Quản lý hành chính nhà nước
Quản lý hành chính nhà nước
Preview text:
lOMoAR cPSD| 30964149 lOMoAR cPSD| 30964149
PHẦN 3. QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
BÀI 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước
Con người là thực thể của tự nhiên, phương thức tồn tại và phát triển của con
người là hoạt động. Trong quá trình hoạt động con người luôn tác động lẫn nhau,
chi phối lẫn nhau tạo thành các mối quan hệ. Trong các hoạt động chung người có
ưu thế hơn sẽ chi phối người khác, trở thành “thủ lĩnh, nhạc trưởng”. Như vậy quản
lý ra đời trong quá trình hoạt động của con người. Quản lý có thể hiểu theo những khuynh hướng sau:
- Quản lý là quá trình điều khiển của một hệ thống.
- Quản lý là hoạt động tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng hệ
thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp, các biện pháp
cụ thể nhằm tạo điều kiện, môi trường cho sự phát triển của đối tượng quản lý.
- Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra.
Tuy cách diễn đạt khác nhau song nội dung cơ bản của quản lý là thống
nhất. Quản lý là một thuộc tính nội tại, bất biến của mọi quá trình hoạt động xã hội.
Lao động quản lý là tất yếu và quan trọng để làm cho xã hội loài người vận hành,
tồn tại và phát triển.
Các lĩnh vực của quản lý bao gồm: Giới vô sinh, giới sinh vật và quản lý xã
hội. Quản lý xã hội là dạng quản lý cơ bản của con người đối với các hoạt động lOMoAR cPSD| 30964149
của con người trong một tổ chức nào đó, nên có thể hiểu: Quản lý là quá trình tiến
hành các hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các
tác động của chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ động và phù hợp với quy luật lOMoAR cPSD| 30964149
khách quan để gây ảnh hưởng đến đối tượng quản lý nhằm tạo ra sự thay đổi hay
hiệu quả cần thiết cho sự tồn tại, ổn định và phát triển của tổ chức trong môi
trường luôn biến động.
Quản lý nhà nước là hoạt động quản lý xã hội đặc biệt mang tính quyền lực
Nhà nước, sử dụng hệ thống pháp luật Nhà nước để điều chỉnh hành vi con người
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy Nhà
nước thực hiện; nhằm thoả mãn nhu cầu của con người, duy trì sự ổn định và phát triển xã hội.
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của Nhà
nước, là hoạt động chấp hành, điều hành của hệ thống hành chính trong việc quản
lý xã hội theo khuôn khổ pháp luật nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và
phát triển xã hội.
II. Nội dung, hình thức, phương tiện, phương pháp và đặc điểm của quản lý
hành chính nhà nước ở Việt Nam
1. Nội dung quản lý hành chính nhà Nước ở Việt Nam
Các cơ quan này thực hiện chúc năng hành pháp trong hành động về các lĩnh
vực và các mặt công tác sau đây:
- Một là: Quản lý hành chính nhà nước về kinh tế, văn hóa, xư hội.
- Hai là: Quản lý hành chính nhà nước về an ninh, quốc phòng.
- Ba là: Quản lý hành chính nhà nước về ngoai giao.
- Bốn là: Quản lý hành chính nhà nước về ngân hàng, tài chính ngân sách nhà
nước, kế toán, kiểm toán, quan lý tài sản công, thị trường chứng khoán.
- Năm là: Quản lý hành chính nhà nước về khoa học, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
- Sáu là: Quản lý hành chính nhà nước về các nguồn nhân lực.
- Bảy là Quản lý hành chính nhà nước về công tác tổ chúc bộ máy hành chính Nhà lOMoAR cPSD| 30964149
nước về quy chế, chế độ, chính sách về công, công chức Nhà nước.
Tám là: Quản lý hành chính nhà nước và phát triển công nghệ tin học trong hoat
động quan lý hành chính.
2. Hình thức quan lý hành chính nhà Nước
Thông thường quan lý hành chính nhà nước có ba hình thức sau:
- Ra văn bản quy phạm pháp luật hành chính.
Các chu thể quan lý hành chính nhà nước có thể ra quyết định bằng chữ viết,
bằng lòi nói, bằng dấu hiệu, kí hiệu, trong đó bằng chữ viết là chủ yếu, là đảm bảo tính pháp lý cao nhất.
Văn ban pháp quy pham pháp luật hành chính là quyết định hành chính
ĐUợc ghi bằng chữ viết, để cho các khách thể quan lý căn cứ vào đó mà thực hiện
và là chứng cú để các chu thể quan lỦ kiểm tra các khách thể thực hiện có đầy đu
và đúng hay không và tùy theo đó mà truy cúu trách nhiệm, xử lỦ theo pháp luật. -Hội nghị:
Hội nghị là hình thúc để tập thể lưnh đao ra quyết định. Hội nghị để tập thể
bàn bac một công việc có tính liên quan đến nhiều cơ quan hoặc nhiều bộ phận
trong một cơ quan, cần có sự kết hợp, giúp đỡ lẫn nhau. Hội nghị còn dùng để
truyền đat thông tin, học tập, biểu thị thái độ, tuyên truyền, giai thích...
Hội nghị bàn công việc sẽ có nghị quyết hội nghị. Các nghị quyết hội nghị
được thể hiện bằng văn ban pháp quy mới có đầy đủ tính pháp lý.
Hội nghị là hình thức cần thiết và quan trọng. Cần phai tổ chức và chủ trì hội nghị
theo phương pháp khoa học để ít tốn thời gian mà hiệu qua cao.
-Hoat động thông tin điều hành bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đai.
Theo hình thúc này, máy móc có thể thay thế lao động chân tay và ca lao
động trí óc cho công chúc hành chính. Hình thúc này hiện nay đang phát triển
manh mẽ. Chẳng han: sử dnng điên thoai, ghi âm, ghi hình, vô tuyến truyền hình,
fax, phôtôcopy, máy vi tính, máy điện toán, internet. Nói chung là tin học hiện đai lOMoAR cPSD| 30964149
được sử dụng vào công tác nghiệp điều hành quan lý hành chính nhà nước.
Trong ba hình thức trên, hình thúc ra văn ban pháp quy quy pham pháp luật hành
chính nhà nước là hình thức chủ yếu.
3. Phương tiện quản lý hành chính nhà nước
- Công sở: Là trụ sở làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước, là nơi lãnh
đạo công chức và nhân viên thực thi công vụ, là nơi giao tiếp đối nội và đối
ngoại, là nơi tiếp nhận các thông tin đầu vào và ban hành các quyết định để giải
quyết, xử lý các công việc hàng ngày để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi
hoạt động của công dân. Công sở phải có tên, có địa chỉ rõ ràng và phải treo quốc
kỳ trong những ngày làm việc.
- Công vụ: Là một dạng lao động xã hội của những người làm việc trong các cơ quan HCNN.
- Công chức: Là người thực hiện công vụ, được bổ nhiệm hoặc tuyển dụng, được
hưởng lương và phụ cấp theo công việc được giao từ ngân sách nhà nước.
- Công sản: Là ngân sách, vốn, là kinh phí và các điều kiện, phương tiện vật chất để các hoạt động.
- Quyết định quản lý hành chính nhà nước: Các công chức lãnh đạo, những
người có thẩm quyền ra quyết định, người ra quyết định phải nhận thức đầy đủ và
đúng đắn rằng quyết định quản lý hành chính nhà nước là sự biểu thị ý chí nhà
nước, là kết quả thực thi quyền hành pháp của bộ máy nhà nước. Đồng thời phải
tôn trọng quy trình công nghệ hành chính của việc ra và tổ chức thực hiện quyết định.
4. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước
- Phương pháp kế hoạch hoá: Để quy hoạch, dự báo, xây dựng chiến lược…
- Phương pháp thống kê: Để điều tra, phân tích, thu thập thông tin….
- Phương pháp toán học hoá: Để lập chương trình kế toán hoá qua hệ thống máy
điện toán, sơ đồ mạng…. lOMoAR cPSD| 30964149
- Phương pháp tâm lý học: Để nghiên cứu những vấn đề xã hội nhằm suy tôn
những người có công trong quản lý nhà nước như: Nhà giáo nhân dân, nghệ sỹ nhân dân…
- Phương pháp sinh lý học: Để nghiên cứu các điều kiện lao động nhằm tăng lực công tác.
- Phương pháp giáo dục tư tưởng, đạo đức: Để giác ngộ lý tưởng, ý thức chính trị,
pháp luật, nhận biết được việc làm tốt, xấu, thiện, ác…
- Phương pháp tổ chức: Đây là biện pháp đưa con người vào khuôn khổ kỷ luật, kỷ cương.
- Phương pháp kinh tế: Làm giỏi, hiệu quả lớn thì tăng lương, tăng thưởng.
Làm sai, hiệu quả không có thì hạ lương, cắt thưởng, bồi thường hoặc phạt tiền.
- Phương pháp hành chính: Để tác động trực tiếp đến chủ thể quản lý lên các khách
thể bằng các mệnh lệnh hành chính dứt khoát, bắt buộc.
5. Đặc điểm quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam
Quản lý hành chính ở nước ta có những đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước trong quan lý hành chính nhà nước trước hết thể hiện ở
việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nước thông qua phương tiện
nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng được sử dnng là văn
ban quan lý hành chính nhà nước. Bằng việc ban hành văn ban, chủ thể quản lý
hành chính nhà nước thể hiện ý chí của mình dưới dạng các chủ trương, chính sách
pháp luật nhằm định hướng cho hoat động xây dựng và áp dụng pháp luật; dưới
dang quy pham pháp luật nhằm cn thể hóa các quy pham pháp luật của cơ quan
quyền lực nhà nước và của cấp trên thành những quy định chi tiết để có thể triển
khai thực hiện trong thực tiễn; dưới dạng các mệnh lệnh cá biệt nhằm áp dnng pháp
luật vào thực tiễn, trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan lOMoAR cPSD| 30964149
hệ quan lý; dưới những dang mệnh lệnh chỉ đạo cấp dưới trong hoat động,nhằm tổ
chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn;dưới dạng những thông tin hướng dẫn đối
lập với cấp dưới nhằm đảm bảo sự thống nhất, có hệ thống của bộ máy hành chính nhà nước
Bên canh đó, quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể có
thẩm quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện ý chí nhà
nước, như các biện pháp về tổ chức về kinh tế, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục
cưỡng chế … Chính những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét của sức
mạnh nhà nước, một bộ phận tạo nên quyền lực nhà nước , nhờ đó ý chí của chủ
thể quản lý hành chính nhà nước được bảo đảm thực hiện.
Đây là đặc điểm quản trọng để phân biệt hoạt động quản lý hành chính với
những hoạt động quản lý không mang tính quyền lực nhà nước, như quản lý trong
nội bộ của các Đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp… Trong các
hoạt động quản lý phi nhà nước, quyền lực cũng được sử dụng không phải là quyền
lực nhà nước, chỉ tác động trong nội bộ tổ chức, nhằm đạt mục tiêu của tổ chức
trong khuôn khổ pháp luật; các chủ thể quản lý cũng thể hiện ý chí và sử dụng sức
mạnh của mình để bảo đảm thực hiện ý chí đó, tuy nhiên họ chỉ nhân danh cá nhân
hay tổ chức mình mà không nhân danh nhà nước.
- Thứ hai, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi những
chủ thể có quyền năng hành pháp.
Cách hiểu phổ biến hiện nay thì nhà nước có ba quyền năng: lập pháp, hành
pháp và tư pháp.Trong đó, quyền năng hành pháp trước hết và chủ yếu thuộc về
các cơ quản lý hành chính nhà nước, tuy nhiên trong rất nhiều hoạt động khác như:
việc ổn định tổ chức nội bộ của các cơ quan nhà nước, hoạt động quản lý được tiến
hành bởi các bộ…Trong những trưòng hợp này quyền năng hành pháp cũng thể
hiện rõ nét và nếu xét về bản chất thì tương đồng với hoạt động hành pháp của các
cơ quan hành chính nhà nước. Do dó, có thể kết luận chủ thể quản lý hành chính lOMoAR cPSD| 30964149
nhà nước là các chủ thể mang quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hành pháp, bao
gồm: cơ quan hành chính nhà nước và công chức của những cơ quan này; thứ
trưởng của các cơ quan nhà nước; các công chức nhà nước, cá nhân hoặc tổ
chức xã hội được nhà nước uy quyền quản lý hành chính đối với một số loại việc
nhất định. Và như vậy, quản lý hành chính nhà nước có đối tượng tác động là các
quan hệ xã hội phát sinh trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ quản trọng tới ít
quản trọng, từ phổ biến tới cá biệt, phát sinh trong đời sống dân cư, đời sống pháp
luật và trong nội bộ cua các cơ quản nhà nước. Trong khi đó hoạt động lập pháp, tư
pháp chỉ phát sinh trong pham vi tương đối hẹp, có đối tượng tác động là những
quan hệ xã hội quan trọng.
- Thứ ba, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính thống nhất, được tổ chức chặt chẽ.
Để bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động hành pháp, bộ máy các cơ quan
hành pháp được tổ chức thành một khối thống nhất từ Trung ương tới địa phương,
đứng đầu là Chính phủ, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều hành
thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của ca nước, bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp
nhàng giữa các địa phương tạo ra sức mạnh tổng hợp của ca, tránh được sự cục bộ
phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền khác nhau. Tuy nhiên. do
mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng về điều kiện kinh tế - xã hội, nên
để có thể phát huy tối đa những yếu tố của từng địa phương, tao sự năng động sáng
tạo trong quản lý điều hành, bộ máy hành chính còn được tổ chức theo hướng phân
cấp, trao quyền tự quyết, tạo sự chủ động sáng tạo cho chính quyền địa phương.
Để cùng lúc đạt được hai mnc đích này, nguyên tắc “ hai chiều lệ
thuộc” được sử dụng như một giai pháp hữu hiệu trong việc tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước. Theo đó, ngoại trừ Chính phủ là cơ quan đứng đầu bộ máy hành
chính nhà thì mỗi cơ quan khác trong bộ máy này điều lệ thuộc vào hai cơ quản:
một cơ quản theo chiều dọc để đảm bảo sự thống nhất của bộ máy; một cơ quản lOMoAR cPSD| 30964149
theo chiều ngang để đảm bảo sự chủ động của mỗi cấp quản lý. Vấn đề căn bản
được đặt ra trong việc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước là xác định hợp lý
thẩm quyền của mỗi cấp quản lý, vừa tránh được sự chồng chéo chúc năng, vừa
không bỏ lọt những lĩnh vực cần quản lý;vừa bao đam sự điều hành xuyên
suốt, thống nhất trong bộ máy, vừa tao ra được sự chu động, sáng tao của mỗi
cấp quản lý, có như Vậy mới vừa bảo đảm thống nhất lợi ích chung của nhà nước,
vừa đảm bảo lợi ích của từng địa phương.
- Thứ tư, hoạt động quản lý hành chính nhà nước có tính chấp hành và điềuhành.
Tính chấp hành và điều hành của hoạt động quản lý nhà nước thể hiện trong
việc những hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục đích
thực hiện pháp luật, cho dù đó là hoạt động chủ động sáng tao của chủ thể quản lý
thì cũng không được vựợt quá khuôn khổ pháp luật, điều hành cấp dưới, trực tiếp
áp dụng pháp luật hoặc tổ chức những hoạt động thực tiễn…, trên cơ sở quy định
pháp luật nhằm hiện thực hóa pháp luật.
Tính điều hành của hoạt động quản lý hành chính nhà nước thể hiện trong
việc chủ thể có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã
hội. Trong quá trình đó, các chủ thể này, không chỉ tự mình thực hiện pháp luật mà
quan trọng hơn cả chúng đảm nhận chức năng chỉ đạo nhằm vận hành hoạt động
của các cơ quan, đơn vị trực thuộc theo một quy trình thống nhất; tổ chức để mọi
đối tượng có liên quan thực hiện pháp luật nhằm hiện thực hóa các quyền và nghĩa
vụ của các bên trong quản hệ quản lý.
Như vậy, trong mỗi hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tính chấp hành
và tính điều hành luôn đan xen, song song tồn tại, tạo nên sự đặc thù của hoạt động
quản lý hành chính nhà nước, nhờ đó có thể phân biệt với hoạt động lập pháp và tư
pháp: trong lập pháp, chấp hành là để xây dựng pháp luật làm cho pháp luật ngày
càng hoàn thiện hơn; trong tư pháp, chấp hành là để bảo vệ pháp luật tránh khỏi sự
xâm hai; còn trong quản lý hành chính, chấp hành là để tổ chức thực hiện pháp luật lOMoAR cPSD| 30964149
trong đời sống xã hội.
- Thứ năm, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính liên tục.
Khác với hoạt động lập pháp và tư pháp, quản lý hành chính nhà nước luôn
cần có tính liên tnc, kịp thời và linh hoạt để đáp ứng sự vận động không ngừng của
đời sống xã hội. Chính điểm đặc thù này được coi là một cơ sở quan trọng trong
việc xác lập quy định về tổ chức và hoạt động, quy chế công chức, công vụ của bộ
máy hành chính nhà nước; tao ra bộ máy hành chính gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong
tổ chức, có đội ngũ công chức năng động sáng tạo, quyết đoán và chịu sự ràng
buộc trách nhiệm đối với hoạt động của mình.
Tóm lại Quản lý hành chính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà
nước được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có
nội dung là bảo đảm sự chấp hành pháp luật, pháp lệnh, nghị quyết của các cơ quan
quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên
công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị. Nói cách
khác, quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước. lOMoAR cPSD| 30964149
BÀI 2. QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước về giáo dục đào tạo
Quản lý hành chính nhà nước về giáo dục đào tạo là sự tác động có tổ chức và
điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục và đào tạo, do
các cơ quan quản lý giáo dục của nhà nước từ TW đến các cơ sở tiến hành chức
năng nhiệm vụ do nhà nước uỷ quyền nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào
tạo, duy trì trật tự kỷ cương, thoả mãn nhu cầu giáo dục và đào tạo của nhân dân,
thực hiện mục tiêu GD &ĐT của nhà nước.
2. Nội dung quản lý hành chính nhà nước về giáo dục đào tạo
Theo Điều 99 Luật giáo dục 2005, nội dung quản lý nhà nước về giáo dục bao gồm:
(1). Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển giáo dục;
(2). Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục;
ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục khác;
(3). Quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà
giáo; tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in
và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ;
(4). Tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục;
(5). Thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục;
(6). Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục;
(7). Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; lOMoAR cPSD| 30964149
(8).Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục;
(9). Tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ
trong lĩnh vực giáo dục;
(10). Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục;
(11). Quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao đối
với sự nghiệp giáo dục;
(12). Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục
3. Hệ thống quản lý hành chính nhà nước về giáo dục đào tạo
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục
Chính phủ trình Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có ảnh
hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước, những
chủ trương về cải cách nội dung chương trình của cả một bậc học, cấp học; hàng
năm báo cáo Quốc hội về hoạt động giáo dục và việc thực hiện ngân sách giáo dục. lOMoAR cPSD| 30964149
- Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước nhà nước về giáo dục. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
có trách nhiệm quản lí nhà nước về giáo dục theo quy định của Chính phủ. Chính
phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo để thực hiện việc
thống nhất nhà nước về giáo dục.
- Uỷ ban Nhân dân các cấp thực hiện quản lí nhà nước về giáo dục ở địa phương
theo quy định của Chính phủ.
Cấp tỉnh có Sở giáo dục và Đào tạo. Giám đốc Sở GD-ĐT chịu trách nhiệm
trước Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện quản lí nhà nước về giáo dục trong phạm vi
tỉnh, bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giao dục nghề nghệp. Đối
với trường cao đẳng , một số sở GD-Đt được uỷ nhiệm quản lí mộ vài mặ của quá
trình đào tạo hoặc quản lí cả năm mặt: chuyên môn, nhân sư, bộ máy, tài chính, cơ sở vật chất sư phạm.
Cấp huyện, quận có Phòng GD-ĐT. Trưởng phòng GD&ĐT chịu trách nhiệm
trước Uỷ ban nhân dân huyện thực hiện quản lí nhà nước về giáo dục trong phạm
vi huyện, quận. Phòng GD&ĐT cấp huyện quản lí các trường mầm non, trường
tiểu học, trường trung học cơ sở và trung tâm giáo dục thường xuyên.
4. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong Giáo dục và Đào tạo hiện nay
4.1. Những thành tựu đã đạt được
1. Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền
giáo dục toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân và nâng
cao được trình độ đào tạo, trình độ và kĩ năng nghề nghiệp của người lao động.
2. Công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với
người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn, các đối tượng chính sách và người có
hoàn cảnh khó khăn, bình đẳng giới cơ bản được bảo đảm. lOMoAR cPSD| 30964149
3. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu cầu
nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Công tác quản lí giáo dục có bước chuyển biến tích cực.
5. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục tăng nhanh về số lượng, trình
độ đào tạo được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục.
6. Cơ sở vật chất - kĩ thuật của hệ thống giáo dục và đào tạo được tăng thêm
và từng bước hiện đại hoá.
7. Xã hội hoá giáo dục và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả quan trọng.
Những thành tựu, kết quả quan trọng của giáo dục bắt nguồn từ truyền thống
hiếu học của dân tộc; sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, của mỗi gia đình và toàn xã hội; sự tận tụy của đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục; sự ổn định về chính trị cùng với những thành
tựu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước.
4.2. Những hạn chế yếu kém
Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển,
có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng
thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập:
- Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc phục;
chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất
lượng; so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt; chưa
thực sự là quốc sách hàng đầu.
- Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm
hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp; chưa phát
huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.
– Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức, lối lOMoAR cPSD| 30964149
sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” và dạy “nghề”
vẫn yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử dân tộc, tư duy
sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng sống…
- Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên thông, mất cân đối.
- Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi mới, là
nguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo dục
chậm đổi mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh
vực khác của đất nước.
- Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức và năng
lực của một bộ phận còn thấp.
- Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định hướng
liên kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng, chưa xác định rõ phương châm.
- Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát triển đất
nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; khoa học
giáo dục chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa học giáo dục còn nhiều bất cập.
- Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành cơ
chế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếu
những quyết sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô (có khi chính sách được ban hành
rồi nhưng chỉ đạo tổ chức thực hiện không đến nơi đến chốn, kém hiệu quả); một
số chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của xã hội.
Những vấn đề, những yếu kém và bất cập nêu trên của giáo dục không thể
giải quyết khắc phục được căn bản chỉ bằng các giải pháp cục bộ, đơn lẻ, bề mặt lOMoAR cPSD| 30964149
nhất thời, thiếu chiến lược và tầm nhìn dài hạn, thiếu tính đồng bộ và hệ thống,
chưa đạt tới chiều sâu bản chất của vấn đề. Để giải quyết được căn bản những vấn
đề đặt ra, những người lãnh đạo – quản lý, những nhà khoa học, những người làm
giáo dục phải có cách nhìn toàn diện, đầy đủ, khách quan, như các văn kiện của
Đảng đã nêu, sâu hơn, bản chất hơn những gì nêu trên báo chí và những báo cáo tổng kết thành tích.
5. Những quan điểm chỉ đạo về sự nghiệp đổi mới Giáo dục và Đào tạo
Trong các văn kiện trình Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh sự quan tâm đặc
biệt và làm rõ hơn lập trường, quan điểm, tính nhất quán về sự cần thiết phải đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đã
từng được khẳng định trong các văn kiện Đảng trước đây, đặc biệt là trong Nghị
quyết số 29 của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI, khẳng định đây không chỉ là
quốc sách hàng đầu, là “chìa khóa” mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía
trước, mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc sống.
Trong Văn kiện đại hội XII lần này, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ
trước, Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách hàng đầu, tiêu điểm
của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển nguồn nhân
lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền giáo dục
nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”.
Vì sao phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực? Các văn kiện của Đảng đã chỉ rõ chất lượng, hiệu quả giáp dục và đào
tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ
thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và các phương thức
giáo dục, đào tao; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với
nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; lOMoAR cPSD| 30964149
chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương
pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu và thiếu thực
chất. Quản lí giáo dục và đào tạo có mặt còn yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lí giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu. Đầu tư cho giáo dục
và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa
phù hợp. Cơ sở vật chất- kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn.
Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới đang đặt ra ngày càng cấp thiết. Thứ nhất, do
chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo ở nước ta còn thấp so với yêu cầu của công
cuộc đổi mới, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Hiện nay,
toàn quốc có hơn 70.000 cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ tốt nghiệp ra trường, nhưng không
tìm được việc làm, hoặc có việc làm nhưng không đúng nghề đào tạo; nhiều người
được tuyển chọn phải đào tạo lại mới sử dụng được. Thứ hai, hệ thống giáo dục-
đào tạo ở nước ta còn bị khép kín, thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các
phương thức giáo dục, đào tạo, còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Thứ ba, chưa
gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh và
nhu cầu của thị trường, dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ. Thứ tư, chưa chú
trọng đúng mức đến giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống và kỹ năng, phương
pháp làm việc. Thứ năm, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chủ yếu truyền thụ
kiến thức một chiều; tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả còn thiếu thực chất,
mắc bệnh thành tích. Thứ sáu, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất
cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu. Thứ bảy, cơ chế, chính sách, đầu tư cho
giáo dục, đào tạo chưa phù hợp; cơ sở vật chất-kỹ thuật thiếu đồng bộ, còn lạc hậu…
Như vậy, việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tao; phát triển
nguồn nhân lực là yêu cầu bức thiết. Đó vừa là yêu cầu, vừa là giải pháp giúp lOMoAR cPSD| 30964149
chúng ta vượt qua khó khăn, thách thức của thời cuộc và phát triển bền vững. Tuy
nhiên, nếu không quyết liệt đổi mới, hoặc đổi mới “nhỏ giọt”, cục bộ, từng phần,
tức là giáo dục, đào tạo vẫn không khác hơn kiểu cũ thì nguy cơ tụt hậu xa hơn
luôn ở kề bên; đường lối đổi mới của Đảng sẽ mất dần động lực phát triển, chúng
ta sẽ không thể đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thậm chí rơi vào
“cái bẫy thu nhập trung bình”. Điều kiện tiên quyết, suy đến cùng là do con người
quyết định, trong đó giáo dục, đào tạo, nền học vấn là nhân tố quan trọng nhất.
Đảng ta nhất quán khẳng định: “Giáo dục, đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, “đầu
tư cho giáo dục, đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Tuy nhiên, trên thực tế, hiệu quả
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới giáo dục, đào tạo từ
Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII đến nay vẫn còn những hạn chế, bất cập, chất lượng thấp.
Đổi mới giáo dục, đào tạo cần bắt đầu từ đổi mới quan điểm, tư tưởng chỉ đạo
đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực
hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động
quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng,
xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học... Điều này
không phải đến Đại hội XII, Đảng ta mới xác định như vậy. Vấn đề là ở chỗ: Trong
những năm qua, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu giáo dục toàn diện chưa
được hiểu và thực hiện đúng; nay chúng ta cần nhận thức đúng hơn và thực hiện hiệu quả hơn.
Lâu nay, ở nước ta, các trường chủ yếu trang bị kiến thức cho người học, lấy
nó và dựa vào nó để phát triển năng lực. Nhiều năm qua, chúng ta đã nhận ra sự
bất cập, hạn chế của việc này, nên đã chuyển hướng sang phát triển phẩm chất và
năng lực người học. Tuy nhiên, do thiếu tính đồng bộ và nhận thức chưa thống
nhất, nên việc dạy và học vẫn theo cách cũ: Trang bị kiến thức là chính, phát triển
phẩm chất và năng lực là phụ. Từ khi có Nghị quyết số 29, Hội nghị Trung ương 8, lOMoAR cPSD| 30964149
khóa XI, trong xã hội ta, về nhận thức đã có sự thay đổi nhất định, dần đi đến
thống nhất về sự cần thiết phải chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang
bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học. Để “đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực” đạt hiệu
quả cao, chúng ta phải đồng thời thực hiện nhiều giải pháp.
Một giải pháp quan trọng được nêu trong dự thảo, đó là: Đổi mới mạnh mẽ và
đồng bộ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục, đào
tạo theo hướng coi trọng phát triển năng lực và phẩm chất của người học. Trên cơ
sở xác định đúng, trúng mục tiêu đổi mới giáo dục, đào tạo, công khai mục tiêu,
chuẩn “đầu vào”, “đầu ra” của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và
chuyên ngành đào tạo, thì việc tiếp theo là đổi mới chương trình khung các môn
học và nội dung của nó theo hướng phát triển mạnh năng lực và phẩm chất người
học, bảo đảm hài hòa đức, trí, thể, mỹ; thực hiện tốt phương châm mới: Dạy người,
dạy chữ và dạy nghề (trước đây là dạy chữ, dạy người, dạy nghề).
Tiếp tục đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực,
phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức
vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật
và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền
thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp.
Dạy Ngoại ngữ và Tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử
dụng của người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số;
dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài. Nói
một cách khác, yếu tố đầu tiên của triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay là tăng
cường yếu tố dạy người-chủ nhân của chế độ mới, của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đổi mới chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo cần đổi mới công lOMoAR cPSD| 30964149
tác biên soạn sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu dạy học theo hướng đa dạng hóa,
cập nhật tri thức mới, đáp ứng yêu cầu của từng bậc học, các chương trình giáo
dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của từng đối tượng. Cần khắc phục lối
học tập trung vào một số môn học, một “khuôn” trong một sách giáo khoa, giáo
trình, tài liệu. Ở giai đoạn đầu của đổi mới, nên vừa nghiên cứu, biên soạn các
sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu dạy và học chung cho mọi người, vừa nghiên
cứu, biên soạn các sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu riêng cho phù hợp với từng
loại đối tượng, đáp ứng nhu cầu phát triển phẩm chất, năng lực, năng khiếu cá
nhân. Vì vậy, trong xây dựng cấu trúc chương trình môn học cần chú trọng nghiên
cứu, biên soạn bổ sung các sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu bắt buộc và tài liệu
tham khảo, bổ trợ phù hợp với phát triển phẩm chất, năng lực riêng của một lớp đối
tượng. Theo đó, cần vận dụng phương pháp, cách thức xây dựng chương trình sau
đại học để thiết kế, xây dựng các chương trình khung cho các bậc học theo hướng
chuyên đề hóa dành cho người học có năng khiếu về những lĩnh vực nhất định.
Đây là hướng mở để phát triển phẩm chất, năng lực cá nhân người học, góp
phần đào tạo chuyên sâu, chuyên gia. Theo đó, nên chia tổng thời gian học thành
hai phần, trong đó, một nửa dành cho học các môn chung, số thời gian còn lại
dành cho việc học các môn riêng theo năng khiếu để phát triển phẩm chất, năng
lực cá nhân. Điều này đòi hỏi người dạy phải tự đổi mới, nâng tầm cao tri thức và
đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy cho phù hợp. Hơn thế, nó cũng đặt ra
cho người quản lý, các khoa, trường sư phạm phải đổi mới cách tuyển chọn nhân
sự đào tạo giáo viên, giảng viên theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của
người giáo viên, giảng viên tương lai. Rõ ràng, khi mục tiêu giáo dục, đào tạo
được thay đổi căn bản, thì bắt buộc chương trình khung, nội dung, phương pháp,
hình thức giáo dục, đào tạo cũng phải thay đổi cho phù hợp.
Phương pháp dạy và học mới không chỉ làm cho người học phát triển tư duy
độc lập, sáng tạo mà còn giúp người thầy thêm tiến bộ, trưởng thành. Cùng với đó, lOMoAR cPSD| 30964149
cần đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả
giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan, công bằng. Cần gắn chặt giáo
dục và đào tạo với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, với sản xuất, kinh doanh; gắn
nhà trường, viện nghiên cứu với các cơ sở sản xuất, nhà máy, xí nghiệp; gắn lý
luận với thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là những
phương cách tốt nhất, hiệu quả nhất để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực nước nhà, như văn kiện trình Đại hội XII của Đảng đã đề ra.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ở
nước ta được nêu trong văn kiện Đại hội XII, về thực chất, là một cuộc cách mạng
trong lĩnh vực này, hiệu ứng của nó sẽ làm biến đổi tích cực nhiều mặt của đời
sống xã hội Việt Nam, là sự vun trồng “nguyên khí quốc gia”, làm cho nền học
vấn nước nhà hưng thịnh, đất nước phát triển bền vững.