/6
lOMoARcPSD| 61601299
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC C LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
Một trong những vấn đề lớn của Triết học Mác Lênin quan hệ sản xuất, lực
lượng sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau
một cách biện chứng tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Hiểu được mối quan hệ biện chứng này sẽ giúp
cho quá trình phát triển của xã hội trở nên dễ dàng hơn.
- Lực lượng sản xuất là gì?
–> Lực lượng sản xuất:là tổng hợp các yếu tố vật chất tinh thần tạo thành sức mạnh cải biến
giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người. Lực lượng sản xuất bao gồm hai
bộ phận cơ bản: tư liệu sản xuất và người lao động.
- liệu sản xuất những liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm liệu lao động đối
tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động ( máy móc,…) và đối
tượng lao động khác ( phương tiện vận chuyển và bảo quản sản phẩm……). Đối tượng lao
động những yếu tố nguyên nhiên vật liệu sẵn trong tự nhiên (gỗ, than đá, …) hoặc
nhân tạo (pôlime,….).
- Người lao động chủ thể của quá trình lao động sản xuất, người tạo ra sử dụng
liệu lao động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Ngày nay, với sự phát triển vượt
bậc của khoa học kỹ thuật đã khiến cho tri thức khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp.
- Quan hệ sản xuất là gì?
-> Quan hệ sản xuất bao gồm: Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất( quan hệ sở hữu): nói lên
ai là chủ sở hữu đối với nhà máy, xí nghiệp ,các thiết bị, các nguyên nhiên vật liệu trong quá trình
sản xuất . Quan hệ trong tổ chức quản quá trình sản xuất: nói n ai người tổ chức, quản
điều hành quá trình sản xuất. Quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó :
nói lên ai người quyền phân phối, chia thành quả sản xuất, cho những ai như thế nào?
Trong ba mối quan hệ trên thì quan hệ sở hữu về liệu sản xuất đóng vai trò quan trọng nhất,
quyết định hai mối quan hệ kia, đồng thời tác động trở lại bằng cách thúc đẩy hay kìm hãm.
=> Lực lượng sản xuất vai trò quyết định đối với sự hình thành phát triển của quan hệ sản
xuất ơng ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có một qun hệ sản
xuất phù hợp. Do lực lượng sản xuất không ngừng phát triển ở một trình độ cao hơn nên quan hệ
sản xuất cũng phải phát triển để tạo động lực cho lực lượng sản xuất. Nhưng do lực ợng sản xuất
luôn phát triển nhanh hơn quan hệ sản xuất nên đến một lúc nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản
xuất, đòi hỏi phải xuất hiện quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Quan hệ sản xuất có vai trò tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối. Do đó trực tiếp ảnh
hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất
cải tiến công cụ lao động. Sự tác động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai
hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc tiêu cực, kìm
hãm lực ợng sản xuất khi không phù hợp. Như vậy, lực lượng sản xuất không ngừng phát
triển phá vỡ sự phù hợp về mặt trình độ của quan hệ sản xuất đối với đòi hỏi phá bỏ quan hệ
lOMoARcPSD| 61601299
sản xuất lỗi thời và thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn. Quá trình đó lặp đi lặp lại tác
động cho xã hội loài người trải qua những phương thức sản xuất từ thấp đến cao dẫn đến sự thay
thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội.
II. SINH VIÊN PHẠM I RIÊNG THẾ HỆ TRẺ I CHUNG CẦN LÀM
ĐỂ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT NƯỚC TA GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY.
Để thực hiện được mục tiêu hướng tới sự phát triển bền vững, một trong những giải pháp đã
được đồng chí Tổng Bí thư đặt ra đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn
với kinh tế tri thức đồng thời coi giáo dục đào tạo, khoa học ng nghệ quốc sách hàng đầu
để tập trung đầu tư, phát triển. Trên thực tế, tháng 9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết
số 52-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2025, nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt 20% GDP, phát triển
được một cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lớn mạnh. Ngày 3/6/2020, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số
quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu Việt Nam thuộc nhóm 50 nước
dẫn đầu về chính phủ điện tử, liên quan đến phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong
từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh
tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%.
Vì vậy, việc triển khai thực hiện các giải pháp và nhiệm vụ đầy khó khăn thử thách này sẽ đòi hỏi
sự đồng lòng và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó thế hệ trẻ sẽ đóng một vai trò quan
trọng, đặc biệt là ở nhiệm vụ phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi
mới sáng tạo.
1. Thế hệ trẻ và nền kinh tế số
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang mang lại nhiều sự thay đổi cơ bản về kinh tế,
xã hội trên toàn cầu. Sự bùng nổ và phổ biến của internet và các công nghệ kỹ thuật số đã mang
lại nhiều cơ hội cho giới trẻ để tham gia và kết nối vào thị trường kinh tế số, nơi mà các rào cản
của thị trường là nhỏ hơn, với rất nhiều cơ hội để tiếp cận và chia sẻ thông tin, kiến thức với các
cộng đồng có chung lợi ích và mang lại hợp tác trong các dự án sản xuất cùng nhau
Ở một mặt khác, việc tham gia và tận dụng nền kinh tế số cũng đang tồn tại nhiều thách thức
khó khăn cho thế hệ trẻ(3), đặc biệt là việc chuyển đổi số sẽ làm gia tăng các bất bình đẳng hiện
hữu trong xã hội (4). Sự ngăn cách và bất bình đẳngkỹ thuật số được phân chia thành 3 lớp, theo
thứ tự từ 1 đến 3 (1) bao gồm: sự tiếp cận không đồng đều với công nghệ; sự phát triển không
bình đẳng các kỹ năng cần thiết để thành công trong nền kinh tế số; sự phân phối không công
bằng các lợi ích từ việc sử dụng công nghệ dựa trên các yếu tố về kinh tế xã hội (5).
Vấn đề sở hữu trí tuệ cũng là một thách thức lớn trong nền kinh tế số, thế hệ trẻ nếu không được
trang bị kiến thức năng sẽ nguy vi phạm các pháp luật liên quan đến sở hữu trí tuệ,
đồng thời không bảo vệ được tài sản trí tuệ của mình và bị xâm phạm đến lợi ích chính đáng của
bản thân 2. Nền kinh tế VN
Nền kinh tế Việt Nam ở nhiều khía cạnh khác nhau để nhận thấy những gì đã đang thay đổi,
với thị trường lao động cũng vậy.
Chúng ta hãy nhìn vào lĩnh vực xuất khẩu, khối lượng cấu xuất khẩu ngày nay đã khác biệt
đáng kể so với hai ơi năm trước đây. Trong những năm giữa thập kỷ 90, tỷ trọng xuất khẩu
lOMoARcPSD| 61601299
gần như là lớn nhất (gần một phần hai) bao gồm cà phê, gạo và các sản phẩm nông nghiệp. Tiếp
đến là dệt may, chiếm gần một phần ba tổng giá trị xuất khẩu.
cấu xuất khẩu ngày nay phức tạp hơn nhiều so với trước đây. Tỷ trọng nông nghiệp dệt
may đã giảm tương đối. Nổi lên là ngành điện tử cùng với các ngành công nghiệp khác cũng như
ngành dịch vụ. Mặc dù khối ợng xuất khẩu của cả nông nghiệp và dệt may đã tăng lên đáng k
xét về số tuyệt đối, xét về tương đối hai ngành này đã bị thu hẹp do ngày nay Việt Nam xuất khẩu
nhiều loại sản phẩm và dịch vụ hơn ra các thị trường quốc tế.
Khi sản phẩm đất nước xuất khẩu thay đổi, chúng ta cũng kỳ vọng nhận thấy sự thay đổi trên thị
trường lao động để phản ánh sự chuyển dịch này. Một phân tích về thị trường lao động Việt Nam
ngày nay so với hai mươi năm trước đây đã xác nhận dự đoán này. Tại thời điểm năm 2000, gần
hai phần ba2 (65,3%) lực lượng lao động có việc làm thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Hai mươi năm
sau đó, tỷ trọng hai phần ba thuộc lĩnh vực nông nghiệp đó đã giảm xuống còn khoảng một phần
ba (37,2%3 ). Tỷ lệ một phần ba tăng thêm đó nay được phân bổ giữa lĩnh vực dịch vụ công
nghiệp. Trong khi tại thời điểm năm 2000, nông nghiệp lĩnh vực tuyển dụng nhiều lao động
nhất cả nước thì ngày nay lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp tuyển dụng số lao động gần ơng
đương nhau (lần lượt là 37,3% 37,2%) và theo sát lĩnh vực công nghiệp (25,5% tổng số việc
làm).4
Một chỉ số thú vị mà chúng ta sử dụng để phân tích thị trường lao động là tình trạng việc làm, ở
Việt Nam thường gọi hình thức việc làm. Chỉ số này cho chúng ta biết chẳng hạn như bao
nhiêu phụ nữ nam giới trong lực lượng lao động tham gia vào việc làm của gia đình. Chúng
ta thường thấy lực lượng lao động tham gia vào việc làm của gia đình chiếm tỷ trọng lớn trong
khu vực kinh tế nông thôn. Một điều thú vị có thể nhận thấy tổng tỷ trọng lao động tham gia
vào việc làm của gia đình trên tổng số việc làm đã giảm hơn một nửa trong 20 năm qua. Trái lại,
do ngành công nghiệp đã trở thành một ngành tuyển dụng nhiều lao động hơn, không ngạc nhiên
khi nói rằng tỷ trọng người lao động trên tổng số việc làm đã tăng hơn gấp đôi trong vòng 20
năm.
Phân tích này cũng cho thấy rằng có một yếu tố không mấy thay đổi so với những yếu tố khác và
đó sự thiệt thòi của phụ nữ trên thị trường lao động. Họ vẫn chiếm số đông trong số những
người lao động gia đình, thường không được trả công. ngay cả khi phụ nữ nhiều khả
năng hơn so với nam giới để kiếm được ng việc được trả công, lao động nữ vẫn bị trả công
thấp hơn nam giới trung bình 10%.
Khi bàn luận về công nghệ và tương lai của việc làm tại Việt Nam, người ta thường tập trung vào
vấn đề tự động hóa, máy móc thay thế con người, và những thách thức trong việc đào tạo lại kỹ
năng cho người lao động. Báo o mới đây của Ủy ban Tn cầu về Tương lai Việc làm của ILO
đã nhấn mạnh vai trò của công nghệ đối với việc thúc đẩy hay kìm hãm việc làm thỏa đáng. Công
nghệ có thể giải phóng người lao động khỏi những công việc khó nhọc về thể chất, những công
việc thể nguy hiểm hoặc trong môi trường bẩn. Công nghệ cũng có thể làm giảm thiểu nguy
cơ gây ra thương tích đối với người lao động. Công nghệ số, thông qua sự kết hợp giữa cảm biến
và trí tuệ nhân tạo, có thể mang đến cơ hội để cải thiện mức độ an toàn của công việc. Cảm biến
có thể thu thập dữ liệu về những cử động có thể gây nguy hiểm đối với người lao động, giúp
xác định các tình huống nguy cao. Cảm biến thậm chí còn thể giúp theo dõi điều kiện
lao động. Nhưng đồng thời, báo cáo ng nhấn mạnh rằng công nghệ thể tạo ra những tch
thức mới đối với việc làm thỏa đáng. Chẳng hạn như người lao động trên các nền tảng việc làm
thường đối mặt với sự thâm hụt việc làm thỏa đáng bắt nguồn từ thực tế không dễ để thể
lOMoARcPSD| 61601299
xác định được tình trạng pháp hội của họ. Người lao động không thuộc phạm vi được
bảo vệ bởi pháp luật lao động và an sinh xã hội, như là tiền lương tối thiểu, thời giờ làm việc, an
toàn và sức khỏe lao động và bảo hiểm xã hội.
Chất lượng của nền giáo dục cơ bản của Việt Nam mức cao, giáo dục cơ bản là điều mà Việt
Nam cần để duy trì ngành công nghiệp chế tạo với giá trị gia tăng thấp. Tuy nhiên, giờ đây, người
sử dụng lao động đòi hỏi những nhân tài với kỹ năng cao hơn, đòi hỏi phải có các hệ thống giáo
dục đào tạo nghề vận hành hiệu quả hơn và các hệ thống giáo dục cao hơn. Việt Nam sẽ cần
một mô hình tăng trưởng mới để thoát khỏi nguy rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp để
đạt được hiện đại hóa, công nghiệp hóa cũng như tăng trưởng bền vững. Điều này cũng đòi hỏi
một thị trường lao động được hiện đại hóa. Một thị trường lao động với những sinh viên tốt
nghiệp từ một hệ thống phát triển kỹ năng chất lượng cao được người sử dụng lao động tin tưởng
đầu thời gian nguồn lực. Một thị trường lao động cho phép học tập suốt đời; mọi
người, xuất thân từ gia đình với mức thu nhập nào đi chăng nữa, đều thể tiếp cận với hệ
thống giáo dục đào tạo nghề giáo dục đại học. Đó một thị trường lao động với chế
bảo trợ hội toàn dân những thiết chế thị trường lao động được điều chỉnh theo những
thay đổi của bản thân thị trường lao động đó.
Một yếu tố then chốt đóng góp cho sự tăng trưởng năng suất của Việt Nam trong 2 thập kqua
sự chuyển dịch từ nông trại sang nhà máy. Gần một phần ba lực lượng lao động đã chuyển dịch
từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ trong hơn hai mươi năm qua. Tuy
nhiên, có lẽ Việt Nam đã gần chạm đến điểm cận biên để sự chuyển dịch này có thể tiếp tục góp
phần tăng năng suất. Giờ đây vấn đề quan trọng là phải tìm kiếm các giải pháp mới để tăng năng
suất. Quy mô của các doanh nghiệp Việt Nam cũng là một rào cản đối với tăng năng suất. Trong
nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ, chẳng hạn như ngành sản xuất, chỉ có một số doanh nghiệp
lớn, hiệu năng cao, còn lại đa phần các doanh nghiệp khá nhỏ. Việt Nam hàng triệu hộ doanh
nghiệp số liệu thống được Việt Nam 400.000 doanh nghiệp siêu nhỏ. Theo Tổng cục
Thống kê, số lượng các doanh nghiệp lớn thì ít hơn nhiều, chỉ 7.000 doanh nghiệp. nhiều
yếu tố giúp cải thiện năng suất lao động, trong đó một số yếu tố liên quan tới quy của
doanh nghiệp. Chẳng hạn, việc tích lũy thiết bị, cải thiện tổ chức sản xuất cũng như sở vật
chất và việc tạo ra công nghệ mới, tất cả đều là những yếu tố giúp tăng năng suất. Những doanh
nghiệp quy lớn với điều kiện kinh tế tốt hơn tsẽ dáp dụng những yếu tố đó hơn. Kỹ
năng của người lao động cũng đóng vai trò quan trọng và doanh nghiệp nhỏ thì khó có khả năng
đầu cho phát triển knăng hơn những doanh nghiệp lớn. Cuối cùng, sức khỏe an toàn
của người lao động, điều kiện làm việc tốt, cho phép người lao động tiếng nói hội
được đào tạo những yếu tố quan trọng để cải thiện năng suất. Điều này đúng với tất cả các
doanh nghiệp dù quy mô lớn hay nhỏ, mặc dù Việt Nam, điều kiện làm việc vẫn kém hơn ở các
công ty doanh nghiệp cung ứng cho thị trường trong nước quy nhỏ n. Lời khuyên
của tôi dành cho đại diện của người sử dụng lao động người lao động hãy cùng tham gia.
Họ đóng vai trò quan trọng trong việc y dựng tầm nhìn của Tương lai Việc làm hiện thực
hóa tầm nhìn đó. Một ví dụ thực tế là phát triển kỹ năng. Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều
để cải cách hệ thống giáo dục nghề nghiệp và công tác quản trị hệ thống này. Trong khi chính
phủ có trách nhiệm tổng quan để có được một dân số và lực lượng lao động được giáo dục tốt vì
lợi ích của nền kinh tế hội của đất nước, thì các tổ chức của người sử dụng lao động
người lao động cũng những vai trò quan trọng trong trách nhiệm này. Người sử dụng lao động
là người kết nối với nhu cầu về kỹ năng của thị trường lao động. Vị trí cần tuyển dụng của họ thể
hiện điều đang diễn ra trên thị trường lao động về nhu cầu kỹ năng. Mặt khác, đại diện của
người lao động sẽ đóng vai trò đảm bảo việc phát triển kỹ năng không chỉ chuẩn bị cho người
lOMoARcPSD| 61601299
lao động sẵn sàng đảm nhận một công việc cụ thể trong một doanh nghiệp nhất định mà đó là cơ
hội để tiếp cận với việc làm thỏa đáng.
Việt Nam là nước rất tiến bộ trong việc áp dụng khung Mục tiêu Phát triển Bền vững. Mục tiêu
Phát triển Bền vững gồm 158 chỉ số, trong đó có 23 chỉ số liên quan tới lao động - việc làm. ILO
laf quan đóng vai trò giám sát 13 chỉ số. Sự tham gia của người lao động người sử dụng
lao động trong việc giám sát tiến độ thực hiện những chỉ số này giúp đảm bảo thể hiện chân thực
quá trình thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững liên quan đến lao động, việc làm môi
trường doanh nghiệp tại Việt Nam. Để làm được điều này ở cấp quốc gia, sự tham gia của các tổ
chức của người sử dụng lao động và người lao động cần được thể chế hóa để có thể thực hiện và
giám sát các Mục tiêu Phát triển Bền vững.
3.Vai trò của thanh niên Việt Nam
Theo thống năm 2020, thanh niên Việt Nam từ 16 - 30 tuổi khoảng 22,609 triệu người,
chiếm khoảng 23,2% dân số cả nước (14). Thanh niên ờng cột của nước nhà, chủ nhân tương
lai của đất nước, lực lượng xung kích trong xây dựng bảo vệ Tổ quốc, một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và
xây dựng chủ nghĩa hội. Thanh niên được đặt vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng,
phát huy nhân tố nguồn lực con người. Chăm lo, phát huy thanh niên vừa mục tiêu, vừa
động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước.
Việc được Đảng nhà nước tạo mọi điều kiện ổn định để phát triển, học tậprèn luyện là cơ
hội tốt để thanh niên Việt Nam chuẩn bị và tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
tận dụng tốt hội từ nền kinh tế số dựa trên khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo. Như đã
phân tích ở trên, thanh niên Việt Nam cũng như thanh niên trên thế giới đang đứng trước một sự
chuyển đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ điều kiện kinh tế hội. Để thể thành
công tận dụng các hội của kinh tế số cũng như khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo, qua đó
góp phần thực hiện thành công Nghị quyết đại hội XIII của Đảng cũng như mục tiêu đề ra trong
bài viết của đồng chí Tổng Bí thư, thanh niên Việt Nam cần nhận thức một cách đầy đủ về cơ hội
thách thức, điểm mạnh điểm yếu của nền kinh tế số cũng như đặc điểm của Việt Nam bản
thân, từ đó các kế hoạch hành động phù hợp. Bài viết này đưa ra một số suy nghĩ cá nhân
mang tính khuyến nghị giải pháp như sau:
Một là, thanh niên Việt Nam cần được định hướng trong lựa chọn nghề nghiệp, học tập phù hợp
với năng lực sở trường để tránh tình trạng làm việc không đúng chuyên môn được đào tạo,
gây lãng phí về thời gian nguồn lực của hội. Thanh niên đam và yêu thích các lĩnh
vực công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 được nhà nước ưu tiên phát triển. Kinh
doanh, doanh nghiệp (STEAM) cần nghiêm túc tìm hiểu, xác định ngành nghề kiên trì theo
đuổi để đóng góp cho sự phát triển của nước nhà. Ngoài ra cần mạnh dạn kiến nghị, đề xuất với
Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư để giải phóng năng lực tuổi trẻ, cống hiến,sự hưng thịnh
của quốc gia, dân tộc nhờ vào phát triển kinh tế số và khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo.
Hai là,thanh niên Việt Nam cần liên tục cập nhật, trang bị kiến thức và hiểu biết về cách thức vận
hành, luật lệ của nền kinh tế số (ví dụ như các vấn đề liên quan đến mối quan hệ khách hàng-nhà
cung cấp với các nền tảng toàn cầu), sở hữu trí tuệ, để bảo vquyền lợi ích chính đáng của
mình, ngoài ra tránh việc vô ý vi phạm pháp luật do thiếu kiến thức, đặc biệt khi có sự khác biệt
về pháp luật giữa quốc gia nơi nhà cung cấp dịch vụ quốc gia nơi người ng sử
dụng dịch vụ.
lOMoARcPSD| 61601299
Ba là,trong một môi trường đầy biến động đa chiều của nền kinh tế số, thanh niên Việt Nam
cần nâng cao bản lĩnh chính trị, tự trang bị cho mình kiến thức để có vắc xin với các luồng thông
tin độc hại, chưa tính xác thực, tránh bị lôi kéo, dụ dỗ mắc phải những sai phạm về đạo đức,
tiêu cực tệ nạn hội, hoặc bị lợi dụng, kích động lôi kéo vào c hành vi gây rối, vi phạm
pháp luật. Đặc biệt cần cảnh giác trước nhiều luồng thông tin xấu của các thế lực thù địch, lợi
dụng các vấn đề kinh tế hội trong nước kích động lôi kéo, lợi dụng tinh thần u nước của
người dân để tiến hành các hoạt động chống phá, âm mưu thực hiện diễn biến hòa bình cách
mạng màu tại Việt Nam.
Bốn là, tiếp tục phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đóng với vai trò hạt
nhân chính trị quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết, y dựng thế hệ thanh niên Việt Nam phát
triển toàn diện, cổ thanh niên thi đua học tập, khởi nghiệp, lao động sáng tạo trên nền tảng
khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm góp phần tạo nên những thành tựu mới to lớn và
có ý nghĩa cho nước nnhư lời Bác dạy Thanh niên người chủ tương lai của nước nhà. Thật
vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601299
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
Một trong những vấn đề lớn của Triết học Mác – Lênin là quan hệ sản xuất, lực
lượng sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau
một cách biện chứng tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Hiểu được mối quan hệ biện chứng này sẽ giúp
cho quá trình phát triển của xã hội trở nên dễ dàng hơn.

- Lực lượng sản xuất là gì?
–> Lực lượng sản xuất:là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần tạo thành sức mạnh cải biến
giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người. Lực lượng sản xuất bao gồm hai
bộ phận cơ bản: tư liệu sản xuất và người lao động.
- Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối
tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động ( máy móc,…) và đối
tượng lao động khác ( phương tiện vận chuyển và bảo quản sản phẩm……). Đối tượng lao
động là những yếu tố nguyên nhiên vật liệu có sẵn trong tự nhiên (gỗ, than đá, …) hoặc nhân tạo (pôlime,….).
- Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, là người tạo ra và sử dụng tư
liệu lao động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Ngày nay, với sự phát triển vượt
bậc của khoa học kỹ thuật đã khiến cho tri thức khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
- Quan hệ sản xuất là gì?
-> Quan hệ sản xuất bao gồm: Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất( quan hệ sở hữu): nói lên
ai là chủ sở hữu đối với nhà máy, xí nghiệp ,các thiết bị, các nguyên nhiên vật liệu trong quá trình
sản xuất . Quan hệ trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất: nói lên ai là người tổ chức, quản
lý và điều hành quá trình sản xuất. Quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó :
nói lên ai là người có quyền phân phối, chia thành quả sản xuất, cho những ai và như thế nào?
Trong ba mối quan hệ trên thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trò quan trọng nhất,
quyết định hai mối quan hệ kia, đồng thời tác động trở lại bằng cách thúc đẩy hay kìm hãm.
=> Lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của quan hệ sản
xuất Tương ứng với một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có một qun hệ sản
xuất phù hợp. Do lực lượng sản xuất không ngừng phát triển ở một trình độ cao hơn nên quan hệ
sản xuất cũng phải phát triển để tạo động lực cho lực lượng sản xuất. Nhưng do lực lượng sản xuất
luôn phát triển nhanh hơn quan hệ sản xuất nên đến một lúc nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản
xuất, đòi hỏi phải xuất hiện quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Quan hệ sản xuất có vai trò tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối. Do đó nó trực tiếp ảnh
hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và
cải tiến công cụ lao động. Sự tác động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai
hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc tiêu cực, kìm
hãm lực lượng sản xuất khi nó không phù hợp. Như vậy, lực lượng sản xuất không ngừng phát
triển phá vỡ sự phù hợp về mặt trình độ của quan hệ sản xuất đối với nó đòi hỏi phá bỏ quan hệ lOMoAR cPSD| 61601299
sản xuất lỗi thời và thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn. Quá trình đó lặp đi lặp lại tác
động cho xã hội loài người trải qua những phương thức sản xuất từ thấp đến cao dẫn đến sự thay
thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế – xã hội.
II. SINH VIÊN SƯ PHẠM NÓI RIÊNG VÀ THẾ HỆ TRẺ NÓI CHUNG CẦN LÀM GÌ
ĐỂ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
Để thực hiện được mục tiêu hướng tới sự phát triển bền vững, một trong những giải pháp đã
được đồng chí Tổng Bí thư đặt ra là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn
với kinh tế tri thức đồng thời coi giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu
để tập trung đầu tư, phát triển.
Trên thực tế, tháng 9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết
số 52-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2025, nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt 20% GDP, phát triển
được một cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lớn mạnh. Ngày 3/6/2020, Thủ tướng
Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số
quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu Việt Nam thuộc nhóm 50 nước
dẫn đầu về chính phủ điện tử, liên quan đến phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong
từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh
tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%.

Vì vậy, việc triển khai thực hiện các giải pháp và nhiệm vụ đầy khó khăn thử thách này sẽ đòi hỏi
sự đồng lòng và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, trong đó thế hệ trẻ sẽ đóng một vai trò quan
trọng, đặc biệt là ở nhiệm vụ phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

1. Thế hệ trẻ và nền kinh tế số
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang mang lại nhiều sự thay đổi cơ bản về kinh tế,
xã hội trên toàn cầu. Sự bùng nổ và phổ biến của internet và các công nghệ kỹ thuật số đã mang
lại nhiều cơ hội cho giới trẻ để tham gia và kết nối vào thị trường kinh tế số, nơi mà các rào cản
của thị trường là nhỏ hơn, với rất nhiều cơ hội để tiếp cận và chia sẻ thông tin, kiến thức với các
cộng đồng có chung lợi ích và mang lại hợp tác trong các dự án sản xuất cùng nhau
Ở một mặt khác, việc tham gia và tận dụng nền kinh tế số cũng đang tồn tại nhiều thách thức và
khó khăn cho thế hệ trẻ(3), đặc biệt là việc chuyển đổi số sẽ làm gia tăng các bất bình đẳng hiện
hữu trong xã hội (4). Sự ngăn cách và bất bình đẳngkỹ thuật số được phân chia thành 3 lớp, theo
thứ tự từ 1 đến 3 (1) bao gồm: sự tiếp cận không đồng đều với công nghệ; sự phát triển không
bình đẳng các kỹ năng cần thiết để thành công trong nền kinh tế số; sự phân phối không công
bằng các lợi ích từ việc sử dụng công nghệ dựa trên các yếu tố về kinh tế xã hội (5).
Vấn đề sở hữu trí tuệ cũng là một thách thức lớn trong nền kinh tế số, thế hệ trẻ nếu không được
trang bị kiến thức và kĩ năng sẽ có nguy cơ vi phạm các pháp luật liên quan đến sở hữu trí tuệ,
đồng thời không bảo vệ được tài sản trí tuệ của mình và bị xâm phạm đến lợi ích chính đáng của
bản thân 2. Nền kinh tế VN
Nền kinh tế Việt Nam ở nhiều khía cạnh khác nhau để nhận thấy những gì đã và đang thay đổi,
với thị trường lao động cũng vậy.
Chúng ta hãy nhìn vào lĩnh vực xuất khẩu, khối lượng và cơ cấu xuất khẩu ngày nay đã khác biệt
đáng kể so với hai mươi năm trước đây. Trong những năm giữa thập kỷ 90, tỷ trọng xuất khẩu lOMoAR cPSD| 61601299
gần như là lớn nhất (gần một phần hai) bao gồm cà phê, gạo và các sản phẩm nông nghiệp. Tiếp
đến là dệt may, chiếm gần một phần ba tổng giá trị xuất khẩu.
Cơ cấu xuất khẩu ngày nay phức tạp hơn nhiều so với trước đây. Tỷ trọng nông nghiệp và dệt
may đã giảm tương đối. Nổi lên là ngành điện tử cùng với các ngành công nghiệp khác cũng như
ngành dịch vụ. Mặc dù khối lượng xuất khẩu của cả nông nghiệp và dệt may đã tăng lên đáng kể
xét về số tuyệt đối, xét về tương đối hai ngành này đã bị thu hẹp do ngày nay Việt Nam xuất khẩu
nhiều loại sản phẩm và dịch vụ hơn ra các thị trường quốc tế.
Khi sản phẩm đất nước xuất khẩu thay đổi, chúng ta cũng kỳ vọng nhận thấy sự thay đổi trên thị
trường lao động để phản ánh sự chuyển dịch này. Một phân tích về thị trường lao động Việt Nam
ngày nay so với hai mươi năm trước đây đã xác nhận dự đoán này. Tại thời điểm năm 2000, gần
hai phần ba2 (65,3%) lực lượng lao động có việc làm thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Hai mươi năm
sau đó, tỷ trọng hai phần ba thuộc lĩnh vực nông nghiệp đó đã giảm xuống còn khoảng một phần
ba (37,2%3 ). Tỷ lệ một phần ba tăng thêm đó nay được phân bổ giữa lĩnh vực dịch vụ và công
nghiệp. Trong khi tại thời điểm năm 2000, nông nghiệp là lĩnh vực tuyển dụng nhiều lao động
nhất cả nước thì ngày nay lĩnh vực dịch vụ và nông nghiệp tuyển dụng số lao động gần tương
đương nhau (lần lượt là 37,3% và 37,2%) và theo sát là lĩnh vực công nghiệp (25,5% tổng số việc làm).4
Một chỉ số thú vị mà chúng ta sử dụng để phân tích thị trường lao động là tình trạng việc làm, ở
Việt Nam thường gọi là hình thức việc làm. Chỉ số này cho chúng ta biết chẳng hạn như bao
nhiêu phụ nữ và nam giới trong lực lượng lao động tham gia vào việc làm của gia đình. Chúng
ta thường thấy lực lượng lao động tham gia vào việc làm của gia đình chiếm tỷ trọng lớn trong
khu vực kinh tế nông thôn. Một điều thú vị có thể nhận thấy là tổng tỷ trọng lao động tham gia
vào việc làm của gia đình trên tổng số việc làm đã giảm hơn một nửa trong 20 năm qua. Trái lại,
do ngành công nghiệp đã trở thành một ngành tuyển dụng nhiều lao động hơn, không ngạc nhiên
khi nói rằng tỷ trọng người lao động trên tổng số việc làm đã tăng hơn gấp đôi trong vòng 20 năm.
Phân tích này cũng cho thấy rằng có một yếu tố không mấy thay đổi so với những yếu tố khác và
đó là sự thiệt thòi của phụ nữ trên thị trường lao động. Họ vẫn chiếm số đông trong số những
người lao động gia đình, mà thường không được trả công. Và ngay cả khi phụ nữ có nhiều khả
năng hơn so với nam giới để kiếm được công việc được trả công, lao động nữ vẫn bị trả công
thấp hơn nam giới trung bình 10%.
Khi bàn luận về công nghệ và tương lai của việc làm tại Việt Nam, người ta thường tập trung vào
vấn đề tự động hóa, máy móc thay thế con người, và những thách thức trong việc đào tạo lại kỹ
năng cho người lao động. Báo cáo mới đây của Ủy ban Toàn cầu về Tương lai Việc làm của ILO
đã nhấn mạnh vai trò của công nghệ đối với việc thúc đẩy hay kìm hãm việc làm thỏa đáng. Công
nghệ có thể giải phóng người lao động khỏi những công việc khó nhọc về thể chất, những công
việc có thể nguy hiểm hoặc trong môi trường bẩn. Công nghệ cũng có thể làm giảm thiểu nguy
cơ gây ra thương tích đối với người lao động. Công nghệ số, thông qua sự kết hợp giữa cảm biến
và trí tuệ nhân tạo, có thể mang đến cơ hội để cải thiện mức độ an toàn của công việc. Cảm biến
có thể thu thập dữ liệu về những cử động có thể gây nguy hiểm đối với người lao động, và giúp
xác định các tình huống có nguy cơ cao. Cảm biến thậm chí còn có thể giúp theo dõi điều kiện
lao động. Nhưng đồng thời, báo cáo cũng nhấn mạnh rằng công nghệ có thể tạo ra những thách
thức mới đối với việc làm thỏa đáng. Chẳng hạn như người lao động trên các nền tảng việc làm
thường đối mặt với sự thâm hụt việc làm thỏa đáng bắt nguồn từ thực tế là không dễ để có thể lOMoAR cPSD| 61601299
xác định được tình trạng pháp lý và xã hội của họ. Người lao động không thuộc phạm vi được
bảo vệ bởi pháp luật lao động và an sinh xã hội, như là tiền lương tối thiểu, thời giờ làm việc, an
toàn và sức khỏe lao động và bảo hiểm xã hội.
Chất lượng của nền giáo dục cơ bản của Việt Nam ở mức cao, và giáo dục cơ bản là điều mà Việt
Nam cần để duy trì ngành công nghiệp chế tạo với giá trị gia tăng thấp. Tuy nhiên, giờ đây, người
sử dụng lao động đòi hỏi những nhân tài với kỹ năng cao hơn, đòi hỏi phải có các hệ thống giáo
dục và đào tạo nghề vận hành hiệu quả hơn và các hệ thống giáo dục cao hơn. Việt Nam sẽ cần
một mô hình tăng trưởng mới để thoát khỏi nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp và để
đạt được hiện đại hóa, công nghiệp hóa cũng như tăng trưởng bền vững. Điều này cũng đòi hỏi
một thị trường lao động được hiện đại hóa. Một thị trường lao động với những sinh viên tốt
nghiệp từ một hệ thống phát triển kỹ năng chất lượng cao được người sử dụng lao động tin tưởng
và đầu tư thời gian và nguồn lực. Một thị trường lao động cho phép học tập suốt đời; và mọi
người, dù xuất thân từ gia đình với mức thu nhập nào đi chăng nữa, đều có thể tiếp cận với hệ
thống giáo dục và đào tạo nghề và giáo dục đại học. Đó là một thị trường lao động với cơ chế
bảo trợ xã hội toàn dân và có những thiết chế thị trường lao động được điều chỉnh theo những
thay đổi của bản thân thị trường lao động đó.
Một yếu tố then chốt đóng góp cho sự tăng trưởng năng suất của Việt Nam trong 2 thập kỷ qua
là sự chuyển dịch từ nông trại sang nhà máy. Gần một phần ba lực lượng lao động đã chuyển dịch
từ lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ trong hơn hai mươi năm qua. Tuy
nhiên, có lẽ Việt Nam đã gần chạm đến điểm cận biên để sự chuyển dịch này có thể tiếp tục góp
phần tăng năng suất. Giờ đây vấn đề quan trọng là phải tìm kiếm các giải pháp mới để tăng năng
suất. Quy mô của các doanh nghiệp Việt Nam cũng là một rào cản đối với tăng năng suất. Trong
nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ, chẳng hạn như ngành sản xuất, chỉ có một số doanh nghiệp
lớn, hiệu năng cao, còn lại đa phần là các doanh nghiệp khá nhỏ. Việt Nam có hàng triệu hộ doanh
nghiệp và số liệu thống kê được Việt Nam có 400.000 doanh nghiệp siêu nhỏ. Theo Tổng cục
Thống kê, số lượng các doanh nghiệp lớn thì ít hơn nhiều, chỉ có 7.000 doanh nghiệp. Có nhiều
yếu tố giúp cải thiện năng suất lao động, và trong đó một số yếu tố có liên quan tới quy mô của
doanh nghiệp. Chẳng hạn, việc tích lũy thiết bị, cải thiện tổ chức sản xuất cũng như cơ sở vật
chất và việc tạo ra công nghệ mới, tất cả đều là những yếu tố giúp tăng năng suất. Những doanh
nghiệp có quy mô lớn với điều kiện kinh tế tốt hơn thì sẽ dễ áp dụng những yếu tố đó hơn. Kỹ
năng của người lao động cũng đóng vai trò quan trọng và doanh nghiệp nhỏ thì khó có khả năng
đầu tư cho phát triển kỹ năng hơn là những doanh nghiệp lớn. Cuối cùng, sức khỏe và an toàn
của người lao động, điều kiện làm việc tốt, cho phép người lao động có tiếng nói và có cơ hội
được đào tạo là những yếu tố quan trọng để cải thiện năng suất. Điều này đúng với tất cả các
doanh nghiệp dù quy mô lớn hay nhỏ, mặc dù ở Việt Nam, điều kiện làm việc vẫn kém hơn ở các
công ty và doanh nghiệp cung ứng cho thị trường trong nước có quy mô nhỏ hơn. Lời khuyên
của tôi dành cho đại diện của người sử dụng lao động và người lao động là hãy cùng tham gia.
Họ đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng tầm nhìn của Tương lai Việc làm và hiện thực
hóa tầm nhìn đó. Một ví dụ thực tế là phát triển kỹ năng. Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều
để cải cách hệ thống giáo dục nghề nghiệp và công tác quản trị hệ thống này. Trong khi chính
phủ có trách nhiệm tổng quan để có được một dân số và lực lượng lao động được giáo dục tốt vì
lợi ích của nền kinh tế và xã hội của đất nước, thì các tổ chức của người sử dụng lao động và
người lao động cũng có những vai trò quan trọng trong trách nhiệm này. Người sử dụng lao động
là người kết nối với nhu cầu về kỹ năng của thị trường lao động. Vị trí cần tuyển dụng của họ thể
hiện điều gì đang diễn ra trên thị trường lao động về nhu cầu kỹ năng. Mặt khác, đại diện của
người lao động sẽ đóng vai trò đảm bảo việc phát triển kỹ năng không chỉ chuẩn bị cho người lOMoAR cPSD| 61601299
lao động sẵn sàng đảm nhận một công việc cụ thể trong một doanh nghiệp nhất định mà đó là cơ
hội để tiếp cận với việc làm thỏa đáng.
Việt Nam là nước rất tiến bộ trong việc áp dụng khung Mục tiêu Phát triển Bền vững. Mục tiêu
Phát triển Bền vững gồm 158 chỉ số, trong đó có 23 chỉ số liên quan tới lao động - việc làm. ILO
laf cơ quan đóng vai trò giám sát 13 chỉ số. Sự tham gia của người lao động và người sử dụng
lao động trong việc giám sát tiến độ thực hiện những chỉ số này giúp đảm bảo thể hiện chân thực
quá trình thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững liên quan đến lao động, việc làm và môi
trường doanh nghiệp tại Việt Nam. Để làm được điều này ở cấp quốc gia, sự tham gia của các tổ
chức của người sử dụng lao động và người lao động cần được thể chế hóa để có thể thực hiện và
giám sát các Mục tiêu Phát triển Bền vững.
3.Vai trò của thanh niên Việt Nam
Theo thống kê năm 2020, thanh niên Việt Nam từ 16 - 30 tuổi có khoảng 22,609 triệu người,
chiếm khoảng 23,2% dân số cả nước (14). Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương
lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng,
phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát huy thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là
động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước.
Việc được Đảng và nhà nước tạo mọi điều kiện ổn định để phát triển, học tập và rèn luyện là cơ
hội tốt để thanh niên Việt Nam chuẩn bị và tiếp cận với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
tận dụng tốt cơ hội từ nền kinh tế số dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Như đã
phân tích ở trên, thanh niên Việt Nam cũng như thanh niên trên thế giới đang đứng trước một sự
chuyển đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ và điều kiện kinh tế xã hội. Để có thể thành
công tận dụng các cơ hội của kinh tế số cũng như khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo, qua đó
góp phần thực hiện thành công Nghị quyết đại hội XIII của Đảng cũng như mục tiêu đề ra trong
bài viết của đồng chí Tổng Bí thư, thanh niên Việt Nam cần nhận thức một cách đầy đủ về cơ hội
thách thức, điểm mạnh điểm yếu của nền kinh tế số cũng như đặc điểm của Việt Nam và bản
thân, từ đó có các kế hoạch và hành động phù hợp. Bài viết này đưa ra một số suy nghĩ cá nhân
mang tính khuyến nghị giải pháp như sau:
Một là, thanh niên Việt Nam cần được định hướng trong lựa chọn nghề nghiệp, học tập phù hợp
với năng lực và sở trường để tránh tình trạng làm việc không đúng chuyên môn được đào tạo,
gây lãng phí về thời gian và nguồn lực của xã hội. Thanh niên có đam mê và yêu thích các lĩnh
vực công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 được nhà nước ưu tiên phát triển. Kinh
doanh, doanh nghiệp (STEAM) cần nghiêm túc tìm hiểu, xác định ngành nghề và kiên trì theo
đuổi để đóng góp cho sự phát triển của nước nhà. Ngoài ra cần mạnh dạn kiến nghị, đề xuất với
Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư để giải phóng năng lực tuổi trẻ, cống hiến, vì sự hưng thịnh
của quốc gia, dân tộc nhờ vào phát triển kinh tế số và khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo.
Hai là,thanh niên Việt Nam cần liên tục cập nhật, trang bị kiến thức và hiểu biết về cách thức vận
hành, luật lệ của nền kinh tế số (ví dụ như các vấn đề liên quan đến mối quan hệ khách hàng-nhà
cung cấp với các nền tảng toàn cầu), sở hữu trí tuệ, để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
mình, ngoài ra tránh việc vô ý vi phạm pháp luật do thiếu kiến thức, đặc biệt khi có sự khác biệt
về pháp luật giữa quốc gia nơi mà nhà cung cấp dịch vụ ở và quốc gia nơi mà người dùng sử dụng dịch vụ. lOMoAR cPSD| 61601299
Ba là,trong một môi trường đầy biến động và đa chiều của nền kinh tế số, thanh niên Việt Nam
cần nâng cao bản lĩnh chính trị, tự trang bị cho mình kiến thức để có vắc xin với các luồng thông
tin độc hại, chưa rõ tính xác thực, tránh bị lôi kéo, dụ dỗ mắc phải những sai phạm về đạo đức,
tiêu cực và tệ nạn xã hội, hoặc bị lợi dụng, kích động lôi kéo vào các hành vi gây rối, vi phạm
pháp luật. Đặc biệt cần cảnh giác trước nhiều luồng thông tin xấu của các thế lực thù địch, lợi
dụng các vấn đề kinh tế xã hội trong nước kích động lôi kéo, lợi dụng tinh thần yêu nước của
người dân để tiến hành các hoạt động chống phá, âm mưu thực hiện diễn biến hòa bình và cách mạng màu tại Việt Nam.
Bốn là, tiếp tục phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đóng với vai trò hạt
nhân chính trị quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết, xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam phát
triển toàn diện, cổ vũ thanh niên thi đua học tập, khởi nghiệp, lao động sáng tạo trên nền tảng
khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm góp phần tạo nên những thành tựu mới to lớn và
có ý nghĩa cho nước nhà như lời Bác dạy Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật
vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên.