụ thuộc vào trình độ trí tuệ, tinh thần nhạy bén, sáng tạo để hội nhập với
thế giới xung quanh. Như vậy hiện đại hóa bằng cách nào, nhanh hay chậm, thành
công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào cách lựa chọn của dân tộc.
Một số dân tộc ở Nam Mỹ trước đây có tài nguyên phong phú, nhưng công nghệ lạc
hậu đã lựa chọn con đường dựa vào xuất khẩu tài nguyên và sản phẩm sơ chế để thu
ngoại tệ, rồi lại dùng ngoại tệ nhập sản phẩm tiêu dùng, nhập máy móc, tiện nghi, tạo
ra một cuộc sống có vẻ như là hiện đại. Nhưng trước những cuộc khủng hoảng kinh
tế, gốc rễ không bền chắc nên sụp đổ. Ngược lại các nước Nhật Bản, Hàn Quốc vốn
trước đây lệ thuộc vào phương Tây đã nhận thức lại vấn đề rõ rệt hơn để cảm nhận
một chân lý hàng thế kỷ họ đã để mất dần bản sắc văn hóa dân tộc, họ đã cảm thấy rõ
thất bại của Châu Phi và tự tìm ra con đường riêng của mình đó là: Chọn lọc những
nhân tố hiện đại trong khoa học công nghệ của phương Tây kết hợp với bản sắc văn hóa bản địa.
Con đường hiện đại hóa của các nước đã cho chúng ta thấy, nền văn hóa mỗi dân tộc
đều chứa đựng các giá trị văn hóa nhân loại, các giá trị chân, thiện, mỹ không chỉ là
giá trị riêng của từng dân tộc mà ngày càng trở thành giá trị chung của loài người. Tuy
vậy, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ không xóa được biên giới quốc gia - dân
tộc, không thể công nghệ hóa được mọi bản sắc văn hóa. Tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ chỉ làm cho nền văn minh các dân tộc xích lại gần nhau, còn bản sắc văn
hóa thì vẫn là riêng biệt.
Bản sắc văn hóa dân tộc được tôi luyện, đúc kết qua các thế hệ nối tiếp nhau trong
lịch sử, như dòng phù sa bồi tụ những gì tinh túy nhất làm nên sức sống trường tồn
của dân tộc. Tất cả các quốc gia hiện nay đều chú trọng nghiên cứu di sản văn hóa của
dân tộc mình, họ ý thức được rằng nếu không đề cao bản sắc văn hóa dân tộc thì tính
đa đạng của văn hóa thế giới sẽ bị cạn kiệt do sự lai căng, pha tạp của các nền văn hóa.
Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thấy trong văn hóa dân tộc có nhiều yếu tố bảo thủ, níu
kéo văn hóa trở về với quá khứ, làm cho văn hóa dân tộc khó thích nghi với thời đại
mới. Xu hướng bảo thủ có mặt tích cực là tạo ra khả năng tự vệ, rào chắn có hiệu quả
các cuộc xâm lăng văn hóa, nhưng bảo thủ sẽ dẫn tới loại trừ các yếu tố tích cực, hiện
đại của văn hóa từ bên ngoài tác động vào.
Vì vậy, phải đứng vững trên quan điểm phủ định biện chứng để kế thừa có chọn lọc,
loại trừ yếu tố lạc hậu, bổ sung yếu tố mới, tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của cuộc
sống. Yếu tố hiện đại giúp văn hóa truyền thống thích nghi với sự phát triển, đồng
thời nó đáp ứng được nhu cầu văn hóa ngày càng tăng lên của dân tộc. Bản sắc văn
hóa dân tộc phải đứng vững trên đôi chân của mình để tiếp nhận các yếu tố hiện đại,
làm cho các yếu tố hiện đại gia nhập và trở thành yếu tố văn hóa truyền thống.
4. Theo Anh/ Chị, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là gì ?
4.1. Bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, qua sự giao lưu và tiếp thu những tinh hoa
văn hóa của các nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới. Về nội dung là tinh
thần yêu nước; nhân ái, tôn trọng tình nghĩa, trọng đạo đức; ý thức đoàn kết cộng
động; truyển thống hiếu học,…Về hình thức là ngôn ngữ, phong tục tập quán.
4.2. Đặc trưng cơ bản của bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam:
- Bản sắc dân tộc Việt Nam thể hiện những đặc trưng của nền văn hóa. Là gốc hình
thành văn hóa từ lâu đời, từ đó ngày càng phát triển, tạo nên những nét riêng biệt đến nay.
- Bản sắc văn hóa dân tộc mang tính bền vững với thời gian. Thời gian có thay đổi
nhưng nét văn hóa dân tộc Việt Nam vẫn sẽ được gìn giữ, không khác biệt với bản
sắc văn hóa dân tộc ban đầu.
- Đặc trưng cơ bản có thể nhìn nhận từ bên ngoài về bản sắc văn hóa dân tộc là sự tôn
kính, thờ cúng tổ tiên, tôn trọng tất cả các giá trị cộng đồng và gia đình, các ngành
nghề thủ công mỹ nghệ, người dân lao động cần cù…
- Ở Việt Nam có một nền văn hóa dân tộc phong phú trong cộng đồng 54 dân tộc, có
nhiều sinh hoạt cộng đồng, tín ngưỡng, tư tưởng và tôn giáo khác nhau.
- Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển phụ thuộc vào đặc
điểm của từng dân tộc, điều kiện lịch sử, điều kiện tự nhiên, môi trường cư trú, chế
độ chính trị giao lưu với các nền văn hóa khác.
- Thực tế qua hàng ngàn năm lịch sử chứng minh rằng để bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam được gìn giữ tốt đẹp chính là nhờ vào tinh thần đoàn kết, sự gắn bó chặt
chẽ và gìn giữ của mỗi người dân Việt Nam.
4.3. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được thể hiện thông qua:
Tinh thần dân tộc: tinh thần yêu nước, đoàn kết một lòng, gan góc, dũng cảm
chống lại kẻ thù xâm lược.
Lịch sử hùng hồn từ những thế kỷ đấu tranh chống ngoại bang xâm lược
phương Bắc và những giai đoạn chống sự đô hộ, cai trị đến những thắng lợi
vang dội của các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, yêu nước đã thực
sự trở thành một thứ vũ khí tinh thần. Trong bối cảnh hiện tại, tinh thần yêu
nước của dân tộc Việt nam được biểu hiện thông qua lòng tự hào dân tộc, sự tin
tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tinh thần vượt khó, vượt
nghèo, tinh thần đoàn kết, đấu tranh chống lại những cái bảo thủ, trì trệ trong
tư duy, trong suy nghĩ và cách làm, chống lại các thói hư, tật xấu,...
Tinh thần nhân ái, tôn trọng tình nghĩa, trọng đạo đức
Nhân ái là tình cảm đạo đức không phải của riêng một dân tộc nào. Tuy nhiên
sự biểu hiện của lòng nhân ái ở mỗi dân tộc là khác nhau dựa trên những cơ sở,
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử và môi trường xã hội khác nhau, kế thừa những
yếu tố tích cực trong các học thuyết Nho, Phật, Lão. Tình yêu thương máu mủ
ruột thịt trong gia đình được mở rộng ra xóm làng rồi cả nước, vị tha với cả kẻ
thù… trở thành một nếp nghĩ, một cách sống, một bản sắc văn hóa dân tộc đặc
sắc. Hiện nay, giá trị bản sắc này đang bị đe dọa, có biểu hiện suy giảm trong
lối sống của không ít cá nhân. Dễ thấy nhất có lẽ là lối sống ngoại lai ích kỷ,
hẹp hòi, phi nhân tính đang có chiều hướng lấn át lối sống giàu nghĩa tình truyền thống.
Ý thức đoàn kết cộng đồng
Ý thức cộng động (cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc) là một bản sắc quý báu,
một giá trị tinh thần to lớn của dân tộc ta. Ngay từ những nhà nước sơ khai,
người dân nước Việt ta đã biết hợp quần, hợp sức, tạo thành một sự cố kết
chính trị bền vững, giúp ích lớn trong chính cuộc sống - sự ra đời của bộ lạc
Văn Lang và nhà nước Âu Lạc. Trong suốt chiều dài lịch sử sau đó, nét bản sắc
văn hóa dân tộc này luôn giữ vững vị trí của một nội dung quan trọng, có sự
ảnh hưởng sâu sắc tới không chỉ văn hóa dân tộc, mà còn tới cả sự nghiệp bảo
vệ, giữ gìn, phát triển của Việt Nam.
Truyền thống hiếu học
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học và sớm đã hình thành nét bản
sắc văn hóa hiếu học. Hiếu học và tinh thần “tôn sư trọng đạo” đã trở thành nét
đẹp văn hóa của dân tộc ta. Nó góp phần định hướng giá trị trong quá trình
phát triển xã hội. Toàn cầu hóa gắn liền với kinh tế tri thức là một cuộc cạnh
tranh gay gắt nên nó đặt ra yêu cầu cao về trình độ học vấn, trình độ chuyên
môn, từ đó buộc người lao động phải tích cực học tập, nâng cao hiểu biết và
coi trọng học tập như một nhu cầu bức thiết.
Ngôn ngữ: Ngôn ngữ Việt, Mường, ngôn ngữ Tày Thái, ngôn ngữ Mông -
Dao, ngôn ngữ Ka Đai, ngôn ngữ Tạng Miến....
Phong tục tập quán: Tục ăn trầu, Tết Nguyên Đán, cúng giao thừa, Tết Thanh
minh, Tết Trung thu, Lễ hội cầu an bản Mường, Lễ hội Đền Hùng, Lễ hội đền
Gióng, Lễ hội Bà chúa Xứ...
Trang phục: áo dài, áo tứ thân, áo bà ba, áo chàm
Phương thức sản xuất: nông nghiệp trồng lúa nước
4.4. Làm thế nào để xây dựng được nền văn hóa tiên tiến đậm bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay ?
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là hành động, việc làm của mỗi người hướng tới
mục tiêu bảo vệ, gìn giữ những nét đặc trưng, tài sản vô giá, linh hồn của dân tộc
hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, biết bao mồ hôi xương máu
máu của dân tộc Việt Nam.
Giữ gìn, xây dựng và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc là việc làm cần thiết và
quan trọng để vận dụng và phát triển lâu dài, là cách tốt nhất để toàn thể dân tộc
hướng tới hành động bảo vệ hệ thống giá trị văn hóa được hình thành trong suốt quá trình lịch sử.
Để xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta có thể thực
hiện bằng những hành động cụ thể như sau: -
Một là, củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong
phú, đa dạng. Đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
đi vào chiều sâu, thiết thực hiệu quả; xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia
đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hóa
thấm sâu vào mọi mặt đời sống. Tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng
đạo đức, lối sống có văn hóa; xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới,
tang, lễ hội. Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp
phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, con người
Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Xã hội hóa các hoạt động văn hóa,
chú trọng nâng cao đời sống văn hóa ở nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp
khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị và nông thôn... -
Hai là, phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di
sản văn hóa truyền thống, cách mạng. Tiếp tục phát triển nền văn học nghệ
thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ,
vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công
cuộc đổi mới đất nước. Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm những phương thức
thể hiện và phong cách nghệ thuật mới, đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh,
đa dạng và bồi dưỡng lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng, đặc biệt là
thế hệ trẻ. Bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, khắc phục yếu kém, nâng cao
tính khoa học, sức thuyết phục của hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ
thuật. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ những
người hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá
trị cao về tư tưởng và nghệ thuật... -
Ba là, phát triển hệ thống thông tin đại chúng. Chú trọng nâng cao tính tư
tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, tổ chức và phản biện xã hội của
các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc
phục xu hướng thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo
chí, xuất bản. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo
chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp
ứng tốt, yêu cầu của thời kỳ mới. Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet,
đồng thời có biện pháp quản lý, hạn chế mặt tiêu cực,... -
Bốn là, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa; đổi mới,
tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học, nghệ thuật, đất nước
con người Việt Nam với thế giới; mở rộng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động thông tin đối ngoại, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, báo chí, xuất
bản. Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa của các nước; giới
thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước ngoài với công chúng
Việt Nam; thực hiện đầy đủ cam kết quốc tế về bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả.