

Preview text:
2. Quan hệ sản xuất
a) Khái niệm của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là khái niệm chỉ mối quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội), là một trong những biểu
hiện của quan hệ xã hội, giữ vai trò xuyên suốt trong quan hệ xã hội vì quan
hệ sản xuất là quan hệ đầu tiên, quyết định những quan hệ khác.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc vào ý
muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất
của đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản
xuất và là cơ sở của đời sống xã hội.
b) Cấu trúc của quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
- Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: Tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản
xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu
đối với tư liệu sản xuất – Biểu hiện thành chế độ sở hữu. Trong hệ thống các quan
hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với các
quan hệ xã hội khác, quy định địa vị trong xã hội, đồng thời quyết định phương
thức phân phối sản phẩm trong hệ thống sản xuất xã hội. Cho đến nay, đã có hai
loại hình sở hữu là tư nhân và công cộng.
- Quan hệ tổ chức và quản lý: Tức là quan hệ giữa người với người trong sản
xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất các
quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một
cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản xuất cụ thể đi ngược lại các
quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu ảnh hưởng tiêu
cực đến kinh tế xã hội.
- Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm: Tức là quan hệ chặt chẽ với nhau
cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho
chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng nâng cao
phúc lợi cho người lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản lý, trong
hệ thống quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng
là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền
kinh tế. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng
ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Nếu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất sở hữu
quyết định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh
tế xã hội nhất định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các
quan hệ sản xuất khác, ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chúng không đối
lập mà phục vụ đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế xã hội mới.