Quan niệm của duy vật biện chứng - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Câu 1: Hãy phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biệnchứng về phương thức chung của sự phát triển. Rút ra ý nghĩa vềmặt phương pháp luận. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

NHÓM 5 Thứ bảy, ngày 13 tháng 11 năm
2021
1. Nguyễn Lê Gia Hân (21)
2. Trần Xuân Huy (22) – TN
3. Nguyễn Trọng Khải (23)
4. Nguyễn Tuấn Khoa (24)
5. Đoàn Cao Kỳ (25) – TK
Câu 1: Hãy phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về phương thức chung của sự phát triển. Rút ra ý nghĩa về
mặt phương pháp luận.
* Quy luật lượng chất chỉ ra cho thấy phương thức chung của sự phát triển.
Phương thức đó từng bước tích lũy về mặt lượng để thay đổi về mặt chất
ngược lại.
a. Phân tích:
- Lượng khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn của sự vật, hiện tượng
về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính,
tổng số các bộ phận, đại lượng, tốc độ nhịp điệu vận động phát triển
của sự vật, hiện tượng.
- Đặc trưng của lượng sẽ được biểu thị bằng con số hoặc các đại lượng chỉ kích
thước dài hoặc ngắn, quy mô, tổng số hay trình độ. Nhưng đối với các trường hợp
phức tạp thì không thể chỉ diễn tả bằng những con số đòi hỏi sự chính xác cao mà
còn phải được nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa.
- Chất khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn của sự vật,
hiện tượng;sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện
tượng làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác.
- Chất chính chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, được coi sự
thống nhất hữu của những thuộc tính làm cho sự vậy chứ không phải
những sự vật khác.
- Theo Mac – nin thì chất và lượng là hai mặt đối lập, bản chất của chất thì
tương đối ổn định, ngược lại thì lượng thường xuyên biến đổi. Tuy nhiên chúng lại
không thể tách rời nhau, đổi lại giữa chúng đều luôn sự tác động qua lại lẫn
nhau.
1
- Sự thống nhất này được xác định trong một độ nhất định khi sự vật đang tồn
tại. Trong đó độ là một phạm trù của triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng
và chất, được biểu thị ở mức độ sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi bản về
chất của sự vật đó.
- Đổi lại khi sự vật mới được hình thành thì từ chất mới thì sẽ một lượng
mới phù hợp, từ đó tạo nên sự thống nhất mới giữa lượng và chất, sự tác động này
được hiểu thông qua quy mô, nhịp điệu phát triển mới của lượng.
b. Ý nghĩa về mặt phương pháp luận:
- Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích lũy
về lượng để biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo
thủ. Bước nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất hình thức tất yếu của
sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng; nhưng sự thay đổi về chất do
thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến giới hạn, tức
đến điểm nút, đến độ nên muốn tạo ra bước nhảy thì phải thực hiện quá trình tích
lũy về lượng.
- Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy yêu cầu
khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng; tưởng nôn nóng thường
biểu hiện chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự tích lũy về lượng cho rằng sự
phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ những bước nhảy liên tục; ngược lại,
tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không dám thực hiện bước nhảy, coi sự phát
triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do vậy, cần khắc phục cả hai biểu hiện trên.
- Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải thái độ khách quan,
khoa học quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy đều tính khách quan, nhưng
quy luật hội chỉ diễn ra thông qua hoạt động ý thức của con người; do vậy,
khi thực hiện bước nhảy trong lĩnh vực hội, tuy vẫn phải tuân theo điều kiện
khách quan, nhưng cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan. Nói cách khác, trong
hoạt động thực tiễn, không những cần xác định quy nhịp điệu bước nhảy
một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập khuôn, mà còn phải có quyết
tâm và nghị lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động nắm
bắt thời thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi
mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
- Thứ , quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó,
phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó
trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng.
2
- Ví dụ: Trong năm học không ngừng tích luỹ kiến thức, đó gọi là lượng. Trong
khi đó vẫn học sinh lớp 12, tức chất chưa thay đổi chỉ lượng đổi. Lượng
tích luỹ tới thi THPT quốc gia (điểm nút) trở thành sinh viên thì chất đã thay
đổi. Đối với những người khác do việc tích lũy kiến thức chưa đủ lượng, chưa đủ
nhiều, chưa sâu sắc thì họ chưa vượt qua được kỳ thi, họ thể sẽ mất thêm thời
gian để tích lũy thêm bằng cách thi vào năm sau hoặc có thể họ sẽ không thi nữa
Câu 2: Vận dụng ý nghĩa từ việc nghiên cứu vấn đề
luận trên đây vào một tình huống để phân tích đưa ra
hướng giải quyết.
a. Tình huống giả định mà nhóm đặt ra:
- Một nhóm bạn trẻ với tinh thần nhiệt huyết của tuổi trẻ, muốn thử thách bản
thân đồng thời hy vọng rằng mình có thể thành công trong tương lai đã họp lại
với nhau và tự mình khởi nghiệp với mặt hàng đó là kinh doanh giày dép.
- Bằng kiến thức phong phú về thời trang giày dép của giới trẻ và đồng thời có
thể dự đoán được xu hướng thì các bạn trẻ đã kêu gọi vốn thành công và trở thành
một doanh nghiệp khởi nghiệp nhỏ và vẫn chưa có nhiều chỗ đứng trên thị trường.
3
- Quá trình khởi nghiệp thì luôn không dễ dàng gì, luôn tiềm ẩn nhiều
chông gai thử thách dành cho những người chủ doanh nghiệp còn non trẻ, nhất
trong tình hình dịch bệnh như hiện nay đã ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình
doanh nghiệp thay đổi và phát triển.
4
- Cụ thể:
+ Trong giai đoạn bình thường: Doanh nghiệp bắt đầu thay đổi về lượng
trong trường hợp này tăng lượng bằng các phương pháp như: chủ động tích luỹ
kinh nghiệm trong quản giải quyết vấn đề, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân
lực, vật lực, cũng với đó là tiếp tục kêu gọi vốn đầu tư. Khi nguồn lực đạt đến mức
cần thiết (lượng tăng đạt đến điểm nút), doanh nghiệp bắt đầu thay đổi về chất,
doanh nghiệp mở rộng qui mô, dây chuyền sản xuất, mở rộng thị trường nâng
cao chất lượng sản phẩm, ngoài ra doanh nghiệp còn mở rộng sang sản xuất các
sản phẩm khác như quần áo, nón, găng tay,… Cuối cùng, chất của doanh nghiệp
thay đổi từ sản xuất giày, dép sang sản xuất hàng may mặc. Doanh nghiệp tiếp tục
phát triển từ từ tiến đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đa ngành nghề.
+ Trong giai đoạn Covid: Doanh nghiệp chịu tác động của dịch bệnh nên
lượng của doanh nghiệp giảm với các biểu hiện như thu hẹp sản xuất, thu hẹp qui
mô, cắt giảm số loại sản phẩm,… Dần dần lượng giảm đạt điểm điểm nút, lúc này
chất của doanh nghiệp thay đổi, từ sản xuất, kinh doanh đa ngành nghề sang sản
xuất hàng may mặc. Nếu trường hợp này tiếp diễn, doanh nghiệp hai khả năng
để lựa chọn: Một tiếp tục sản xuất như cũ, dẫn đến tiếp tục thu hẹp kinh doanh,
có nguy cơ biến mất khỏi thị trường. Hai là thay đổi mặt hàng kinh doanh để thích
ứng và tiếp tục phát triển.
b. Giải pháp:
- Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam, các doanh nghiệp da giầy bị thiệt hại
lớn do phải ngừng hoặc giảm sản xuất, bị khách hàng hủy đơn hàng xuất
khẩu, trong khi vẫn phải chịu các chi phí duy trì nhà máy, trả lương cho
người lao động...
- Từ đầu tháng 5/2021 đến nay, đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ 4 diễn
biến phức tạp tại các tỉnh phía Nam, đã ảnh hưởng đến sản xuất của các doanh
nghiệp da giầy trong các tháng cuối năm 2021.
SẢN LƯỢNG GIẦY DÉP 2011 – 2020 (Triệu đôi)
Sản
phẩm
2011 2016 2017 2018 2019 2020
Tăng so
2011(%)
Tăng so
2019 (%)
Giày, dép
da
200.40 257.60 263.40 282.50 301.78 289.74 44.6 -4.0
Giày vải 49.60 66.00 67.80 72.70 79.71 81.55 64.3 2.3
5
Sản
phẩm
2011 2016 2017 2018 2019 2020
Tăng so
2011(%)
Tăng so
2019 (%)
Giày thể
thao
380.10 730.80 771.30 821.20 880.03 859.79 126.2 -2.3
Total 630.10 1054.4 1102.50 1176.40 1261.52 1231.08 95.4 -2.4
(Nguồn: Tổng cục Hải Quan)
- Việc thực hiện giãn cách hội kéo dài theo chỉ thị 16 của Chính phủ tại các
tỉnh phía nam đã khiến 80% các nhà máy sản xuất da giầy tại TP HCM, Đồng Nai,
Bình Dương, An Giang, Kiên Giang… những nơi tập trung nhiều doanh
nghiệp da giầy lớn trong các khu công nghiệp, phải ngừng sản xuất do không đủ
điều kiện thực hiện quy chế “3 tại chỗ” và “Một cung đường, hai điểm đến”.
6
- Đối với các doanh nghiệp còn hoạt động, trong bối cảnh như vậy đã
buộc phải giảm sản lượng do phải giảm số lao động làm việc để thực hiện giãn
cách, đồng thời phát sinh nhiều chi phí do đứt gẫy chuỗi cung nguyên phụ liệu, chi
phí phòng chống Covid (xét nghiệm, tiêm chủng, lo ăn, 3 tại chỗ cho người lao
động). Nhiều lao động bỏ về quê tránh lây lan dịch bệnh và khó khăn trong việc đi
lại, di chuyển giữa các địa phương do phong tỏa, giản cách xã hội.
- Trong tình thế đó các doanh nghiệp đang ráo riết tiêm phòng cho công nhân,
thực hiện các biện pháp bảo vệ như sinh hoạt tại nơi làm việc.Tuy ban đầu giải
pháp này rất hiệu quả nhưng sau một thời gian công nhân trở nên mệt mỏi vì phải ở
một chỗ, việc ảnh hưởng về sức khỏe tinh thần của họ ngày cũng càng tăng. Doanh
nghiệp đã chuyển hướng sang thay ca cho những công nhân đã tiêm phòng đầy đủ
cùng lúc đó cũng kêu gọi vốn nhà nước để gải quyết tài chính trong lúc khó khăn
này. Doanh nghiệp đưa ra giải pháp thực hiện các hình chuyển đổi sang làm
các sản phẩm phòng chống dịch như sản xuất nước rửa tay. Mô hình tưởng chừng
như đơn giản này đã đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp trong việc tiếp thêm
nguồn vốn để có thể vượt qua khủng hoảng khi không thể xuất khẩu mặt hàng giày
dép. Cách chuyển đổi tối ưu cùng với việc sử dụng nguồn vốn nhà nước hiệu
quả hứa hẹn sẽ mang lại một bước đột phá trong ngành may mặc nói chung
ngành giày dép nói riêng sau khi đại dịch kết thúc.
7
- Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình môn triết học Mác – Lenin trường Đại học Tài chính – Marketing.
2. https://luathoangphi.vn/noi-dung-quy-luat-luong-chat/
3.https://moit.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-cong-nghiep/dai-dich-covid-19-anh-
huong-the-nao-den-nganh-da-giay-viet-nam-.html
8
| 1/8

Preview text:

NHÓM 5
Thứ bảy, ngày 13 tháng 11 năm 2021
1. Nguyễn Lê Gia Hân (21)
2. Trần Xuân Huy (22) – TN
3. Nguyễn Trọng Khải (23) 4. Nguyễn Tuấn Khoa (24) 5. Đoàn Cao Kỳ (25) – TK
Câu 1: Hãy phân tích quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về phương thức chung của sự phát triển. Rút ra ý nghĩa về mặt phương pháp luận.
* Quy luật lượng – chất chỉ ra cho thấy phương thức chung của sự phát triển.
Phương thức đó là từng bước tích lũy về mặt lượng để thay đổi về mặt chất và ngược lại. a. Phân tích:
- Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng
về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính,
ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng.
- Đặc trưng của lượng sẽ được biểu thị bằng con số hoặc các đại lượng chỉ kích
thước dài hoặc ngắn, quy mô, tổng số hay trình độ. Nhưng đối với các trường hợp
phức tạp thì không thể chỉ diễn tả bằng những con số đòi hỏi sự chính xác cao mà
còn phải được nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa.
- Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện
tượng làm cho sự vật, hiện tượng là nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác.
- Chất chính là chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, được coi là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vậy là nó chứ không phải những sự vật khác.
- Theo Mac – Lê nin thì chất và lượng là hai mặt đối lập, bản chất của chất thì
tương đối ổn định, ngược lại thì lượng thường xuyên biến đổi. Tuy nhiên chúng lại
không thể tách rời nhau, đổi lại giữa chúng đều luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. 1
- Sự thống nhất này được xác định trong một độ nhất định khi sự vật đang tồn
tại. Trong đó độ là một phạm trù của triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng
và chất, được biểu thị ở mức độ sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi cơ bản về chất của sự vật đó.
- Đổi lại khi sự vật mới được hình thành thì từ chất mới thì sẽ có một lượng
mới phù hợp, từ đó tạo nên sự thống nhất mới giữa lượng và chất, sự tác động này
được hiểu thông qua quy mô, nhịp điệu phát triển mới của lượng.
b. Ý nghĩa về mặt phương pháp luận:
- Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích lũy
về lượng để có biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo
thủ. Bước nhảy làm cho chất mới ra đời, thay thế chất cũ là hình thức tất yếu của
sự vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng; nhưng sự thay đổi về chất do
thực hiện bước nhảy gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến giới hạn, tức là
đến điểm nút, đến độ nên muốn tạo ra bước nhảy thì phải thực hiện quá trình tích lũy về lượng.
- Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu
khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng; tư tưởng nôn nóng thường
biểu hiện ở chỗ không chú ý thỏa đáng đến sự tích lũy về lượng mà cho rằng sự
phát triển của sự vật, hiện tượng chỉ là những bước nhảy liên tục; ngược lại, tư
tưởng bảo thủ thường biểu hiện ở chỗ không dám thực hiện bước nhảy, coi sự phát
triển chỉ là những thay đổi về lượng. Do vậy, cần khắc phục cả hai biểu hiện trên.
- Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan,
khoa học và quyết tâm thực hiện bước nhảy; tuy đều có tính khách quan, nhưng
quy luật xã hội chỉ diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con người; do vậy,
khi thực hiện bước nhảy trong lĩnh vực xã hội, tuy vẫn phải tuân theo điều kiện
khách quan, nhưng cũng phải chú ý đến điều kiện chủ quan. Nói cách khác, trong
hoạt động thực tiễn, không những cần xác định quy mô và nhịp điệu bước nhảy
một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập khuôn, mà còn phải có quyết
tâm và nghị lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động nắm
bắt thời cơ thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi
mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
- Thứ tư, quy luật yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng; do đó,
phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó
trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng. 2
- Ví dụ: Trong năm học không ngừng tích luỹ kiến thức, đó gọi là lượng. Trong
khi đó vẫn là học sinh lớp 12, tức là chất chưa thay đổi chỉ có lượng đổi. Lượng
tích luỹ tới kì thi THPT quốc gia (điểm nút) trở thành sinh viên thì chất đã thay
đổi. Đối với những người khác do việc tích lũy kiến thức chưa đủ lượng, chưa đủ
nhiều, chưa sâu sắc thì họ chưa vượt qua được kỳ thi, họ có thể sẽ mất thêm thời
gian để tích lũy thêm bằng cách thi vào năm sau hoặc có thể họ sẽ không thi nữa
Câu 2: Vận dụng ý nghĩa từ việc nghiên cứu vấn đề lý
luận trên đây vào một tình huống để phân tích và đưa ra hướng giải quyết.
a. Tình huống giả định mà nhóm đặt ra:
- Một nhóm bạn trẻ với tinh thần nhiệt huyết của tuổi trẻ, muốn thử thách bản
thân và đồng thời hy vọng rằng mình có thể thành công trong tương lai đã họp lại
với nhau và tự mình khởi nghiệp với mặt hàng đó là kinh doanh giày dép.
- Bằng kiến thức phong phú về thời trang giày dép của giới trẻ và đồng thời có
thể dự đoán được xu hướng thì các bạn trẻ đã kêu gọi vốn thành công và trở thành
một doanh nghiệp khởi nghiệp nhỏ và vẫn chưa có nhiều chỗ đứng trên thị trường. 3
- Quá trình khởi nghiệp thì luôn không dễ dàng gì, nó luôn tiềm ẩn nhiều
chông gai và thử thách dành cho những người chủ doanh nghiệp còn non trẻ, nhất
là trong tình hình dịch bệnh như hiện nay đã ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình
doanh nghiệp thay đổi và phát triển. 4 - Cụ thể:
+ Trong giai đoạn bình thường: Doanh nghiệp bắt đầu thay đổi về lượng
trong trường hợp này là tăng lượng bằng các phương pháp như: chủ động tích luỹ
kinh nghiệm trong quản lí và giải quyết vấn đề, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân
lực, vật lực, cũng với đó là tiếp tục kêu gọi vốn đầu tư. Khi nguồn lực đạt đến mức
cần thiết (lượng tăng đạt đến điểm nút), doanh nghiệp bắt đầu thay đổi về chất,
doanh nghiệp mở rộng qui mô, dây chuyền sản xuất, mở rộng thị trường và nâng
cao chất lượng sản phẩm, ngoài ra doanh nghiệp còn mở rộng sang sản xuất các
sản phẩm khác như quần áo, nón, găng tay,… Cuối cùng, chất của doanh nghiệp
thay đổi từ sản xuất giày, dép sang sản xuất hàng may mặc. Doanh nghiệp tiếp tục
phát triển từ từ tiến đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đa ngành nghề.
+ Trong giai đoạn Covid: Doanh nghiệp chịu tác động của dịch bệnh nên
lượng của doanh nghiệp giảm với các biểu hiện như thu hẹp sản xuất, thu hẹp qui
mô, cắt giảm số loại sản phẩm,… Dần dần lượng giảm đạt điểm điểm nút, lúc này
chất của doanh nghiệp thay đổi, từ sản xuất, kinh doanh đa ngành nghề sang sản
xuất hàng may mặc. Nếu trường hợp này tiếp diễn, doanh nghiệp có hai khả năng
để lựa chọn: Một là tiếp tục sản xuất như cũ, dẫn đến tiếp tục thu hẹp kinh doanh,
có nguy cơ biến mất khỏi thị trường. Hai là thay đổi mặt hàng kinh doanh để thích
ứng và tiếp tục phát triển. b. Giải pháp:
- Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam, các doanh nghiệp da giầy bị thiệt hại
lớn do phải ngừng hoặc giảm sản xuất, bị khách hàng hủy đơn hàng xuất
khẩu, trong khi vẫn phải chịu các chi phí duy trì nhà máy, trả lương cho người lao động...

- Từ đầu tháng 5/2021 đến nay, đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ 4 diễn
biến phức tạp tại các tỉnh phía Nam, đã ảnh hưởng đến sản xuất của các doanh
nghiệp da giầy trong các tháng cuối năm 2021.
SẢN LƯỢNG GIẦY DÉP 2011 – 2020 (Triệu đôi) Sản Tăng so Tăng so 2011 2016 2017 2018 2019 2020 phẩm 2011(%) 2019 (%)
Giày, dép 200.40 257.60 263.40 282.50 301.78 289.74 44.6 -4.0 da Giày vải 49.60 66.00 67.80 72.70 79.71 81.55 64.3 2.3 5 Sản Tăng so Tăng so 2011 2016 2017 2018 2019 2020 phẩm 2011(%) 2019 (%)
Giày thể 380.10 730.80 771.30 821.20 880.03 859.79 126.2 -2.3 thao Total
630.10 1054.4 1102.50 1176.40 1261.52 1231.08 95.4 -2.4
(Nguồn: Tổng cục Hải Quan)
- Việc thực hiện giãn cách xã hội kéo dài theo chỉ thị 16 của Chính phủ tại các
tỉnh phía nam đã khiến 80% các nhà máy sản xuất da giầy tại TP HCM, Đồng Nai,
Bình Dương, An Giang, Kiên Giang… là những nơi tập trung nhiều doanh
nghiệp da giầy lớn trong các khu công nghiệp, phải ngừng sản xuất do không đủ
điều kiện thực hiện quy chế “3 tại chỗ” và “Một cung đường, hai điểm đến”. 6
- Đối với các doanh nghiệp còn hoạt động, trong bối cảnh như vậy đã
buộc phải giảm sản lượng do phải giảm số lao động làm việc để thực hiện giãn
cách, đồng thời phát sinh nhiều chi phí do đứt gẫy chuỗi cung nguyên phụ liệu, chi
phí phòng chống Covid (xét nghiệm, tiêm chủng, lo ăn, ở 3 tại chỗ cho người lao
động). Nhiều lao động bỏ về quê tránh lây lan dịch bệnh và khó khăn trong việc đi
lại, di chuyển giữa các địa phương do phong tỏa, giản cách xã hội.
- Trong tình thế đó các doanh nghiệp đang ráo riết tiêm phòng cho công nhân,
thực hiện các biện pháp bảo vệ như sinh hoạt tại nơi làm việc.Tuy ban đầu giải
pháp này rất hiệu quả nhưng sau một thời gian công nhân trở nên mệt mỏi vì phải ở
một chỗ, việc ảnh hưởng về sức khỏe tinh thần của họ ngày cũng càng tăng. Doanh
nghiệp đã chuyển hướng sang thay ca cho những công nhân đã tiêm phòng đầy đủ
cùng lúc đó cũng kêu gọi vốn nhà nước để gải quyết tài chính trong lúc khó khăn
này. Doanh nghiệp đưa ra giải pháp thực hiện các mô hình chuyển đổi sang làm
các sản phẩm phòng chống dịch như sản xuất nước rửa tay. Mô hình tưởng chừng
như đơn giản này đã đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp trong việc tiếp thêm
nguồn vốn để có thể vượt qua khủng hoảng khi không thể xuất khẩu mặt hàng giày
dép. Cách chuyển đổi tối ưu cùng với việc sử dụng nguồn vốn nhà nước có hiệu
quả hứa hẹn sẽ mang lại một bước đột phá trong ngành may mặc nói chung và
ngành giày dép nói riêng sau khi đại dịch kết thúc. 7 - Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình môn triết học Mác – Lenin trường Đại học Tài chính – Marketing.
2. https://luathoangphi.vn/noi-dung-quy-luat-luong-chat/
3.https://moit.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-cong-nghiep/dai-dich-covid-19-anh-
huong-the-nao-den-nganh-da-giay-viet-nam-.html 8