Quy luật lượng chất - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hoá, chuyển giao khoa học –công nghệ và dân chủ hoá toàn diện đời sống xã hội đương đại hiện nay, đòi hỏi conngười cần phải thay đổi mình để hoà nhập, thích nghi với thế giới. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:...................................................................................1
2. Mục đích đối tượng nghiên cứu của đề tài:..........................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu:.............................................................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu:....................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................................2
I. QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT:...................................................................................................2
1. NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT:........... ................2
2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT:............................. .....2
2.1 Khái niệm chất:.................................................................................................................................2
2.2 Khái niệm lượng:..............................................................................................................................3
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:.................................................................................4
2.3.1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi:......................................................................................................4
2.3.2. Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ nhịp
điệu của sự vận động phát triển của sự vật:................................................................................................5
2.4 Tóm tắt nội dung quy luật:..............................................................................................................6
2.5 Ý nghĩa phương pháp luận:.............................................................................................................6
II. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA SINH
VIÊN HIỆN NAY:........................................................................................................................7
1. Sự khác nhau cơ bản giữa việc học ở Trung học Phổ Thông (THPT) và Đại học:..........................8
2. Từng bước tích luỹ kiến thức một cách chính xác, đầy đủ:..............................................................8
3. Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực:................10
4. Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn:. 11
5. Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan:..............................................12
6. Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên:............................................................................................13
7. Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên:.................................14
PHẦN KẾT LUẬN.......................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................16
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hoá, chuyển giao khoa học
công nghệ dân chủ hoá toàn diện đời sống hội đương đại hiện nay, đòi hỏi con
người cần phải thay đổi mình để hoà nhập, thích nghi với thế giới. sinh viên cũng
vậy, họ luôn phải trau dồi, tiếp thu thêm nhiều kiến thức mới để hoà mình vào sự phát
triển của hội. Trong quá trình học tập đầy gian khổ khó khăn ấy, họ vẫn không
ngừng cố gắng để hoàn thiện bản thân. Nhận thức được tầm quan trọng cấp thiết
trong quy luật chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất trong
quá trình học tập của sinh viên, nhóm sẽ nghiên cứu đề tài “ Quy luật lượng chất và sự
vận dụng quy luật lượng chất vào quá trình học tập của sinh viên hiện nay”.
2. Mục đích đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Mục đích nghiên cứu: Đưa triết học Mác-Lênin vào trong thực tiễn cuộc sống để từ
đó làm các khái niệm về quy luật lượng chất mối quan hệ của chúng. Từ đó chỉ
ra các yếu tố liên quan, ảnh hưởng tới sự vận dụng quy luật lượng chất vào quá trình
học tập của sinh viên.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Quy luật lượng chất sự vận dụng quy luật
lượng chất vào quá trình học tập của sinh viên hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Nắm bắt được vai trò quan trọng của quy luật đó, đề tài đã giới hạn phạm vi nghiên
cứu về đời sống học tập của sinh viên hiện nay. Để từ đó cho thấy sự thống nhất
biện chứng giữa hai mặt chất lượng trong vận dụng vào quá trình học tập của sinh
viên.
1
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng cơ bản là phương pháp quy nạp dựa trên cở
sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu, phân tích các tài liệu liên quan tới Triết học Mác-
Lênin về quy luật lượng chất mối quan hệ của chúng làm các khái niệm liên
quan.
2
PHẦN NỘI DUNG
I. QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT:
1. NHỮNG QUY LUẬT BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
DUY VẬT:
- Quy luật là những mối liên hệ mang tính bản chất, tương đối ổn định và được lặp đi
lặp lại giữa các mặt, các yếu tố hay các thuộc tính bên trong của một svật hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
- Có 3 loại quy luật:
+ Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay
đổi về chất và ngược lại (Quy luật lượng - chất).
+ Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập (Quy luật mâu thuẫn).
+ Quy luật phủ định của phủ định.
2. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG
CHẤT:
2.1 Khái niệm chất:
Thế giới vàn sự vật hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều những chất
đặc trưng để làm nên chính chúng. Nhờ đó thể phân biệt sự vật, hiện tượng này
với sự vật, hiện tượng khác.
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là chính nó
chứ không phải là cái khác.
VD: Nguyên tố đồng nguyên tử lượng 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy
1083C, nhiệt độ sôi 2880 C… những thuộc tính này nói lên những chất riêng của
đồng, để phân biệt nó với các kim loại khác.
3
Chất của sự vật là các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật nhưng không đồng
nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều những thuộc tính cơ bản
không bản. Chỉ những thuộc tính bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện
tượng. Khi các thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật thay đổi.
Chất của sự vật, hiện tượng không chỉ được xác định bởi chất của các yếu tố cấu
thành mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liên
hệ cụ thể, do đó việc phân biệt thuộc tính bản không bản, chất thuộc tính
chỉ có ý nghĩa tương đối.
Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất còn có nhiều chất, tuỳ thuộc vào
các mối quan hệ cụ thể của với những cái khác. Chất không chỉ tồn tại thuần tuý
tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
2.2 Khái niệm lượng:
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy của sự tồn tại, tốc
độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
VD: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng lượng thể hay
chiều cao của một con người…
Lượng biểu hiện kích thước dài hay ngắn, quy to hay nhỏ, trình độ cao hay
thấp, số lượng nhiều hay ít…
VD: Số lượng người trong một lớp học, vận tốc của ánh sáng.
Lượng cũng mang tính khách quan như chất, là cái vốn có của sự vật.
Lượng thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể với con số chính
xác nhưng cũng lượng biểu thị dưới dạng khái quát, phải dùng tới khả năng trừu
tượng hoá để nhận thức.
VD: Trình độ nhận thức, phẩm chất đạo đức của một con người.
4
Một sự vật có thể có nhiều loại lượng khác nhau.
lượng biểu thị yếu tố bên ngoài (VD: chiều cao, chiều dài của một vật,…),
lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong (VD: số lượng nguyên tử của một
nguyên tố hoá học,…).
Sự phân biệt giữa chất lượng chỉ ý nghĩa mang tính tương đối: cái trong
mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
VD: Số lượng sinh viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học
tập của lớp đó.
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai cặp đối lập chất và lượng. Hai mặt
đối lập không tách rời nhau mà tác động qua lại biện chứng làm cho sự vận động, biến
đổi theo cách thức từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất của
sự vật và ngược lại.
2.3.1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi:
Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
Độ phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn, trong đó sự thay đổi về lượng
của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng từ 0 C đến 100 C.
Trong giới hạn của một độ nhất định, lượng thường xuyên biến đổi còn chất
tương đối ổn định. Sự thay đổi về lượng của sự vật thể làm chất thay đổi ngay lập
tức nhưng cũng có thể làm thay đổi dần dần chất cũ. Lượng biến đổi đến một giới hạn
nhất định có xu hướng tích luỹ đạt tới điểm nút, nếu có điều kiện sẽ diễn ra bước nhảy
làm thay đổi chất của sự vật.
Điểm nút phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm tại đó, sự thay đổi về
lượng đã làm thay đổi chất của sự vật.
5
VD: 0 C 100 C điểm nút để nước chuyển sang trạng thái rắn hoặc trạng
thái khí (bay hơi).
Muốn chuyển từ chất cũ sang chất mới phải thông qua bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự
vật do những sự thay đổi về lượng trước đó gây nên.
VD: một cuộc cách mạng, một kỳ thi, một đám cưới,…
Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng mở đầu cho một giai
đoạn phát triển mới. Đó là gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, đồng
thời là một tiền đề cho một quá trình tích luỹ liên tục về lượng tiếp theo.
VD: Trong xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất (lượng đổi) tới khi mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất lỗi thời (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao
cách mạng hội (bước nhảy) làm cho hội mất đi, hội mới tiến bộ hơn ra
đời.
2.3.2. Chất mới ra đời, tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu,
quy mô, trình độ nhịp điệu của sự vận động phát triển của sự vật:
Như vậy, bất sự vật, hiện tượng nào cũng sự thống nhất biện chứng giữa
hai mặt chất lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về
chất thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng
mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
- Các hình thức của bước nhảy:
+ Căn cứ vào nhịp điệu:
Bước nhảy đột biến bước nhảy được thực hiện trong thời gian rất ngắn
làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
VD: Uranium 235 được tăng tới hạn (1kg) thì ngay lập tức sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử.
6
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần những nhân tố của chất mới, loại bỏ dần những nhân tố của chất
cũ.
VD: Quá trình chuyển biến từ vượn người thành người; thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
+ Căn cứ vào quy mô:
Bước nhảy toàn bộbước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các
yếu tố cấu thành sự vật.
VD: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo nghĩa rộng.
Bước nhảy cục bộ bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những
yếu tố riêng lẻ của sự vật.
VD : Những kỳ thi học phần.
2.4 Tóm tắt nội dung quy luật:
Mọi sự vật đều sự thống nhất giữa lượng chất, sự thay đổi dần dần về lượng
trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ làm thay đổi chất của sự vật thông qua bước
nhảy, chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới, tạo thành quá trình
vận động phát triển liên tục của sự vật.
VD: Trong học tập, qua các kỳ thi (điểm nút) sinh viên sẽ biết được khả năng, kết
quả mà mình đã đạt được (bước nhảy) để có thể tiến tới các bước tiếp theo. Các kỳ thi
của một môn học (bước nhảy cục bộ) sẽ làm cho sinh viên đạt kết quả cao cho cả học
kì, cả năm học (bước nhảy toàn bộ).
2.5 Ý nghĩa phương pháp luận:
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng phương diện chất và lượng tồn tại trong tính
quy định, tác động và làm chuyển hoá lẫn nhau do đó trong thực tiễn và nhận phải coi
trọng cả hai phương diện chất và lượng.
7
Những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến những sự thay đổi về chất trong điều kiện
nhất định ngược lại do đó cần coi trọng quá trình tích luỹ về lượng để làm thay đổi
chất của sự vật đồng thời phát huy tác động của chất mới để thúc đẩy sthay đổi về
lượng của sự vật.
Sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích luỹ đến giới hạn
điểm nút do đó trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ.
Bước nhảy của sự vật, hiện tượng hết sức đa dạng, phong phú, do vậy cần vận
dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt
trong đời sống hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách
quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người.
Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của các chủ thể để thúc đẩy quá
trình chuyển hoá từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất.
VD: Khi nghiên cứu về các chất trong hoá hay hữu cơ, người ta không chỉ
nghiên cứu để xác định các tính chất hoá học cơ bản vốn có của nó mà còn phải nghiên
cứu giải thích tính chất đó được tạo ra bởi số lượng các nguyên tố nào với cấu tạo liên
kết nào. Nhờ đó có thể tạo ra sự biến đổi của các chất đó trên cơ sở làm thay đổi lượng
tương ứng.
II. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT
VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
HIỆN NAY:
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất ngược lại, thể rút ra một i kết luận ý nghĩa
phương pháp luận với việc học tập rèn luyện của sinh viên trong môi trường Đại
học Tôn Đức Thắng như sau:
8
1. Sự khác nhau bản giữa việc học Trung học Phổ Thông
(THPT) và Đại học:
Kiến thức là vô ngàn vô tận và việc bước qua một quá trình học tập mới cũng đồng
nghĩa với việc tiếp thu kiến thức nhiều hơn và khó khăn hơn. Để lên được bậc Đại học
đồng nghĩa với việc thu nạp đủ kiến thức của 12 năm học. nếu như bậc THPT,
việc học được kéo dài xuyên suốt 1 năm với tất cả các môn và kiến thức sẽ được xoay
quanh liên tục thì lên Đại học mỗi môn học là hệ thống kiến thức kéo dài trong khoảng
1-2 tháng. Khác với phương pháp học thụ động như THPT, sinh viên Đại học sẽ phải
tham gia rất nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, ngoại khoá,.. Không chỉ vậy, các môn
học tại bậc Đại học rất đa dạng mới mẻ, ngoài việc đọc sách giáo trình, sinh viên
còn phải tìm thêm nhiều nguồn thông tin từ trong sách báo, tài liệu liên quan. Chính sự
thay đổi về khối lượng kiến thức, thời gian phương pháp học sẽ khiến nhiều tân
sinh viên gặp khó khăn trong quá trình thích nghi với môi trường học tập, giáo dục
mới. Đây chính sự thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất. Sự khác nhau lớn
nhất giữa bậc THPT và Đại học có lẽnhiệm vụ trong học tập, đối với bậc THPT thì
việc lên lớp và hoàn thành các mục tiêu mà giáo viên đề ra chính là nhiệm vụ lớn nhất
nhưng đối với sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không chỉ những nhiệm vụ
đơn thuần trên lớp họ còn phải thực hiện các thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục
tiêu cho tương lai của chính bản thân họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức của bản
thân yếu tố quan trọng nhất, không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh, tinh thần tự
học sẽ được phát huy rệt. Do đó, nếu muốn thành công thì ngay khi bước chân vào
giảng đường họ phải luôn nhắc nhở mình phải chuẩn bị kế hoạch thực hiện chúng
thật nghiêm túc để mang lại những kết quả to lớn.
2. Từng bước tích luỹ kiến thức một cách chính xác, đầy đủ:
Quy luật mối quan hệ giữa chất lượng chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận
động phát triển, một sthay đổi về chất của sự vật, hiện tượng kết quả của việc
tích luỹ những thay đổi về lượng đến một mức độ nhất định. sự vận động phát
triển vừa diễn ra một cách có tuần tự theo sự thay đổi của lượng, vừa có bước nhảy đột
phá từ sự biến đổi của chất.
9
Để học tại trường Đại học Tôn Đức Thắng, bạn phải đáp ứng được các chỉ tiêu
tuyển sinh của trường sau thi THPT Quốc Gia hằng năm. Để đạt được điểm số phù
hợp, bạn phải kiến thức để hoàn thành xuất sắc bài thi THPTQG hay bài thi Đánh
giá năng lực; hoặc đạt được số điểm học bạ trong 12 năm học so với mức điểm xét
tuyển của trường Đại học Tôn Đức Thắng. Có thể xem học tập là quá trình tích luỹ về
lượng thi điểm nút, hoàn thành bài thi bước nhảy thể đạt được mức
điểm để dẫn đến sự biến đổi về chất hay chưa.
Trong quá trình rèn luyện trường học, tích luỹ kiến thức dạng tích luỹ về
lượng, sự tích luỹ phát triển dần qua từng năm học, từng học kì, từng bài giảng. Theo
từng ngày, kiến thức sẽ được bổ sung vào bộ nhớ” của bạn, giúp bạn một lượng
thông tin nhất định để dẫn đến sự thay đổi về chất (đậu trở thành sinh viên trường
Đại học Tôn Đức Thắng). Trong lượng được nêu trên (quá trình tích luỹ kiến thức
trong 12 năm học) tồn tại nhiều lượng, chất, điểm nút, bước nhảy nhỏ hơn. Việc tích
luỹ kiến thức qua từng bài học, khi đạt đến một lượng kiến thức nhất định, bạn sẽ
chuyển sang mức độ mới cao hơn. Như vậy, thời gian giữa các mức độ học tập gọi
độ; bài kiểm tra, bài thi điểm nút; s chuyển từ cấp độ sang cấp độ mới
bước nhảy. Trong 12 năm học, bạn phải thực hiện lượng lớn bước nhảy, vượt qua số
lượng điểm nút nhất định, có nhiều sự thay đổi về chất tương ứng với mức tích luỹ về
lượng. Khi vượt qua được thi đại học trở thành sinh viên của Đại học Tôn Đức
Thắng, có nhiều bước nhảy được thực hiện dẫn đến sự hình thành chất mới. Đầu tiên là
sự thay đổi từ học sinh (chất cũ) thành sinh viên (chất mới), chất mới tác động trở lại
lượng. Giờ đây, lượng là sự tích luỹ kiến thức mới lẫn kỹ năng mềm, bên cạnh đó cũng
sự phát triển về suy nghĩ, nhận thức, hành động, cách duy. Chất mới sự khác
nhau với chấtchỗ quá trình tích luỹ kiến thức thông qua quá trình tự học, tìm tòi
nghiên cứu, tự định hướng bậc Đại học thay được thầy cung cấp như bậc
Trung học. Từ đấy, khi tích luỹ đủ về lượng đạt mức đầy đủ tín chỉ và hoàn thành việc
thực hiện kỹ năng mềm, sinh viên sẽ được cấp bằng Đại học. giai đoạn này, điểm
nút là lượng tín chỉ và kỹ năng cần đạt, bước nhảy là việc chuyển đổi từ sinh viên sang
người không còn thuộc quyền quản của trường học. Cứ như vậy, quy luật lượng
10
chất phát triển liên tục, tạo nên sự vận động không ngừng, chất mới liên tục được tạo
ra, con người dần tích luỹ thêm về lượng trong chất mới, tạo tiền đề cho sự phát triển
đời sống xã hội.
3. Sinh viên phải tự học tập rèn luyện tính tích cực, tự chủ,
nghiêm túc, trung thực:
Cuộc sống luôn vận động phát triển không ngừng theo thời gian, cùng với đó,
con người cũng phải vận động chạy theo để không bị bỏ lại phía sau. một sinh
viên thời đại mới phát triển và tiên tiến hơn rất nhiều, chúng ta không thể không ngừng
phấn đấu trau dồi bản thân mình. Chúng ta sinh ra ai cũng có điểm chung là phải sống
và làm việc, còn thành công đến như nàodo sự nỗ lực, cố gắng, do sự rèn luyện mà
nên. Bởi thế, việc phải tự học tập, tìm kiếm, rèn luyện tích cực, trau dồi bản thân khi
còn 1 sinh viên trên giảng đường Đại học điều quan trọng cần thiết. Khi sinh
viên biết tự giác học tập, tìm hiểu, nghiên cứu họ trở nên tích cực, chủ động hơn
trong công việc của mình. Cùng là một công việc học tập, một người học với thái độ
hời hợt, bị ép buộc và một người học với thái độ hăng say, tự học thì cũng sẽ cho ra 2
kết quả khác nhau. Việc tự học, tự thân vận động sẽ giúp chúng ta nắm rõ tình hình của
bản thân, biết mình phải làmđể củng cố cho việc học của mình trở nên tốt hơn. Đó
cũng một kim chỉ nam giúp chúng ta đi theo con đường đi mình đã chọn một cách
đúng đắn, khi bị lệch khỏi đường ray, ta thể trở lại con đường của mình một cách
chủ động không phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác. Khi bạn nghiêm túc
tích cực trong công việc của mình, bạn sẽ tìm ra thêm được nhiều điều hay hơn thế,
chúng giúp cho chúng ta có động lực hơn để phấn đấu tiến tới mục tiêu của mình. Như
câu chuyện “sự tích dưa hấu” mà chúng ta đã được học, đó là anh chàng Mai An Tiêm
bị Vua cha giậnđày ra hòn đảo xa. Từ đó, anh đã tự mình trồng trọt, khai hoang để
kiếm sống. Đến một ngày được một con chim lạ ăn xong nhả hột lên mảnh đất và xuất
hiện một loại cây lạ ra hoa kết trái. Mai An Tiêm đã nghĩ “của trời ban” bèn ăn thử
và thấy loại trái cây này ngọt mát, anh đã chủ động gieo hạt. Sau đó, được nhiều người
biết đến hơn Vua cha cũng đã xoá tội thấy được sự cố gắng vượt qua khó khăn,
tích cực chủ động trong mọi hoàn cảnh của chàng.
11
Qua câu chuyện, chúng ta lại thêm phần nào thấy được mình trong đó. Khó khăn và
thử thách sẽ tôi luyện chúng ta đến với thành công vững chắc hơn. vậy, hãy chủ
động học tập, tích cực rèn luyện và nghiêm túc với mục tiêu của mình. Kết lại, có một
câu nói “ Một chú chim đậu trên càng cây không bao giờ sợ cành cây bị gãy, bởi niềm
tin được đặt vào đôi cánh của chứ không phải cành cây”. Vậy nên hội thành
công chỉ đến với những ai biết tin vào bản thân mình, tự học tập rèn luyện với
một cách nghiêm túc và trung thực.
4. Trong học tập nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó,
tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn:
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc học
tập và rèn luyện của sinh viên như sau: để thể tốt nghiệp, chúng ta phải tích luỹ đủ
số lượng các tín chỉ môn học; để môn họckết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ số
lượng tiết của các môn học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra là các điểm
nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy, bởi kết quả thi (bước nhảy) tốt là sự kết thúc
môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá trình học tập rèn luyện của sinh viên.
vậy, trong việc học tập và các hoạt động học thuật khác, sinh viên phải từng bước tích
luỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả học tập (chất) theo quy luật.
Trong quá trình học tập rèn luyện, sinh viên cần tranh tưởng nhảy cấp. Sau
khi học những kiến thức cơ bản, tức khisự biến đổi về chất thì sinh viên mới
thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. dụ như trước khi lên Đại học thì
phải hoàn thành việc học 3 cấp bậc trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy ra.
Việc tiếp thu kiến thức từ bản đến nâng cao phương pháp học tập khoa học mọi
người đều biết nhưng không phải ai cũng thực hiện đúng quy trình. Một số trường hợp
sinh viên không tập trung học, bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề, làm ảnh
hưởng đến tốc độ học. Nhiều sinh viên khi đến gần giai đoạn thi mới bắt đầu học lại từ
đầu, nhưng thời gian ôn thi để sinh viên ôn lại kiến thức họ đã học chứ không phải
tiếp thu thêm cái mới, vậy cho sinh viên chăm học trong thời gian đó thì cũng
12
không thể đảm bảo được lượng kiến thức để vượt qua được thi. Ngoài ra, nhiều
sinh viên có sức học trung bình nhưng lại muốn đăng kí nhiều môn học trong cùng một
năm hay một học kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn đến không có
môn học nào được hoàn thiện, mất thêm thời gian tiền bạc để học lại, thi lại. Tóm
lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức kết quả cao trong các thi, sinh viên
phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng
sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực.
5. Liên tục phấn đấu học tập rèn luyện, tránh tưởng chủ
quan:
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mình
từ những điều đơn giản nhất như năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến
thức to lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc trải
qua hơn 12 năm học tập khoảng thời gian bước đệm cho hành trình tích luỹ ấy.
Không những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu những kỹ năng mềm cho cuộc sống mai
sau. Trong quá trình liên tục phấn đấu học tập ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất ngược lại được thể hiện việc sinh viên tích
luỹ kiến thức. Áp dụng quy luật lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm
kiếm những thông tin, mang về những “lượng” tốt, sở đầy đủ. Từ đó, làm
biến đổi “chất” tốt hơn, tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy.
Trên quan niệm triết học, chất thay đổi sẽ thay đổi cả sự vật. Điều đó được minh chứng
khi sinh viên nỗ lực phấn đấu và trở thành các thầy giáo, giảng viên, lượng sẽ được đổi
mới theo nhịp điệu của chất đã được tạo ra bởi thế hệ trước truyền lại cho thế hệ
sau.
trường Đại học Tôn Đức Thắng, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tự
tìm tòi, nghiên cứu thư viện, tích luỹ học hỏi những năng mềm thiết yếu cho
mai sau. Được tự do sáng tạo trau dồi những “lượng” mức tối ưu nhất, sinh viên
luôn đạt được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,…
tự tin bước ra đời. Cnhư vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất-lượng liên tục diễn ra
13
không ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi sinh viên,
giúp họ tự tin vững bước trong hành trang cuộc đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinh
viên khai phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ liệu ứng dụng vào thực tiễn tiếp
tục mở rộng con đường khoa học nghệ thuật, tránh bị tưởng bảo thủ chủ quan
nghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể.
6. Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên:
Đầu tiên, trong sự vận động phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Quá trình học
tập phải được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng; không được bỏ qua
kiến thức bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ,
việc thực hiện bước nhảy sẽ không thành công không thể hình thành chất mới.
dụ, nếu bạn hỏng kiến thức bản bậc tiểu học, bạn sẽ không thể thực hiện bước
nhảy để được học cấp trung học. Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy, tức bạn vượt
qua điểm nút một cách ép buộc, chất mới được hình thành nhưng không vận
dụng theo quy luật lượng chất. Những sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy
gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy
đủ về chất.
Bên cạnh,rằng sự phát triển vận động của sự vật, hiện tượng việc liên tục
thực hiện các bước nhảy, bạn phải chú ý đến độ trong quá trình thay đổi của lượng,
không vội vàng bỏ bước. tưởng bảo thủ ngăn bạn không dám vượt qua điểm
nút. Như là một kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù bạn có đủ kiến thức được tích luỹ để tham
gia kỳ thi, nhưng lại không đủ tự tin để thực hiện bước nhảy, thì quá trình tích luỹ đó
chỉ được xem là tích luỹ về lượng mà không có sự thay đổi về chất.
Bạn phải nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng để
lựa chọn phương pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo chất
lượng của độ. Vận dụng được mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu bản chất, quy luật
của chất, nâng cao chất lượng của độ.
14
7. Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân
mỗi sinh viên:
Những kiến thức ngày nay, những công bố, phát minh đại đều những sự tìm
tòi, khổ công của những thế hệ nhà khoa học đi trước. sự lặp đi lặp lại hàng ngày
của sự chuyển hoá trao đổi giữa chất lượng. sinh viên chúng ta, cần sự lặp lại
tuần hoàn phấn đấu tìm tòi. Không nhiều thì ít, mỗi ngày chúng ta dành một chút thời
gian để học, dần sẽ thành một thói quen như tính cách chúng ta vậy. Và từ đó sẽ
quyết định cuộc sống của mỗi chúng ta. Việc duy trì không hề dễ dàng nhưng nếu
chúng ta kiên cường phát triển thói quen ấy, ắt hẳn sẽ được thành công. Quãng đời
sinh viên không chỉ dừng lại ở việc học tập, nó sẽ còn trải dài cho cuộc hành trình khai
phá những lượng tri thức mới để đạt được những vật chất, thành quả mới. Để làm được
điều ấy, phải cho mình ý chí quyết tâm sự không ngừng phát triển bền vững.
Sinh viên phải tự động hoá cho mình một bản kế hoạch hợp lý, một thời gian biểu phù
hợp để tích luỹ tri thức.
Đại học Tôn Đức Thắng, ngay từ khi bước vào trường, các sinh viên đã được
hướng dẫn cho sự chủ động trong khâu chuẩn bị quá trình học tập bản thân. Từ đó, xây
dựng một kế hoạch phát triển bền vững trên tinh thần sáng tạo, tự do. Khi ấy, việc trau
dồi, tích luỹ được thực hiện trơn tru với tinh thần phát triển bền vững quá trình học
tập, sự không chủ quan trong quá trình trau dồi kiến thức kết hợp với nỗ lực liên tục
phấn đấu học tập, không gì là không thể trên con đường của mỗi sinh viên.
15
PHẦN KẾT LUẬN
Chung quy lại, việc hiểu vận dụng các quy luật lượng chất vào quá trình
học tập, nghiên cứu phát triển của học sinh sinh viên rất cần thiết quan
trọng. Chúng không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ tác động qua lại của
hai phạm trù “chất” và “lượng”, mà từ đó ta có thể vận dụng mối quan hệ giữa sự thay
đổi về lượng và sự thay đổi về chất để áp dụng vào thực tiên như các ví dụ đã nói trên.
Vậy là một sinh viên cần phải làm gì và làm như thế nào để áp dụng một cách hiệu quả
nhất? Sinh viên cần xác định mục tiêu, định hướng đúng đắn trong học tập làm
việc, hiểu vận dụng tốt các quy luật “khi lượng đổi dẫn đến chất đổi ngược
lại”. Ngoài ra việc thay đổi môi trường từ THPT lên Đại học cũng nhiều sự khác
nhau, để không bị mất phương hướng trong việc học, sinh viên cũng cần phải tính
tự chủ, chủ động thích nghi với môi trường, liên tục phấn đấu rèn luyện tích cực
trong học tập công việc, không ngừng tích luỹ kinh nghiệm để thể thành công
hơn trong tương lai. Ngoài ra, “lượng” không chỉ là những kiến thức mà sinh viên học
trên ghế nhà trường, đó còn những kỹ năng cần thiết như “kỹ năng làm việc
nhóm, thuyết trình, đàm phán,…” và khả năng linh hoạt hoà nhập với môi trường khác
nhau. thế, trong quá trình học tập, sinh viên cũng cần phải hài hoà, phối hợp giữa
kiến thức năng để thể tăng những tích luỹ về “lượng” mà các nhà tuyển dụng
đang tìm kiếm. Bởi vậy, ta lại càng thấy hơn được tầm quan trọng sự tác động
qua lại của quy luật “lượng” – “chất”, từ đó sinh viên sẽ chủ động hơn trong việc trang
bị cho mình những chuyên môn kiến thức năng cần thiết đó cũng tiền đề,
bước chân đầu tiên để phát triển sự nghiệp sau này.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vận dụng quy luật Lượng – Chất trong học tập và nghiên cứu của sinh viên
đại học Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa của Thạc sĩ Hoàng Thị
Thảo.
2. Vận dụng quy luật Lượng – Chất trong học tập và nghiên cứu của sinh viên
đại học Bách khoa Hà Nội của đại học Bách khoa Hà Nội.
17
| 1/19

Preview text:

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................1 1.
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:...................................................................................1 2.
Mục đích đối tượng nghiên cứu của đề tài:..........................................................................1 3.
Phạm vi nghiên cứu:.............................................................................................................1 4.
Phương pháp nghiên cứu:....................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................................2
I. QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT:...................................................................................................2 1.
NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT:...........................2 2.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT:..................................2 2.1
Khái niệm chất:.................................................................................................................................2 2.2
Khái niệm lượng:..............................................................................................................................3 2.3
Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:.................................................................................4 2.3.1.
Lượng đổi dẫn đến chất đổi:......................................................................................................4 2.3.2.
Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ nhịp
điệu của sự vận động phát triển của sự vật:................................................................................................5 2.4
Tóm tắt nội dung quy luật:..............................................................................................................6 2.5
Ý nghĩa phương pháp luận:.............................................................................................................6
II. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA SINH
VIÊN HIỆN NAY:........................................................................................................................7
1.
Sự khác nhau cơ bản giữa việc học ở Trung học Phổ Thông (THPT) và Đại học:..........................8 2.
Từng bước tích luỹ kiến thức một cách chính xác, đầy đủ:..............................................................8 3.
Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực:................10 4.
Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn:. 11 5.
Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan:..............................................12 6.
Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên:............................................................................................13 7.
Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên:.................................14
PHẦN KẾT LUẬN.......................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................16 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hoá, chuyển giao khoa học –
công nghệ và dân chủ hoá toàn diện đời sống xã hội đương đại hiện nay, đòi hỏi con
người cần phải thay đổi mình để hoà nhập, thích nghi với thế giới. Và sinh viên cũng
vậy, họ luôn phải trau dồi, tiếp thu thêm nhiều kiến thức mới để hoà mình vào sự phát
triển của xã hội. Trong quá trình học tập đầy gian khổ và khó khăn ấy, họ vẫn không
ngừng cố gắng để hoàn thiện bản thân. Nhận thức được tầm quan trọng và cấp thiết
trong quy luật chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất trong
quá trình học tập của sinh viên, nhóm sẽ nghiên cứu đề tài “ Quy luật lượng chất và sự
vận dụng quy luật lượng chất vào quá trình học tập của sinh viên hiện nay”.
2. Mục đích đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Mục đích nghiên cứu: Đưa triết học Mác-Lênin vào trong thực tiễn cuộc sống để từ
đó làm rõ các khái niệm về quy luật lượng chất và mối quan hệ của chúng. Từ đó chỉ
ra các yếu tố liên quan, ảnh hưởng tới sự vận dụng quy luật lượng chất vào quá trình học tập của sinh viên.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Quy luật lượng chất và sự vận dụng quy luật
lượng chất vào quá trình học tập của sinh viên hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Nắm bắt được vai trò quan trọng của quy luật đó, đề tài đã giới hạn phạm vi nghiên
cứu là về đời sống học tập của sinh viên hiện nay. Để từ đó cho thấy sự thống nhất
biện chứng giữa hai mặt chất và lượng trong vận dụng vào quá trình học tập của sinh viên. 1
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng cơ bản là phương pháp quy nạp dựa trên cở
sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu, phân tích các tài liệu liên quan tới Triết học Mác-
Lênin về quy luật lượng chất và mối quan hệ của chúng làm rõ các khái niệm liên quan. 2 PHẦN NỘI DUNG
I. QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT:
1. NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT: -
Quy luật là những mối liên hệ mang tính bản chất, tương đối ổn định và được lặp đi
lặp lại giữa các mặt, các yếu tố hay các thuộc tính bên trong của một sự vật hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. - Có 3 loại quy luật:
+ Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay
đổi về chất và ngược lại (Quy luật lượng - chất).
+ Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập (Quy luật mâu thuẫn).
+ Quy luật phủ định của phủ định.
2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT:
2.1 Khái niệm chất:
Thế giới có vô vàn sự vật hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những chất
đặc trưng để làm nên chính chúng. Nhờ đó mà có thể phân biệt sự vật, hiện tượng này
với sự vật, hiện tượng khác.
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là chính nó
chứ không phải là cái khác.
VD: Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là
1083 C, nhiệt độ sôi là 2880 C… những thuộc tính này nói lên những chất riêng của
đồng, để phân biệt nó với các kim loại khác. 3
Chất của sự vật là các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật nhưng không đồng
nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản
và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp thành chất của sự vật, hiện
tượng. Khi các thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật thay đổi.
Chất của sự vật, hiện tượng không chỉ được xác định bởi chất của các yếu tố cấu
thành mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liên
hệ cụ thể, do đó việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tính
chỉ có ý nghĩa tương đối.
Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất mà còn có nhiều chất, tuỳ thuộc vào
các mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác. Chất không chỉ tồn tại thuần tuý
tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
2.2 Khái niệm lượng:
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc
độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
VD: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng lượng cơ thể hay
chiều cao của một con người…
Lượng biểu hiện kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, trình độ cao hay
thấp, số lượng nhiều hay ít…
VD: Số lượng người trong một lớp học, vận tốc của ánh sáng.
Lượng cũng mang tính khách quan như chất, là cái vốn có của sự vật.
Lượng thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể với con số chính
xác nhưng cũng có lượng biểu thị dưới dạng khái quát, phải dùng tới khả năng trừu
tượng hoá để nhận thức.
VD: Trình độ nhận thức, phẩm chất đạo đức của một con người. 4
Một sự vật có thể có nhiều loại lượng khác nhau.
Có lượng biểu thị yếu tố bên ngoài (VD: chiều cao, chiều dài của một vật,…), có
lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong (VD: số lượng nguyên tử của một nguyên tố hoá học,…).
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa mang tính tương đối: có cái trong
mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
VD: Số lượng sinh viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó.
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai cặp đối lập chất và lượng. Hai mặt
đối lập không tách rời nhau mà tác động qua lại biện chứng làm cho sự vận động, biến
đổi theo cách thức từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất của
sự vật và ngược lại.
2.3.1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi:
Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn, trong đó sự thay đổi về lượng
của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng từ 0 C đến 100 C.
Trong giới hạn của một độ nhất định, lượng thường xuyên biến đổi còn chất
tương đối ổn định. Sự thay đổi về lượng của sự vật có thể làm chất thay đổi ngay lập
tức nhưng cũng có thể làm thay đổi dần dần chất cũ. Lượng biến đổi đến một giới hạn
nhất định có xu hướng tích luỹ đạt tới điểm nút, nếu có điều kiện sẽ diễn ra bước nhảy
làm thay đổi chất của sự vật.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó, sự thay đổi về
lượng đã làm thay đổi chất của sự vật. 5
VD: 0 C và 100 C là điểm nút để nước chuyển sang trạng thái rắn hoặc trạng thái khí (bay hơi).
Muốn chuyển từ chất cũ sang chất mới phải thông qua bước nhảy.
Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự
vật do những sự thay đổi về lượng trước đó gây nên.
VD: một cuộc cách mạng, một kỳ thi, một đám cưới,…
Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho một giai
đoạn phát triển mới. Đó là gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, đồng
thời là một tiền đề cho một quá trình tích luỹ liên tục về lượng tiếp theo.
VD: Trong xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất (lượng đổi) tới khi mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất lỗi thời (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao
là cách mạng xã hội (bước nhảy) làm cho xã hội cũ mất đi, xã hội mới tiến bộ hơn ra đời.
2.3.2. Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu,
quy mô, trình độ nhịp điệu của sự vận động phát triển của sự vật:
Như vậy, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa
hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về
chất thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng
mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy. -
Các hình thức của bước nhảy:
+ Căn cứ vào nhịp điệu:
Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong thời gian rất ngắn
làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
VD: Uranium 235 được tăng tới hạn (1kg) thì ngay lập tức sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử. 6
Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần những nhân tố của chất mới, loại bỏ dần những nhân tố của chất cũ.
VD: Quá trình chuyển biến từ vượn người thành người; thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. + Căn cứ vào quy mô:
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các
yếu tố cấu thành sự vật.
VD: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo nghĩa rộng.
Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những
yếu tố riêng lẻ của sự vật.
VD : Những kỳ thi học phần.
2.4 Tóm tắt nội dung quy luật:
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng
trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ làm thay đổi chất của sự vật thông qua bước
nhảy, chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới, tạo thành quá trình
vận động phát triển liên tục của sự vật.
VD: Trong học tập, qua các kỳ thi (điểm nút) sinh viên sẽ biết được khả năng, kết
quả mà mình đã đạt được (bước nhảy) để có thể tiến tới các bước tiếp theo. Các kỳ thi
của một môn học (bước nhảy cục bộ) sẽ làm cho sinh viên đạt kết quả cao cho cả học
kì, cả năm học (bước nhảy toàn bộ).
2.5 Ý nghĩa phương pháp luận:
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính
quy định, tác động và làm chuyển hoá lẫn nhau do đó trong thực tiễn và nhận phải coi
trọng cả hai phương diện chất và lượng. 7
Những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến những sự thay đổi về chất trong điều kiện
nhất định và ngược lại do đó cần coi trọng quá trình tích luỹ về lượng để làm thay đổi
chất của sự vật đồng thời phát huy tác động của chất mới để thúc đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật.
Sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích luỹ đến giới hạn
điểm nút do đó trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ.
Bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy cần vận
dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt
trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách
quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người.
Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của các chủ thể để thúc đẩy quá
trình chuyển hoá từ lượng đến chất một cách hiệu quả nhất.
VD: Khi nghiên cứu về các chất trong hoá vô cơ hay hữu cơ, người ta không chỉ
nghiên cứu để xác định các tính chất hoá học cơ bản vốn có của nó mà còn phải nghiên
cứu giải thích tính chất đó được tạo ra bởi số lượng các nguyên tố nào với cấu tạo liên
kết nào. Nhờ đó có thể tạo ra sự biến đổi của các chất đó trên cơ sở làm thay đổi lượng tương ứng.
II. SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT
VÀO QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY:
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại, có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa
phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của sinh viên trong môi trường Đại
học Tôn Đức Thắng như sau: 8
1. Sự khác nhau cơ bản giữa việc học ở Trung học Phổ Thông
(THPT) và Đại học:
Kiến thức là vô ngàn vô tận và việc bước qua một quá trình học tập mới cũng đồng
nghĩa với việc tiếp thu kiến thức nhiều hơn và khó khăn hơn. Để lên được bậc Đại học
đồng nghĩa với việc thu nạp đủ kiến thức của 12 năm học. Và nếu như ở bậc THPT,
việc học được kéo dài xuyên suốt 1 năm với tất cả các môn và kiến thức sẽ được xoay
quanh liên tục thì lên Đại học mỗi môn học là hệ thống kiến thức kéo dài trong khoảng
1-2 tháng. Khác với phương pháp học thụ động như THPT, sinh viên Đại học sẽ phải
tham gia rất nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, ngoại khoá,.. Không chỉ vậy, các môn
học tại bậc Đại học rất đa dạng và mới mẻ, ngoài việc đọc sách giáo trình, sinh viên
còn phải tìm thêm nhiều nguồn thông tin từ trong sách báo, tài liệu liên quan. Chính sự
thay đổi về khối lượng kiến thức, thời gian và phương pháp học sẽ khiến nhiều tân
sinh viên gặp khó khăn trong quá trình thích nghi với môi trường học tập, giáo dục
mới. Đây chính là sự thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất. Sự khác nhau lớn
nhất giữa bậc THPT và Đại học có lẽ là nhiệm vụ trong học tập, đối với bậc THPT thì
việc lên lớp và hoàn thành các mục tiêu mà giáo viên đề ra chính là nhiệm vụ lớn nhất
nhưng đối với sinh viên Đại học, điều họ đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ
đơn thuần trên lớp mà họ còn phải thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục
tiêu cho tương lai của chính bản thân họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức của bản
thân là yếu tố quan trọng nhất, không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh, tinh thần tự
học sẽ được phát huy rõ rệt. Do đó, nếu muốn thành công thì ngay khi bước chân vào
giảng đường họ phải luôn nhắc nhở mình phải chuẩn bị kế hoạch và thực hiện chúng
thật nghiêm túc để mang lại những kết quả to lớn.
2. Từng bước tích luỹ kiến thức một cách chính xác, đầy đủ:
Quy luật mối quan hệ giữa chất và lượng chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận
động và phát triển, một sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng là kết quả của việc
tích luỹ những thay đổi về lượng đến một mức độ nhất định. Và sự vận động và phát
triển vừa diễn ra một cách có tuần tự theo sự thay đổi của lượng, vừa có bước nhảy đột
phá từ sự biến đổi của chất. 9
Để học tại trường Đại học Tôn Đức Thắng, bạn phải đáp ứng được các chỉ tiêu
tuyển sinh của trường sau kì thi THPT Quốc Gia hằng năm. Để đạt được điểm số phù
hợp, bạn phải có kiến thức để hoàn thành xuất sắc bài thi THPTQG hay bài thi Đánh
giá năng lực; hoặc đạt được số điểm học bạ trong 12 năm học so với mức điểm xét
tuyển của trường Đại học Tôn Đức Thắng. Có thể xem học tập là quá trình tích luỹ về
lượng mà kì thi là điểm nút, hoàn thành bài thi là bước nhảy và có thể đạt được mức
điểm để dẫn đến sự biến đổi về chất hay chưa.
Trong quá trình rèn luyện ở trường học, tích luỹ kiến thức là dạng tích luỹ về
lượng, sự tích luỹ phát triển dần qua từng năm học, từng học kì, từng bài giảng. Theo
từng ngày, kiến thức sẽ được bổ sung vào “bộ nhớ” của bạn, giúp bạn có một lượng
thông tin nhất định để dẫn đến sự thay đổi về chất (đậu và trở thành sinh viên trường
Đại học Tôn Đức Thắng). Trong lượng được nêu ở trên (quá trình tích luỹ kiến thức
trong 12 năm học) tồn tại nhiều lượng, chất, điểm nút, bước nhảy nhỏ hơn. Việc tích
luỹ kiến thức qua từng bài học, khi đạt đến một lượng kiến thức nhất định, bạn sẽ
chuyển sang mức độ mới cao hơn. Như vậy, thời gian giữa các mức độ học tập gọi là
độ; bài kiểm tra, bài thi là điểm nút; và sự chuyển từ cấp độ cũ sang cấp độ mới là
bước nhảy. Trong 12 năm học, bạn phải thực hiện lượng lớn bước nhảy, vượt qua số
lượng điểm nút nhất định, có nhiều sự thay đổi về chất tương ứng với mức tích luỹ về
lượng. Khi vượt qua được kì thi đại học và trở thành sinh viên của Đại học Tôn Đức
Thắng, có nhiều bước nhảy được thực hiện dẫn đến sự hình thành chất mới. Đầu tiên là
sự thay đổi từ học sinh (chất cũ) thành sinh viên (chất mới), chất mới tác động trở lại
lượng. Giờ đây, lượng là sự tích luỹ kiến thức mới lẫn kỹ năng mềm, bên cạnh đó cũng
là sự phát triển về suy nghĩ, nhận thức, hành động, cách tư duy. Chất mới có sự khác
nhau với chất cũ ở chỗ quá trình tích luỹ kiến thức thông qua quá trình tự học, tìm tòi
nghiên cứu, tự định hướng ở bậc Đại học thay vì là được thầy cô cung cấp như bậc
Trung học. Từ đấy, khi tích luỹ đủ về lượng đạt mức đầy đủ tín chỉ và hoàn thành việc
thực hiện kỹ năng mềm, sinh viên sẽ được cấp bằng Đại học. Ở giai đoạn này, điểm
nút là lượng tín chỉ và kỹ năng cần đạt, bước nhảy là việc chuyển đổi từ sinh viên sang
người không còn thuộc quyền quản lý của trường học. Cứ như vậy, quy luật lượng – 10
chất phát triển liên tục, tạo nên sự vận động không ngừng, chất mới liên tục được tạo
ra, con người dần tích luỹ thêm về lượng trong chất mới, tạo tiền đề cho sự phát triển đời sống xã hội.
3. Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ,
nghiêm túc, trung thực:
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng theo thời gian, cùng với đó,
con người cũng phải vận động chạy theo nó để không bị bỏ lại phía sau. Là một sinh
viên thời đại mới phát triển và tiên tiến hơn rất nhiều, chúng ta không thể không ngừng
phấn đấu trau dồi bản thân mình. Chúng ta sinh ra ai cũng có điểm chung là phải sống
và làm việc, còn thành công đến như nào là do sự nỗ lực, cố gắng, do sự rèn luyện mà
nên. Bởi thế, việc phải tự học tập, tìm kiếm, rèn luyện tích cực, trau dồi bản thân khi
còn là 1 sinh viên trên giảng đường Đại học là điều quan trọng và cần thiết. Khi sinh
viên biết tự giác học tập, tìm hiểu, nghiên cứu và họ trở nên tích cực, chủ động hơn
trong công việc của mình. Cùng là một công việc học tập, một người học với thái độ
hời hợt, bị ép buộc và một người học với thái độ hăng say, tự học thì cũng sẽ cho ra 2
kết quả khác nhau. Việc tự học, tự thân vận động sẽ giúp chúng ta nắm rõ tình hình của
bản thân, biết mình phải làm gì để củng cố cho việc học của mình trở nên tốt hơn. Đó
cũng là một kim chỉ nam giúp chúng ta đi theo con đường đi mình đã chọn một cách
đúng đắn, khi bị lệch khỏi đường ray, ta có thể trở lại con đường của mình một cách
chủ động mà không phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác. Khi bạn nghiêm túc và
tích cực trong công việc của mình, bạn sẽ tìm ra thêm được nhiều điều hay hơn thế,
chúng giúp cho chúng ta có động lực hơn để phấn đấu tiến tới mục tiêu của mình. Như
câu chuyện “sự tích dưa hấu” mà chúng ta đã được học, đó là anh chàng Mai An Tiêm
bị Vua cha giận và đày ra hòn đảo xa. Từ đó, anh đã tự mình trồng trọt, khai hoang để
kiếm sống. Đến một ngày được một con chim lạ ăn xong nhả hột lên mảnh đất và xuất
hiện một loại cây lạ ra hoa kết trái. Mai An Tiêm đã nghĩ là “của trời ban” bèn ăn thử
và thấy loại trái cây này ngọt mát, anh đã chủ động gieo hạt. Sau đó, được nhiều người
biết đến hơn và Vua cha cũng đã xoá tội vì thấy được sự cố gắng vượt qua khó khăn,
tích cực chủ động trong mọi hoàn cảnh của chàng. 11
Qua câu chuyện, chúng ta lại thêm phần nào thấy được mình trong đó. Khó khăn và
thử thách sẽ tôi luyện chúng ta đến với thành công vững chắc hơn. Vì vậy, hãy chủ
động học tập, tích cực rèn luyện và nghiêm túc với mục tiêu của mình. Kết lại, có một
câu nói “ Một chú chim đậu trên càng cây không bao giờ sợ cành cây bị gãy, bởi niềm
tin được đặt vào đôi cánh của nó chứ không phải cành cây”. Vậy nên cơ hội và thành
công chỉ đến với những ai biết tin vào bản thân mình, tự học tập và rèn luyện với nó
một cách nghiêm túc và trung thực.
4. Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó,
tránh nóng vội đốt cháy giai đoạn:
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận trong việc học
tập và rèn luyện của sinh viên như sau: để có thể tốt nghiệp, chúng ta phải tích luỹ đủ
số lượng các tín chỉ môn học; để môn học có kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ số
lượng tiết của các môn học. Có thể coi thời gian học là độ, các bài kiểm tra là các điểm
nút và điểm số đạt yêu cầu là bước nhảy, bởi kết quả thi (bước nhảy) tốt là sự kết thúc
môt giai đoạn tích luỹ kiến thức trong quá trình học tập rèn luyện của sinh viên. Vì
vậy, trong việc học tập và các hoạt động học thuật khác, sinh viên phải từng bước tích
luỹ kiến thức (lượng) để làm thay đổi kết quả học tập (chất) theo quy luật.
Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tranh tư tưởng nhảy cấp. Sau
khi học những kiến thức cơ bản, tức là khi có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có
thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ như trước khi lên Đại học thì
phải hoàn thành việc học ở 3 cấp bậc trước, nếu không, tình trạng mất gốc sẽ xảy ra.
Việc tiếp thu kiến thức từ cơ bản đến nâng cao là phương pháp học tập khoa học mọi
người đều biết nhưng không phải ai cũng thực hiện đúng quy trình. Một số trường hợp
sinh viên không tập trung học, bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề, làm ảnh
hưởng đến tốc độ học. Nhiều sinh viên khi đến gần giai đoạn thi mới bắt đầu học lại từ
đầu, nhưng thời gian ôn thi là để sinh viên ôn lại kiến thức họ đã học chứ không phải
tiếp thu thêm cái mới, vì vậy cho dù sinh viên chăm học trong thời gian đó thì cũng 12
không thể đảm bảo được lượng kiến thức để vượt qua được kì thi. Ngoài ra, có nhiều
sinh viên có sức học trung bình nhưng lại muốn đăng kí nhiều môn học trong cùng một
năm hay một học kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn đến không có
môn học nào được hoàn thiện, mất thêm thời gian và tiền bạc để học lại, thi lại. Tóm
lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao trong các kì thi, sinh viên
phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng
sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực.
5. Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan:
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị cho mình
từ những điều đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho đến những kiến
thức to lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa học – nghệ thuật. Việc trải
qua hơn 12 năm học tập là khoảng thời gian bước đệm cho hành trình tích luỹ ấy.
Không những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu những kỹ năng mềm cho cuộc sống mai
sau. Trong quá trình liên tục phấn đấu học tập ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại được thể hiện ở việc sinh viên tích
luỹ kiến thức. Áp dụng quy luật lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm
kiếm những thông tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó, làm
biến đổi “chất” tốt hơn, tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy.
Trên quan niệm triết học, chất thay đổi sẽ thay đổi cả sự vật. Điều đó được minh chứng
khi sinh viên nỗ lực phấn đấu và trở thành các thầy giáo, giảng viên, lượng sẽ được đổi
mới theo nhịp điệu của chất đã được tạo ra bởi thế hệ trước và truyền lại cho thế hệ sau.
Ở trường Đại học Tôn Đức Thắng, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tự
tìm tòi, nghiên cứu ở thư viện, tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho
mai sau. Được tự do sáng tạo và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất, sinh viên
luôn đạt được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những học bổng,… và
tự tin bước ra đời. Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất-lượng liên tục diễn ra 13
không ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu không ngừng ở mỗi sinh viên,
giúp họ tự tin vững bước trong hành trang cuộc đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinh
viên là khai phá hết tiềm năng tri thức, kho dữ liệu và ứng dụng vào thực tiễn và tiếp
tục mở rộng con đường khoa học – nghệ thuật, tránh bị tư tưởng bảo thủ và chủ quan
nghĩ rằng mình đã làm hết sức có thể.
6. Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên:
Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn đến sự
thay đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Quá trình học
tập phải được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng; không được bỏ qua
kiến thức cơ bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ,
việc thực hiện bước nhảy sẽ không thành công và không thể hình thành chất mới. Ví
dụ, nếu bạn hỏng kiến thức cơ bản ở bậc tiểu học, bạn sẽ không thể thực hiện bước
nhảy để được học ở cấp trung học. Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy, tức là bạn vượt
qua điểm nút một cách ép buộc, chất mới được hình thành nhưng nó không là vận
dụng theo quy luật lượng – chất. Những sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy
gây nên chỉ xảy ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy đủ về chất.
Bên cạnh, dù rằng sự phát triển và vận động của sự vật, hiện tượng là việc liên tục
thực hiện các bước nhảy, bạn phải chú ý đến độ trong quá trình thay đổi của lượng,
không vội vàng mà bỏ bước. Tư tưởng bảo thủ ngăn bạn không dám vượt qua điểm
nút. Như là một kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù bạn có đủ kiến thức được tích luỹ để tham
gia kỳ thi, nhưng lại không đủ tự tin để thực hiện bước nhảy, thì quá trình tích luỹ đó
chỉ được xem là tích luỹ về lượng mà không có sự thay đổi về chất.
Bạn phải nhận thức được mối liên kết giữa các yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng để
lựa chọn phương pháp tích luỹ phù hợp, đẩy nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo chất
lượng của độ. Vận dụng được mối liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ bản chất, quy luật
của chất, nâng cao chất lượng của độ. 14
7. Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên:
Những kiến thức ngày nay, những công bố, phát minh vĩ đại đều là những sự tìm
tòi, khổ công của những thế hệ nhà khoa học đi trước. Là sự lặp đi lặp lại hàng ngày
của sự chuyển hoá trao đổi giữa chất – lượng. Ở sinh viên chúng ta, cần có sự lặp lại
tuần hoàn phấn đấu tìm tòi. Không nhiều thì ít, mỗi ngày chúng ta dành một chút thời
gian để học, dần sẽ thành một thói quen – như tính cách chúng ta vậy. Và từ đó nó sẽ
quyết định cuộc sống của mỗi chúng ta. Việc duy trì là không hề dễ dàng nhưng nếu
chúng ta kiên cường phát triển thói quen ấy, ắt hẳn sẽ có được thành công. Quãng đời
sinh viên không chỉ dừng lại ở việc học tập, nó sẽ còn trải dài cho cuộc hành trình khai
phá những lượng tri thức mới để đạt được những vật chất, thành quả mới. Để làm được
điều ấy, phải có cho mình ý chí quyết tâm và sự không ngừng phát triển bền vững.
Sinh viên phải tự động hoá cho mình một bản kế hoạch hợp lý, một thời gian biểu phù
hợp để tích luỹ tri thức.
Ở Đại học Tôn Đức Thắng, ngay từ khi bước vào trường, các sinh viên đã được
hướng dẫn cho sự chủ động trong khâu chuẩn bị quá trình học tập bản thân. Từ đó, xây
dựng một kế hoạch phát triển bền vững trên tinh thần sáng tạo, tự do. Khi ấy, việc trau
dồi, tích luỹ được thực hiện trơn tru với tinh thần phát triển bền vững quá trình học
tập, sự không chủ quan trong quá trình trau dồi kiến thức kết hợp với nỗ lực liên tục
phấn đấu học tập, không gì là không thể trên con đường của mỗi sinh viên. 15 PHẦN KẾT LUẬN
Chung quy lại, việc hiểu rõ và vận dụng các quy luật lượng chất vào quá trình
học tập, nghiên cứu và phát triển của học sinh – sinh viên là rất cần thiết và quan
trọng. Chúng không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ tác động qua lại của
hai phạm trù “chất” và “lượng”, mà từ đó ta có thể vận dụng mối quan hệ giữa sự thay
đổi về lượng và sự thay đổi về chất để áp dụng vào thực tiên như các ví dụ đã nói trên.
Vậy là một sinh viên cần phải làm gì và làm như thế nào để áp dụng một cách hiệu quả
nhất? Sinh viên cần xác định rõ mục tiêu, định hướng đúng đắn trong học tập và làm
việc, hiểu rõ và vận dụng tốt các quy luật “khi lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược
lại”. Ngoài ra việc thay đổi môi trường từ THPT lên Đại học cũng có nhiều sự khác
nhau, để không bị mất phương hướng trong việc học, sinh viên cũng cần phải có tính
tự chủ, chủ động thích nghi với môi trường, liên tục phấn đấu và rèn luyện tích cực
trong học tập và công việc, không ngừng tích luỹ kinh nghiệm để có thể thành công
hơn trong tương lai. Ngoài ra, “lượng” không chỉ là những kiến thức mà sinh viên học
trên ghế nhà trường, mà đó còn là những kỹ năng cần thiết như “kỹ năng làm việc
nhóm, thuyết trình, đàm phán,…” và khả năng linh hoạt hoà nhập với môi trường khác
nhau. Vì thế, trong quá trình học tập, sinh viên cũng cần phải hài hoà, phối hợp giữa
kiến thức và kĩ năng để có thể tăng những tích luỹ về “lượng” mà các nhà tuyển dụng
đang tìm kiếm. Bởi vậy, ta lại càng thấy rõ hơn được tầm quan trọng và sự tác động
qua lại của quy luật “lượng” – “chất”, từ đó sinh viên sẽ chủ động hơn trong việc trang
bị cho mình những chuyên môn kiến thức và kĩ năng cần thiết và đó cũng là tiền đề,
bước chân đầu tiên để phát triển sự nghiệp sau này. 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vận dụng quy luật Lượng – Chất trong học tập và nghiên cứu của sinh viên
đại học Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa của Thạc sĩ Hoàng Thị Thảo.
2. Vận dụng quy luật Lượng – Chất trong học tập và nghiên cứu của sinh viên
đại học Bách khoa Hà Nội của đại học Bách khoa Hà Nội. 17