Quyền và nghĩa vụ của công chứng viên | Tài liệu môn pháp luật đại cương Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

Công chứng là một nghề cao quý. Khi thực hiện hoạt động công chứng, Công chứng viên được trao cho một phần quyền lực công Nhà nước để thực hiện việc chứng  nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; chứng nhận tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của các bản dịch. Do đó, công chứng viên đòi hỏi phải là những người có đủ cả tài lẫn đức để có thể thực hiện hoạt động công chứng theo đúng với bản chất nhất. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 2
I. Khái quát chung về nghề công chứng 2
1.1. Công chứng 2
1.2. Nghề công chứng 3
II. Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Công chứng viên. 5
2.1. Quyền của công chứng viên 5
2.2. Nghĩa vụ của công chứng viên 8
III. Thực trạng hành nghề công chứng của công chứng viên. 12
IV. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công chứng
viên 14
KẾT LUẬN 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 19
MỞ ĐẦU
Công chứng là một nghề cao quý. Khi thực hiện hoạt động công chứng, Công
chứng viên được trao cho một phần quyền lực công Nhà nước để thực hiện việc chứng
nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; chứng nhận tính chính xác, hợp
pháp, không trái đạo đức xã hội của các bản dịch. Do đó, công chứng viên đòi hỏi phải
là những người có đủ cả tài lẫn đức để có thể thực hiện hoạt động công chứng theo
đúng với bản chất nhất.
Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay thì các hợp đồng, giao dịch dân sự
ngày càng nhiều, các yêu cầu công chứng cũng ngày càng tăng lên. Việc phát triển này
đã tạo tiền đề cho hoạt động nghề công chứng ngày càng phát triển. Các tổ chức hành
nghề công chứng được thành lập nhiều hơn, số lượng công chứng viên gia tăng và hoạt
động công chứng được phổ biến sâu rộng đến các vùng, miền của tổ quốc. Có thể thấy,
chức năng xã hội của công chứng viên chính là Công chứng viên cung cấp dịch vụ
công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên
tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc thực
hiện được chứng năng này sẽ giúp ích rất nhiều cho sự ổn định và phát triển kinh tế.
Cũng như các ngành nghề khác, khi có tiền đề phát triển thì cũng sẽ xuất hiện
những vấn đề tiêu cực nhất định, do đó, đòi hỏi công chứng viên phải vừa có tài và có
đức. Đồng thời, pháp luật công chứng cũng đã quy định quyền và nghĩa vụ cho công
chứng viên khi thực hiện hành nghề công chứng. Những quyền và nghĩa vụ này sẽ là
kim chỉ nam cho công chứng viên xuyên suốt trong quá trình hành nghề công chứng,
việc tuân theo các quy định pháp luật này sẽ giảm thiểu được những rủi ro khi công
chứng viên hành nghề.
Để hoàn thiện pháp luật công chứng, chúng ta cần làm rõ vấn đề gốc rễ đó là
bản chất của công chứng, xác định rõ mô hình công chứng mà chúng ta đang theo
đuổi. Đặc biệt đối với học viên mới tiếp xúc với nghề công chứng thông qua chương
trình đào tạo nghề công chứng, đây chính là kiến thức nền tảng mà mỗi Công chứng
viên tương lai càng phải nắm rõ bản chất công chứng, mô hình và trách nhiệm của
Công chứng viên tại Việt Nam.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề quyền và nghĩa vụ của công chứng viên, tôi đã lựa chọn
đề tài: “Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Công chứng viên trong hoạt
động công chứng - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật.” để nghiên cứu và
phân tích làm báo cáo kết thúc học phần.
1
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về nghề công chứng
1.1. Công chứng
Tại khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014 quy định như sau:
“Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng
chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn
bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo
đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ
tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp
luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.”
Theo quy định nêu trên, khái niệm công chứng đã được quy định khá rõ ràng và
cụ thể. Có thể thấy, công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề
công chứng thực hiện các thủ tục sau đây:
Thứ nhất: chứng nhận tính xác thực, hợp pháp đối với của hợp đồng, giao dịch
theo quy định của pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân tự nguyên yêu cầu công chứng:
Có thể thấy, hiện nay, trong từng văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành sẽ
có những quy định cụ thể về việc có yêu cầu phải thực hiện thủ tục công chứng hay
không? Như đối với hầu hết các giao dịch liên quan đến bất động sản như mua bán,
chuyển nhượng nhà đất … thì theo quy định của pháp luật sẽ phải thực hiện thủ tục
công chứng, chứng thức theo quy định. Khi đó, việc công chứng hợp đồng, giao dịch
đó là một trong những yêu cầu bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp pháp luật không quy định cụ thể về việc
phải yêu cầu công chứng, nhưng nếu tổ chức, cá nhân muốn bảo đảm về tính xác thực,
hợp pháp của các giao dịch đó cũng như ngăn ngừa được những tranh chấp xảy ra thì
cũng hoàn toàn có thể tự nguyên yêu cầu công chứng.
Đối với Hợp đồng, giao dịch đã được công chứng thì sẽ có giá trị pháp lý nhất
định, tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đã được bảo đảm.
Thứ hai: tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch
Ngoài việc chứng nhận tính xác thực, hợp pháp đối với hợp đồng, giao dịch thì
công chứng còn là chứng nhận tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của
các bản dịch. Bản dịch này có thể là bản dịch từ tiếng Việt Nam sang tiếng nước ngoài
hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt Nam.
Do công chứng viên không thể hiểu và thông thạo tất cả các tiếng nước ngoài nên
các bản dịch này sẽ phải do cộng tác viên dịch thuật của tổ chức hành nghề công
chứng thực hiện và cộng tác viên dịch này sẽ phải đáp ứng được các yêu cầu theo quy
định, theo đó, Cộng tác viên phải là người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ hoặc đại học
2
khác mà thông thạo thứ tiếng nước ngoài đó. Cộng tác viên phải chịu trách nhiệm đối
với tổ chức hành nghề công chứng về tính chính xác, phù hợp của nội dung bản dịch
do mình
thực hiện.
1.2. Nghề công chứng
Khi đã hiểu được khái niệm công chứng thì cần tìm hiểu tiếp theo đó là nghề
công chứng. Công chứng là một nghề cao quý, bởi hoạt động công chứng bảo đảm tính
an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch,
qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức.
Như vậy, có thể thấy, nghề công chứng là một nghề cao quý và có vị trí quan
trọng trong xã hội.
Nghề công chứng có một số đặc trưng tiêu biểu như sau:
Thứ nhất: một xã hội văn minh, phát triển ngoài các tiêu chí khác còn được thể
hiện ở một nền kinh tế ổn định và phát triển, trình độ dân trí cao, hệ thống pháp luật
phát triển đầy đủ và hoàn thiện. Đặc biệt, các cá nhân tham gia vào giao dịch đều có ý
thức tuân thủ pháp luật nhằm bảo đảm sự an toàn pháp lý và bảo đảm được các quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Mỗi khi có ý định tham gia vào một giao dịch dân sự nào
đó thì các cá nhân, tổ chức thường tin tưởng và tìm đến công chứng viên để được
hướng dẫn và giúp đỡ.
Xét về mặt bản chất, việc công chứng hợp đồng, giao dịch thực chất là việc làm
của công chứng viên nhằm chứng nhận:
- Tính xác thực, hợp pháp của quan hệ giao dịch đó là có diễn ra giữa các bên;
- Tính xác thực về năng lực hành vi dân sự của người tham gia giao dịch tại thời
điểm giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật;
- Tính xác thực về ý chí tự nguyện thông qua việc thỏa thuận của các bên;
- Việc ký và điểm chỉ của các bên trong văn bản là do chính họ (người có tên,
giấy tờ cá nhân và địa chỉ trong văn bản) thực hiện.
- Về nội dung, mục đích của hợp đồng, giao dịch không trái pháp luật, không trái
đạo đức xã hội.
Thứ hai: văn bản công chứng có giá trị để thi hành
Một trong những giá trị pháp lý của văn bản công chứng đó là có giá trị thi hành
đối với các bên liên quan. Đây cũng chính là điều mong muốn của các bên khi tham
gia vào giao dịch. Khi các bên tham gia vào giao dịch yêu cầu công chứng hợp đồng,
giao dịch thì ngoài để chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch thì
3
các bên còn tin tưởng vào văn bản công chứng. Khi một văn bản đã được công chứng
thì sẽ làm phát sinh giá trị thi hành đối với các bên liên quan. Như vậy, quyền và lợi
ích hợp pháp của họ sẽ được bảo đảm hơn.
Thứ ba: nghề công chứng là một nghề mang tính chuyên nghiệp cao
Đây là đặc trưng thứ ba của nghề công chứng. Đối với bất cứ ngành nghề nào
trong xã hội hiện nay cũng đòi hỏi phải có tính chuyên nghiệp, tuy nhiên, đối với nghề
công chứng thì tính chuyên nghiệp này đòi hỏi khắt khe hơn. Tính chuyên nghiệp của
nghề công chứng thể hiện qua những điểm sau đây:
- Người hành nghề công chứng là công chứng viên. Công chứng viên là người
được Nhà nước bổ nhiệm theo tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục luật định. Pháp luật còn quy
định về quyền và nghĩa vụ của công chứng viên trong hành nghề công chứng.
- Người hành nghề công chứng phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và người
yêu cầu công chứng;
- Bảo đảm tính khách quan, trung thực trong hành nghề công chứng;
- Người hành nghề công chứng phải nghiên cứu giải quyết các yêu cầu công
chứng một cách thận trọng, tỉ mỉ, chính xác và đúng quy định của pháp luật;
- Hoạt động công chứng phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, thông quan đó
người hành nghề bảo vệ được quyền và lợi ích Nhà nước không bị xâm phạm. Ngoài
việc tuân thủ các luật gốc thì người hành nghề công chứng còn phải bám sát, tôn trọng
và thực hiện đúng, chính xác luật chuyên ngành công chứng và các luật khác có liên
quan. Đồng thời, người hành nghề công chứng cũng phải tích lũy kinh nghiệm hành
nghề theo thời gian, kèm theo những hiểu biết sâu rộng của mình đề giải quyết được
các yêu cầu công chứng.
Thứ tư: giá trị của văn bản công chứng
Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 5 Luật Công chứng 2014 quy định như sau:
“2. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên
liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì
bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường
hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.
3. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự
kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường
hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.”
Từ các quy định nêu trên, có thể thấy văn bản công chứng không những có giá trị
thi hành đối với các bên liên quan mà còn có giá trị chứng cứ. Đây là một trong những
điểm đặc thù của Văn bản công chứng so với các văn bản khác. Do khi thực hiện thủ
tục công chứng, công chứng viên đã chứng nhận tính xác thực và hợp pháp của hợp
4
đồng, giao dịch nên các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng sẽ được coi là chứng cứ mà
không cần chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên vô hiệu. Như vậy, có thể thấy,
hoạt động công chứng là một trong những hoạt động mang tính bổ trợ tư pháp.
Thứ năm: hoạt động hành nghề công chứng cung cấp dịch vụ công
Đây là đặc trưng cuối cùng của nghề công chứng. Nghề công chứng là một nghề
cung cấp dịch vụ công. Thông qua hoạt động của người hành nghề công chứng, các
quan hệ về dịch vụ được xác lập và thực hiện. Các hoạt động dịch vụ công có liên
quan đến hoạt động công chứng bao gồm thu thập thông tin, củng cố hồ sơ, thực hiện
thay thủ tục đăng ký sang tên….
II. Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Công chứng viên.
Luật Công chứng năm 2014 dành toàn bộ Chương II, từ Điều 8 đến Điều 17 để
quy định về nội dung chế định công chứng viên, những yếu tố sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình các chủ thể thực hiện hoạt động công chứng. Các quy định về quyền và
nghĩa vụ của công chứng viên tại Điều 17 Luật Công chứng năm 2014 là những quy
định cơ bản nhất, thể hiện rõ nhất địa vị pháp lý công chứng viên trong giai đoạn hiện
nay. Trên cơ sở kế thừa và phát triển thành tựu lập pháp của các giai đoạn trước, Luật
Công chứng năm 2014 đã bỏ sung một số quyền, nghĩa vụ của công chứng viên nhằm
phân định một cách rõ hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho công chứng viên trong quá
trình hành nghề. Theo đó, công chứng viên được pháp luật bảo đảm một số quyền
hành nghề công chứng, đồng thời phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Luật
Công chứng năm 2014 và quy định của pháp luật có liên quan.
2.1. Quyền của công chứng viên
2.1.1. Được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công chứng
Công chứng viên có vai trò và sứ mệnh bảo vệ sự đúng đắn và công minh của
pháp luật cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy nhiên, nghề công
chứng cũng là nghề phải chịu nhiều áp lực và đối mặt với không ít nguy cơ và rủi ro
tiềm ẩn trong khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp. Những năm gần đây, nhận thức của
Nhà nước và xã hội đối Với nghề công chứng đã có những thay đổi đáng ghi nhận tuy
vậy cũng không thể tránh được trong quá trình hành nghề đối khi quyền và lợi ích hợp
pháp của các công chứng viên vẫn bị xâm hại. Bảo vệ quyền và li ích hành nghề hợp
pháp của công chứng viên, bảo đảm hành nghề theo pháp luật là một trong những
nhiệm vụ, đồng thời là quyền hạn quan trọng của Nhà nước, Hiệp Hội công chứng
cũng như của Hội Công chứng các tỉnh, thành phố.
Để bảo đảm quyền hành nghề của công chứng viên, Nhà nước đã đưa ra một loạt
các quy định để tạo điều kiện tốt nhất cho họ trong quá trình hành nghề như được công
chứng các hợp đồng, giao dịch trong phạm vi thẩm quyền của mình, được từ chối công
chứng trong những trường hợp pháp luật quy định, quyền được bồi dưỡng để nâng cao
5
năng lực chuyên môn, quyền được mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp... Bên cạnh
đó, Hội công chứng ở mỗi tỉnh, thành phố cũng đóng vai trò to lớn là tổ chức xã hội -
nghề nghiệp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên. Các tổ chức này sẽ
phối hợp với cộng đồng lên án các hành vị xâm phạm đến quyền hành nghề của công
chứng viên và hỗ trợ các cơ quan chức năng xử lý kịp thời, nhanh chóng, nghiêm khắc
các hành vi xâm phạm quyền và lợi ích của công chứng viên, đồng thời tham gia xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường pháp lý an toàn cho việc hành
nghề công chứng. Điều này sẽ đem lại sự ổn định và phát triển cho nghề công chứng.
2.1.2. Được tham gia thành lập Văn phòng công chứng hoặc làm việc theo chế
độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công chứng
Quy định về quyền thành lập Văn phòng công chứng của Luật Công chứng năm
2014 đã có sự thay đổi theo hướng chặt chẽ hơn so với Luật Công chứng năm 2006.
Theo đó, Văn phòng công chứng phải thành lập theo loại hình công ty hợp danh (khác
Luật Công chứng năm 2006 cho phép tồn tại song song hai loại hình doanh nghiệp đó
là: Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập được tổ chức và hoạt
động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân và Văn phòng công chứng do hai công
chứng viên trở lên thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp
danh).
Ngoài ra, Luật Công chứng năm 2014 vẫn kế thừa quy định Luật Công chứng
năm 2006 khi cho phép Văn phòng công chứng có quyền thuê công chứng viên làm
việc theo hợp đồng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức hành nghề công chứng
hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đáp ứng nhu cầu công chứng của nhân
dân.
2.1.3. Được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của
pháp luật
Với khái niệm “công chứng” được đưa ra tại khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng
năm 2014, thì so với Luật Công chứng năm 2006, công chứng viên còn được mở rộng
thêm phạm vi hoạt động (mà thực chất là được giao lại thẩm quyền như trước đây) là
công chứng bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nưc ngoài hoặc từ tiếng
nước ngoài sang tiếng Việt. Theo Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2010 của
Chính phủ về công chứng, chứng thực thì các Phòng công chứng được giao nhiệm vụ
chứng thực bản dịch. Tuy nhiên, khi Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-
CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản
chính, chứng thực chữ ký để thực hiện chủ trương tách bạch công chứng và chứng
thực thì Nhà nước đã giao nhiệm vụ chứng thực chữ ký người dịch trên bản dịch cho
Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện (do đây là việc chứng thực chữ ký).
Thực tiễn hoạt động cho thấy, Phòng Tư pháp thực hiện nhiệm vụ phát sinh khá nhiều
bất cập như yêu cầu chứng thực chữ ký người dịch chưa được đáp ứng kịp thời; trình
6
độ của người dịch chưa được kiểm soát bài bản dẫn đến chất lượng bản dịch không
cao, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp. Một phần
nguyên nhân đó là do Phòng Tư pháp cấp huyện chưa nhận thức hết trách nhiệm và vai
trò của mình, bên cạnh đó phần lớn các Phòng Tư pháp chưa có một đội ngũ cộng tác
viên có trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu dịch thuật của cá nhân, tổ chức. Ở
nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay, việc chứng nhận bản dịch thuộc chí năng của
công chứng viên, đặc biệt là các nước theo hệ thống côn chứng La tinh như: Pháp,
Đức, Tây
Ban Nha...
Như vậy với quy định của Luật Công chứng năm 2014 Nghị định số
23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực
bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch thì với
việc chứng thực bản sao giấy tờ, văn bản và bản dịch người dân có thể lựa chọn tổ
chức hành nghề công chứng hoặc Phòng Tư pháp cấp huyện, tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho người dân giúp giải quyết kịp thời, đây đu yêu cầu chứng nhận bản dịch của
nhân dân và cũng như giảm tải áp lực về công việc cho Phòng Tư pháp cấp huyện và
phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. tạo điều kiện cho công chứng Việt Nam hội nhập và
tạo điều kiện cho các văn bản công chứng sẽ được chứng nhận tại các quốc gia thành
viên của Ủy ban công chứng châu Á mà Việt Nam đã được kết nạp. Ngoài ra, việc quy
định như vậy sẽ góp phần nâng cao chất lượng công chứng bản dịch, do có sự thay đổi
về chất so với việc các Phòng Tư pháp cấp huyện chỉ đơn thuần chứng thực chữ ký
người dịch. Công chứng viên kiểm tra và chịu trách nhiệm về tính xác thực, tính hợp
pháp của các giấy tờ được dịch, đồng thời chứng nhận bản dịch do người được cấp
phép hành nghề dịch thuật thực hiện hoặc hiệu đính, công chứng viên và người dịch sẽ
cùng chịu trách nhiệm chất lượng bản dịch. liên đới về tính xác thực, tính hợp pháp
của bản dịch sẽ nâng cao chất lượng bản dịch.
2.1.4. Đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu
để thực hiện việc công chứng
Hoạt động công chứng là hoạt động pháp lý ngoài tố tụng, nhà đảm bảo an toàn
pháp lý cho các chủ thể pháp luật, phòng ngừa có tranh chấp có thể phát sinh mà công
chứng viên có thể giải quyết được bằng việc thực hiện nhiệm vụ trung gian pháp lý và
là một công không thể thiếu được để quản lý một nền tư pháp hiệu quả. Thông qua quá
trình công chứng, công chứng viên xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch. Để đảm bảo giao dịch các bên xác lập là không vi phạm pháp luật thì
cần xác định giao dịch là xác thực và hợp pháp; việc xác định sẽ diễn ra trên cơ sở
công chứng viên tiếp xúc trao đổi với người yêu cầu công chứng và dựa trên các thông
tin, tài liệu mà các chủ thể có liên quan cung cấp phục vụ việc công chứng. Việc quy
định công chứng viên có quyền đề nghị các chủ thể liên quan cung cấp thông tin, tài
liệu là cần thiết nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của những chủ thể có liên quan,
7
giúp các bên đảm bảo an toàn pháp lý, giải quyết việc công chứng hợp đồng, giao dịch
hiệu quả và tuân theo pháp luật. Các tài liệu này sẽ được cung cấp cho các công chứng
viên trước khi tiến hành công chứng hợp đồng, giao dịch.
2.1.5. Được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp
luật, trải đạo đức xã hội
Công chứng viên được coi như công lại của Nhà nước, thay mặt Nhà nước xác
nhận tính xác thực, hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch. Trong trường hợp phát hin
hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội thì công chứng
viên được quyền từ chối công chứng. Việc từ chối công chứng phải dựa trên những căn
cứ xác thực trên cơ sở quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào cảm xúc cá nhân
về dân tộc, tôn giáo, lối sống, tuổi tác, khuyết tật, nghề nghiệp hay giới tính của người
yêu cầu công chứng. Quyền từ chối công chứng là một quyền đặc biệt nhấn mạnh tính
độc lập, chức năng của công chứng viên và quyền thay mặt Nhà nước thực hiện pháp
luật của công chứng viên trên cơ sở hiểu biết thấu đáo về pháp luật và đạo đức xã hội
để bảo vệ trật tự trong xã hội.
2.2. Nghĩa vụ của công chứng viên
2.2.1. Tuân thủ các nguyên tắc hành nghề công chứng.
Để đảm bảo được những mục tiêu đề ra cho các chủ thể hoạt động công chứng,
pháp luật đã đưa ra nguyên tắc hành nghề công chứng yêu cầu công chứng viên phải
tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; khách quan, trung thực, chịu trách nhiệm trước pháp
luật về văn bản công chứng; tuân theo đạo đức hành nghề công chứng. Quy định như
vậy với mục đích xây dựng một đội ngũ công chứng viên khi hành nghề công chứng
phải luôn tuân thủ pháp luật, có đạo đức tốt, thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ, tận
tụy với công việc, có đủ trình chuyên sâu và có đủ năng lực để thi hành tốt nhiệm vụ
được giao.
2.2.2. Hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng
Với các đặc thù của hoạt động công chứng, công chứng viên không thể hành
nghề tự do như một số nghề nghiệp khác, pháp luật quy định công chứng viên chỉ
được phép hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng. Việc quy định này là cần
thiết bởi trong quá trình công chứng viên thực hiện hoạt động nghề nghiệp của mình sẽ
phát sinh nhiều vấn đề như quản lý, thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm trong hoạt
động công chứng, trách nhiệm vật chất, trách nhiên mua bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp...
2.2.3. Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người về, cầu công chứng
Chất lượng và kết quả của hoạt động công chứng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố, một trong số đó chính là mối quan hệ giữa công chứng viên và người yêu cầu công
8
chứng. Một mối quan hệ cởi mở và tin cậy tạo tiền đề quyết định hiu quả công chứng
xây dựng dựa trên thái độ chuẩn mực và trung thực, tôn trọng đối với khách hàng của
công chứng viên. Tuy nhiên sự tôn trọng nên được biểu thị thông qua sự tôn trọng
những chuẩn mực đạo đức, quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng
cũng như quy định của pháp luật chứ không phải sự tiếp nhận vô điều kiện những đòi
hỏi của các bên. Công chứng viên có nghĩa vụ bảo đảm chất lượng dịch vụ pháp lý
cung cấp cho người yêu cầu công chứng, tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử
dụng kiến thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để bảo vệ tốt nhất
quyền và lợi ích của người yêu cầu công chứng theo quy định của pháp lut.
2.2.4. Giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi
ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng, trường hợp từ
chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng
Sự phức tạp của các mối quan hệ xã hội cũng như của môi trường kinh doanh
ngày càng gia tăng sẽ kéo theo nhiều vấn đề pháp lý nảy sinh. Người yêu cầu công
chứng đến với các tổ chức hành nghề công chứng nhằm tìm kiếm một sự an toàn và tin
cậy về pháp lý đối với các hợp đồng, giao dịch mà họ xác lập. Thông qua hành vi công
chứng và chứng thực, các công chứng viên sẽ giúp người yêu cầu công chứng hạn chế
thấp nhất rủi ro có thể xảy ra.
Trong quá trình thực hiện hoạt động công chứng, các công chứng viên sẽ nắm bắt
các thông tin do người yêu cầu công chứng truyền tải, từ đó họ sẽ có nhiệm vụ cung
cấp cho khách hàng những tư vấn pháp lý chính xác và dễ hiểu cũng như giải thích cho
họ hiểu rõ về quyền, nghĩa vụ, hậu quả pháp lý phát sinh của hợp đồng, giao dịch được
yêu cầu công chứng; giải đáp một cách rõ ràng những thắc mắc của người yêu cầu
công chứng nhằm đảm bảo cho hợp đồng, giao dịch đúng với ý chí của các bên giao
kết hợp đồng, giao dịch. Để thực hiện được mục tiêu này, công chứng viên cân trao đổi
với các bên một cách khách quan và trung thực, sẽ giúp các bên xác định ý chí và mục
đích các bên hướng tới có thống nhất và không vi phạm pháp luật cũng như đạo đức xã
hội. Hoạt động này cho phép các bên liên quan hiểu các nội dung và rủi ro gắn liền với
một giao dịch nhất định, có nhận thức đúng về pháp luật có liên quan và giá trị pháp lý
của văn bản công chứng trước khi công chứng viên thực hiện hành vi công chứng. Nếu
phát sinh trường hợp pháp luật quy định phải từ chối công chứng, công chứng viên cần
giải thích cho các bên hiểu rõ.
2.2.5. Giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu
công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác
Công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm giữ bí mật
thông tin thu được trong khi thực hiện các dịch vụ công chứng. Tuân thủ các nguyên
tắc bảo mật là điều kiện tiên quyết và cần thiết cho mối quan hệ tin cậy giữa công
chứng viên và các cá nhân và tổ chức. Việc giữ bí mật được áp dụng đối với các thông
9
tin trong hồ sơ yêu cầu công chứng, hồ sơ công chứng và tất cả thông tin công chứng
viên biết được về nội dung công chứng. Quy định này để góp phần bảo vệ các quyền
và lợi ích của các bên cũng như chủ thể khác có liên quan nhằm tăng độ an toàn của
các hợp đồng, giao dịch, hạn chế tối đa những hậu quả pháp lý phát sinh để ngăn chặn
các tranh chấp cũng như kiện tụng có thể xảy ra. Nghĩa vụ này sẽ tồn tại ngay cả sau
khi miễn nhiệm hoặc tạm đình chỉ hành nghề đối với công chứng viên.
Các nghĩa vụ bảo mật không áp dụng cho trường hợp được người yêu cầu công
chứng đồng ý bằng văn bản hoặc trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền
có yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công chứng phục vụ cho việc giám
sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án liên quan đến việc đã công
chứng thì tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm cung cấp bản sao văn bản
công chứng và các giấy tờ khác có liên quan.
2.2.6. Tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm
Các mối quan hệ xã hội luôn thay đổi và diễn ra ngày càng phức tạp vì vậy đ
thích ứng với sự thay đổi đó các công chứng viên cần liên tục tăng cường các kiến
thức pháp lý cũng như kỹ năng của họ. Công chứng viên có nghĩa vụ cung cấp hỗ trợ
pháp lý cho các cá nhân và pháp nhân vì vậy bên cạnh tư cách đạo đức tốt họ còn phải
có kiến thức chuyên sâu về các quy định pháp luật có liên quan cũng như khả năng áp
dụng chúng trong thực tế. Để đảm bảo được mục tiêu này, ngoài việc phải được đào
tạo một cách chuyên nghiệp và bài bản họ cần phải tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ
công chứng hàng năm để cập nhật, bổ sung kiến thức pháp luật về công chứng và các
quy định pháp luật khác có liên quan cũng như bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng hành
nghề công chứng, cách thức giải quyết các vấn đề vướng mắc trong quá trình hành
nghề công chứng.
Công chứng viên đang hành nghề phải tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng
hàng năm tại một trong các tổ chức sau: Học viện Tư pháp, Hội công chứng viên;
trường hợp địa phương chưa thành lập Hội công chứng viên thì Sở Tư pháp thực hiện
bồi dưỡng. Việc bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm được diễn ra tối thiểu là
03 ngày làm việc/năm (24 giờ/năm). Công chứng viên được miễn thực hiện nghĩa vụ
tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm trong trường hợp đã tham gia
giảng dạy tại Học viện Tư pháp, tham gia giảng dạy tại một lớp bồi dưỡng nghiệp vụ
công chứng hàng năm hoặc tham gia một khóa bồi dưỡng nghề công chứng ở nước
ngoài trong năm đó.
2.2.7. Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về
văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của
Văn phòng công chứng mà mình là công chứng viên hợp danh
Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Thông tư số 11/2012/TT-BTP và điểm g khoản
2 Điều 17 Luật Công chứng năm 2014, công chứng viên sẽ phải chịu trách nhiệm
10
trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình,
tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công
chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên gây ra trong quá trình công
chứng. Về cơ chế thực hiện nghĩa vụ bồi thường, công chứng viên gây thiệt hại phải
hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền
bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn
trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc quy
định trách nhiệm pháp lý này của công chứng viên là cần thiết nhằm đế cao nhiệm vụ,
trách nhiệm, vai trò của công chứng viên khi thi hành công việc đưc giao; hơn nữa,
do phải chịu trách nhiệm trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng nên
công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng phải hết sức cân nhắc và thận trọng
khi hành nghề. Bên cạnh đó khi có thiệt hại xảy ra, các cơ quan chức năng cũng dễ
dàng hơn trong việc xác định đối tượng phải chịu trách nhiệm đối với các sai phạm đó.
2.2.8. Tham gia tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên
Sau gần 05 năm thực hiện Luật Công chứng năm 2014, đội ngũ công chứng viên
đang hành nghề tăng từ 393 lên hơn 2400 người (tăng gần 6 lần); các tổ chức hành
nghề công chứng (gồm các Phòng công chứng và Văn phòng công chứng) phát triển
mạnh mẽ (tăng gần 12 lần, từ 84 lên 1003 tổ chức), số lượng Phòng công chứng là 128
Phòng với khoảng 875 công chứng viên, trong đó có khoảng 320 công chứng viên là
viên chức. Với sự tăng mạnh về số lượng công viên và các tổ chức hành nghề công
chứng trong thời gian qua đòi hỏi phải có tổ Chức xã hội - nghề nghiệp của công
chứng viên để nâng cao trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp từ trung
ương địa phương hoạt động trong một thể thống nhất. Mặc dù trong các văn bản pháp
luật trước đây quy định về hoạt động công chứng nhà nước chưa chính thức ghi nhận
vai trò của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên nhưng xuất phát từ yêu
cầu tự quản, cũng như tạo môi trường cho các công chứng viên sinh hoạt chuyên môn,
nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong quá trình tác nghiệp thì ở nhiều địa
phương trên cả nước đã thành lập Hội công chứng hoặc Câu lạc bộ công chứng. Ở các
nước theo Hệ thống công chứng La tinh, hệ thống tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
công chứng viên ra đời rất sớm, đã có nhiều hiệu quả trong công tác quản lý hoạt động
công chứng.
Nhìn nhận ra vai trò của tổ chức xã hội - nghề nghiệp này đối với hoạt động công
chứng nói riêng và đối với xã hội nói chung và để thống nhất các tổ chức này trong
phạm vi cả nước cũng như hỗ trợ các công chứng viên trong quá trình hành nghề thì
Luật Công chứng năm 2014 đã bổ sung một nghĩa vụ của công chứng viên đó là tham
gia tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên. Đây cũng là một quy định hết
sức quan trọng đối với hoạt động công chứng.
11
2.2.9. Chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của tổ chức hành
nghề công chứng mà mình làm công chứng viên và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
công chứng viên mà mình là thành viên
Trong điều kiện hoạt động công chứng ngày càng được xã hội hóa rộng rãi như
hiện nay thì việc quy định công chứng viên phải chịu sự quản lý của Nhà nước và tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên là điều cần thiết. So với những chức
danh tư pháp khác, công chứng viên ở Việt Nam vẫn là một chức danh khá non trẻ với
vị trí, vai trò mới được ghi nhận sâu sắc trong những năm gần đây. Vì vậy, vai trò của
quản lý nhà nước cũng như quản lý của các Hội công chứng viên và Hiệp hội công
chứng viên là rất cần thiết nhằm điều tiết, điều chỉnh hoạt động công chứng phát triển
lành mạnh, đúng với mục tiêu chính trị, xã hội, kinh tế lâu dài, bảo đảm an toàn pháp
lý cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công chứng trong điều kiện các
giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp, đảm
bảo hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước, đồng thời đề cao tính tự chịu trách
nhiệm cá nhân của công chứng viên.
Để việc quản lý đối với hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên và tổ chức
hành nghề công chứng được hiệu quả thì vai trò của các cơ quan có thẩm quyền phải
được xác định, phân biệt rõ ràng, cụ thể để bảo đảm hiệu quả. Sự phối hợp giữa cơ
quan quản lý nhà nước về công chứng với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công
chứng viên cần được phân định rõ và hợp lý giữa công tác quản lý nhà nước với trách
nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên. Việc quản lý nhà
nước đối với hoạt động công chứng sẽ thực hiện thông qua quá trình quản lý, thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm đối với loại hình hoạt động mang tính đặc thù này. Hiệp hội
công chứng viên sẽ kiểm tra việc thực hiện điều lệ của các hội viên, phối hợp với Bộ
Tư pháp trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập sự hành nghề công chứng theo quy
định của pháp luật; bám sát đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
trong việc tham gia xây dựng, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Sự kết hợp
quản lý của Nhà nước và tổ chức xã hội nghề nghiệp sẽ góp phần bảo đảm nâng cao
chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, lâu dài của hoạt động công chứng.
Ngoài các quyền và nghĩa vụ cơ bản được quy định tại Điều 17 Luật Công chứng
năm 2014, công chứng viên còn các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ khác theo
quy định của Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan
như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động...
III. Thực trạng hành nghề công chứng của công chứng viên.
Như đã phân tích ở trên, việc hành nghề công chứng của công chứng viên hành
nghề công chứng của công chứng viên hết sức quan trọng. Có thể thấy, khi hành nghề
công chứng, phần lớn công chứng viên sẽ tuân thủ theo các quy định của pháp luật
theo nguyên tắc hành nghề công chứng. Tuy nhiên, có thể thấy, từ quy định cho đến
12
thực tiễn thực hiện vẫn là một khoảng cách khá lớn, vẫn có một phần không nhỏ không
thực hiện được các quy định của pháp luật và nguyên tắc hành nghề công chứng. Thực
tế hiện nay, những sai phạm về đạo đức hành nghề công chứng vẫn còn rất nhiều và có
xu hướng gia tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn. Về thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật và nguyên tắc hành nghề công chứng có thể thấy như sau:
Theo quy định của pháp luật, văn phòng công chứng thì sẽ được tổ chức và hoạt
động theo mô hình công ty hợp danh và phải có ít nhất từ hai công chứng viên hợp
danh trở lên. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều trường hợp công chứng viên không đủ điều
kiện để thành lập và duy trì một văn phòng công chứng, do đó đã xuất hiện những
“chủ đầu tư” để đứng ra bỏ vốn thành lập văn phòng. Như vậy, việc hành nghề để đem
lại lợi nhuận là vô cùng quan trọng. Đồng thời cũng vì lý do đó, trong nhiều trường
hợp, công chứng viên sẽ phải chịu những tác động nhất định khi hành nghề công
chứng, nguyên tắc khách quan và trung thực lúc này không còn được đề cao.
Những sai sót, vi phạm phổ biến của các tổ chức hành nghề công chứng, công
chứng viên, người yêu cầu công chứng và các cá nhân tổ chức có liên quan hiện nay
chủ yếu do chưa tuân thủ nghiêm quy định của Luật Công chứng năm 2014 và các văn
bản hướng dẫn thi hành, như: Chưa đóng dấu hồ sơ lưu vào các hợp đồng, hồ sơ lưu
chưa đóng dấu đã đối chiếu bản chính; Văn bản thỏa thuận phân chia di sản không
đúng trình tự, thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch; Việc sử dụng tên Văn phòng
công chứng chưa đúng nội dung của giấy chứng nhận đăng ký hoạt động; Bìa sổ chứng
thực bản sao từ bản chính, sổ chứng thực chữ ký, điểm chỉ lập chưa đúng mẫu quy
định; Sai sót khi sửa lỗi kỹ thuật trong các hợp đồng giao dịch, thực hiện chứng nhận
các giao dịch vi phạm pháp luật và trái đạo đức xã hội, sử dụng giấy tờ giả, tẩy xóa,
sửa chữa để thực hiện hợp đồng giao dịch công chứng,...
- Số lượng tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn cả nước ngày càng phát
triển về số lượng vì vậy chưa thể quản lý một cách triệt để nên còn xảy ra các trường
hợp: tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa một số tổ chức hành nghề công
chứng đã xảy ra như ký hợp đồng với các tổ chức tín dụng, chi hoa hồng cho môi giới
hoặc nhân viên ngân hàng, thực hiện công chứng ngoài giờ làm việc, công chứng
ngoài trụ sở không có lý do chính đáng.
- Chưa có biện pháp cụ thể, hỗ trợ các tổ chức hành nghề công chứng trước hiện
tượng gian dối, lừa đảo, giả mạo giấy tờ, giả mạo người yêu cầu công chứng trong
hoạt động công chứng có chiều hướng gia tăng, mức độ tinh vi, phức tạp hơn, gây khó
khăn cho hoạt động công chứng, bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch.
- Đội ngũ làm cán bộ quản lý còn mỏng, thiếu do vậy công tác thanh tra, kiểm tra
trong hoạt động công chứng được chú trọng nhưng vẫn chưa thật sự đáp ứng được nhu
cầu, vẫn còn tình trạng Công chứng viên vi phạm quy định của pháp luật công chứng
và các quy định có liên quan đến hoạt động công chứng.
13
- Cơ chế phối hợp trong các thủ tục hành chính giữa các cơ quan có liên quan tại
Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ban ngành có liên quan chưa thật sự tốt, vẫn còn trường
hợp Ủy ban nhân dân các cấp không phối hợp tốt với tổ chức hành nghề công chứng
trong việc xác minh, niêm yết hoặc hợp đồng, giao dịch tuy đã có công chứng nhưng
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất lại từ chối đăng ký vì những thủ tục không có
trong quy định.
- Quy hoạch chưa được đúng đắn so với quy hoạch, chủ trương của Đảng và nhà
nước, nhiều địa phương chưa đáp ứng đủ các tổ chức hành nghề công chứng phục vụ
nhu cầu công chứng của xã hội, nhiều địa phương lại thành lập các tổ chức hành nghề
công chứng không phân bổ, gây hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh khi cung
vượt cầu,…
IV. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền nghĩa vụ của
công chứng viên
Bên cạnh những kết quả về việc thực hiện tiêu chuẩn của công chứng viên theo
Luật công chứng năm 2014, tuy nhiên quy định về tiêu chuẩn của công chứng viên vẫn
còn những hạn chế nhất định. Chính vì vậy, dẫn đến hiệu quả của hoạt động công
chứng
vẫn không đạt được kết quả tốt nhất theo định hướng ban đầu. Qua thực tiễn quy định
tiêu chuẩn của công chứng viên hiện nay, em có một số kiến nghị để việc quy định về
tiêu chuẩn của công chứng viên được hoàn thiện hơn.
Như đã phân tích, trình bày ở các phần trên, quy đinh tiêu chuẩn về công chứng
viên hiện hành của nước ta về hình thức đã tương đối toàn diện, bao hàm các quy định
gần như đủ cho mọi khía cạnh để tạo nên một quy chế hoàn chỉnh cho công chứng
viên
Việt Nam. Tuy nhiên, cũng như các phân tích đi kèm với nó, thì về nội dung vẫn cần
phải có những quy định chi tiết hơn, cụ thể để làm rõ hoặc để củng cố vững chắc cho
mục đích các điều khoản đã đưa ra thì lại thiếu hụt nhiều, gây ra tình trạng quy mang
tính chung chung nên việc áp dụng cho công chứng viên và các cơ quan quản lý nhà
nước, tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên rất khó thực hiện đúng theo
tinh
thần, mục đích của các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật quy định về
tiêu
chuẩn của công chứng viên.
Thứ nhất: Quy định chặt chẽ, rõ ràng hơn về thời gian công tác pháp luật 05
năm
trở lên tại các cơ quan, tổ chức.
Phải quy định rõ ví trí, chức danh, chuyên môn làm việc có liên quan tới pháp
luật
14
hay không. Ví dụ như người làm thư ký Tòa án, người làm bảo vệ, Tạp vụ… trong Tòa
án thì cũng được gọi chung là công tác tại cơ quan pháp luật. Như chúng ta đã thấy
công
chứng là một hoạt động đặc thù chỉ do một cá nhân (công chứng viên) tiếp nhận, tự
quyết định xử lý và thực hiện việc công chứng từ đầu đến cuối, đồng thời phải tự chịu
trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng”
(khoản 4, Điều 4, Luật công chứng 2014) thì thử hỏi những người làm bảo vệ trong
Tòa
án có đủ trình độ để thực hiện công việc mang tính chất trách nhiệm pháp lý cao
hay không?
Như vậy, có thể hình dung ngay được sức ép về kiến thức pháp luật về kinh
nghiệm áp dụng pháp luật, kinh nghiệm phân tích các mối quan hệ xã hội và cái sức ép
về tâm lý đối với công chứng viên khi thực hiện công chứng là rất lớn. Thêm vào đó,
Luật công chứng lại còn khống chế cả thời hạn phải thực hiện việc công chủng: "Thời
hạn công chúng không quả 02 ngày làm việc; đối với hợp đồng, giao dịch có nội dung
phức tạp thì thời hạn công chứng có thể kéo dài hơn nhưng không quả 10 ngày làm
việc”
(Điều 43, khoản 2, Luật công chứng 2014).
Hơn nữa, vì là dịch vụ đã được xã hội hoá, xuất hiện thêm yếu tố cạnh tranh nên
việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu công chứng đòi hỏi phải được giải quyết gần
như là tức thời, nếu không có các quy định phải khống chế thời gian của pháp luật. Với
tất cả những sức ép như trên, liệu rằng những quy định chung chung về thời gian công
tác tại các cơ quan pháp luật nói trên đã đủ chưa Có thể thấy ngay câu trả lời là: quy
định như vậy còn quá chung chung, khó đáp ứng được với những diễn biến vô cùng
phức tạp trong thực tiễn xã hội, dễ đẩy công chứng viên, nhất là các công chứng viên
mới vào nghề mắc phải những sai phạm do thiếu kinh nghiệm chuyên môn, thiếu bản
lĩnh nghề nghiệp.
Đặc biệt hơn nữa, vì công chứng viên chỉ là một cá nhân được trao cho một phần
quyền lực công của Nhà nước (thực hiện dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm) để thực
hiện việc công chứng (nay thêm chức năng chứng thực) công chứng viên đòi hỏi một
trình độ chuyên môn cao, kiến thức pháp luật lại phải rất rộng và đặc biệt là phải vững
vàng. Thêm vào đó, yếu tố kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tiễn cũng phải đẩy đủ
và chắc chắn. Do vậy, như quy định về tiêu chuẩn công chứng viên tại Điều 8 Luật
Công
chứng hiện hành nên được sửa đổi, bổ sung nhằm cụ thể hơn các quy định và nhất là
tăng cường, cũng cố thêm yếu tố chất lượng, chuyên môn lĩnh vực của công chứng
viên.
Cụ thể, tại khoản 2 - Điều 8, Luật Công chúng 2014 quy định: "có thời gian công tác
15
pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật"
thực sự rất cần thiết.
Thứ hai: Về phẩm chất đạo đức của công chứng viên.
Như đã phân tích ở phần về tiêu chuẩn đạo đức của công chứng viên cũng tại
Điều 8, Luật Công chứng 2014: "có phẩm chất đạo đức tốt” là một quy định hoàn toàn
chung chung, không hề có tính định lượng, rất khó thực hiện trên thực tiễn, tuy rằng
tiêu
chuẩn này rất cần. Do vậy cũng nên phải nghiên cứu và quy định cụ thể hơn, chi
tiết hơn.
Chuẩn mực đạo đức xã hội chúng ta có thể đã biết nhiều, chuẩn mực đạo đức
trong pháp luật chúng ta cũng có thể trích dẫn ra từ một số các quy định trong hthống
văn bản quy phạm, nhưng đối với tiêu chuẩn công chứng viên thì nên đặt chuẩn mực
đạo đức phải cao hơn một mức so với các đối tượng thông thường khác, tức phải quy
định rõ hơn thế nào là đạo đức tốt. Ví dụ, có thquy định thêm về tiêu chuẩn đạo đức
tốt như: chưa từng bị kết án tù giam vì lỗi cố ý trong lĩnh vực công chứng, không bị xử
phạt vi phạm hành chính đến lần thứ ba trong lĩnh vực công chứng vì lỗi cố ý, hoặc
chưa từng phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, hoặc những người không có hành vi gây ra
những dư luận xấu có tác động tiêu cực đến xã hội…
Thứ ba: Vấn đề tập sự hành nghề công chứng và đạt yêu cầu kiểm tra tập sự
nghề
công chứng.
Luật Công chứng số 53/2014/QH13 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015
đã dành riêng những điều, khoản để quy định về tiêu chuẩn công chứng viên và việc
tập
sự hành nghề công chứng viên. Việc hoàn thành thủ tục tập sự hành nghề công chứng
viên là điều kiện bắt buộc để được đề nghị bổ nhiệm công chứng viên. Đồng thời, ngày
15/4/2015, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Thông tư số 04/2015/TT-BTP hướng dẫn tập
sự hành nghề công chứng (Thông tư số 04/2015/TT-BTP). Tuy nhiên, các văn bản trên
đều chưa có những quy định thật cụ thể và đã phát sinh những bất cập trong việc thực
hiện tập sự hành nghề công chứng đối với một số trường hợp nhất định trên thực tế, từ
đó rất khó khăn cho các cơ quan, đơn vị, địa phương trong quá trình áp dụng.
- Đối với những trường hợp công chức đang công tác tại các cơ quan thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh (không phải công tác tại Sở Tư pháp), đã được quy hoạch và
được cấp có thẩm quyền có định hướng bố trí giữ chức vụ trưởng phòng tại các phòng
công chứng.
Đây là công việc bình thường và đương nhiên trong công tác cán bộ tại địa phương.
Tuy
nhiên, theo quy định hiện hành tại khoản 2 Điều 19 Luật Công chứng năm 2014 thì
16
trưởng phòng công chứng phải là công chứng viên. Cùng với đó, để được bổ nhiệm
công
chứng viên thì phải bảo đảm các tiêu chuẩn, trong đó có điều kiện “phải hoàn thành
tập
sự hành nghề công chứng viên theo thời gian quy định là 12 tháng đối với người có
giấy
chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng”. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là
việc tập sự hành nghề công chứng được thực hiện như thế nào (trong trường hợp đã
qua
lớp đào tạo nghề công chứng theo quy định). Bởi lẽ, những trường hợp này đang công
tác tại các cơ quan khác, không thể bố trí thời gian để đến các tổ chức hành nghề công
chứng thực hiện việc tập sự trong thời gian dài như vậy. Mặt khác, theo quy định tại
khoản 2 Điều 2 Thông tư số 04/2015/TT-BTP thì: “Người thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì không được đăng ký tập sự: …Người đang là cán bộ, công chức, viên
chức (trừ viên chức làm việc tại phòng công chứng)…”. Đây là vấn đề vướng mắc
đang
nảy sinh trong thực tế. Thiết nghĩ, Bộ Tư pháp cần phối hợp với các bộ, ngành có liên
quan sớm có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Đối với những trường hợp công chức, viên chức đang công tác tại các đơn vị
chuyên môn, nghiệp vụ, đơn vị sự nghiệp khác thuộc Sở Tư pháp đã được quy hoạch,
dự kiến bố trí làm công chứng viên tại các phòng công chứng. Cũng tương tự như các
trường hợp trên, việc tập sự của các trường hợp này là rất khó khăn, vì lý do biên chế,
lý do công việc và các quy định của pháp luật hiện hành. Theo quy định thì những
trường
hợp này nếu muốn đủ điều kiện để được bổ nhiệm công chứng viên thì cũng phải thực
hiện việc tập sự hành nghề công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng. Tuy
nhiên, hiện tại họ đang làm việc tại các đơn vị chuyên môn, sự nghiệp thuộc Sở Tư
pháp
(không phải tại các phòng công chứng) thì việc tập sự được thực hiện như thế o. Rất
cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Thực tế, tại một số
địa phương đang cần tạo nguồn từ công chức, viên chức thuộc Sở Tư pháp để đề nghị
bổ nhiệm công chứng viên nhưng gặp phải vướng mắc quy định hiện hành về tập sự
hành nghề công chứng. Theo như quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư số
04/2015/TT-BTP thì các trường hợp là công chức, viên chức (không đang công tác tại
phòng công chứng) thuộc các Sở Tư pháp không thể nào thực hiện được việc tập sự
hành nghề công chứng để bảo đảm đủ điều kiện được bổ nhiệm công chứng viên.
Những vướng mắc này rất cần được cấp có thẩm quyền, mà cụ thể là Bộ Tư pháp
hướng dẫn cụ thể, rõ ràng để các đơn vị, địa phương, cá nhân có liên quan triển khai
thực hiện, bảo đảm đúng quy định của pháp luật và tình hình thực tế.
17
Thứ tư: Vấn đề bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng.
Luật công chứng hiện hành không quy định về độ tuổi hành nghề cũng như độ
tuổi để được bổ nhiệm của công chứng viên. Với một công việc đặc thù, có tính chất
trách nhiệm pháp lý cao, đòi hỏi về sức khỏe, về trí tuệ… thì cần phải quy định rõ độ
tuổi nhất định để đảm bảo yêu cầu sức khỏe trong hành nghề.
KẾT LUẬN
Công chứng là một nghề cao quý nhưng sự cao quý của nghề công chứng không
phải là tự thân của nghề này mà chính là những giá trị mà những người hành nghề này
mang lại cho kinh tế, xã hội cũng như hoạt động tư pháp của đất nước. Công chứng
viên
có vai trò rất quan trọng là không chỉ xác lập hợp đồng, giao dịch về mặt hình thức phù
hợp pháp luật mà còn phải giải thích về pháp luật và tư vấn cho các bên về quyền và
nghĩa vụ của họ; bảo đảm các quy định bắt buộc của pháp luật phải được tuân thủ. Một
vấn đề rất quan trọng là công chứng viên làm cho các hợp đồng, giao dịch thực tế đúng
theo các quy định của pháp luật.
Hoạt động công chứng ở nước ta đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát
triển của kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong nền kinh tế thị trường
hội nhập quốc tế, là công cụ đắc lực phục vụ quản lý nhà nước có hiệu quả, đảm bảo
an
18
toàn cho pháp lý các giao dịch, góp phần tích cực vào việc phòng ngừa tranh chấp, vi
phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các quy định về tiêu chuẩn
công
chứng viên trong Luật Công chứng đã khẳng định rõ vai trò, vị trí của công chứng viên
khi hành nghề công chứng. Việc xây dựng một đội ngũ công chứng viên vững mạnh,
phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ năng lực chuyên môn và tận tâm phục vụ người dân
là vô cùng quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng lành
mạnh, minh bạch và an toàn hơn.
19
| 1/21

Preview text:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 2
I. Khái quát chung về nghề công chứng 2 1.1. Công chứng 2
1.2. Nghề công chứng 3
II. Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Công chứng viên. 5
2.1. Quyền của công chứng viên 5
2.2. Nghĩa vụ của công chứng viên 8
III. Thực trạng hành nghề công chứng của công chứng viên. 12
IV. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công chứng viên 14 KẾT LUẬN 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 19 MỞ ĐẦU
Công chứng là một nghề cao quý. Khi thực hiện hoạt động công chứng, Công
chứng viên được trao cho một phần quyền lực công Nhà nước để thực hiện việc chứng
nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; chứng nhận tính chính xác, hợp
pháp, không trái đạo đức xã hội của các bản dịch. Do đó, công chứng viên đòi hỏi phải
là những người có đủ cả tài lẫn đức để có thể thực hiện hoạt động công chứng theo
đúng với bản chất nhất.
Cùng với sự phát triển của xã hội hiện nay thì các hợp đồng, giao dịch dân sự
ngày càng nhiều, các yêu cầu công chứng cũng ngày càng tăng lên. Việc phát triển này
đã tạo tiền đề cho hoạt động nghề công chứng ngày càng phát triển. Các tổ chức hành
nghề công chứng được thành lập nhiều hơn, số lượng công chứng viên gia tăng và hoạt
động công chứng được phổ biến sâu rộng đến các vùng, miền của tổ quốc. Có thể thấy,
chức năng xã hội của công chứng viên chính là Công chứng viên cung cấp dịch vụ
công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên
tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc thực
hiện được chứng năng này sẽ giúp ích rất nhiều cho sự ổn định và phát triển kinh tế.
Cũng như các ngành nghề khác, khi có tiền đề phát triển thì cũng sẽ xuất hiện
những vấn đề tiêu cực nhất định, do đó, đòi hỏi công chứng viên phải vừa có tài và có
đức. Đồng thời, pháp luật công chứng cũng đã quy định quyền và nghĩa vụ cho công
chứng viên khi thực hiện hành nghề công chứng. Những quyền và nghĩa vụ này sẽ là
kim chỉ nam cho công chứng viên xuyên suốt trong quá trình hành nghề công chứng,
việc tuân theo các quy định pháp luật này sẽ giảm thiểu được những rủi ro khi công chứng viên hành nghề.
Để hoàn thiện pháp luật công chứng, chúng ta cần làm rõ vấn đề gốc rễ đó là
bản chất của công chứng, xác định rõ mô hình công chứng mà chúng ta đang theo
đuổi. Đặc biệt đối với học viên mới tiếp xúc với nghề công chứng thông qua chương
trình đào tạo nghề công chứng, đây chính là kiến thức nền tảng mà mỗi Công chứng
viên tương lai càng phải nắm rõ bản chất công chứng, mô hình và trách nhiệm của
Công chứng viên tại Việt Nam.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề quyền và nghĩa vụ của công chứng viên, tôi đã lựa chọn
đề tài: “Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Công chứng viên trong hoạt
động công chứng - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật.” để nghiên cứu và
phân tích làm báo cáo kết thúc học phần. 1 NỘI DUNG
I. Khái quát chung về nghề công chứng 1.1. Công chứng
Tại khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014 quy định như sau:
“Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng
chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn
bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo
đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ
tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp
luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.”

Theo quy định nêu trên, khái niệm công chứng đã được quy định khá rõ ràng và
cụ thể. Có thể thấy, công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề
công chứng thực hiện các thủ tục sau đây:
Thứ nhất: chứng nhận tính xác thực, hợp pháp đối với của hợp đồng, giao dịch
theo quy định của pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân tự nguyên yêu cầu công chứng:
Có thể thấy, hiện nay, trong từng văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành sẽ
có những quy định cụ thể về việc có yêu cầu phải thực hiện thủ tục công chứng hay
không? Như đối với hầu hết các giao dịch liên quan đến bất động sản như mua bán,
chuyển nhượng nhà đất … thì theo quy định của pháp luật sẽ phải thực hiện thủ tục
công chứng, chứng thức theo quy định. Khi đó, việc công chứng hợp đồng, giao dịch
đó là một trong những yêu cầu bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp pháp luật không quy định cụ thể về việc
phải yêu cầu công chứng, nhưng nếu tổ chức, cá nhân muốn bảo đảm về tính xác thực,
hợp pháp của các giao dịch đó cũng như ngăn ngừa được những tranh chấp xảy ra thì
cũng hoàn toàn có thể tự nguyên yêu cầu công chứng.
Đối với Hợp đồng, giao dịch đã được công chứng thì sẽ có giá trị pháp lý nhất
định, tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đã được bảo đảm.
Thứ hai: tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch
Ngoài việc chứng nhận tính xác thực, hợp pháp đối với hợp đồng, giao dịch thì
công chứng còn là chứng nhận tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của
các bản dịch. Bản dịch này có thể là bản dịch từ tiếng Việt Nam sang tiếng nước ngoài
hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt Nam.
Do công chứng viên không thể hiểu và thông thạo tất cả các tiếng nước ngoài nên
các bản dịch này sẽ phải do cộng tác viên dịch thuật của tổ chức hành nghề công
chứng thực hiện và cộng tác viên dịch này sẽ phải đáp ứng được các yêu cầu theo quy
định, theo đó, Cộng tác viên phải là người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ hoặc đại học 2
khác mà thông thạo thứ tiếng nước ngoài đó. Cộng tác viên phải chịu trách nhiệm đối
với tổ chức hành nghề công chứng về tính chính xác, phù hợp của nội dung bản dịch do mình thực hiện.
1.2. Nghề công chứng
Khi đã hiểu được khái niệm công chứng thì cần tìm hiểu tiếp theo đó là nghề
công chứng. Công chứng là một nghề cao quý, bởi hoạt động công chứng bảo đảm tính
an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch,
qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Như vậy, có thể thấy, nghề công chứng là một nghề cao quý và có vị trí quan trọng trong xã hội.
Nghề công chứng có một số đặc trưng tiêu biểu như sau:
Thứ nhất: một xã hội văn minh, phát triển ngoài các tiêu chí khác còn được thể
hiện ở một nền kinh tế ổn định và phát triển, trình độ dân trí cao, hệ thống pháp luật
phát triển đầy đủ và hoàn thiện. Đặc biệt, các cá nhân tham gia vào giao dịch đều có ý
thức tuân thủ pháp luật nhằm bảo đảm sự an toàn pháp lý và bảo đảm được các quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Mỗi khi có ý định tham gia vào một giao dịch dân sự nào
đó thì các cá nhân, tổ chức thường tin tưởng và tìm đến công chứng viên để được
hướng dẫn và giúp đỡ.
Xét về mặt bản chất, việc công chứng hợp đồng, giao dịch thực chất là việc làm
của công chứng viên nhằm chứng nhận:
- Tính xác thực, hợp pháp của quan hệ giao dịch đó là có diễn ra giữa các bên;
- Tính xác thực về năng lực hành vi dân sự của người tham gia giao dịch tại thời
điểm giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật;
- Tính xác thực về ý chí tự nguyện thông qua việc thỏa thuận của các bên;
- Việc ký và điểm chỉ của các bên trong văn bản là do chính họ (người có tên,
giấy tờ cá nhân và địa chỉ trong văn bản) thực hiện.
- Về nội dung, mục đích của hợp đồng, giao dịch không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Thứ hai: văn bản công chứng có giá trị để thi hành
Một trong những giá trị pháp lý của văn bản công chứng đó là có giá trị thi hành
đối với các bên liên quan. Đây cũng chính là điều mong muốn của các bên khi tham
gia vào giao dịch. Khi các bên tham gia vào giao dịch yêu cầu công chứng hợp đồng,
giao dịch thì ngoài để chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch thì 3
các bên còn tin tưởng vào văn bản công chứng. Khi một văn bản đã được công chứng
thì sẽ làm phát sinh giá trị thi hành đối với các bên liên quan. Như vậy, quyền và lợi
ích hợp pháp của họ sẽ được bảo đảm hơn.
Thứ ba: nghề công chứng là một nghề mang tính chuyên nghiệp cao
Đây là đặc trưng thứ ba của nghề công chứng. Đối với bất cứ ngành nghề nào
trong xã hội hiện nay cũng đòi hỏi phải có tính chuyên nghiệp, tuy nhiên, đối với nghề
công chứng thì tính chuyên nghiệp này đòi hỏi khắt khe hơn. Tính chuyên nghiệp của
nghề công chứng thể hiện qua những điểm sau đây:
- Người hành nghề công chứng là công chứng viên. Công chứng viên là người
được Nhà nước bổ nhiệm theo tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục luật định. Pháp luật còn quy
định về quyền và nghĩa vụ của công chứng viên trong hành nghề công chứng.
- Người hành nghề công chứng phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng;
- Bảo đảm tính khách quan, trung thực trong hành nghề công chứng;
- Người hành nghề công chứng phải nghiên cứu giải quyết các yêu cầu công
chứng một cách thận trọng, tỉ mỉ, chính xác và đúng quy định của pháp luật;
- Hoạt động công chứng phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, thông quan đó
người hành nghề bảo vệ được quyền và lợi ích Nhà nước không bị xâm phạm. Ngoài
việc tuân thủ các luật gốc thì người hành nghề công chứng còn phải bám sát, tôn trọng
và thực hiện đúng, chính xác luật chuyên ngành công chứng và các luật khác có liên
quan. Đồng thời, người hành nghề công chứng cũng phải tích lũy kinh nghiệm hành
nghề theo thời gian, kèm theo những hiểu biết sâu rộng của mình đề giải quyết được các yêu cầu công chứng.
Thứ tư: giá trị của văn bản công chứng
Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 5 Luật Công chứng 2014 quy định như sau:
“2. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên
liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì
bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường
hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.

3. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự
kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường
hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.”

Từ các quy định nêu trên, có thể thấy văn bản công chứng không những có giá trị
thi hành đối với các bên liên quan mà còn có giá trị chứng cứ. Đây là một trong những
điểm đặc thù của Văn bản công chứng so với các văn bản khác. Do khi thực hiện thủ
tục công chứng, công chứng viên đã chứng nhận tính xác thực và hợp pháp của hợp 4
đồng, giao dịch nên các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng sẽ được coi là chứng cứ mà
không cần chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên vô hiệu. Như vậy, có thể thấy,
hoạt động công chứng là một trong những hoạt động mang tính bổ trợ tư pháp.
Thứ năm: hoạt động hành nghề công chứng cung cấp dịch vụ công
Đây là đặc trưng cuối cùng của nghề công chứng. Nghề công chứng là một nghề
cung cấp dịch vụ công. Thông qua hoạt động của người hành nghề công chứng, các
quan hệ về dịch vụ được xác lập và thực hiện. Các hoạt động dịch vụ công có liên
quan đến hoạt động công chứng bao gồm thu thập thông tin, củng cố hồ sơ, thực hiện
thay thủ tục đăng ký sang tên….
II. Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Công chứng viên.
Luật Công chứng năm 2014 dành toàn bộ Chương II, từ Điều 8 đến Điều 17 để
quy định về nội dung chế định công chứng viên, những yếu tố sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình các chủ thể thực hiện hoạt động công chứng. Các quy định về quyền và
nghĩa vụ của công chứng viên tại Điều 17 Luật Công chứng năm 2014 là những quy
định cơ bản nhất, thể hiện rõ nhất địa vị pháp lý công chứng viên trong giai đoạn hiện
nay. Trên cơ sở kế thừa và phát triển thành tựu lập pháp của các giai đoạn trước, Luật
Công chứng năm 2014 đã bỏ sung một số quyền, nghĩa vụ của công chứng viên nhằm
phân định một cách rõ hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho công chứng viên trong quá
trình hành nghề. Theo đó, công chứng viên được pháp luật bảo đảm một số quyền
hành nghề công chứng, đồng thời phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của Luật
Công chứng năm 2014 và quy định của pháp luật có liên quan.
2.1. Quyền của công chứng viên
2.1.1. Được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công chứng
Công chứng viên có vai trò và sứ mệnh bảo vệ sự đúng đắn và công minh của
pháp luật cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy nhiên, nghề công
chứng cũng là nghề phải chịu nhiều áp lực và đối mặt với không ít nguy cơ và rủi ro
tiềm ẩn trong khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp. Những năm gần đây, nhận thức của
Nhà nước và xã hội đối Với nghề công chứng đã có những thay đổi đáng ghi nhận tuy
vậy cũng không thể tránh được trong quá trình hành nghề đối khi quyền và lợi ích hợp
pháp của các công chứng viên vẫn bị xâm hại. Bảo vệ quyền và lợi ích hành nghề hợp
pháp của công chứng viên, bảo đảm hành nghề theo pháp luật là một trong những
nhiệm vụ, đồng thời là quyền hạn quan trọng của Nhà nước, Hiệp Hội công chứng
cũng như của Hội Công chứng các tỉnh, thành phố.
Để bảo đảm quyền hành nghề của công chứng viên, Nhà nước đã đưa ra một loạt
các quy định để tạo điều kiện tốt nhất cho họ trong quá trình hành nghề như được công
chứng các hợp đồng, giao dịch trong phạm vi thẩm quyền của mình, được từ chối công
chứng trong những trường hợp pháp luật quy định, quyền được bồi dưỡng để nâng cao 5
năng lực chuyên môn, quyền được mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp... Bên cạnh
đó, Hội công chứng ở mỗi tỉnh, thành phố cũng đóng vai trò to lớn là tổ chức xã hội -
nghề nghiệp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên. Các tổ chức này sẽ
phối hợp với cộng đồng lên án các hành vị xâm phạm đến quyền hành nghề của công
chứng viên và hỗ trợ các cơ quan chức năng xử lý kịp thời, nhanh chóng, nghiêm khắc
các hành vi xâm phạm quyền và lợi ích của công chứng viên, đồng thời tham gia xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường pháp lý an toàn cho việc hành
nghề công chứng. Điều này sẽ đem lại sự ổn định và phát triển cho nghề công chứng.
2.1.2. Được tham gia thành lập Văn phòng công chứng hoặc làm việc theo chế
độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công chứng
Quy định về quyền thành lập Văn phòng công chứng của Luật Công chứng năm
2014 đã có sự thay đổi theo hướng chặt chẽ hơn so với Luật Công chứng năm 2006.
Theo đó, Văn phòng công chứng phải thành lập theo loại hình công ty hợp danh (khác
Luật Công chứng năm 2006 cho phép tồn tại song song hai loại hình doanh nghiệp đó
là: Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập được tổ chức và hoạt
động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân và Văn phòng công chứng do hai công
chứng viên trở lên thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh).
Ngoài ra, Luật Công chứng năm 2014 vẫn kế thừa quy định Luật Công chứng
năm 2006 khi cho phép Văn phòng công chứng có quyền thuê công chứng viên làm
việc theo hợp đồng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức hành nghề công chứng
hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đáp ứng nhu cầu công chứng của nhân dân.
2.1.3. Được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của pháp luật
Với khái niệm “công chứng” được đưa ra tại khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng
năm 2014, thì so với Luật Công chứng năm 2006, công chứng viên còn được mở rộng
thêm phạm vi hoạt động (mà thực chất là được giao lại thẩm quyền như trước đây) là
công chứng bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng
nước ngoài sang tiếng Việt. Theo Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2010 của
Chính phủ về công chứng, chứng thực thì các Phòng công chứng được giao nhiệm vụ
chứng thực bản dịch. Tuy nhiên, khi Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-
CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản
chính, chứng thực chữ ký để thực hiện chủ trương tách bạch công chứng và chứng
thực thì Nhà nước đã giao nhiệm vụ chứng thực chữ ký người dịch trên bản dịch cho
Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện (do đây là việc chứng thực chữ ký).
Thực tiễn hoạt động cho thấy, Phòng Tư pháp thực hiện nhiệm vụ phát sinh khá nhiều
bất cập như yêu cầu chứng thực chữ ký người dịch chưa được đáp ứng kịp thời; trình 6
độ của người dịch chưa được kiểm soát bài bản dẫn đến chất lượng bản dịch không
cao, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp. Một phần
nguyên nhân đó là do Phòng Tư pháp cấp huyện chưa nhận thức hết trách nhiệm và vai
trò của mình, bên cạnh đó phần lớn các Phòng Tư pháp chưa có một đội ngũ cộng tác
viên có trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu dịch thuật của cá nhân, tổ chức. Ở
nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay, việc chứng nhận bản dịch thuộc chí năng của
công chứng viên, đặc biệt là các nước theo hệ thống côn chứng La tinh như: Pháp, Đức, Tây Ban Nha...
Như vậy với quy định của Luật Công chứng năm 2014 Nghị định số
23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực
bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch thì với
việc chứng thực bản sao giấy tờ, văn bản và bản dịch người dân có thể lựa chọn tổ
chức hành nghề công chứng hoặc Phòng Tư pháp cấp huyện, tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho người dân giúp giải quyết kịp thời, đây đu yêu cầu chứng nhận bản dịch của
nhân dân và cũng như giảm tải áp lực về công việc cho Phòng Tư pháp cấp huyện và
phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. tạo điều kiện cho công chứng Việt Nam hội nhập và
tạo điều kiện cho các văn bản công chứng sẽ được chứng nhận tại các quốc gia thành
viên của Ủy ban công chứng châu Á mà Việt Nam đã được kết nạp. Ngoài ra, việc quy
định như vậy sẽ góp phần nâng cao chất lượng công chứng bản dịch, do có sự thay đổi
về chất so với việc các Phòng Tư pháp cấp huyện chỉ đơn thuần chứng thực chữ ký
người dịch. Công chứng viên kiểm tra và chịu trách nhiệm về tính xác thực, tính hợp
pháp của các giấy tờ được dịch, đồng thời chứng nhận bản dịch do người được cấp
phép hành nghề dịch thuật thực hiện hoặc hiệu đính, công chứng viên và người dịch sẽ
cùng chịu trách nhiệm chất lượng bản dịch. liên đới về tính xác thực, tính hợp pháp
của bản dịch sẽ nâng cao chất lượng bản dịch.
2.1.4. Đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu
để thực hiện việc công chứng
Hoạt động công chứng là hoạt động pháp lý ngoài tố tụng, nhà đảm bảo an toàn
pháp lý cho các chủ thể pháp luật, phòng ngừa có tranh chấp có thể phát sinh mà công
chứng viên có thể giải quyết được bằng việc thực hiện nhiệm vụ trung gian pháp lý và
là một công không thể thiếu được để quản lý một nền tư pháp hiệu quả. Thông qua quá
trình công chứng, công chứng viên xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch. Để đảm bảo giao dịch các bên xác lập là không vi phạm pháp luật thì
cần xác định giao dịch là xác thực và hợp pháp; việc xác định sẽ diễn ra trên cơ sở
công chứng viên tiếp xúc trao đổi với người yêu cầu công chứng và dựa trên các thông
tin, tài liệu mà các chủ thể có liên quan cung cấp phục vụ việc công chứng. Việc quy
định công chứng viên có quyền đề nghị các chủ thể liên quan cung cấp thông tin, tài
liệu là cần thiết nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của những chủ thể có liên quan, 7
giúp các bên đảm bảo an toàn pháp lý, giải quyết việc công chứng hợp đồng, giao dịch
hiệu quả và tuân theo pháp luật. Các tài liệu này sẽ được cung cấp cho các công chứng
viên trước khi tiến hành công chứng hợp đồng, giao dịch.
2.1.5. Được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp
luật, trải đạo đức xã hội
Công chứng viên được coi như công lại của Nhà nước, thay mặt Nhà nước xác
nhận tính xác thực, hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch. Trong trường hợp phát hiện
hợp đồng, giao dịch có dấu hiệu vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội thì công chứng
viên được quyền từ chối công chứng. Việc từ chối công chứng phải dựa trên những căn
cứ xác thực trên cơ sở quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào cảm xúc cá nhân
về dân tộc, tôn giáo, lối sống, tuổi tác, khuyết tật, nghề nghiệp hay giới tính của người
yêu cầu công chứng. Quyền từ chối công chứng là một quyền đặc biệt nhấn mạnh tính
độc lập, chức năng của công chứng viên và quyền thay mặt Nhà nước thực hiện pháp
luật của công chứng viên trên cơ sở hiểu biết thấu đáo về pháp luật và đạo đức xã hội
để bảo vệ trật tự trong xã hội.
2.2. Nghĩa vụ của công chứng viên
2.2.1. Tuân thủ các nguyên tắc hành nghề công chứng.
Để đảm bảo được những mục tiêu đề ra cho các chủ thể hoạt động công chứng,
pháp luật đã đưa ra nguyên tắc hành nghề công chứng yêu cầu công chứng viên phải
tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; khách quan, trung thực, chịu trách nhiệm trước pháp
luật về văn bản công chứng; tuân theo đạo đức hành nghề công chứng. Quy định như
vậy với mục đích xây dựng một đội ngũ công chứng viên khi hành nghề công chứng
phải luôn tuân thủ pháp luật, có đạo đức tốt, thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ, tận
tụy với công việc, có đủ trình chuyên sâu và có đủ năng lực để thi hành tốt nhiệm vụ được giao.
2.2.2. Hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng
Với các đặc thù của hoạt động công chứng, công chứng viên không thể hành
nghề tự do như một số nghề nghiệp khác, pháp luật quy định công chứng viên chỉ
được phép hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng. Việc quy định này là cần
thiết bởi trong quá trình công chứng viên thực hiện hoạt động nghề nghiệp của mình sẽ
phát sinh nhiều vấn đề như quản lý, thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm trong hoạt
động công chứng, trách nhiệm vật chất, trách nhiên mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp...
2.2.3. Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người về, cầu công chứng
Chất lượng và kết quả của hoạt động công chứng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố, một trong số đó chính là mối quan hệ giữa công chứng viên và người yêu cầu công 8
chứng. Một mối quan hệ cởi mở và tin cậy tạo tiền đề quyết định hiệu quả công chứng
xây dựng dựa trên thái độ chuẩn mực và trung thực, tôn trọng đối với khách hàng của
công chứng viên. Tuy nhiên sự tôn trọng nên được biểu thị thông qua sự tôn trọng
những chuẩn mực đạo đức, quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng
cũng như quy định của pháp luật chứ không phải sự tiếp nhận vô điều kiện những đòi
hỏi của các bên. Công chứng viên có nghĩa vụ bảo đảm chất lượng dịch vụ pháp lý
cung cấp cho người yêu cầu công chứng, tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử
dụng kiến thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để bảo vệ tốt nhất
quyền và lợi ích của người yêu cầu công chứng theo quy định của pháp luật.
2.2.4. Giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi
ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng, trường hợp từ
chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng

Sự phức tạp của các mối quan hệ xã hội cũng như của môi trường kinh doanh
ngày càng gia tăng sẽ kéo theo nhiều vấn đề pháp lý nảy sinh. Người yêu cầu công
chứng đến với các tổ chức hành nghề công chứng nhằm tìm kiếm một sự an toàn và tin
cậy về pháp lý đối với các hợp đồng, giao dịch mà họ xác lập. Thông qua hành vi công
chứng và chứng thực, các công chứng viên sẽ giúp người yêu cầu công chứng hạn chế
thấp nhất rủi ro có thể xảy ra.
Trong quá trình thực hiện hoạt động công chứng, các công chứng viên sẽ nắm bắt
các thông tin do người yêu cầu công chứng truyền tải, từ đó họ sẽ có nhiệm vụ cung
cấp cho khách hàng những tư vấn pháp lý chính xác và dễ hiểu cũng như giải thích cho
họ hiểu rõ về quyền, nghĩa vụ, hậu quả pháp lý phát sinh của hợp đồng, giao dịch được
yêu cầu công chứng; giải đáp một cách rõ ràng những thắc mắc của người yêu cầu
công chứng nhằm đảm bảo cho hợp đồng, giao dịch đúng với ý chí của các bên giao
kết hợp đồng, giao dịch. Để thực hiện được mục tiêu này, công chứng viên cân trao đổi
với các bên một cách khách quan và trung thực, sẽ giúp các bên xác định ý chí và mục
đích các bên hướng tới có thống nhất và không vi phạm pháp luật cũng như đạo đức xã
hội. Hoạt động này cho phép các bên liên quan hiểu các nội dung và rủi ro gắn liền với
một giao dịch nhất định, có nhận thức đúng về pháp luật có liên quan và giá trị pháp lý
của văn bản công chứng trước khi công chứng viên thực hiện hành vi công chứng. Nếu
phát sinh trường hợp pháp luật quy định phải từ chối công chứng, công chứng viên cần
giải thích cho các bên hiểu rõ.
2.2.5. Giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu
công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác
Công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm giữ bí mật
thông tin thu được trong khi thực hiện các dịch vụ công chứng. Tuân thủ các nguyên
tắc bảo mật là điều kiện tiên quyết và cần thiết cho mối quan hệ tin cậy giữa công
chứng viên và các cá nhân và tổ chức. Việc giữ bí mật được áp dụng đối với các thông 9
tin trong hồ sơ yêu cầu công chứng, hồ sơ công chứng và tất cả thông tin công chứng
viên biết được về nội dung công chứng. Quy định này để góp phần bảo vệ các quyền
và lợi ích của các bên cũng như chủ thể khác có liên quan nhằm tăng độ an toàn của
các hợp đồng, giao dịch, hạn chế tối đa những hậu quả pháp lý phát sinh để ngăn chặn
các tranh chấp cũng như kiện tụng có thể xảy ra. Nghĩa vụ này sẽ tồn tại ngay cả sau
khi miễn nhiệm hoặc tạm đình chỉ hành nghề đối với công chứng viên.
Các nghĩa vụ bảo mật không áp dụng cho trường hợp được người yêu cầu công
chứng đồng ý bằng văn bản hoặc trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền
có yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công chứng phục vụ cho việc giám
sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án liên quan đến việc đã công
chứng thì tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm cung cấp bản sao văn bản
công chứng và các giấy tờ khác có liên quan.
2.2.6. Tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm
Các mối quan hệ xã hội luôn thay đổi và diễn ra ngày càng phức tạp vì vậy để
thích ứng với sự thay đổi đó các công chứng viên cần liên tục tăng cường các kiến
thức pháp lý cũng như kỹ năng của họ. Công chứng viên có nghĩa vụ cung cấp hỗ trợ
pháp lý cho các cá nhân và pháp nhân vì vậy bên cạnh tư cách đạo đức tốt họ còn phải
có kiến thức chuyên sâu về các quy định pháp luật có liên quan cũng như khả năng áp
dụng chúng trong thực tế. Để đảm bảo được mục tiêu này, ngoài việc phải được đào
tạo một cách chuyên nghiệp và bài bản họ cần phải tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ
công chứng hàng năm để cập nhật, bổ sung kiến thức pháp luật về công chứng và các
quy định pháp luật khác có liên quan cũng như bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng hành
nghề công chứng, cách thức giải quyết các vấn đề vướng mắc trong quá trình hành nghề công chứng.
Công chứng viên đang hành nghề phải tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng
hàng năm tại một trong các tổ chức sau: Học viện Tư pháp, Hội công chứng viên;
trường hợp địa phương chưa thành lập Hội công chứng viên thì Sở Tư pháp thực hiện
bồi dưỡng. Việc bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm được diễn ra tối thiểu là
03 ngày làm việc/năm (24 giờ/năm). Công chứng viên được miễn thực hiện nghĩa vụ
tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm trong trường hợp đã tham gia
giảng dạy tại Học viện Tư pháp, tham gia giảng dạy tại một lớp bồi dưỡng nghiệp vụ
công chứng hàng năm hoặc tham gia một khóa bồi dưỡng nghề công chứng ở nước ngoài trong năm đó.
2.2.7. Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về
văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của
Văn phòng công chứng mà mình là công chứng viên hợp danh

Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Thông tư số 11/2012/TT-BTP và điểm g khoản
2 Điều 17 Luật Công chứng năm 2014, công chứng viên sẽ phải chịu trách nhiệm 10
trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình,
tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công
chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên gây ra trong quá trình công
chứng. Về cơ chế thực hiện nghĩa vụ bồi thường, công chứng viên gây thiệt hại phải
hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền
bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn
trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc quy
định trách nhiệm pháp lý này của công chứng viên là cần thiết nhằm đế cao nhiệm vụ,
trách nhiệm, vai trò của công chứng viên khi thi hành công việc được giao; hơn nữa,
do phải chịu trách nhiệm trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng nên
công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng phải hết sức cân nhắc và thận trọng
khi hành nghề. Bên cạnh đó khi có thiệt hại xảy ra, các cơ quan chức năng cũng dễ
dàng hơn trong việc xác định đối tượng phải chịu trách nhiệm đối với các sai phạm đó.
2.2.8. Tham gia tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên
Sau gần 05 năm thực hiện Luật Công chứng năm 2014, đội ngũ công chứng viên
đang hành nghề tăng từ 393 lên hơn 2400 người (tăng gần 6 lần); các tổ chức hành
nghề công chứng (gồm các Phòng công chứng và Văn phòng công chứng) phát triển
mạnh mẽ (tăng gần 12 lần, từ 84 lên 1003 tổ chức), số lượng Phòng công chứng là 128
Phòng với khoảng 875 công chứng viên, trong đó có khoảng 320 công chứng viên là
viên chức. Với sự tăng mạnh về số lượng công viên và các tổ chức hành nghề công
chứng trong thời gian qua đòi hỏi phải có tổ Chức xã hội - nghề nghiệp của công
chứng viên để nâng cao trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp từ trung
ương địa phương hoạt động trong một thể thống nhất. Mặc dù trong các văn bản pháp
luật trước đây quy định về hoạt động công chứng nhà nước chưa chính thức ghi nhận
vai trò của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên nhưng xuất phát từ yêu
cầu tự quản, cũng như tạo môi trường cho các công chứng viên sinh hoạt chuyên môn,
nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong quá trình tác nghiệp thì ở nhiều địa
phương trên cả nước đã thành lập Hội công chứng hoặc Câu lạc bộ công chứng. Ở các
nước theo Hệ thống công chứng La tinh, hệ thống tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
công chứng viên ra đời rất sớm, đã có nhiều hiệu quả trong công tác quản lý hoạt động công chứng.
Nhìn nhận ra vai trò của tổ chức xã hội - nghề nghiệp này đối với hoạt động công
chứng nói riêng và đối với xã hội nói chung và để thống nhất các tổ chức này trong
phạm vi cả nước cũng như hỗ trợ các công chứng viên trong quá trình hành nghề thì
Luật Công chứng năm 2014 đã bổ sung một nghĩa vụ của công chứng viên đó là tham
gia tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên. Đây cũng là một quy định hết
sức quan trọng đối với hoạt động công chứng. 11
2.2.9. Chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của tổ chức hành
nghề công chứng mà mình làm công chứng viên và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
công chứng viên mà mình là thành viên

Trong điều kiện hoạt động công chứng ngày càng được xã hội hóa rộng rãi như
hiện nay thì việc quy định công chứng viên phải chịu sự quản lý của Nhà nước và tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên là điều cần thiết. So với những chức
danh tư pháp khác, công chứng viên ở Việt Nam vẫn là một chức danh khá non trẻ với
vị trí, vai trò mới được ghi nhận sâu sắc trong những năm gần đây. Vì vậy, vai trò của
quản lý nhà nước cũng như quản lý của các Hội công chứng viên và Hiệp hội công
chứng viên là rất cần thiết nhằm điều tiết, điều chỉnh hoạt động công chứng phát triển
lành mạnh, đúng với mục tiêu chính trị, xã hội, kinh tế lâu dài, bảo đảm an toàn pháp
lý cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công chứng trong điều kiện các
giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp, đảm
bảo hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước, đồng thời đề cao tính tự chịu trách
nhiệm cá nhân của công chứng viên.
Để việc quản lý đối với hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên và tổ chức
hành nghề công chứng được hiệu quả thì vai trò của các cơ quan có thẩm quyền phải
được xác định, phân biệt rõ ràng, cụ thể để bảo đảm hiệu quả. Sự phối hợp giữa cơ
quan quản lý nhà nước về công chứng với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công
chứng viên cần được phân định rõ và hợp lý giữa công tác quản lý nhà nước với trách
nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên. Việc quản lý nhà
nước đối với hoạt động công chứng sẽ thực hiện thông qua quá trình quản lý, thanh tra,
kiểm tra và xử lý vi phạm đối với loại hình hoạt động mang tính đặc thù này. Hiệp hội
công chứng viên sẽ kiểm tra việc thực hiện điều lệ của các hội viên, phối hợp với Bộ
Tư pháp trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập sự hành nghề công chứng theo quy
định của pháp luật; bám sát đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
trong việc tham gia xây dựng, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Sự kết hợp
quản lý của Nhà nước và tổ chức xã hội nghề nghiệp sẽ góp phần bảo đảm nâng cao
chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, lâu dài của hoạt động công chứng.
Ngoài các quyền và nghĩa vụ cơ bản được quy định tại Điều 17 Luật Công chứng
năm 2014, công chứng viên còn các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ khác theo
quy định của Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan
như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động...
III. Thực trạng hành nghề công chứng của công chứng viên.
Như đã phân tích ở trên, việc hành nghề công chứng của công chứng viên hành
nghề công chứng của công chứng viên hết sức quan trọng. Có thể thấy, khi hành nghề
công chứng, phần lớn công chứng viên sẽ tuân thủ theo các quy định của pháp luật và
theo nguyên tắc hành nghề công chứng. Tuy nhiên, có thể thấy, từ quy định cho đến 12
thực tiễn thực hiện vẫn là một khoảng cách khá lớn, vẫn có một phần không nhỏ không
thực hiện được các quy định của pháp luật và nguyên tắc hành nghề công chứng. Thực
tế hiện nay, những sai phạm về đạo đức hành nghề công chứng vẫn còn rất nhiều và có
xu hướng gia tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn. Về thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật và nguyên tắc hành nghề công chứng có thể thấy như sau:
Theo quy định của pháp luật, văn phòng công chứng thì sẽ được tổ chức và hoạt
động theo mô hình công ty hợp danh và phải có ít nhất từ hai công chứng viên hợp
danh trở lên. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều trường hợp công chứng viên không đủ điều
kiện để thành lập và duy trì một văn phòng công chứng, do đó đã xuất hiện những
“chủ đầu tư” để đứng ra bỏ vốn thành lập văn phòng. Như vậy, việc hành nghề để đem
lại lợi nhuận là vô cùng quan trọng. Đồng thời cũng vì lý do đó, trong nhiều trường
hợp, công chứng viên sẽ phải chịu những tác động nhất định khi hành nghề công
chứng, nguyên tắc khách quan và trung thực lúc này không còn được đề cao.
Những sai sót, vi phạm phổ biến của các tổ chức hành nghề công chứng, công
chứng viên, người yêu cầu công chứng và các cá nhân tổ chức có liên quan hiện nay
chủ yếu do chưa tuân thủ nghiêm quy định của Luật Công chứng năm 2014 và các văn
bản hướng dẫn thi hành, như: Chưa đóng dấu hồ sơ lưu vào các hợp đồng, hồ sơ lưu
chưa đóng dấu đã đối chiếu bản chính; Văn bản thỏa thuận phân chia di sản không
đúng trình tự, thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch; Việc sử dụng tên Văn phòng
công chứng chưa đúng nội dung của giấy chứng nhận đăng ký hoạt động; Bìa sổ chứng
thực bản sao từ bản chính, sổ chứng thực chữ ký, điểm chỉ lập chưa đúng mẫu quy
định; Sai sót khi sửa lỗi kỹ thuật trong các hợp đồng giao dịch, thực hiện chứng nhận
các giao dịch vi phạm pháp luật và trái đạo đức xã hội, sử dụng giấy tờ giả, tẩy xóa,
sửa chữa để thực hiện hợp đồng giao dịch công chứng,...
- Số lượng tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn cả nước ngày càng phát
triển về số lượng vì vậy chưa thể quản lý một cách triệt để nên còn xảy ra các trường
hợp: tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa một số tổ chức hành nghề công
chứng đã xảy ra như ký hợp đồng với các tổ chức tín dụng, chi hoa hồng cho môi giới
hoặc nhân viên ngân hàng, thực hiện công chứng ngoài giờ làm việc, công chứng
ngoài trụ sở không có lý do chính đáng.
- Chưa có biện pháp cụ thể, hỗ trợ các tổ chức hành nghề công chứng trước hiện
tượng gian dối, lừa đảo, giả mạo giấy tờ, giả mạo người yêu cầu công chứng trong
hoạt động công chứng có chiều hướng gia tăng, mức độ tinh vi, phức tạp hơn, gây khó
khăn cho hoạt động công chứng, bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch.
- Đội ngũ làm cán bộ quản lý còn mỏng, thiếu do vậy công tác thanh tra, kiểm tra
trong hoạt động công chứng được chú trọng nhưng vẫn chưa thật sự đáp ứng được nhu
cầu, vẫn còn tình trạng Công chứng viên vi phạm quy định của pháp luật công chứng
và các quy định có liên quan đến hoạt động công chứng. 13
- Cơ chế phối hợp trong các thủ tục hành chính giữa các cơ quan có liên quan tại
Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ban ngành có liên quan chưa thật sự tốt, vẫn còn trường
hợp Ủy ban nhân dân các cấp không phối hợp tốt với tổ chức hành nghề công chứng
trong việc xác minh, niêm yết hoặc hợp đồng, giao dịch tuy đã có công chứng nhưng
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất lại từ chối đăng ký vì những thủ tục không có trong quy định.
- Quy hoạch chưa được đúng đắn so với quy hoạch, chủ trương của Đảng và nhà
nước, nhiều địa phương chưa đáp ứng đủ các tổ chức hành nghề công chứng phục vụ
nhu cầu công chứng của xã hội, nhiều địa phương lại thành lập các tổ chức hành nghề
công chứng không phân bổ, gây hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh khi cung vượt cầu,…
IV. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công chứng viên
Bên cạnh những kết quả về việc thực hiện tiêu chuẩn của công chứng viên theo
Luật công chứng năm 2014, tuy nhiên quy định về tiêu chuẩn của công chứng viên vẫn
còn những hạn chế nhất định. Chính vì vậy, dẫn đến hiệu quả của hoạt động công chứng
vẫn không đạt được kết quả tốt nhất theo định hướng ban đầu. Qua thực tiễn quy định
tiêu chuẩn của công chứng viên hiện nay, em có một số kiến nghị để việc quy định về
tiêu chuẩn của công chứng viên được hoàn thiện hơn.
Như đã phân tích, trình bày ở các phần trên, quy đinh tiêu chuẩn về công chứng
viên hiện hành của nước ta về hình thức đã tương đối toàn diện, bao hàm các quy định
gần như đủ cho mọi khía cạnh để tạo nên một quy chế hoàn chỉnh cho công chứng viên
Việt Nam. Tuy nhiên, cũng như các phân tích đi kèm với nó, thì về nội dung vẫn cần
phải có những quy định chi tiết hơn, cụ thể để làm rõ hoặc để củng cố vững chắc cho
mục đích các điều khoản đã đưa ra thì lại thiếu hụt nhiều, gây ra tình trạng quy mang
tính chung chung nên việc áp dụng cho công chứng viên và các cơ quan quản lý nhà
nước, tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên rất khó thực hiện đúng theo tinh
thần, mục đích của các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tiêu
chuẩn của công chứng viên.
Thứ nhất: Quy định chặt chẽ, rõ ràng hơn về thời gian công tác pháp luật 05 năm
trở lên tại các cơ quan, tổ chức.

Phải quy định rõ ví trí, chức danh, chuyên môn làm việc có liên quan tới pháp luật 14
hay không. Ví dụ như người làm thư ký Tòa án, người làm bảo vệ, Tạp vụ… trong Tòa
án thì cũng được gọi chung là công tác tại cơ quan pháp luật. Như chúng ta đã thấy công
chứng là một hoạt động đặc thù chỉ do một cá nhân (công chứng viên) tiếp nhận, tự
quyết định xử lý và thực hiện việc công chứng từ đầu đến cuối, đồng thời phải tự chịu
trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng”
(khoản 4, Điều 4, Luật công chứng 2014) thì thử hỏi những người làm bảo vệ trong Tòa
án có đủ trình độ để thực hiện công việc mang tính chất trách nhiệm pháp lý cao hay không?
Như vậy, có thể hình dung ngay được sức ép về kiến thức pháp luật về kinh
nghiệm áp dụng pháp luật, kinh nghiệm phân tích các mối quan hệ xã hội và cái sức ép
về tâm lý đối với công chứng viên khi thực hiện công chứng là rất lớn. Thêm vào đó,
Luật công chứng lại còn khống chế cả thời hạn phải thực hiện việc công chủng: "Thời
hạn công chúng không quả 02 ngày làm việc; đối với hợp đồng, giao dịch có nội dung
phức tạp thì thời hạn công chứng có thể kéo dài hơn nhưng không quả 10 ngày làm việc”
(Điều 43, khoản 2, Luật công chứng 2014).
Hơn nữa, vì là dịch vụ đã được xã hội hoá, xuất hiện thêm yếu tố cạnh tranh nên
việc tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu công chứng đòi hỏi phải được giải quyết gần
như là tức thời, nếu không có các quy định phải khống chế thời gian của pháp luật. Với
tất cả những sức ép như trên, liệu rằng những quy định chung chung về thời gian công
tác tại các cơ quan pháp luật nói trên đã đủ chưa Có thể thấy ngay câu trả lời là: quy
định như vậy còn quá chung chung, khó đáp ứng được với những diễn biến vô cùng
phức tạp trong thực tiễn xã hội, dễ đẩy công chứng viên, nhất là các công chứng viên
mới vào nghề mắc phải những sai phạm do thiếu kinh nghiệm chuyên môn, thiếu bản lĩnh nghề nghiệp.
Đặc biệt hơn nữa, vì công chứng viên chỉ là một cá nhân được trao cho một phần
quyền lực công của Nhà nước (thực hiện dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm) để thực
hiện việc công chứng (nay thêm chức năng chứng thực) công chứng viên đòi hỏi một
trình độ chuyên môn cao, kiến thức pháp luật lại phải rất rộng và đặc biệt là phải vững
vàng. Thêm vào đó, yếu tố kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tiễn cũng phải đẩy đủ
và chắc chắn. Do vậy, như quy định về tiêu chuẩn công chứng viên tại Điều 8 Luật Công
chứng hiện hành nên được sửa đổi, bổ sung nhằm cụ thể hơn các quy định và nhất là
tăng cường, cũng cố thêm yếu tố chất lượng, chuyên môn lĩnh vực của công chứng viên.
Cụ thể, tại khoản 2 - Điều 8, Luật Công chúng 2014 quy định: "có thời gian công tác 15
pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật"
thực sự rất cần thiết.
Thứ hai: Về phẩm chất đạo đức của công chứng viên.
Như đã phân tích ở phần về tiêu chuẩn đạo đức của công chứng viên cũng tại
Điều 8, Luật Công chứng 2014: "có phẩm chất đạo đức tốt” là một quy định hoàn toàn
chung chung, không hề có tính định lượng, rất khó thực hiện trên thực tiễn, tuy rằng tiêu
chuẩn này rất cần. Do vậy cũng nên phải nghiên cứu và quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn.
Chuẩn mực đạo đức xã hội chúng ta có thể đã biết nhiều, chuẩn mực đạo đức
trong pháp luật chúng ta cũng có thể trích dẫn ra từ một số các quy định trong hệ thống
văn bản quy phạm, nhưng đối với tiêu chuẩn công chứng viên thì nên đặt chuẩn mực
đạo đức phải cao hơn một mức so với các đối tượng thông thường khác, tức phải quy
định rõ hơn thế nào là đạo đức tốt. Ví dụ, có thể quy định thêm về tiêu chuẩn đạo đức
tốt như: chưa từng bị kết án tù giam vì lỗi cố ý trong lĩnh vực công chứng, không bị xử
phạt vi phạm hành chính đến lần thứ ba trong lĩnh vực công chứng vì lỗi cố ý, hoặc
chưa từng phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, hoặc những người không có hành vi gây ra
những dư luận xấu có tác động tiêu cực đến xã hội…
Thứ ba: Vấn đề tập sự hành nghề công chứng và đạt yêu cầu kiểm tra tập sự nghề công chứng.
Luật Công chứng số 53/2014/QH13 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015
đã dành riêng những điều, khoản để quy định về tiêu chuẩn công chứng viên và việc tập
sự hành nghề công chứng viên. Việc hoàn thành thủ tục tập sự hành nghề công chứng
viên là điều kiện bắt buộc để được đề nghị bổ nhiệm công chứng viên. Đồng thời, ngày
15/4/2015, Bộ Tư pháp cũng đã ban hành Thông tư số 04/2015/TT-BTP hướng dẫn tập
sự hành nghề công chứng (Thông tư số 04/2015/TT-BTP). Tuy nhiên, các văn bản trên
đều chưa có những quy định thật cụ thể và đã phát sinh những bất cập trong việc thực
hiện tập sự hành nghề công chứng đối với một số trường hợp nhất định trên thực tế, từ
đó rất khó khăn cho các cơ quan, đơn vị, địa phương trong quá trình áp dụng.
- Đối với những trường hợp công chức đang công tác tại các cơ quan thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh (không phải công tác tại Sở Tư pháp), đã được quy hoạch và
được cấp có thẩm quyền có định hướng bố trí giữ chức vụ trưởng phòng tại các phòng công chứng.
Đây là công việc bình thường và đương nhiên trong công tác cán bộ tại địa phương. Tuy
nhiên, theo quy định hiện hành tại khoản 2 Điều 19 Luật Công chứng năm 2014 thì 16
trưởng phòng công chứng phải là công chứng viên. Cùng với đó, để được bổ nhiệm công
chứng viên thì phải bảo đảm các tiêu chuẩn, trong đó có điều kiện “phải hoàn thành tập
sự hành nghề công chứng viên theo thời gian quy định là 12 tháng đối với người có giấy
chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng”. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là
việc tập sự hành nghề công chứng được thực hiện như thế nào (trong trường hợp đã qua
lớp đào tạo nghề công chứng theo quy định). Bởi lẽ, những trường hợp này đang công
tác tại các cơ quan khác, không thể bố trí thời gian để đến các tổ chức hành nghề công
chứng thực hiện việc tập sự trong thời gian dài như vậy. Mặt khác, theo quy định tại
khoản 2 Điều 2 Thông tư số 04/2015/TT-BTP thì: “Người thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì không được đăng ký tập sự: …Người đang là cán bộ, công chức, viên
chức (trừ viên chức làm việc tại phòng công chứng)…”. Đây là vấn đề vướng mắc đang
nảy sinh trong thực tế. Thiết nghĩ, Bộ Tư pháp cần phối hợp với các bộ, ngành có liên
quan sớm có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Đối với những trường hợp công chức, viên chức đang công tác tại các đơn vị
chuyên môn, nghiệp vụ, đơn vị sự nghiệp khác thuộc Sở Tư pháp đã được quy hoạch,
dự kiến bố trí làm công chứng viên tại các phòng công chứng. Cũng tương tự như các
trường hợp trên, việc tập sự của các trường hợp này là rất khó khăn, vì lý do biên chế,
lý do công việc và các quy định của pháp luật hiện hành. Theo quy định thì những trường
hợp này nếu muốn đủ điều kiện để được bổ nhiệm công chứng viên thì cũng phải thực
hiện việc tập sự hành nghề công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng. Tuy
nhiên, hiện tại họ đang làm việc tại các đơn vị chuyên môn, sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp
(không phải tại các phòng công chứng) thì việc tập sự được thực hiện như thế nào. Rất
cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Thực tế, tại một số
địa phương đang cần tạo nguồn từ công chức, viên chức thuộc Sở Tư pháp để đề nghị
bổ nhiệm công chứng viên nhưng gặp phải vướng mắc quy định hiện hành về tập sự
hành nghề công chứng. Theo như quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư số
04/2015/TT-BTP thì các trường hợp là công chức, viên chức (không đang công tác tại
phòng công chứng) thuộc các Sở Tư pháp không thể nào thực hiện được việc tập sự
hành nghề công chứng để bảo đảm đủ điều kiện được bổ nhiệm công chứng viên.
Những vướng mắc này rất cần được cấp có thẩm quyền, mà cụ thể là Bộ Tư pháp
hướng dẫn cụ thể, rõ ràng để các đơn vị, địa phương, cá nhân có liên quan triển khai
thực hiện, bảo đảm đúng quy định của pháp luật và tình hình thực tế. 17
Thứ tư: Vấn đề bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng.
Luật công chứng hiện hành không quy định về độ tuổi hành nghề cũng như độ
tuổi để được bổ nhiệm của công chứng viên. Với một công việc đặc thù, có tính chất
trách nhiệm pháp lý cao, đòi hỏi về sức khỏe, về trí tuệ… thì cần phải quy định rõ độ
tuổi nhất định để đảm bảo yêu cầu sức khỏe trong hành nghề. KẾT LUẬN
Công chứng là một nghề cao quý nhưng sự cao quý của nghề công chứng không
phải là tự thân của nghề này mà chính là những giá trị mà những người hành nghề này
mang lại cho kinh tế, xã hội cũng như hoạt động tư pháp của đất nước. Công chứng viên
có vai trò rất quan trọng là không chỉ xác lập hợp đồng, giao dịch về mặt hình thức phù
hợp pháp luật mà còn phải giải thích về pháp luật và tư vấn cho các bên về quyền và
nghĩa vụ của họ; bảo đảm các quy định bắt buộc của pháp luật phải được tuân thủ. Một
vấn đề rất quan trọng là công chứng viên làm cho các hợp đồng, giao dịch thực tế đúng
theo các quy định của pháp luật.
Hoạt động công chứng ở nước ta đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát
triển của kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong nền kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế, là công cụ đắc lực phục vụ quản lý nhà nước có hiệu quả, đảm bảo an 18
toàn cho pháp lý các giao dịch, góp phần tích cực vào việc phòng ngừa tranh chấp, vi
phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các quy định về tiêu chuẩn công
chứng viên trong Luật Công chứng đã khẳng định rõ vai trò, vị trí của công chứng viên
khi hành nghề công chứng. Việc xây dựng một đội ngũ công chứng viên vững mạnh, có
phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ năng lực chuyên môn và tận tâm phục vụ người dân
là vô cùng quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng lành
mạnh, minh bạch và an toàn hơn. 19