Quân phiệt gì? Đặc điểm, lịch sử hình thành
chế độ quân phiệt
1. Chủ nghĩa quân phiệt gì?
Quân phiệt (Tình trạng quân nhân) dựa vào lực lượng quân đội cậy thế lực
chiếm quyền binh trong nước đàn áp dân thường.
Quân phiệt còn được hiểu là chủ nghĩa quân phiệt, trào lưu tưởng chính
trị phản động, chủ trương tăng cường sức mạnh quân sự đẩy mạnh việc
chuẩn bị về quân sự, do giới cầm quyền các nước đế quốc chủ nghĩa thi
hành nhằm gây chiến tranh xâm lược, đàn áp các phong trào giải phóng n
tộc, đàn áp các cuộc đấu tranh giai cấp của người lao động trong nước.
Những đặc điểm vốn của chủ nghĩa quân phiệt chạy đua trang, ng
nhanh ngân sách quân sự, thành lập các khối quân sự - chính trị xâm lược,
tăng cường ảnh hưởng của t hợp quân sự - công nghiệp đối với nền kinh tế
đường lối chính trị của Nhà nước, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền
tính chất vanh. Cơ sở tưởng của chủ nghĩa quân phiệt hiện đại chính
sách chống cộng. Việc quân phiệt hoá nền kinh tế các nước bản ch
nghĩa dẫn đến làm giảm sút mạnh những khoản chỉ cho c nhu cầu hội,
làm tăng thuế, nạn lạm phát, làm cho đời sống vật chất của người lao động
xấu đi. Do đó, khi chủ nghĩa quân phiệt hoành hành một nước, các mâu
thuẫn kinh tế, hội chính trị trở lên gay gắt.
2. Đặc điểm của chủ nghĩa quân phiệt
Sau đây một số đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa quân phiệt:
Mặc đồng phục, tuân lời phân biệt cấp bậc ràng
Huy chương, huyền thoại, sùng bái anh hùng
Say quyền lực tính ưu việt
+ Ca tụng bạo lực, chiến tranh khí
+ Khoe khoang sức mạnh sự bất khuất
Trong những hội bị quân sự hóa nặng nề, thường sẽ một thể chế
độc tài, các thành viên thường bị đòi hỏi, từ bỏ giá trị nhân đạo đức cho
chính phủ quân đội.
Con người được mài dũa phải t bỏ tính riêng của mình để được đặc
tính chung thích hợp với hội đó. Lãnh tụ được hình tượng hóa. Người ta
chấp nhận cái chế độ đó không xét lại.
Sự trao dồi về quân sự với mục đích để luyện cho binh lính tuân lệnh,
không đắn đo khi phải giết người khác. Con người bị ảnh hưởng của tập thể
phải từ bỏ tính riêng của mình. Những hệ thống như vậy được duy trì nhờ
sự kiểm soát, tội lỗi, sợ bị phạt.
Một mặt khác những phần thưởng n tăng lương, tăng chức các gương
mẫu chiêu dụ người ta làm theo.
3. Con đường của Nhật Bản tiến tới chủ nghĩa quân phiệt
3.1 Hâm mộ chủ nghĩa đế quốc kiểu phương Tây
Các nhà lãnh tụ Minh Trị tìm kiếm con đường để làm cho Nhật trở thành một
quốc gia thượng hạng, bao gồm thế lực sức mạnh nhờ chiếm đóng lãnh
thổ ngoại bang. Trong thế kỷ 19, những cường quốc phương Tây như Anh
quốc, Đức, Mỹ, Pháp, Bỉ, Lan, Nga Ý chiếm được rất nhiều lãnh thổ
bằng những phương tiện quân sự. Do biết rất lịch sử lâu đời của ch nghĩa
đế quốc phương Tây, đã bắt đầu từ thế kỷ thứ 16, những nhà lãnh đạo
thời Minh Trị muốn tham dự với những cường quốc phương Tây để đòi hỏi
quyền lợi những ưu tiên tại các nước châu Á khác. Tuy nhiên các nhà lãnh
đạo này biết rằng quốc gia họ cần hiện đại hóa gây sức mạnh cho quân
đội trước khi họ bắt đầu đặt điều kiện với các nước phương Tây.
Ngay cả sau khi Nhật đã bỏ công xây dựng quân đội trong nhiều năm, c
nhà lãnh tụ Nhật hiểu rằng vào năm 1895 họ vẫn chưa được ngang hàng với
các đế quốc phương Tây khác. Mặc dù, Nhật thắng trận trong cuộc chiến
tranh Hoa–Nhật vào năm 1894–1895, nhờ vậy chiếm được Đài Loan đã
đòi được Trung Hoa bồi thường cho một số tiền lớn, Nhật không thể chống
cự lại các thế lực phương Tây khác khi Nga, Đức, Pháp đòi Nhật phải từ
bỏ bán đảo Liêu Đông họ đã chiếm được trong chiến tranh. Việc này đã
dẫn tới sự phát triển quân sự nhanh chóng giữ năm 1895 1904.
3.2 Lo ngi v an ninh
Những khuynh hướng về quân phiệt càng phát triển mạnh khi các nhà lãnh
đạo trong chính phủ nhận thấy sự cần thiết để bảo vệ quốc gia chống lại Nga
các cường quốc phương y khác. Quan sát những tiến bộ về kỹ thuật
sự vượt trội về sức mạnh quân sự nói chung hải quân nói riêng của
phương y, Nhật đã sợ sẽ bị xâm chiếm bởi một nước phương y như
Nga. với một nước Trung Hoa đã suy yếu về quân sự kinh tế vào
cuối thế kỷ thứ 19, các nhà lãnh đạo Nhật sợ rằng, khi các thế lực phương
Tây tranh giành lẫn nhau thể làm chính thể Trung Hoa lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng như vậy thể gây ảnh hưởng nặng tới sự an ninh
của Nhật Bản. Yamagata Aritomo, được xem như cha đẻ của quân đội
Nhật cấp tiến cổ cho sự bành trướng lãnh thổ do an ninh hơn muốn
chế ngự.
Kiểm soát lãnh thổ của Hàn Quốc tiêu biểu một yếu tố quan trọng trong việc
bảo vệ Nhật chống lại c nước phương Tây, bởi Hàn Quốc cả biên giới
với Nga Trung Hoa. Nhật không nhận ra rằng, họ phải kiểm soát cả bán
đảo Liêu Đông nằm phía nam của Mãn Châu để đảm bảo cho việc phòng thủ
Hàn Quốc. Mặc dù Nhật đã chiếm được bán đảo Liêu Đông trong cuộc chiến
tranh Trung-Nhật, sự can thiệp của Nga, Đức, Pháp vào năm 1895 buộc
Nhật phải từ bỏ bán đảo này. Nga chiếm cảng Arthur đỉnh của bán đảo Liêu
Đông vào năm 1898, m gia tăng cái cảm tưởng không được an ninh của
Nhật. Mặc liên hiệp quân sự với Anh vào năm 1902 đã cho Nhật một đồng
minh trong trường hợp bị tấn công, những tranh chấp liên tục với Nga đã dẫn
tới cuộc chiến tranh Nga-Nhật vào năm 1904 - 1905.
3.3 Tin tưởng vào vai trò lãnh đạo châu Á
Amaterasu
Vào cuối thế kỷ thứ 19, nhiều nhà lãnh tụ Nhật tin tưởng nước h một
"vận mạng hiển nhiên" để giải thoát các nước châu Á khác thoát khỏi ng
kìm tỏa của các nước đế quốc phương Tây để dẫn dắt các quốc gia này
tới một sức mạnh thịnh ợng tập thể. Fukuzawa Yukichi các nhà văn
khác vào cuối thế kỷ 19 ủng hộ sự nh trướng của Nhật ra hải ngoại
chính sách hội Darwin, mà đã đề xướng sự sinh tồn của những nền văn
hóa mạnh nhất qua một quá trình chọn lọc tự nhiên.
Vào năm 1905, Nhật trở thành quốc gia châu Á đầu tiên đã đánh bại một
cường quốc phương Tây, đó Nga trong cuộc chiến tranh Nga–Nhật 1904–
1905, đã làm vững lòng tin của Nhật trong sứ mạng của họ dẫn dắt c nước
châu Á khuyến khích các vị lãnh đạo của các quốc gia châu Á khác họ
khả năng đứng lên chống lại c mưu đồ của các nước đế quốc phương
Tây.
Nhiều nhóm các nhà văn quốc gia quá khích, chẳng hạn như nhóm đảng
Hắc Long Kita Ikki, giành được sự cảm tình càng ngày càng tăng với quan
điểm của họ rằng Nhật nên lãnh đạo châu Á đ đuổi các thế lực ngoại bang
bằng một cuộc chiến tranh chính nghĩa nếu cần thiết. Nhiều nhóm quốc gia
quá khích này tin tưởng rằng đạo đức trong sáng của dòng giống Yamato
dòng giống đặc biệt của Nhật Bản con cháu của nữ thần mặt trời
Amaterasu cho quyền người Nhật đóng vai trò lãnh đạo tại châu Á.
3.4 Khiêu khích bi các thế lc phương Tây
Một loạt các hành động ép buộc, khiêu khích bởi các đế quốc phương y từ
thập niên 1850 - 1930 gây ra những sự bực tức giữa những người dân Nhật.
Nhật đã phải những hòa ước không bình đẳng với Mỹ, Pháp, Lan,
Nga o m 1858 hạn chế chủ quyền của Nhật, như nhường đất ngay trên
lãnh thổ của mình. nghĩa người ngoại quốc Nhật không phải bị xử
theo luật pháp của Nhật. Hòa ước hải quân tại hội nghị Washington 1921 -
1922 buộc Nhật phải chấp nhận t lệ về số u chiến không lợi 5:5:3
theo thứ tự cho Mỹ, Anh Nhật, các thế lực phương Tây lại bắt buộc
Nhật tại hội nghị Hải quân London chấp nhận với cùng tỷ lệ cho các Tàu tuần
dương hạng nặng
Những thành kiến kỳ thị chủng tộc nặng n đối với người Nhật, thêm vào đối
với những người Hoa những người châu Á khác, đã dẫn tới những việc
xát nghiêm trọng đối với người Nhật. Vào năm 1919 tại hội nghị hòa bình
Paris, c nước phương Tây đã từ chối một lời yêu cầu đơn giản của Nhật
chỉ thêm một câu về sự bình đẳng của các chủng tộc trong hiến chương của
Hội Quốc Liên. Năm 1905 California đã ban hành luật lệ kỳ thị người Nhật
(anti-Japanese legislation). Năm sau đó, hội đồng giáo dục tại San Francisco
ra lệnh cho trẻ em Nhật các nước châu Á khác phải học những trường
riêng biệt. Năm 1924, Mỹ ra luật Japanese Exclusion Act để ngăn ngừa
không cho dân Nhật di tới Mỹ. Hàng loạt những sự lăng mạ quốc tế tới sự
tự hào địa vị của người Nhật đã châm dầu vào những tưởng quân phiệt
đế quốc của các lãnh tụ chính quyền các phần tử quốc gia quá khích
Nhật.
3.5 Nhng li ích v kinh tế
Bởi Nhật lệ thuộc rất nặng về thương mại quốc tế, nên tình trạng kinh tế
suy thoái trên thế giới đã bắt đầu vào năm 1929 đã gây ra nhiều thử thách
kinh tế lớn lao đối với người dân Nhật. Sự suy thoái lớn lao lan rộng trên
khắp thế giới lại xảy ra ngay sau cuộc động đất Kantô vào năm 1923 gây
nhiều thiệt hại đã làm cho nền kinh tế trì trệ suốt thập niên 1920, đã gây
nhiều gian khổ cho nông n những người làm việc cho những hãng nhỏ.
Bước vào thập niên 1930 những động kinh tế cho đế quốc Nhật trở nên
rất mạnh để bảo đảm những thương mại quốc tế được tiếp tục.
Kinh tế phát triển đòi hỏi một thị trường xuất khẩu mạnh cho vải vóc của Nhật
cùng c th hàng a khác. Các nước châu Á khác, đặc biệt Trung Quốc,
đã cung cấp những hội thị trường tốt đẹp nhất cho các sản phẩm xuất
khẩu của Nhật. Bởi vậy chính phủ Nhật cần phải đảm bảo nền thương mại
này sẽ không bị gián đoạn bằng cách đạt được c quyền về thương mại
chuyên chở tại Trung Quốc. Kinh tế Nhật cũng đòi hỏi sự nhập khẩu các
nguyên liệu để cung cấp cho các hãng ởng của nền kỹ nghệ.
Những đất đai rộng rãi những nguồn tài nguyên dồi o tại Mãn Châu như
sắt than đá cung cấp một lời giải cho khó khăn của nước Nhật quá
đông dân nhu cầu về nguyên liệu cho các kỹ nghệ nặng, tập trung vào
việc xây dựng những dụng cụ quân sự. Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu vào
năm 1931. Nhật sau đó xâm lấn tới những quốc gia khác tại Nam Á đ bảo
đảm đầy đủ tài nguyên để duy trì sự tự túc. Thí dụ: Nhật cần dầu hỏa từ
công ty Dutch East Indies để cung cấp cho nền kỹ nghệ quân sự của nó.
4. Lch s hình thành ch nghĩa quân phit Nht Bn
Ngay t thập niên 1880, triều đình Minh Trị đã xúc tiến xây dựng một quân
đội hùng mạnh nhằm mục tiêu phát động các cuộc chiến tranh xâm lược với
lân bang, cụ th mục tiêu trước mắt chính Trung Quốc thời nhà Thanh.
Tháng 11 năm 1880, Bộ trưởng Bộ Tổng tham mưu Yamagata Aritomo (Sơn
Huyện Hữu Bằng) trình lên cho Thiên hoàng Minh Trị bản "Lân bang binh bị
lược". Đến năm 1882, "Trình báo về tài chính để tăng cường lục quân hải
quân" được xuất bản, chủ trương gấp rút tăng cường quân bị phải chấp
nhận hy sinh tất cả. Thiên hoàng Minh Trị tỏ ý hài lòng cho tiến hành thực
thi. Cùng năm đó ông triệu kiến tất cả các Trưởng quan tại các địa phương
ra Thánh ch với nội dung: "Các khanh đều quan địa phương, vậy tất nhiên
phải hiểu ý muốn của Trẫm, đảm bảo chấp hành quán triệt những ý muốn đó".
Dưới triều đại của mình, Thiên hoàng Minh Trị luôn kiên trì chính sách kiêm
lục hợp (gồm thu bốn bể) yểm bác hoành (gồm thu toàn cầu), tức chính
sách bành trướng xâm lược, mở rộng lãnh thổ ra bên ngoài. lần ông đích
thân tham gia diễn tập quân sự thường cho gọi các binh đến để tuyên
dương, khuyến khích "oai nước", đề cao "vận nước" của Nhật Bản.
Theo Đại Nhật Bản Đế quốc Hiến pháp năm 1889, Nhật Bản quốc gia theo
chính thể quân chủ lập hiến, Thiên hoàng tập đoàn quân phiệt nắm giữ
mọi quyền hành. Theo Hiến pháp, Thiên hoàng quyền hành "thiêng liêng
bất khả xâm phạm", Nguyên thủ quốc gia, nắm trọn quyền thống trị. Tuy
nhiên, Thiên hoàng buộc phải dựa vào các điều luật ghi trong Hiến pháp để
thực thi đại quyền của mình, khi Thiên hoàng lấy danh nghĩa của mình đ
ban bố c sắc lệnh về pháp luật, quốc vụ thì "phải được quốc vụ đại thần
cùng tên". Như vậy bản Hiến pháp cũng đã hạn chế ảnh hưởng của Thiên
hoàng trong việc triều chính, góp phần giúp Nhật Bản chuyển dần từ chế độ
quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến, chính trị đảng phái của
giai cấp sản.

Preview text:

Quân phiệt là gì? Đặc điểm, lịch sử hình thành chế độ quân phiệt
1. Chủ nghĩa quân phiệt là gì?
Quân phiệt là (Tình trạng quân nhân) dựa vào lực lượng quân đội cậy thế lực
chiếm quyền binh trong nước đàn áp dân thường.
Quân phiệt còn được hiểu là chủ nghĩa quân phiệt, là trào lưu tư tưởng chính
trị phản động, chủ trương tăng cường sức mạnh quân sự và đẩy mạnh việc
chuẩn bị về quân sự, do giới cầm quyền các nước đế quốc chủ nghĩa thi
hành nhằm gây chiến tranh xâm lược, đàn áp các phong trào giải phóng dân
tộc, đàn áp các cuộc đấu tranh giai cấp của người lao động trong nước.
Những đặc điểm vốn có của chủ nghĩa quân phiệt là chạy đua vũ trang, tăng
nhanh ngân sách quân sự, thành lập các khối quân sự - chính trị xâm lược,
tăng cường ảnh hưởng của tổ hợp quân sự - công nghiệp đối với nền kinh tế
và đường lối chính trị của Nhà nước, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền có
tính chất sôvanh. Cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa quân phiệt hiện đại là chính
sách chống cộng. Việc quân phiệt hoá nền kinh tế ở các nước tư bản chủ
nghĩa dẫn đến làm giảm sút mạnh những khoản chỉ cho các nhu cầu xã hội,
làm tăng thuế, nạn lạm phát, làm cho đời sống vật chất của người lao động
xấu đi. Do đó, khi chủ nghĩa quân phiệt hoành hành ở một nước, các mâu
thuẫn kinh tế, xã hội và chính trị trở lên gay gắt.
2. Đặc điểm của chủ nghĩa quân phiệt
Sau đây là một số đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa quân phiệt:
– Mặc đồng phục, tuân lời và phân biệt cấp bậc rõ ràng
– Huy chương, huyền thoại, sùng bái anh hùng
– Say mê quyền lực và tính ưu việt
+ Ca tụng bạo lực, chiến tranh và vũ khí
+ Khoe khoang sức mạnh và sự bất khuất
Trong những xã hội mà bị quân sự hóa nặng nề, thường là sẽ có một thể chế
độc tài, các thành viên thường bị đòi hỏi, từ bỏ giá trị cá nhân và đạo đức cho chính phủ quân đội.
Con người được mài dũa phải từ bỏ cá tính riêng của mình để có được đặc
tính chung thích hợp với xã hội đó. Lãnh tụ được hình tượng hóa. Người ta
chấp nhận cái chế độ đó không xét lại.
Sự trao dồi về quân sự với mục đích là để luyện cho binh lính tuân lệnh,
không đắn đo khi phải giết người khác. Con người bị ảnh hưởng của tập thể
phải từ bỏ cá tính riêng của mình. Những hệ thống như vậy được duy trì nhờ
sự kiểm soát, tội lỗi, sợ bị phạt.
Một mặt khác những phần thưởng như tăng lương, tăng chức và các gương
mẫu chiêu dụ người ta làm theo.
3. Con đường của Nhật Bản tiến tới chủ nghĩa quân phiệt
3.1 Hâm mộ chủ nghĩa đế quốc kiểu phương Tây
Các nhà lãnh tụ Minh Trị tìm kiếm con đường để làm cho Nhật trở thành một
quốc gia thượng hạng, bao gồm thế lực và sức mạnh nhờ chiếm đóng lãnh
thổ ngoại bang. Trong thế kỷ 19, những cường quốc phương Tây như Anh
quốc, Đức, Mỹ, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Nga và Ý chiếm được rất nhiều lãnh thổ
bằng những phương tiện quân sự. Do biết rất rõ lịch sử lâu đời của chủ nghĩa
đế quốc phương Tây, mà đã bắt đầu từ thế kỷ thứ 16, những nhà lãnh đạo
thời Minh Trị muốn tham dự với những cường quốc phương Tây để đòi hỏi
quyền lợi và những ưu tiên tại các nước châu Á khác. Tuy nhiên các nhà lãnh
đạo này biết rằng quốc gia họ cần hiện đại hóa và gây sức mạnh cho quân
đội trước khi họ bắt đầu đặt điều kiện với các nước phương Tây.
Ngay cả sau khi Nhật đã bỏ công xây dựng quân đội trong nhiều năm, các
nhà lãnh tụ Nhật hiểu rằng vào năm 1895 họ vẫn chưa được ngang hàng với
các đế quốc phương Tây khác. Mặc dù, Nhật thắng trận trong cuộc chiến
tranh Hoa–Nhật vào năm 1894–1895, và nhờ vậy chiếm được Đài Loan và đã
đòi được Trung Hoa bồi thường cho một số tiền lớn, Nhật không thể chống
cự lại các thế lực phương Tây khác khi Nga, Đức, và Pháp đòi Nhật phải từ
bỏ bán đảo Liêu Đông mà họ đã chiếm được trong chiến tranh. Việc này đã
dẫn tới sự phát triển quân sự nhanh chóng giữ năm 1895 và 1904.
3.2 Lo ngi van ninh
Những khuynh hướng về quân phiệt càng phát triển mạnh khi các nhà lãnh
đạo trong chính phủ nhận thấy sự cần thiết để bảo vệ quốc gia chống lại Nga
và các cường quốc phương Tây khác. Quan sát những tiến bộ về kỹ thuật và
sự vượt trội về sức mạnh quân sự nói chung và hải quân nói riêng của
phương Tây, Nhật đã sợ là sẽ bị xâm chiếm bởi một nước phương Tây như
là Nga. Và với một nước Trung Hoa đã suy yếu về quân sự và kinh tế vào
cuối thế kỷ thứ 19, các nhà lãnh đạo Nhật sợ rằng, khi các thế lực phương
Tây tranh giành lẫn nhau có thể làm chính thể Trung Hoa lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng và như vậy có thể gây ảnh hưởng nặng tới sự an ninh
của Nhật Bản. Yamagata Aritomo, được xem như là cha đẻ của quân đội
Nhật cấp tiến cổ võ cho sự bành trướng lãnh thổ vì lý do an ninh hơn là muốn chế ngự.
Kiểm soát lãnh thổ của Hàn Quốc tiêu biểu một yếu tố quan trọng trong việc
bảo vệ Nhật chống lại các nước phương Tây, bởi vì Hàn Quốc có cả biên giới
với Nga và Trung Hoa. Nhật không nhận ra rằng, họ phải kiểm soát cả bán
đảo Liêu Đông nằm phía nam của Mãn Châu để đảm bảo cho việc phòng thủ
Hàn Quốc. Mặc dù Nhật đã chiếm được bán đảo Liêu Đông trong cuộc chiến
tranh Trung-Nhật, sự can thiệp của Nga, Đức, và Pháp vào năm 1895 buộc
Nhật phải từ bỏ bán đảo này. Nga chiếm cảng Arthur ở đỉnh của bán đảo Liêu
Đông vào năm 1898, làm gia tăng cái cảm tưởng không được an ninh của
Nhật. Mặc dù liên hiệp quân sự với Anh vào năm 1902 đã cho Nhật một đồng
minh trong trường hợp bị tấn công, những tranh chấp liên tục với Nga đã dẫn
tới cuộc chiến tranh Nga-Nhật vào năm 1904 - 1905.
3.3 Tin tưởng vào vai trò lãnh đạo châu Á Amaterasu
Vào cuối thế kỷ thứ 19, nhiều nhà lãnh tụ Nhật tin tưởng là nước họ có một
"vận mạng hiển nhiên" để giải thoát các nước châu Á khác thoát khỏi vòng
kìm tỏa của các nước đế quốc phương Tây và để dẫn dắt các quốc gia này
tới một sức mạnh và thịnh vượng tập thể. Fukuzawa Yukichi và các nhà văn
khác vào cuối thế kỷ 19 ủng hộ sự bành trướng của Nhật ra hải ngoại và
chính sách xã hội Darwin, mà đã đề xướng sự sinh tồn của những nền văn
hóa mạnh nhất qua một quá trình chọn lọc tự nhiên.
Vào năm 1905, Nhật trở thành quốc gia châu Á đầu tiên mà đã đánh bại một
cường quốc phương Tây, đó là Nga trong cuộc chiến tranh Nga–Nhật 1904–
1905, đã làm vững lòng tin của Nhật trong sứ mạng của họ dẫn dắt các nước
châu Á và khuyến khích các vị lãnh đạo của các quốc gia châu Á khác là họ
có khả năng đứng lên chống lại các mưu đồ của các nước đế quốc phương Tây.
Nhiều nhóm và các nhà văn quốc gia quá khích, chẳng hạn như nhóm đảng
Hắc Long và Kita Ikki, giành được sự cảm tình càng ngày càng tăng với quan
điểm của họ rằng Nhật nên lãnh đạo châu Á để đuổi các thế lực ngoại bang
bằng một cuộc chiến tranh chính nghĩa nếu cần thiết. Nhiều nhóm quốc gia
quá khích này tin tưởng rằng đạo đức trong sáng của dòng giống Yamato và
dòng giống đặc biệt của Nhật Bản là con cháu của nữ thần mặt trời
Amaterasu cho quyền người Nhật đóng vai trò lãnh đạo tại châu Á.
3.4 Khiêu khích bi các thế lc phương Tây
Một loạt các hành động ép buộc, khiêu khích bởi các đế quốc phương Tây từ
thập niên 1850 - 1930 gây ra những sự bực tức giữa những người dân Nhật.
Nhật đã phải ký những hòa ước không bình đẳng với Mỹ, Pháp, Hà Lan, và
Nga vào năm 1858 hạn chế chủ quyền của Nhật, như nhường đất ngay trên
lãnh thổ của mình. Nó có nghĩa là người ngoại quốc ở Nhật không phải bị xử
theo luật pháp của Nhật. Hòa ước hải quân tại hội nghị Washington 1921 -
1922 buộc Nhật phải chấp nhận tỷ lệ về số tàu chiến không có lợi là 5:5:3
theo thứ tự cho Mỹ, Anh và Nhật, và các thế lực phương Tây lại bắt buộc
Nhật tại hội nghị Hải quân London chấp nhận với cùng tỷ lệ cho các Tàu tuần dương hạng nặng
Những thành kiến kỳ thị chủng tộc nặng nề đối với người Nhật, thêm vào đối
với những người Hoa và những người châu Á khác, đã dẫn tới những việc xô
xát nghiêm trọng đối với người Nhật. Vào năm 1919 tại hội nghị hòa bình
Paris, các nước phương Tây đã từ chối một lời yêu cầu đơn giản của Nhật
chỉ thêm một câu về sự bình đẳng của các chủng tộc trong hiến chương của
Hội Quốc Liên. Năm 1905 California đã ban hành luật lệ kỳ thị người Nhật
(anti-Japanese legislation). Năm sau đó, hội đồng giáo dục tại San Francisco
ra lệnh cho trẻ em Nhật và các nước châu Á khác phải học những trường
riêng biệt. Năm 1924, Mỹ ra luật Japanese Exclusion Act để ngăn ngừa
không cho dân Nhật di cư tới Mỹ. Hàng loạt những sự lăng mạ quốc tế tới sự
tự hào và địa vị của người Nhật đã châm dầu vào những tư tưởng quân phiệt
và đế quốc của các lãnh tụ chính quyền và các phần tử quốc gia quá khích Nhật.
3.5 Nhng li ích vkinh tế
Bởi vì Nhật lệ thuộc rất nặng về thương mại quốc tế, nên tình trạng kinh tế
suy thoái trên thế giới đã bắt đầu vào năm 1929 đã gây ra nhiều thử thách
kinh tế lớn lao đối với người dân Nhật. Sự suy thoái lớn lao và lan rộng trên
khắp thế giới lại xảy ra ngay sau cuộc động đất Kantô vào năm 1923 gây
nhiều thiệt hại và đã làm cho nền kinh tế trì trệ suốt thập niên 1920, đã gây
nhiều gian khổ cho nông dân và những người làm việc cho những hãng nhỏ.
Bước vào thập niên 1930 những động cơ kinh tế cho đế quốc Nhật trở nên
rất mạnh để bảo đảm những thương mại quốc tế được tiếp tục.
Kinh tế phát triển đòi hỏi một thị trường xuất khẩu mạnh cho vải vóc của Nhật
cùng các thứ hàng hóa khác. Các nước châu Á khác, đặc biệt là Trung Quốc,
đã cung cấp những cơ hội thị trường tốt đẹp nhất cho các sản phẩm xuất
khẩu của Nhật. Bởi vậy chính phủ Nhật cần phải đảm bảo là nền thương mại
này sẽ không bị gián đoạn bằng cách đạt được các quyền về thương mại và
chuyên chở tại Trung Quốc. Kinh tế Nhật cũng đòi hỏi sự nhập khẩu các
nguyên liệu để cung cấp cho các hãng xưởng của nền kỹ nghệ.
Những đất đai rộng rãi và những nguồn tài nguyên dồi dào tại Mãn Châu như
là sắt và than đá cung cấp một lời giải cho khó khăn của nước Nhật vì quá
đông dân và nhu cầu về nguyên liệu cho các kỹ nghệ nặng, mà tập trung vào
việc xây dựng những dụng cụ quân sự. Nhật Bản xâm chiếm Mãn Châu vào
năm 1931. Nhật sau đó xâm lấn tới những quốc gia khác tại Nam Á để bảo
đảm có đầy đủ tài nguyên để duy trì sự tự túc. Thí dụ: Nhật cần dầu hỏa từ
công ty Dutch East Indies để cung cấp cho nền kỹ nghệ và quân sự của nó.
4. Lch shình thành chnghĩa quân phit Nht Bn
Ngay từ thập niên 1880, triều đình Minh Trị đã xúc tiến xây dựng một quân
đội hùng mạnh nhằm mục tiêu phát động các cuộc chiến tranh xâm lược với
lân bang, cụ thể mục tiêu trước mắt chính là Trung Quốc thời nhà Thanh.
Tháng 11 năm 1880, Bộ trưởng Bộ Tổng tham mưu Yamagata Aritomo (Sơn
Huyện Hữu Bằng) trình lên cho Thiên hoàng Minh Trị bản "Lân bang binh bị
lược". Đến năm 1882, "Trình báo về tài chính để tăng cường lục quân và hải
quân" được xuất bản, chủ trương gấp rút tăng cường quân bị dù phải chấp
nhận hy sinh tất cả. Thiên hoàng Minh Trị tỏ ý hài lòng và cho tiến hành thực
thi. Cùng năm đó ông triệu kiến tất cả các Trưởng quan tại các địa phương và
ra Thánh chỉ với nội dung: "Các khanh đều là quan địa phương, vậy tất nhiên
phải hiểu ý muốn của Trẫm, đảm bảo chấp hành quán triệt những ý muốn đó".
Dưới triều đại của mình, Thiên hoàng Minh Trị luôn kiên trì chính sách kiêm
lục hợp (gồm thu bốn bể) và yểm bác hoành (gồm thu toàn cầu), tức chính
sách bành trướng xâm lược, mở rộng lãnh thổ ra bên ngoài. Có lần ông đích
thân tham gia diễn tập quân sự và thường cho gọi các binh sĩ đến để tuyên
dương, khuyến khích "oai nước", đề cao "vận nước" của Nhật Bản.
Theo Đại Nhật Bản Đế quốc Hiến pháp năm 1889, Nhật Bản là quốc gia theo
chính thể quân chủ lập hiến, Thiên hoàng và tập đoàn quân phiệt nắm giữ
mọi quyền hành. Theo Hiến pháp, Thiên hoàng có quyền hành "thiêng liêng
bất khả xâm phạm", là Nguyên thủ quốc gia, nắm trọn quyền thống trị. Tuy
nhiên, Thiên hoàng buộc phải dựa vào các điều luật ghi trong Hiến pháp để
thực thi đại quyền của mình, và khi Thiên hoàng lấy danh nghĩa của mình để
ban bố các sắc lệnh về pháp luật, quốc vụ thì "phải được quốc vụ đại thần
cùng ký tên". Như vậy bản Hiến pháp cũng đã hạn chế ảnh hưởng của Thiên
hoàng trong việc triều chính, góp phần giúp Nhật Bản chuyển dần từ chế độ
quân chủ chuyên chế sang chế độ quân chủ lập hiến, chính trị đảng phái của giai cấp tư sản.
Document Outline

  • Quân phiệt là gì? Đặc điểm, lịch sử hình thành chế
    • 1. Chủ nghĩa quân phiệt là gì?
    • 2. Đặc điểm của chủ nghĩa quân phiệt
    • 3. Con đường của Nhật Bản tiến tới chủ nghĩa quân
      • 3.1 Hâm mộ chủ nghĩa đế quốc kiểu phương Tây
      • 3.2 Lo ngại về an ninh
      • 3.3 Tin tưởng vào vai trò lãnh đạo ở châu Á
      • 3.4 Khiêu khích bởi các thế lực phương Tây
      • 3.5 Những lợi ích về kinh tế
    • 4. Lịch sử hình thành chủ nghĩa quân phiệt ở Nhật