



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61630936 BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI BÀI TẬP NHÓM
MÔN: LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Đề
bài
: Trình bày khái quát quy định của CISG về vấn
đề miễn trách nhiệm do bên thứ ba có quan hệ với một
bên trong hợp đồng gặp trở ngại. Phân tích một án lệ
điển hình để minh họa Lớp
: N04.TL 2 Nhóm : 03
Hà Nội, 202 4 lOMoAR cPSD| 61630936
BIÊN BẢN XÁC ĐỊNH MỨC ĐỘ THAM GIA VÀ KẾT QUẢ THAM GIA LÀM BÀI TẬP NHÓM
Ngày: 08/05/2024 Địa điểm: Trường Đại học Luật Hà Nội
Nhóm: 03 Lớp: 4606 Khóa: 46 Khoa: Luật
Tổng số sinh viên của nhóm: 10 sinh viên
Nội dung: Xác định mức độ tham gia và kết quả tham gia làm bài tập nhóm
Tên bài tập: Trình bày khái quát quy định của CISG về vấn đề miễn trách nhiệm do bên thứ
ba có quan hệ với một bên trong hợp đồng gặp trở ngại. Phân tích một án lệ điển hình để minh họa
Môn học: Luật thương mại quốc tế Đánh giá của SV STT Mã SV Họ và tên SV ký tên A B C 1 460622 Đinh Ngọc Lan X 2
460624 Đặng Vũ Khánh Linh X 3 460625 Đinh Phương Linh X 4 460626 Nguyễn Thùy Linh X 5 460627 Lê Linh Loan X 6 460628 Lò Thị Khánh Ly X 7 460629 Đoàn Thanh Mai X 8 460630 Trần Ngọc Mai X 9 460631 Nguyễn Anh Minh X 10 460632 Dương Thị Trà My X
- Kết quả điểm bài viết:........................
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2024
+ Giáo viên chấm thứ nhất:.................. NHÓM TRƯỞNG
+ Giáo viên chấm thứ hai:....................
- Kết quả điếm thuyết trình:.................. Nguyễn Thùy Linh
- Điểm kết luận cuối cùng:................... lOMoAR cPSD| 61630936 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
NỘI DUNG ...................................................................................................... 1
I. KHÁI QUÁT QUY ĐỊNH CỦA CISG VỀ VẤN ĐỀ MIỄN TRÁCH
NHIỆM DO BÊN THỨ BA CÓ QUAN HỆ VỚI MỘT BÊN TRONG
HỢPĐỒNG GẶP TRỞ NGẠI ...................................................................... 1
1. Tổng quan về CISG ............................................................................ 1
2. Quy định của CISG về vấn đề miễn trách nhiệm do bên thứ ba
có ............................................................................................................... 2
quan hệ với một bên trong hợp đồng gặp trở ngại .............................. 2
II. ÁN LỆ AUSTRALIAN RAW WOOL CASE I ........................................ 4
1. Tóm tắt vụ tranh chấp ........................................................................ 4
2. Tóm tắt lập luận của nguyên đơn, bị đơn và cơ quan tài phán ...... 5
3. Đánh giá, bình luận ............................................................................. 5
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 6
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 6 lOMoAR cPSD| 61630936 1 MỞ ĐẦU
Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, dưới sự phát triển của
công nghệ thông tin và khoa học kỹ thuật hiện đại, thương mại quốc tế đã trở
thành một lĩnh vực quan trọng, tạo điều kiện cho các nước tham gia phát triển
kinh tế. Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, hệ thống pháp
luật quốc gia và quốc tế đều quy định các hình thức chế tài, bên cạnh đó, cũng
quy định một số trường hợp miễn trách nhiệm. Trong khuôn khổ của Công ước
viên năm 1980 về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế (CISG), một trong các
trường hợp được miễn trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng theo quy định tại
khoản 2 Điều 79 là trường hợp miễn trách nhiệm do bên thứ ba có quan hệ với
một bên trong hợp đồng gặp trở ngại. Quy định về người thứ ba của CISG là
một quy định hoàn toàn khác biệt so với các căn cứ miễn trách nhiệm khác. Vì
vậy, nhóm 03 chọn phân tích án lệ Australian raw wool case để nghiên cứu và
có cái nhìn tổng quan hơn về trường hợp miễn trách nhiệm này. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT QUY ĐỊNH CỦA CISG VỀ VẤN ĐỀ MIỄN TRÁCH
NHIỆM DO BÊN THỨ BA CÓ QUAN HỆ VỚI MỘT BÊN TRONG HỢP ĐỒNG GẶP TRỞ NGẠI
1. Tổng quan về CISG
CISG là viết tắt của Contracts for the International Sale of Goods, có
nghĩa là Công ước của Liên hợp quốc về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc
tế. CISG còn được gọi là Công ước Viên năm 1980 vì Công ước này được thông
qua tại Viên (Áo) vào ngày 11/04/1980 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1988. Đây
là một hiệp ước đa phương thiết lập nên một khuôn khổ thống nhất, được áp
dụng để điều chỉnh các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở
thương mại tại các quốc gia khác nhau. Cho đến thời điểm hiện tại, CISG được
coi là một trong những điều ước thành công nhất trong thương mại quốc tế. lOMoAR cPSD| 61630936 2
2. Quy định của CISG về vấn đề miễn trách nhiệm do bên thứ ba
có quan hệ với một bên trong hợp đồng gặp trở ngại
Vấn đề miễn trách nhiệm do bên thứ ba có quan hệ với một bên trong
hợp đồng gặp trở ngại được quy định tại khoản 2 Điều 79 CISG. Theo đó, nếu
việc một bên không thực hiện nghĩa vụ là do việc không thực hiện nghĩa vụ của
bên thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn bộ hoặc một phần của hợp đồng, bên đó
chỉ được miễn trách nhiệm nếu: (1) bên đó được miễn trách nhiệm theo quy
định tại khoản 1 Điều 79; và (2) bên thứ ba cũng được miễn trách nhiệm nếu
quy định tại khoản 1 Điều 79 áp dụng đối với bên thứ ba đó. Vì cả hai điều kiện
này cần phải được đáp ứng đồng thời nên khoản 2 Điều 79 CISG được xem là điều kiện kép.
Để được miễn trách nhiệm theo khoản 1 Điều 79 CISG, có ba điều kiện
cần phải chứng minh: (1) việc không thực hiện nghĩa vụ là do trở ngại nằm
ngoài khả năng kiểm soát; và (2) không thể tiên liệu một cách hợp lý vào thời
điểm giao kết hợp đồng; hoặc (3) không thể khắc phục được trở ngại đó hoặc hậu quả của nó.
Thứ nhất, việc không thực hiện nghĩa vụ là do trở ngại nằm ngoài khả
năng kiểm soát. Tức, đây phải là trở ngại khách quan và không chịu sự chi phối
của bất kì bên nào trong hợp đồng. Các sự kiện khách quan thường là những
hiện tượng tự nhiên như động đất, sóng thần, lũ lụt, bão…những thiên tai này
con người chỉ có thể dự báo trong tương lai gần và không thể biết rõ được hậu
quả của nó. Đối với các hoạt động thương mại quốc tế, những sự kiện thiên tai
xảy ra có thể khiến một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, làm cho quá trình thực
hiện hợp đồng bị trì hoãn. Tuy nhiên, theo thực tiễn án lệ của CISG, bên cạnh
thiên tai có rất nhiều trường hợp được xem là sự kiện khách quan như quyết
định của Chính phủ hay trường hợp nhà sản xuất bị ngưng sản xuất khẩn cấp. lOMoAR cPSD| 61630936 3
Thứ hai, không thể tiên liệu một cách hợp lý vào thời điểm giao kết hợp
đồng. Quy định này đặt ra yêu cầu xác định yếu tố chủ quan trong nhận thức
của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng về trở ngại có thể xảy ra và trở
ngại có thể xảy ra này phải nằm ngoài khả năng dự tính trước, không buộc phải
tính được trước của các bên khi các bên tiến hành giao kết hợp đồng. Xét về
mặt thời gian, quy định này nêu rõ thời điểm xuất hiện trở ngại, đó là xảy ra
sau khi hợp đồng được giao kết.
Thứ ba, không thể khắc phục được trở ngại đó hoặc hậu quả của nó. Do
trở ngại nằm ngoài tầm kiểm soát của bên vi phạm, nên họ không thể lường
trước được về trở ngại, do đó thiệt hại phát sinh từ trở ngại này gây ra phải là
tất yếu, không thể tránh khỏi. Thuật ngữ “không thể khắc phục được” có thể
hiểu là dù đã thực hiện mọi biện pháp nhưng vẫn phát sinh thiệt hại hoặc vẫn
không thể khôi phục được như ban đầu. Tức, bên bị thiệt hại bắt buộc phải có
các biện pháp để ngăn chặn, giảm thiểu thiệt hại và phải chứng minh rằng họ
đã chủ động, tích cực áp dụng các biện pháp mà không thể ngăn chặn mức độ
ảnh hưởng đến lợi ích của bên bị vi phạm. Yếu tố này cần được xem xét một
cách cẩn thận trên thực tế1.
Để áp dụng điều khoản này, việc xác định rõ bên thứ ba theo quy định
tại khoản 2 Điều 79 CISG cũng rất quan trọng. Trong một nỗ lực hướng đến sự
diễn giải thống nhất CISG, Hội đồng tư vấn CISG đã ban hành bản Quan điểm
số 07 về Miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo Điều 79 CISG, trong
đó có những diễn giải nhất định về nội hàm của "bên thứ ba". Theo đó, bên thứ
ba, trước hết phải được hiểu là cá nhân hoặc pháp nhân tách biệt và khác biệt
với người bán. Thứ hai, bên thứ ba phải độc lập với bên bán về mặt chức năng
và kinh tế, nằm ngoài cơ cấu tổ chức của bên bán, cũng như không nằm trong
1 Lê Thị Anh Xuân, Nguyễn Thị Minh Trang (2021), Miễn trách nhiệm do có sự tham gia của bên thứ ba theo
CISG 1980 và Pháp luật Việt Nam, Khoa học kiểm sát, số chuyên đề 01 – 2021, tr.147. lOMoAR cPSD| 61630936 4
phạm vi kiểm soát hoặc chịu trách nhiệm của bên bán. Bên cạnh Hội đồng tư
vấn CISG, nhiều học giả cũng đã chia sẻ quan điểm của mình về việc diễn giải
khoản 2 Điều 79. Theo đó, thuật ngữ "engaged" (thuê) trong khoản 2 Điều 79
chỉ ra rằng phải có sự tồn tại về quan hệ hợp đồng giữa bên bán và bên thứ ba.
Hợp đồng phụ này thường được ký kết sau hợp đồng chính. Liên quan đến việc
"thực hiện toàn bộ hoặc một phần hợp đồng", nội dung của hợp đồng phụ phải
có mối quan hệ hữu cơ với hợp đồng chính. Nói cách khác, những nghĩa vụ của
bên thứ ba thường được kết nối với hợp đồng chính và bên thứ ba phải nhận
thức được rằng công việc họ làm chính là một phương tiện để thực thi hợp đồng
chính. Ngoài ra, về cách hiểu thế nào là việc “tham gia thực hiện một phần hoặc
toàn bộ hợp đồng” của người thứ ba nêu trên, tạm thời CISG cũng chưa giải thích rõ.
Sự ra đời của khoản 2 Điều 79 CISG được đặt trong bối cảnh thực tiễn
các hoạt động ký kết hợp đồng phụ trong giao thương quốc tế trở nên phổ biến.
Do vậy, điều khoản này được soạn thảo nhằm giải quyết quan ngại trong giao
thương quốc tế, hướng đến việc xem xét miễn trách nhiệm cho người bán một
cách thận trọng trong trường hợp việc không thực hiện hợp đồng xuất phát từ
lỗi của người thực hiện hợp đồng phụ. Như vậy, mục đích của khoản 2 Điều 79
không phải là hướng đến việc cung cấp miễn trừ cho một bên trong trường hợp
do lỗi của bên thứ ba. Thay vào đó, điều khoản này hướng đến thắt chặt các quy
định về việc hưởng miễn trừ2.
II. ÁN LỆ AUSTRALIAN RAW WOOL CASE I
1. Tóm tắt vụ tranh chấp
- Các bên tham gia tranh chấp và giải quyết tranh chấp
2 Trần Thanh Tâm, Phạm Thanh Cao (2017), Miễn trách nhiệm do người thứ ba theo Điều 79 Công ước của
Liên hiệp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Từ góc nhìn so sánh luật, Tạp chí khoa học pháp lý
Việt Nam số 07 (110), tr.58. lOMoAR cPSD| 61630936 5 - Sự kiện pháp lý - Vấn đề pháp lý
- Luật áp dụng để giải quyết tranh chấp
=> Phải tìm hiểu xem nó là gì nhé, tránh xác định sai, nhất là vấn đề pháp lý
2. Tóm tắt lập luận của nguyên đơn, bị đơn và cơ quan tài phán
3. Đánh giá, bình luận
Ở phần này sẽ phân tích xem án lệ này minh họa cho quy định tại 79 (2) CISG
như thế nào. Tuy nhiên ở án lệ này thì cuối cùng vẫn không được miễn trách
nhiệm vì không đáp ứng điều kiện. Phải đánh giá và bình luận được cái đó (tại
sao lại không được miễn trách nhiệm? không đáp ứng những điều kiện nào?...).
Bên cạnh đó, thì còn đánh giá một số vấn đề pháp lý khác. KẾT LUẬN
Về nguyên tắc, khi hợp đồng được ký kết thì các bên sẽ thiên cḥ í và nỗ
lực để thực hiên ḥ ợp đồng. Nhưng trong thực tế, có nhiều trường hợp hợp đồng
không được thực hiện đúng với thỏa thuận, thậm chí còn có thể gây thiệt hại
cho các chủ thể của hợp đồng. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào chủ thể
không thực hiện đúng hợp đồng cũng có lỗi và trong những trường hợp đó họ
được miễn trách nhiệm pháp lý. Do đó, việc thiết lập khung pháp lý tại khoản
2 Điều 79 CISG cho các trường hợp miễn trách nhiệm do không thực hiện nghĩa
vụ hợp đồng là một vấn đề thiết thực và quan trọng nhằm xác lập những tiêu
chuẩn khắt khe hơn trong trường hợp bên không thực hiện hợp đồng xin được
hưởng miễn trách nhiệm do việc không thực hiện hợp đồng của bên thứ ba.
Đồng thời, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế cũng như tính công bằng giữa các bên tham gia ký
hợp đồng và các bên có liên quan. lOMoAR cPSD| 61630936 6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Lê Thị Anh Xuân, Nguyễn Thị Minh Trang (2021), Miễn trách nhiệm do
có sự tham gia của bên thứ ba theo CISG 1980 và Pháp luật Việt Nam, Khoa
học kiểm sát, số chuyên đề 01 – 2021. 2.
Trần Thanh Tâm, Phạm Thanh Cao (2017), Miễn trách nhiệm do người
thứ ba theo Điều 79 Công ước của Liên hiệp quốc về Hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế: Từ góc nhìn so sánh luật, Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam số 07 (110). PHỤ LỤC CISG – online 1065 Hội đồng trọng tài
Ủy ban Trọng tài Thương mại và Kinh tế Quốc tế Trung Quốc (CIETAC)
Ngày đưa ra phán quyết Ngày 10 tháng 3 năm 1995 Số án lệ CISG/1995/04 Tên án lệ
Tranh chấp vải len thô Úc (Australian raw wool case) Nguyên đơn
Công ty Cổ phần Thương Mại Giang Tô (Bên mua) Bị đơn
Doanh nghiệp Úc (Bên bán)
Ủy ban Trọng tài Thương mại và Kinh tế Quốc tế Trung Quốc (CIETAC) đã
chấp nhận giải quyết tranh chấp, căn cứ theo: •
Điều khoản giải quyết tranh chấp được ghi nhận trong Điều khoản mua
bán chung về mua vải len và áo len của Tập đoàn mua bán nguyên liệu lOMoAR cPSD| 61630936 7
thô quốc tế ChinaTex, trong hợp đồng số 93YWZC87/333046AU được
ký kết bởi Nguyên đơn (Bên mua) - Công ty Cổ phần Thương Mại Giang
Tô với Bị đơn (Bên bán) - Doanh nghiệp Úc vào ngày 20 tháng 3 năm 1993; •
Đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp được nộp bởi Bên mua vào ngày 6 tháng 6 năm 1994.
Trọng tài viên A được chỉ định bởi Bên mua, Trọng tài viên D được chỉ định
bởi Bên bán và Chủ tịch Hội đồng trọng tài P do Chủ tịch Ủy ban Trọng tài chỉ
định, đã thành lập Hội đồng Trọng tài để tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp.
Hội đồng trọng tài đã xem xét kỹ lưỡng các tài liệu bằng văn bản do các bên
cung cấp và tổ chức phiên họp tại Bắc Kinh vào ngày 25 tháng 10 năm 1994.
Đại diện của Bên mua và Bên bán đều có mặt. Họ đã tranh luận và trả lời các
câu hỏi của Hội đồng trọng tài. Sau phiên họp, các bên đã cung cấp thêm các tài liệu bổ sung.
Hội đồng trọng tài đã kết luận vụ việc dựa trên những tài liệu bằng văn bản và
phiên họp giải quyết tranh chấp, từ đó đưa ra được phán quyết. Dưới đây là
các sự kiện, lập luận của Hội đồng trọng tài và phán quyết: SỰ KIỆN
Ngày 20 tháng 3 năm 1993, Bên mua và Bên bán đã ký kết hợp đồng số
93YWZC87/333046AU. Hợp đồng chỉ ra rằng Bên mua mua của Bên bán: •
Hàng hóa: Len thô Úc T56FNF; •
Chất lượng hàng hóa: Độ chắc chắn tối đa 22.6 Mic, dày 3.5 inches và
độ đàn hồi 16%, không chứa len rối; •
Những điều khoản và điều kiện áp dụng: Áp dụng Điều khoản mua bán
chung về mua vải len và áo len của Tập đoàn mua bán nguyên liệu thô quốc tế ChinaTex. lOMoAR cPSD| 61630936 8
Hợp đồng còn quy định: •
Trọng lượng hàng hóa: 50,000 kg (chênh lệch 2%); • Giá: 3.48 USD/kg; •
Tổng giá trị hợp đồng: 174,000 USD;
Điều kiện giao hàng: CNF Thượng Hải; •
Thời gian vận chuyển: Tháng 6 năm 1993.
Sau khi ký kết hợp đồng, các bên đã có sự thay đổi về giá và địa điểm giao hàng: •
Giá trị hợp đồng được thay đổi từ 3.48 USD/kg thành 3.44 USD/kg; •
Địa điểm giao hàng được đổi từ Thượng Hải sang Trương Gia Cảng; •
Tổng giá trị hợp đồng được thay đổi từ 174,000 USD thành 172,000 USD.
Mặc dù các bên đều đã xác nhận sự thay đổi nhưng họ không ký kết thành hợp
đồng mới. Cả hai bên đồng ý thực hiện theo hợp đồng đã được sửa đổi.
Ngày 31 tháng 5 năm 1993, Bên mua đã thanh toán 172,000 USD qua ngân
hàng cho Bên bán. Ngày 9 tháng 7 năm 1993, Bên bán đã thông báo lại cho
Bên mua về việc hàng hóa đã được xếp lên tàu, nhưng sẽ được trung chuyển ở Hong Kong, và: •
Tàu vận chuyển Hong Kong (tên): Trade Safety V56; Ngày cập bến
dự kiến: Ngày 10 tháng 8 năm 1993.
Tuy nhiên, tàu đã cập bến tại Trương Gia Cảng vào ngày 18 tháng 8 năm 1993
và khi khách hàng của Bên mua tới nơi để nhận hàng thì họ phát hiện không có
hàng hóa nào trong hợp đồng trên con tàu đó. •
Sau khi kiểm tra, Bên mua phát hiện hàng hóa đã được giao tới Trương
Gia Cảng vào ngày 20 tháng 7 năm 1993 trên con tàu tên Sufa9327. Tại
thời điểm đó, khách hàng của Bên mua đã chậm khai báo hải quan cũng lOMoAR cPSD| 61630936 9
như nhận hàng và phải nộp phạt phí khai báo muộn 16,080 Nhân dân tệ
cho Hải quan của Trương Gia Cảng. •
Sau khi nhận hàng, khách hàng của Bên mua đã phát hiện chất lượng
hàng hóa đã bị ảnh hưởng và đã đăng ký giám định. Vào ngày 30 tháng
10 năm 1993 và ngày 5 tháng 1 năm 1994, Cơ quan giám định hàng hóa
xuất - nhập khẩu tỉnh Giang Tô đã đưa ra 2 giấy giám định, chứng nhận
rằng chất lượng hàng hóa đã bị ảnh hưởng.
Theo đó, Bên mua đã thông báo với Bên bán về thiệt hại. Do Bên bán từ chối
cáo buộc của Bên mua, Bên mua đã yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng hình
thức trọng tài vào ngày 6 tháng 6 năm 1994.
QUAN ĐIỂM CỦA CÁC BÊN Ý kiến của Bên mua:
Bên mua đã có những yêu cầu sau đây:
1. Bên bán bồi thường khoản tổn thất 34,694.40 USD phát sinh từ việc hàng
hóa không phù hợp với hợp đồng số 93YWZC87/333046AU và Bên bán
trả lãi 4%/tháng kể từ ngày Bên mua thực hiện việc thanh toán.
2. Bên bán bồi thường cho Bên mua khoản tổn thất 16,080 Nhân dân tệ phát
sinh từ việc Bên bán không thông báo cho Bên mua việc sai tên tàu chở hàng và ngày nhận hàng.
3. Bên bán bồi thường cho Bên mua khoản tổn thất 10,800 USD và 65,000
Nhân dân tệ phát sinh từ việc giao vải len không đạt tiêu chuẩn.
4. Bên bán thanh toán lệ phí trọng tài.
Đối với khiếu nại của Bên mua, Bên bán đã gửi bản bào chữa chi tiết.
VẤN ĐỀ TRANH CHẤP
Dưới đây là những tranh chấp chính giữa các bên. lOMoAR cPSD| 61630936 10
1. Hợp đồng số 93YWZC87/333046AU
Bên bán đưa ra lập luận rằng, hợp đồng mà Bên mua đưa ra khác với hợp đồng
trước đó đã được ký kết, bao gồm sự khác biệt về thời gian, giá cả và địa điểm
nhận hàng... Bên bán buộc tội Bên mua đã thay đổi hợp đồng một cách không trung thực và tùy ý.
Bên mua cho rằng hợp đồng được đưa ra bởi Bên bán là hợp đồng gốc được ký
kết bởi cả hai bên, sau đó cả hai bên đã thay đổi về giá, địa điểm nhận hàng…
bằng sự đồng thuận sau khi ký kết hợp đồng. Hợp đồng mà Bên mua đưa ra
chính là hợp đồng đã được thay đổi sau này. Cả hai bên đã thực hiện theo hợp
đồng đã được thay đổi. Bên mua đã giao nộp chứng cứ để củng cố lập luận của
mình. 2. Chứng thư giám định
Bên bán cáo buộc trong phiên họp rằng việc giám định không được thực hiện
trong thời gian ký kết hợp đồng, vậy nên chứng thư giám định không có giá trị.
Theo như điều khoản được quy định tại mặt sau của hợp đồng, việc giám định
phải được thực hiện trong vòng 60 ngày sau khi hàng hóa được vận chuyển tới
địa điểm giao hàng. 2 chứng thư giám định được cung cấp bởi Cơ quan giám
định hàng hóa xuất - nhập khẩu tỉnh Giang Tô được thực hiện sau thời gian
giám định. Hơn nữa, Bên bán cho rằng 2 chứng thư giám định có rất nhiều điểm
xung đột, vì vậy họ nghi ngờ về tính xác thực của giấy giám định. Đáp trả lại
lời cáo buộc, Bên mua phản bác rằng thời gian thực hiện giám định được quy
định tại Điều khoản mua bán chung về mua vải len và áo len của Tập đoàn mua
bán nguyên liệu thô quốc tế ChinaTex nên Điều khoản ở mặt sau của hợp đồng
sẽ không được áp dụng. Cơ quan giám định hàng hóa xuất - nhập khẩu Trung
Quốc không những là nơi giám định cuối cùng được đồng ý thực hiện bởi cả
hai bên, mà đó còn là Cục điều tra liên bang cho hàng hóa xuất - nhập khẩu.
Giấy giám định được cung cấp bởi Cơ quan này là căn cứ cơ bản để xác định lOMoAR cPSD| 61630936 11
thiệt hại theo hợp đồng. Bên bán không có quyền nghi ngờ sự chính xác và tính
xác thực của giấy giám định này.
3. Sai tên tàu vận chuyển và ngày hàng hóa đến
Bên bán từ chối bồi thường cho Bên mua phí phạt khai báo hải quan muộn do
Bên bán đã thông báo cho Bên mua về việc sai tên tàu vận chuyển và ngày hàng
hóa đến nơi. Đây là trách nhiệm của Bên mua được quy định dưới điều khoản
về giá cả theo quy định của CNF (thỏa thuận vận chuyển), trách nhiệm của Bên
bán chỉ là thuê tàu và xếp hàng hóa lên tàu, họ không có trách nhiệm cho những
việc khác. Thêm vào đó, việc hàng hóa không được trung chuyển theo như kế
hoạch ban đầu nằm ngoài tầm kiểm soát của Bên bán.
Về vấn đề trên, Bên mua căn cứ tài liệu bổ sung CFR mục A7 theo tiêu chuẩn
INCOTERMS 1990 quy định, Bên bán phải cung cấp cho Bên mua những
thông báo đầy đủ về việc xếp hàng hóa lên tàu và những lưu ý quan trọng khác
để Bên mua có thể nhận hàng. Bên mua cáo buộc rằng Bên bán đã cung cấp
cho Bên mua sai tên tàu chở hàng và ngày tàu cập bến, đồng thời không thông
báo kịp thời cho Bên mua về sự thay đổi trong kế hoạch trung chuyển, vì vậy,
Bên bán đã vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại INCOTERMS mục A7.
4. Chất lượng của len
(1) Liệu rằng len có bị hỏng hay không và các vấn đề liên quan đến việc
chuyển rủi ro
Bên mua khẳng định rằng 3,017 kg hàng hóa đã bị hỏng và điều này đã được
chứng minh bởi giấy giám định hàng hóa của Cơ quan giám định hàng hóa xuất
- nhập khẩu tỉnh Giang Tô. Bên bán cáo buộc rằng theo CISG 1980, rủi ro của
hàng hóa đã được chuyển sang cho Bên mua kể từ khi hàng hóa được xếp lên
tàu và Bên bán chỉ có trách nhiệm đối với hàng hóa trước thời điểm đó. Hơn
nữa, Cơ quan giám định len của Úc (Tổ chức giám định len lớn nhất thế giới) lOMoAR cPSD| 61630936 12
đã giám định hàng hóa trước khi được xếp lên tàu và giấy giám định đã ghi
nhận rằng hàng hóa lúc đó không bị hỏng.
Để đáp trả lại lời biện hộ của Bên bán, Bên mua trong tài liệu bổ trợ, đã chỉ ra
rằng giấy giám định của Cơ quan giám định hàng hóa xuất - nhập khẩu tỉnh
Giang Tô xác định hàng hóa đã bị hỏng từ trước khi cập bến tại Trương Gia
Cảng. Hơn nữa, theo Điều 11 Điều khoản mua bán chung về mua vải len và áo
len của Tập đoàn mua bán nguyên liệu thô quốc tế ChinaTex, sự giám định của
Cơ quan giám định hàng hóa Trung Quốc là cơ sở để chứng minh về chất lượng,
đặc điểm kỹ thuật và trọng lượng của hàng hóa. Do đó, Bên mua hoàn toàn có
quyền chỉ ra rằng có sự thiệt hại trên cơ sở giấy giám định được cung cấp bởi
Cơ quan giám định hàng hóa Trung Quốc.
(2) Sự thiếu hụt về số lượng
Giấy giám định ngày 30 tháng 10 năm 1993 được cung cấp bởi Bên mua và hóa
đơn của Bên bán đã chứng minh rằng Bên bán đã giao thiếu 931.4 kg hàng hóa.
Bên bán biện hộ rằng trọng lượng hàng hóa đã đạt tiêu chuẩn trước khi xếp lên
tàu và giấy giám định của Cơ quan giám định len Úc đã xác nhận điều này. Hơn
nữa, kể cả có sự thiếu hụt về trọng lượng hàng hóa thì sự thiếu hụt này được
quy định trong điều khoản hợp đồng rằng, trọng lượng hàng hóa có thể lớn hoặc
nhỏ hơn thỏa thuận của các bên.
(3) Mức độ nén chặt của len
Giấy giám định ngày 30 tháng 10 năm 1993 được nộp bởi Bên mua đã chỉ ra
rằng độ nén chặt của 5 bao tải hàng không đáp ứng quy định của hợp đồng. Độ
nén được quy định trong hợp đồng phải đạt tối đa 22.6 Mic, nhưng 5 bao tải
hàng trên chỉ đạt 24.7 Mic. Bên mua chỉ ra rằng 5 bao tải hàng trên là len thô
T423FNF, giá của chúng trên thị trường len Úc là 2.8 USD/kg tính theo ngày
hàng hóa được vận chuyển tới nơi. Vì vậy, việc Bên mua phải trả 499.20 USD là quá nhiều. lOMoAR cPSD| 61630936 13
Bên bán chỉ ra rằng 5 bao tải hàng là len thô T58FNF. Sự chênh lệch giá cả giữa
len được đã được giao và len đáng lẽ phải được giao chỉ có 0.25 USD/kg. Vậy
nên, Bên bán chỉ cần bồi thường Bên mua 208 USD (832kg x 0.25 USD/kg).
(4) Độ dài của len
Bên mua nói rằng chiều dài của loại len mà Bên bán giao chỉ đạt 3.21 inches,
tức không đạt tiêu chuẩn về độ dài là 3.5 inches đã được quy định trong hợp
đồng. Do đó, loại len đã được giao không thể sử dụng để sản xuất áo len. Vì
vậy, Bên mua yêu cầu Bên bán bồi thường tổn thất là 19,761.84 USD. Bên bán
nhận định rằng len có độ dài từ 3.15 - 2.76 inches, hay kể cả 2.99 2.68 inches
hoàn toàn có thể sử dụng để sản xuất áo len. Cách tính sự chênh lệch giá cả của
Bên mua là không chính xác. Hơn nữa, Bên bán chỉ ra rằng sự chênh lệch giá
giữa len dài 3.5 inches và len dài 3.2 inches là 0.012 USD/kg, và thiệt hại của
Bên mua là ít hơn 654.37 USD.
(5) Sự tồn tại của len rối trong hàng hóa
Giấy giám định ngày 30 tháng 10 năm 1993 đã báo cáo rằng Bên mua chỉ ra
567 kg len rối bị lẫn trong hàng hóa. Bên mua yêu cầu bồi thường 1.5 USD/kg.
Bên bán phản biện rằng sự chênh lệch giá chỉ là 0.15 USD/kg và Bên mua chỉ
bị thiệt hại 85.05 USD/kg
(6) Nghĩa vụ của bên mua trong việc giảm thiểu thiệt hại
Theo Điều 77 CISG, Bên bán trong phần biện hộ chỉ ra rằng khi hàng hóa được
giao không phù hợp với hợp đồng, Bên mua có trách nhiệm mua hàng hóa thay
thế trên thị trường quốc tế để giảm thiểu thiệt hại. Tuy nhiên, Bên mua đã không
thực hiện việc này, nên họ phải chịu trách nhiệm cho phần bị thiệt hại.
LẬP LUẬN CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI 1. lOMoAR cPSD| 61630936 14
Điều 1 CISG được áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai bên chủ
thể có trụ sở kinh doanh ở hai quốc gia khác nhau, khi cả hai quốc gia này đều
là thành viên của CISG. Trong trường hợp này, trụ sở của Bên mua nằm ở Trung
quốc và trụ sở của Bên bán nằm ở Úc. Cả hai quốc gia đều ký kết CISG. Đây
là hợp đồng mua bán hàng hóa và không có yêu cầu tuân theo luật áp dụng
trong hợp đồng. Vì vậy, CISG được áp dụng trong trường hợp này. 2.
Hội đồng trọng tài ghi nhận rằng Bên mua và Bên bán đã thay đổi hợp đồng số
93YWZC87/333046AU sau khi ký kết nó. Mặc dù không tạo ra một hợp đồng
mới, nhưng họ thực hiện theo những gì được thay đổi. Theo đó, Hội đồng trọng
tài ghi nhận rằng Bên mua không tự ý thay đổi hợp đồng. 3.
Về vấn đề hiệu lực của giấy giám định, Hội đồng trọng tài ghi nhận những điều
khoản ở mặt sau của hợp đồng là một phần của hợp đồng số
93YWZC87/333046AU. Nếu chủ ý của các bên là chỉ sử dụng điều khoản ở
mặt trước hợp đồng và những Điều khoản chung về mua bán len và áo len của
Tập đoàn mua bán nguyên liệu thô quốc tế ChinaTex ở mặt trước của hợp đồng,
họ đáng lẽ nên loại bỏ những điều khoản ở mặt sau hợp đồng một cách rõ ràng.
Nếu không, tất cả các điều khoản trong hợp đồng sẽ đều được áp dụng. Trong
khi đó, ở mặt trước hợp đồng quy định rằng các điều khoản của hợp đồng sẽ ưu
tiên áp dụng. Thêm vào đó, Điều khoản chung về mua bán len và áo len của
Tập đoàn mua bán nguyên liệu thô quốc tế ChinaTex không đáp ứng yêu cầu
về thời gian giám định. Theo đó, thời gian thực hiện giám định là trong vòng
60 ngày kể từ ngày hàng hóa cập bến theo quy định tại mặt sau hợp đồng, phải được tuân thủ.
Theo như chứng cứ được cung cấp bởi các bên, thời gian cập bến của hàng hóa
là ngày 20 tháng 7 năm 1993. Bởi vì Bên bán thông báo với Bên mua sai tên lOMoAR cPSD| 61630936 15
tàu chở hàng và ngày cập bến nên Bên mua đã không nhận hàng cho đến ngày
8 tháng 9 năm 1993. Vì vậy, đầu tháng 9 là thời gian phù hợp cho việc thực
hiện giám định, hạn cuối là cuối tháng 10. Hai giấy chứng nhận được cung cấp
bởi Bên mua được thực hiện lần lượt vào ngày 30 tháng 10 năm 1993 và ngày
5 tháng 1 năm 1994. Hội đồng trọng tài ghi nhận giấy giám định ngày 30 tháng
10 năm 1993 là hợp pháp và giấy giám định ngày 5 tháng 1 năm 1994 là không
hợp pháp vì nó được thực hiện ngoài thời hạn cho phép. 4.
Về vấn đề sai tên tàu và ngày hàng hóa cập bến, Hội đồng trọng tài ghi nhận
rằng, theo INCOTERMS 1990, Bên bán có nghĩa vụ thông báo cho Bên mua
về vấn đề trung chuyển để Bên mua có thể thực hiện những biện pháp phù hợp
để nhận hàng. Nếu Bên bán không thực hiện nghĩa vụ này, Bên mua phải cố
gắng tìm kiếm thông tin về địa điểm của hàng hóa và phải chịu thêm những phụ
phí, chẳng hạn như khoản phạt cho hải quan do khai báo chậm, đây sẽ không
được coi là biện pháp phù hợp để nhận hàng.
Thông báo sai tên tàu và ngày hàng hóa cập bến là lỗi của Công ty vận chuyển,
theo khoản 2 Điều 79 CISG:
«Nếu việc một bên không thực hiện nghĩa vụ là do việc không thực hiện nghĩa
vụ của bên thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn bộ hoặc một phần của hợp đồng,
bên đó chỉ được miễn trách nhiệm nếu: a. bên đó được miễn trách nhiệm theo
quy định tại khoản trên; và b. bên thứ ba cũng được miễn trách nhiệm nếu quy
định tại khoản trên áp dụng đối với bên thứ ba đó.» Và đoạn trước, khoản 1 Điều 79 CISG nêu rõ:
«Một bên không phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện nghĩa vụ nếu
việc đó là do trở ngại nằm ngoài khả năng kiểm soát của họ và họ không thể
tiên liệu một cách hợp lý vào thời điểm giao kết hợp đồng hoặc không thể khắc
phục được trở ngại đó hoặc hậu quả của nó.» lOMoAR cPSD| 61630936 16
Vì vậy, một bên sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của bên thứ ba,
nếu bên thứ ba được bên đó thuê, ngoại trừ trong những trường hợp có thể miễn
trừ trách nhiệm cho bên đó và bên thứ ba.
Trong trường hợp này, Công ty vận chuyển được thuê bởi Bên bán có nghĩa vụ
thông báo cho Bên mua. Khi Công ty vận chuyển không thực hiện nghĩa vụ của
họ một cách trọn vẹn, Bên bán sẽ chịu trách nhiệm cho mọi tổn thất, ví dụ phí
phạt khai báo hải quan muộn. 5.
Những tranh chấp về chất lượng của len:
(1) Bằng chứng để chứng minh hàng hóa bị hỏng là giấy giám định ngày 5
tháng 1 năm 1994. Tuy nhiên, giấy giám định đó không được thực hiện
trong thời hạn cho phép, vậy nên nó không có giá trị pháp lý. Vì vậy, Hội
đồng trọng tài không công nhận cáo buộc của Bên mua về sự tổn thất của chất lượng hàng hóa.
(2) Về sự thiếu hụt của trọng lượng hàng hóa, Hội đồng trọng tài ghi nhận: •
Thứ nhất, căn cứ theo Điều 11 của Điều khoản chung về mua bán len và
áo len của Tập đoàn mua bán nguyên liệu thô quốc tế ChinaTex, Bên
mua có quyền giám định lại hàng hóa khi chúng cập cảng Trung Quốc.
Và khi kết luận giám định của Cơ quan giám định len Úc khác với kết
luận giám định của Cơ quan giám định hàng hóa Trung Quốc, thì giấy
giám định được cung cấp bởi Cơ quan Trung Quốc sẽ được ưu tiên. •
Thứ hai, hợp đồng quy định rằng hàng hóa được giao có thể chênh lệch
nhiều hơn hoặc ít hơn 2%, tức khối lượng hàng hóa được giao phải đạt
khoảng 2%, Bên mua không thể từ chối phần dư của hàng hóa hoặc yêu
cầu Bên bán giao bổ sung phần bị thiếu. Mặc dù vậy, Bên bán hiểu rằng
họ có thể giao hàng ít hơn 2% so với trọng lượng hàng hóa được quy
định trong hợp đồng và vẫn được thanh toán 100% tiền hàng. Điều này