Sản xuất hàng hóa Việt Nam | Kinh tế chính trị | Trường đại học Bách Khoa Hà Nội

Sản xuất hàng hóa Việt Nam | Kinh tế chính trị | Trường đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
1. Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa và thị trường................................2
1.1. Khái niệm về sản xuất hàng hóa.................................................................2
1.2. Điều kiện tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hóa....................................2
1.3. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa...................................................2
1.4. Ưu thế của sản xuất hàng hóa.....................................................................3
2. Hạn chế của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam...............................................4
3. Một số đề xuất nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong nền sản xuất
hàng hóa của Việt Nam........................................................................................13
KẾT LUẬN.............................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................21
DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 2. 1. Việt Nam đã nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, song chúng ta
vẫn còn một khoảng cách khá xa so với thế giới.......................................................5
Hình 2. 2. Đầu tư nước ngoài đem lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng là
những thách thức không nhỏ cho nền kinh tế Việt Nam...........................................6
Hình 2. 3. Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đãnhiều cải thiện, song nguồn
nhân lực chất lượng cao vẫn còn thiếu, đặc biệt là nhân sự quản lý cấp cao..........12
MỞ ĐẦU
Sản xuất hàng hóa quá trình tạo ra sản phẩm hàng hóa đáp ứng thỏa
mãn nhu cầu của con người. Trong thời kì đầu của xã hội loài người, do sự lạc hậu
của lực lượng sản xuất nên sản xuất của hội mang tính tự cung tự
cấp, khi đó, nhu cầu của con người bị hẹp trong 1 phạm vi, một giới hạn nhất
định. Khi lực lượng sản xuất phát triển nhiều thành tựu mới, con người dần
thoát khỏi nền kinh tế tự nhiên chuyển sang nền kinh tế hàng hóa đỉnh cao
của nó chính nền kinh tế thị trường. Sản xuất hàng hóamột bộ phận của kinh
tế quốc tế, tổng thể của các quan hệ kinh tế, khoa học,thuật, công nghệ được
thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành phát triển trên sở phát triển của
lực lượng sản xuất phân công lao động quốc tế. Trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, sản xuất hàng hóa được ví như một bộ phận quan trọng
trong guồng máy của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong xu thế
hội nhập và phát triển hiện nay. Sản xuất hàng hóa không những góp phần vào quá
trình thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển mà còn mở rộng quan hệ giao lưu, hợp
tác quốc tế.
Sản xuất hàng hóa trong thời đại kinh tế mở và đầy cạnh tranh như hiện nay
đòi hỏi mỗi quốc gia cần phải hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh đất nước cũng như tình hình chung của khu vực, thế giới. Xác
định đúng hướng phát triển cho nền sản xuất hàng hóa sẽ giúp đất nước được
bước tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, mở rộng thêm thị trường tiêu thụ, đem lại lợi
ích cho đất nước, còn ngược lại thì sẽ khiến đất nước rơi vào tình trạng kém
phát triển, đời sống nhân dân không được đảm bảo. Vì những lý do trên, em đã lựa
chọn đề tài: “Sản xuất hàng hóa gì? Cho dụ. Nền sản xuất hàng hóa
những hạn chế gì? Theo quan điểm nhân, nền kinh tế Việt Nam cần làm
để khắc phục những hạn chế này?” cho bài tiểu luận kết thúc môn của mình.
1
NỘI DUNG
1. Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa và thị trường
1.1. Khái niệm về sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính trị
Marx-Lenin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất
ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra
để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi,
mua bán. Hay nói một cách khác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản
phẩm sản xuất ra là để bán.
1.2. Điều kiện tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hóa
Để có thể tồn tại, sản xuất hàng hóa cần đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, có sự phân công lao độnghội: Phân công lao động xã hội sự
chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động vào những ngành, những lĩnh vực
khác nhau của nền sản xuất xã hội.
Thứ hai,sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất:
Sự tách biệt này do quan hệ sở hữu khác nhau sự phát triển hội hóa khác
nhau về tư liệu sản xuất quy định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của
họ do họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải
thông qua trao đổi, mua bán.
Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa, nếu thiếu một trong hai
điều kiện thì không sản xuất hàng hóa sản phẩm lao động không mang hình
thái hàng hóa.
1.3. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa
Trong nền sản xuất hàng hóa, giữa lao động nhân lao động hội
mâu thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó là mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa.
Mâu thuẫn này biểu hiện ra khi:
2
Sản xuất của người sản xuất hàng hóa nhỏ nhu cầu của hội không ăn
khớp với nhau. Hoặc sản xuất không đủ cung cấp cho hội hoặc sản xuất vượt
quá khả năng tiêu thụ của hội. Trong trường hợp sản xuất vượt quá khả năng
tiêu thụ của xã hội sẽ một số hàng hóa không bán được, tức không thực hiện
được giá trị. Sở tình hình đó do sản xuất dựa trên chế độ hữu làm cho
người sản xuất không thể biết được xã hội cần gì và cần bao nhiêu.
Mức tiêu hao lao động biệt của người sản xuất hàng hóa không phù hợp
với mức tiêu hao lao động hội chấp nhận được. Nếu tiêu hao quá mức,
hội khôngkhả năng thanh toán, tất nhiên hàng hóa không bán được. Mâu thuẫn
giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả năng sản xuất “thừa” và là
mầm mống của mọi mâu thuẫn của kinh tế hàng hóa trong tiến trình phát triển của
lịch sử.
1.4. Ưu thế của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa ra đời trên sở của phân công lao động hội, chuyên
môn hóa sản xuất chính vì thế, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội,
kỹ thuật của từng người, từng sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa
phương. Bên cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại tác động trở lại,
thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao
động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở
rộng, sâu sắc. Phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi
địa phương làm cho năng suất lao động hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của
hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất trao đổi hàng hóa mở rộng giữa
các quốc gia, thì nó còn khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy sản xuất không còn bị giới hạn bởi
nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi
vùng, mỗi địa phương, được mở rộng, dựa trên sở nhu cầu nguồn lực
3
của hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành tựu
khoa học - kỹ thuật vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn của sản xuất
trao đổi hàng hóa quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh...
buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán,
cải tiến kỹ thuật, hợp hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả
kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản
xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộnggiao
lưu kinh tế giữa các nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm cho
đời sống vật chất cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn,
phong phú hơn, đa dạng hơn.
2. Hạn chế của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
Bên cạnh những mặt tích cực, nền sản xuất hàng hóa còn ẩn chứa nhiều tiêu
cực, đặc biệt với một quốc gia đang phát triển, căn chưa bền vững như Việt
Nam, các mặt hạn chế còn thể hiện ra một cách trực diện gây ra ảnh hưởng to
lớn hơn nhiều. Cụ thể, những hạn chế trong nền sản xuất hàng hóa của Việt Nam
như sau:
Thứ nhất, sản xuất phụ thuộc vào bên ngoài
Sau hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế, thế lực của nền kinh tế nước
ta đã tăng lên đáng kể. Đất nước đã ra nhập nhóm nước đang phát triển có thu nhập
trung bình. Chính trị, hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững, góp
phần tạo dựng môi trường thuận lợi tăng cường nguồn lực phát triển đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, tiềm năng lợi thế phát triển, nền kinh tế
nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Chất lượng tăng trưởng, hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế, yếu kém.
4
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao nhưng chủ yếu dựa nhiều vào các
yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển chiều sâu, năng suất
lao động thấp, tụt hậu so với các nước trong khu vực. Kinh tế nước ta độ mở
lớn, sản xuất xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên
ngoài, chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm tới 40,11% trong tổng chi phí
nguyên vật liệu dùng trong sản xuất của nền kinh tế. Tỷ lệ này trong ngành công
nghiệp chế biến chế tạo - ngành vai trò quan trọng đóng góp vào tăng trưởng
của đất nước chiếm tới 50,98%. Công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển khiến Việt
Nam chưa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hình 2. 1. Việt Nam đã có nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, song chúng ta
vẫn còn một khoảng cách khá xa so với thế giới
5
Việt Nam mỗi năm phải nhập tới 85,4% tổng nhu cầu xợi trong nước.
Nhiều ngành sản xuất chính như dệt may phụ thuộc đến 50% vào nguyên phụ liệu
nhập khẩu, với da giày là khoảng 45% và sản xuất nhựa lên tới 80%. Thậm chí, thế
mạnh truyền thống của Việt Nam nông nghiệp cũng phải nhập khẩu hơn 70%
máy móc, thiết bị; 80% giống rau và 60% giống ngô…
Nguyên vật liệu nhập khẩu dùng cho sản xuất phụ thuộc vào một số ít thị
trường. Đây rủi ro đối với kinh tế Việt Nam khi các thị trường này xảy ra biến
cố. Chẳng hạn, Trung Quốc là thị trường chủ yếu của Việt Nam với kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hóa chiếm gần 25% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của toàn bộ
nền kinh tế, nhập khẩuliệu sản xuất từ Trung Quốc chiếm khoảng 1/3 tổng kim
ngạch nhập khẩu tư liệu sản xuất.
Thứ hai, quá trình mua bán, sáp nhập đầu nước ngoài thể đẩy nền
kinh tế ra xa "bến bờ" độc lập, tự chủ
Hình 2. 2. Đầu tư nước ngoài đem lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng
là những thách thức không nhỏ cho nền kinh tế Việt Nam
6
Trong những năm qua, vị thế kinh tế Việt Nam trong thương mại quốc tế
được củng cố khẳng định. Tuy vậy, thương mại quốc tế của nước ta phụ thuộc
khá lớn vào khu vực FDI. Theo số liệu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của khu vực FDI chiếm 74,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn nền kinh tế, kim
ngạch chỉ của 2 nhóm hàng thuộc khu vực FDI chiếm tới 30,8% tổng kim ngạch
xuất khẩu. Điều này phản ánh thương mại quốc tế của nước ta dễ bị tổn thương.
Từ năm 2018 đến nay, dòng vốn đầu nước ngoài vào Việt Nam xu
hướng chuyển dịch rất đáng chú ý với mua bán sáp nhập (M&A) ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn và có tốc độ tăng nhanh.
Các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng ưa chuộng hình thức M&A là điều dễ
hiểu vì đầu vào Việt Nam bằng hình thức này nhanh hơn so với đầu trực tiếp
thành lập pháp nhân mới. Việc các nhà đầu nước ngoài mua bán sáp nhập
khiến quyền sở hữu các tổ chức kinh tế của nước ta rơi vào tay các nhà đầu tư nước
ngoài, đưa đến kinh tế Việt Nam phụ thuộc nước ngoài. Thực tế cho thấy, khi dịch
COVID-19 bùng phát, xu hướng bảo hộ ngày càng gia tăng. Chính phủ các nước
đã khẩn trương đưa ra giải pháp bảo vệ các doanh nghiệp có thể bị phá sản do đại
dịch khỏi sự thâu tóm bởi nước ngoài. Tiêu biểu thể kể đến như một số trường
hợp dưới đây:
Ngày 25/3/2020, Ủy ban châu Âu công bố hướng dẫn mới quy định bổ sung
về tiêu chuẩn sàng lọc đầu tư nước ngoài trong và sau đại dịch, khuyến nghị mạnh
mẽ các quốc gia thành viên thực thi nghiêm túc cơ chế sàng lọc đầu tư nước ngoài
để bảo vệ những tài sản nhạy cảm khỏi bị nước ngoài thôn tính trong đại dịch.
Tây Ban Nha, Ý Pháp đã sửa đổi chi tiết các quy định về đầu nước
ngoài, như giảm ngưỡng xem xét đối với một số hoặc tất cả các nhà đầu nước
ngoài, đồng thời mở rộng danh mục các lĩnh vực phải xem xét. Các quốc gia như
Úc, Canada và Ấn Độ đều áp đặt những hạn chế chặt chẽ hơn đối với đầu tư nước
ngoài để bảo vệ các mục tiêu trong nước khỏi bị nước ngoài chiếm đoạt.
7
Ngày 28/4/2020, Pháp ra thông báo hạ thấp ngưỡng kiểm soát đối với việc
mua lại cổ phần của các nhà đầu tư ngoài châu Âu, thắt chặt hơn nữa ngưỡng kiểm
soát ở mức 10% so với ngưỡng 25% đã được hạ xuống chỉ vài tuần trước đó.
Ngày 17/4/2020, Ấn Độ tuyên bố thắt chặt các quy định về đầu nước
ngoài để hạn chế việc chiếm đoạt cơ hội và mua lại các công ty Ấn Độ do đại dịch.
Ấn Độ còn đưa ra hạn chế mới áp dụng cho các nhà đầu từ các quốc gia
chung biên giới trên bộ với Ấn Độ hoặc chủ sở hữu thụ hưởng công dân của
quốc gia đó. Chính phủ Ấn Độ phê duyệt tất cả các dự án đầunước ngoài thuộc
mọi lĩnh vực đến từ các quốc gia chung đường biên giới, đồng thời Chính phủ
cũng yêu cầu phê duyệt đối với những thay đổi về quyền sở hữulợi đối với bất
kỳ nguồn vốn đầu tư nước ngoài hiện tại hoặc tương lai nào thuộc phạm vi của hạn
chế mới. Sửa đổi này tác động lớn đến sự dễ dàng đầu tư từ Trung Quốc.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế,
xã hội
Thị trường lao động nước ta hiện nay có một số hạn chế đáng lo ngại: cả bên
cung bên cầu chưa đáp ứng được một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt,
bền vững hội nhập. cấu lao động theo 3 khu vực kinh tế chưa hợp lý, lao
động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản chiếm tới 27,5% tổng
số. Số lượng lao động tăng nhanh khu vực phi chính thức. Chất lượng lao động
không đáp ứng nhu cầu. Tính bấp bênh dễ bị tổn thương đến việc làm thu
nhập của người lao động khá cao. Lao động thời vụ phát triển, hạn chế về đào tạo
kỹ năng.
Theo số liệu thống năm 2021, tỷ lệ lao động qua đào tạo bằng cấp,
chứng chỉ rất thấp. Lao động không trình độ chiếm 72,5% trong tổng số lực
lượng lao động; trình độ cấp 6,8%; trình độ trung cấp 4,3%; Cao đẳng 3,7%;
Đại học trở lên 12,5%.
8
Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản đánh giá khả năng hội nhập của lao động
Việt chưa cao. Trình độ tay nghề tương đối thấp so với tiêu chuẩn khu vực thế
giới. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu trong thời kỳ 4.0 (GCI 4.0) năm 2019
chỉ ra Việt Nam xếp thứ 67/141 quốc gia về chỉ số GCI 4.0, nhưng chỉ xếp thứ 93
về kỹ năng.
Thứ tư, nhân lực khoa học và công nghệ vẫn còn hạn chế về chất lượng
Số lượng trình độ cán bộ nghiên cứu tuy đã tăng lên được nâng cao
nhưng số cán bộ nghiên cứu quy đổi toàn thời gian của Việt Nam năm 2015 đạt
bình quân 6,9 cán bộ trên một vạn dân, thấp hơn so với Thái Lan 9,7; Trung Quốc
11,1; Malaysia 20,5 thấp hơn rất nhiều so với Nhật Bản 53,9; Singapore 66,6.
Chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ còn hạn chế, thiếu các nhà khoa
học và chuyên gia giỏi, đầu ngành trong các lĩnh vực công nghệ trình độ cao.
Tinh thần hợp tác nghiên cứu kỹ năng làm việc nhóm còn yếu, khó hình
thành các nhóm nghiên cứu mạnh các nhóm nghiên cứu liên ngành hoạt động
lâu dài, bền vững. Điều này dẫn đến nội dung các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
bị phân tán, hạn chế trong phối hợp thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ
quan trọng, quy lớn. Bên cạnh đó nhân lực khoa học công nghệ phân bố
không đều, một bộ phận sử dụng nhiều thời gian cho công tác quản lý.
Thứ năm, Việt Nam vẫn chưa chính sách trọng dụng hiệu quả nhân tài
quốc gia
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng những nhiệm kỳ gần đây đều
khẳng định sự cần thiết phải đào tạo, thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các
nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ trưởng, thực sự tôn vinh các
doanh nhân có tài và thành đạt, đóng góp nhiều cho xã hội.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh việc
xây dựng chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài. Luật Cán bộ,
9
Công chức đã quy định: "Nhà nước có chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng,
trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng".
Những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh
sự nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và sự cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng, thu
hút, trọng dụng nhân tài trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy vậy, chính
sách thu hút, đãi ngộ chưa tạo thành động lực để phát huy hiệu quả năng lực sáng
tạo của đội ngũ trí thức khoa học trình độ cao, tài năng trẻ. Chưa chính sách
thoả đáng để thu hút sử dụng các trí thức tài năng người Việt Nam nước
ngoài tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học phát triển công nghệ cho nước
nhà.
Để nhân tài trong các quan, tổ chức hết lòng hiến dâng tài năng phục
vụ đất nước đòi hỏi người lãnh đạo các quan, tổ chức đó phải thực sự tài,
tâm. Hiện nay, công tác nhân sự, chọn cán bộ lãnh đạo theo quy trình tưởng
chặt chẽ nhưng không dựa vào đánh giá kết quả cụ thể họ đã làm được trong
thực thi nhiệm vụ, trong đề xuất chính sách, đổi mới nâng cao hiệu quả công việc.
Kinh nghiệm từ Mỹ - quốc gia nền kinh tế, quân sự phát triển hàng đầu
thế giới cho thấy, vị thế của nước Mỹ được tạo dựng, duy trìđảm bảo bằng nền
tảng khoa học công nghệ tiên tiến với đội ngũ nhân lực dồi dào về số lượng, ưu
và vượt trội về chất lượng. Chính phủ Mỹ qua tất cả các nhiệm kỳ tổng thống luôn
xác định "Nhân lực trung tâm của mọi sự phát triển", Chính phủ tập trung thực
thi với mức độ ưu tiên chiến lược đào tạo và thu hút nhân tài từ khắp các châu lục,
coi đó là chiến lược sống còn xuyên suốt lịch sử phát triển.
Mỹ đặc biệt coi trọng giáo dục đại học trong đào tạo, bồi dưỡng phát triển
nhân tài thực hiện hệ thống, được luật hóa. Mỹ thành lập hệ thống quản
nhân lực nhằm tuyển dụng, giữ chân tôn vinh lực lượng lao động đẳng cấp thế
giới để phục vụ nhân dân Mỹ. Các nhà quản nhân sự Mỹ nhận thức: "Muốn
10
quản được nhân tài, trước hết nhà quản phải người tài, những suy nghĩ
vượt tầm so với thông thường".
Đất nước Trung Quốc cũng chính sách đào tạo thu hút nhân tài khiến
thế giới phải nể phục. Trong 60 năm qua, Trung Quốc từ một quốc gia nghèo đói
đã vươn lên trở thành cường quốc hàng đầu thế giới. Đạt được kết quả thần kỳ này
nhờ Trung Quốc thực hiện rất nhiều chính sách kinh tế, xã hội trọng điểm, trong đó
chính sách đào tạo thu hút nhân tài. Trung Quốc luôn quan tâm đến chất
lượng hơn là số lượng, thi vào đại học Trung Quốc được đánh giá khốc liệt nhất
thế giới. Trung Quốc cũng tích cực gửi sinh viên đi học ở các nước tiên tiến, đồng
thời có chính sách hấp dẫn để họ trở về nước. Số sinh viên Trung Quốc du học trở
về rất đông cho thấy mức độ thành công của chiến lược đào tạo nhân tài nước
ngoài.
Bên cạnh chiến lược thu hút nhân tài người Hoa nước ngoài, Trung Quốc
cũng triển khai chiến lược thu hút nhân tài của thế giới đến Trung Quốc để nghiên
cứu khoa học. Cuối năm 2008, Trung Quốc đưa ra Kế hoạch 1.000 nhân tài nhằm
thu hút các nhà khoa học, nhà kinh tế, chiến lược gia hàng đầu thế giới đã có thành
tích nghiên cứu tại các nước Âu - Mỹ và Nhật với chế độ đãi ngộ tuyệt vời.
Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore quốc gia chính sách thu hút
nhân tài nước ngoài bài bản, ràng nhất thế giới. Chính phủ Singapore xác định
nhân tài yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh phát triển của đất
nước.
Chính phủ Singapore đã tạo dựng niềm tin người tài luôn vị trí cao với
mức lương tương xứng với giá trị chất xám, đồng thời chính phủ sẵn sàng chào đón
nhân tài ngoại vào bộ máy nhà nước. Cố Thủ tướng Quang Diệu quan điểm
rất rõ ràng: "Lãnh đạo giỏi là đầu tầu định hướng cho đất nước phát triển. Lãnh đạo
dốt sẽ ngáng chân những người giỏi, không cho họ ngồi vào những vị trí quan
trọng".
11
Thứ sáu, giáo dục, đào tạo hướng tới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
nhưng chuyển biến chậm
Chất lượng của hệ thống giáo dục đào tạo đáng để nghiêm túc suy nghĩ.
Năm 2020, Ngân hàng Thế giới xếp hạng 1.000 trường đại học theo ba bảng xếp
hạng uy tín Webometrics, QS và THE, Việt Nam đứng cuối cùng, sau Philippines,
Indonesia, Malaysia và Thái Lan.
Tại mỗi bảng QS THE, Việt Nam chỉ hai trường góp mặt trong top
1.000 không trường nào được xếp hạng theo bảng Webbometrics. Trong khi
đó Thái Lan 8, 5 6; Trung Quốc đứng đầu bảng xếp hạng khi đến 40 đại
diện top 1.000 xếp theo QS, 63 đại diện xếp theo THE 103 đại diện theo
Webometrics.
Hoạt động nghiên cứu trong các đại học Việt Nam tụt hậu. Giai đoạn 2010-
2017, tỷ lệ nghiên cứu trên một triệu dân của Việt Nam tăng từ 23 lên 63, thấp hơn
mức 212 của Thái Lan và kém xa mức 4.813 của Thuỵ Sĩ, quốc gia đứng đầu danh
sách. Trong 10 năm 2008-2018, Việt Nam tăng từ vị trí 64 lên 45 về chỉ số đổi mới
toàn cầu nhưng vẫn đứng chót về hầu hết chỉ số khác.
Trong những năm vừa qua, hệ thống giáo dục Việt Nam bước tiến quan
trọng trong đổi mới chương trình, lấy người học làm trung tâm. Đây bước
chuyển theo hướng tiếp cận phát triển năng lực, phản ánh nỗ lực của Chính phủ
thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập.
12
Hình 2. 3. Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã có nhiều cải thiện, song nguồn
nhân lực chất lượng cao vẫn còn thiếu, đặc biệt là nhân sự quản lý cấp cao
Thứ bảy, đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
Năng lực trình độ đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
chưa đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hội nhập
quốc tế; trách nhiệm công vụ còn kém, lề lối làm việc trì trệ, chậm đổi mới, đùn
đẩy, né tránh.
Một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy quản chưa nâng cao tinh
thần trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, coi việc thực thi
công vụ, phục vụ nhân dân như là ban phát ân huệ.
3. Một số đề xuất nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong nền sản
xuất hàng hóa của Việt Nam
13
Đại hội Đảng lần thứ XIII thổi bùng ngọn lửa khát vọng một Việt Nam hùng
cường, phồn vinh, hạnh phúc. Để hiện thực hóa khát vọng cao quý vinh quang
này trong bối cảnh thế giới có nhiều bất định, biến đổi khó lường, kinh tế Việt Nam
hội nhập sâu, rộng vào kinh tế toàn cầu, hội thách thức đan xen, nhưng khó
khăn thách thức nhiều hơn, đòi hỏi chúng ta phải khẩn trương xây dựng phát
triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hệ thống chính trị cần khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, bản lĩnh, đạo
đức, tài năng, phẩm chất của con người Việt Nam để thực sự trở thành sức mạnh
nội sinh, động lực phát triển đất nước.
Trên tinh thần đóng góp mang tính cầu thị, dựa trên nghiên cứu của bản
thân, tác giả xin đề xuất một số giải pháp khắc phục hạn chế của nền sản xuất hàng
hóa ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, về thể chế. Chính phủ cần khẩn trương cải cách thể chế, sửa đổi,
bổ sung xóa bỏ những quy định cản trở, không còn phù hợp với quá trình phát
triển. Đặc biệt, Chính phủ cần khẩn trương cải cách nền quản trị quốc gia theo
quan điểm chuyên nghiệp hóa phải là linh hồn của những cải cách, các nguyên tắc,
chuẩn mực quy trình mang tính kỹ trị nghiêm ngặt trong việc ban hành chính
sách và pháp luật. Các ưu tiên chính sách phải được xác lập trên cơ sở lợi ích quốc
gia.
Thứ hai, về kinh tế. Chính phủ cần quán triệt quan điểm mục tiêu nâng
cao năng lực, tính độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh với các nhóm giải
pháp:
cấu lại nền kinh tế; sử dụng linh hoạt, hợp lý, hiệu quả các công cụ của
chính sách tài khóa, tiền tệ; củng cố ổn định mô, tăng khả năng chống chịu của
nền kinh tế với các biến động bên ngoài.
14
Nâng cao tính độc lập tự chủ, năng lực cạnh tranh của thương mại trong
nước quốc tế; gia tăng sản xuất tiêu dùng trong nước, thúc đẩy xuất khẩu các
mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đa dạng hóa đối tác thương mại và thị trường.
Chính phủ cần thực hiện Chiến lược xây dựng các nguồn lực vật chất thiết
yếu đảm bảo các cân đối lớn, đảm bảo an ninh năng lượng, lương thực, an ninh tài
chính tiền tệ để tạo dựng độc lập, tự chủ về tiềm lực kinh tế. Đối với an ninh năng
lượng, thực hiện chương trình chuyển đổi từ năng lượng sử dụng than, năng lượng
hóa thạch sang năng lượng tái tạo và năng lượng xanh.
Tái cơ cấu, nâng cao năng lực, tính độc lập tự chủ trong đầu tư, cải thiện thể
chế đầu tư; đẩy nhanh tiến độ thực hiện, nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư; sàng
lọc, soát kỹ, tăng chất lượng dòng vốn đầu nước ngoài; giám sát các hoạt
động mua bán sáp nhập để doanh nghiệp Việt không bị nước ngoài thôn tính.
Công nghệ luôn phương thức công cụ mạnh nhất để xây dựng một
hội thịnh vượng vượt trội trong mọi thời đại. Chính phủ cần thực thi chính sách
phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo; ứng dụng công nghệ
số, trí tuệ nhân tạo trong quản trị hội, sản xuất kinh doanh đời sống. Thực
hiện chính sách tài khóa, tiền tệ đột phá thúc đẩy áp dụng công nghệ tiên tiến, đổi
mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động doanh nghiệp và xã hội.
Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ gia công khí để từng bước tự
chủ nguồn nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước, từ đó nâng cao giá tr gia
tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp Việt. Phát triển công nghiệp hỗ
trợ là giải pháp quan trọng để Việt Nam tham gia sâu, trở thành mắt xích không thể
thiếu, khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, hấp thu khoa học, công
nghệ, trình độ kỹ thuật, quản trị tiên tiến t các doanh nghiệp FDI. Đồng thời,
Chính phủ chính sách ưu đãi, đầu tư phát triển các ngành công nghiệp sản xuất
nguyên vật liệu gốc, hạn chế nhập nguyên vật liệu về làm gia công, nâng cao năng
lực tự chủ. Cần kế hoạch tập trung đầu cho các ngành mũi nhọn trọng điểm
15
của quốc gia như công nghệ thông tin, nhất công nghệ phần mềm, thông tin vệ
tinh, số hóa, năng lượng mới, vật liệu mới nano, công nghệ sinh học và sự tích hợp
giữa chúng.
Đổi mớichế và chính sách để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học phát triển công
nghệ của doanh nghiệp, chú trọng chế về tài chính, thuế nhằm khuyến khích
doanh nghiệp đầu cho lĩnh vực đổi mới công nghệ nhất đối với công nghệ
thông tin công nghệ tiên tiến khác. Tận dụng tiềm năng tri thức, kinh nghiệm
chuyển giao công nghệ mới của lực lượng Việt kiều ở nước ngoài.
Để tận dụng hội khắc phục thách thức khó khăn dưới tác động cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần tăng cường công tác tưởng, nâng cao
nhận thức, tuyên truyền thông tin về bản chất xu hướng phát triển tác động của
cuộc cách mạng này trong hệ thống giáo dục - đào tạo, những thời thách thức
đặt ra để định hướng luận từ các quan của Chính phủ, Bộ ngành đến các tổ
chức, doanh nghiệp người dân nhận thức đẩy đủ đúng đắn vể Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trong Chương trình hành động của Chính phủ ngoài việc quyết tâm chính
trị, nắm bắt thời cơ, cần chú trọng các yếu tố về đào tạo phát triển nguồn nhân
lực, cần đầu tư đồng bộ, tập trung phát triển hạ tầng công nghệ thông tin là yêu cầu
mang tính nền tảng. Bên cạnh đó thực hiện đổi mới giáo dục, đào tạo dậy nghề
trong hệ thống các trường đào tạo nghề theo hướng phát triển nguồn nhân lực,
chuyển đổi nghề nghiệp kỹ năng phù hợp, thể tiếp thu làm chủ khai thác
vận hành hiệu quả những tiến bộ công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư.
Thứ ba, về nguồn nhân lực. Con người chủ thể, trung tâm, động lực thực
hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Chính phủ cần hoàn thiện thể
chế, chính sách đồng bộ, thống nhất nhằm tạo dựng và nâng cao hiệu quả vận hành
16
thị trường lao động linh hoạt, hội nhập bền vững đáp ứng nhu cầu lao động của
doanh nghiệp, xu hướng chuyển đổi chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, đảm bảo
khả năng cung ứng lao động cho chuyển dịch đầu nước ngoài vào Việt Nam.
Cần chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao với các trọng tâm sau đây:
Một là, cần tiếp tục củng cố tăng cường, bảo đảm các yếu tố bản nền
móng đổi mới duy về phát triển giáo dục, đào tạo trong tổng thể chiến lược
phát triển kinh tế - hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước. Cần đổi
mới định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo tại Việt Nam trong bối
cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ sự hình thành nền kinh tế số.
Muốn vậy, về mặt nhận thức quan điểm phải thực sự coi giáo dục quốc sách
hàng đầu, từ đó xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp, với lộ trình, bước đi hợp
lý, khoa học. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lựcphẩm chất người học, học đi đôi với hành, luận
gắn với thực tiễn. Mục tiêu là đào tạo đội ngũ lao động chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước; cụ thể chuyển từ biệt lập, tự phát
về số lượng sang chất lượng, kết nối giữa đào tạo sử dụng lao động, từ cách
đào tạo làm cho người học thụ động sang chủ động sáng tạo, không ngại đương
đầu với những khó khăn, thách thức trong sự phát triển mạnh của khoa học công
nghệ, thông tin, truyền thông hội nhập quốc tế.Phát triển giáo dục đào tạo
phải gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế - hội, xây dựng bảo vệ Tổ quốc,
với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực thị trường
lao động. Thực hiện mục tiêu trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, phấn đấu đến
năm 2030, nền giáo dục của Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Hai là, Nhà nước cần kịp thời bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý tạo môi
trường thuận lợi để phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích phát triển thị trường
nguồn nhân lực chất lượng cao; thị trường sản phẩm khoa học công nghệ phải phản
ánh đầy đủ quan hệ cung - cầu, qua đó, làm căn cứ hoạch định chiến lược và chính
17
sách trọng tâm, trọng điểm phù hợp cho sự phát triển lâu dài của đất nước; đồng
thời, cần chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp,
đổi mới sáng tạo trong các trường đại học đào tạo về khoa học, kỹ thuật công
nghệ; Gắn kết chặt chẽ giữa các vườn ươm khởi nghiệp với các trường đại học
các doanh nghiệp, các khu kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao.
Ba là, cần phát triển hình giáo dục đại học 4.0. Đâyhình giáo dục
thông minh, liên kết giữa nhà trường với nhà quản doanh nghiệp. Cho nên,
các sở giáo dục đại học cần tăng cường liên kết với các doanh nghiệp, các
trường đại học quốc tế để xây dựng các phòng thí nghiệm đủ tiêu chuẩn với các
thiệt bị, kỹ thuật hiện đại của một số ngành kinh tế mũi nhọn trọng điểm nước
ta có ưu thế theo hình thức hợp tác công – tư; xây dựng mô hình giáo dục 4.0 theo
kịp với xu hướng công nghệ hiện đại trong sự hình thành nền kinh tế số. Nghiên
cứu phát triển là chìa khoá quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế - hội;
cần gắn kết chặt chẽ hiệu quả giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất, giữa sản
xuất với nghiên cứu khoa học trong quá trình tạo ra các sản phẩm phục vụ thiết
thực cho cuộc sống của con người và xã hội.
Bốn là, các trường đại học cần tập trung xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ
nghiên cứu trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, nhất tiếng anh; cần chính
sách thu hút cán bộ giỏi, trình độ kỹ thuật cao, các chuyên gia trong ngoài
nước hợp tác với nhà trường. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp
học và trình độ đào tạo. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu
cầu đổi mới và giáo dục đào tạo. Đổi mới cơ chế quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa
học, tăng cường đầu sở vật chất, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng
đào tạo lại đội ngũ giảng viên là khâu then chốt có ý nghĩa quyết định đối với nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo của đất nước trong điều kiện của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0
18
Năm là, cần đổi mới chương trình, nội dung giáo dục theo hướng tinh giản,
hiện đại, phù hợp với mọi lứa tuổi, trình độ, ngành nghề, theo hướng coi trọng phát
triển phẩm chất, năng lực của người học. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân
theo hướng hệ thống giáo dục mở, phải học tập suốt đời xây dựng hội học
tập. Đổi mới căn bản công tác quản giáo dục, đào tạo, đảm bảo dân chủ thống
nhất; tăng quyền tự chủtrách nhiệm hội của các sở giáo dục, đào tạo; coi
trọng quản chất lượng. Đối với các nội dung, chương trình đào tạo về lĩnh vực
khoa học hội nhân văn cần sử dụng các công nghệ thông tin, truyền thông
hiện đại để làm sáng tỏ thêm những kiến thức khoa học bản về quy luật phát
triển của hội, về mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên, con người hội
trong sự phát triển của nhân loại phù hợp với xu hướng của thời đại mới. Tăng
cường đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, nghiên cứu về khoa học Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về lịch sử, văn hoá dân tộc, con người Việt Nam gắn
liền với thực tiễn của cách mạng công nghiệp 4.0 công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước và chủ động hội nhập quốc tế, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt, trong các loại trường đại học (nghiên cứu, ứng dụngthực hành)
thì trường đại học nghiên cứu vai trò đặc biệt trong việc duy trì sự ưu tú, tạo ra
những kiến thức mới, ý tưởng mới, sáng tạo mới nhằm dẫn dắt tiến bộ xã hội cũng
như thúc đẩy sự giàu mạnh của quốc gia. Các trường đại học “tinh hoa mới”
cách nói khác của các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của mỗi quốc gia, đào
tạo nguồn nhân lực tài năng, chất lượng cao, nghiên cứu khoa học đỉnh cao, đóng
vai trò hoa tiêu, dẫn đầu, tiên phong trụ cột của nền giáo dục đại học của đất
nước hội nhập và cạnh tranh, phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Thứ tư, về hợp tác quốc tế. Chính phủ cần tăng cường phát triển hợp tác
kinh tế, công nghệ với các nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới và hợp tác Nam
19
- Nam giữa các nước đang phát triển là giải pháp quan trọng, cần thiết đảm bảo độc
lập kinh tế.
Chính phủ cần thúc đẩy các hình thức hợp tác phát triển hiệu quả thông qua
học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm và những bài học thực tiễn có giá trị; phát triển và áp
dụng những công nghệ thích hợp giữa các nước đang phát triển; mở rộng thương
mại, đầu tư, chia sẻ kiến thức và hợp tác kỹ thuật; đồng thời cung cấp các giải pháp
cụ thể với những thách thức phát triển chung của toàn cầu.
Với tiềm năng rất lớn về con người, kinh tế công nghệ, các nước đang
phát triển cần mở rộng, đẩy mạnh hợp tác, trao đổi kinh tế công nghệ trên
nguyên tắc độc lập, tự chủ tập thể. Một khi tranh thủ sử dụng hiệu quả các
nguồn lực này, các nước đang phát triển sẽ phát triển nhanh hơn, tăng tốc hơn
trong xây dựng kinh tế quốc gia độc lập và phát triển thịnh vượng chung.
20
KẾT LUẬN
Thực hiện khát vọng một Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc trong
bối cảnh thế giới thay đổi sâu sắc, toàn diện với nhiều bất định; khi chúng ta kết
hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ,
chủ động, tích cực hội nhập nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa
nội lực, tranh thủ ngoại lực, đặc biệt phát huy tối đa nguồn lực nội sinh, quan trọng
nhất là nguồn lực con người để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; khi lãnh đạo
các cấp mỗi người dân luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, linh hoạt, sáng tạo,
kiên cường vượt khó, luôn đau đáu mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ;
cùng với sự chỉ đạo kịp thời của Đảng; điều hành chủ động, linh hoạt, thực hiện
đồng thời hiệu quả các giải pháp của Chính phủ; sự đồng hành trách nhiệm của
Quốc hội, Việt Nam sẽ xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ đưa đất
nước sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới trong vài thập niên tới.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2015, .Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
2. PGS.TS Ngô Đăng Tri, 2017, Sự bổ sung, phát triển đường lối đổi mới của
Đảng trong thời kỳ đổi mới (1986-2016), Website Đại học Khoa học hội &
Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. NĐT PHM, 2021, Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa bản đương đại những
giới hạn không thể vượt qua, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Nguyễn Bích Lâm, 2023, Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, thổi bùng khát
vọng Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, Cổng thông tin điện tử chính
phủ
22
| 1/24

Preview text:

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
1. Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa và thị trường................................2
1.1. Khái niệm về sản xuất hàng hóa.................................................................2
1.2. Điều kiện tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hóa....................................2
1.3. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa...................................................2
1.4. Ưu thế của sản xuất hàng hóa.....................................................................3
2. Hạn chế của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam...............................................4
3. Một số đề xuất nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong nền sản xuất
hàng hóa của Việt Nam........................................................................................13
KẾT LUẬN.............................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................21 DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 2. 1. Việt Nam đã có nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, song chúng ta
vẫn còn một khoảng cách khá xa so với thế giới.......................................................5
Hình 2. 2. Đầu tư nước ngoài đem lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng là
những thách thức không nhỏ cho nền kinh tế Việt Nam...........................................6
Hình 2. 3. Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã có nhiều cải thiện, song nguồn
nhân lực chất lượng cao vẫn còn thiếu, đặc biệt là nhân sự quản lý cấp cao..........12 MỞ ĐẦU
Sản xuất hàng hóa là quá trình tạo ra sản phẩm hàng hóa đáp ứng và thỏa
mãn nhu cầu của con người. Trong thời kì đầu của xã hội loài người, do sự lạc hậu
của lực lượng sản xuất nên sản xuất của xã hội mang tính tự cung tự
cấp, khi đó, nhu cầu của con người bị bó hẹp trong 1 phạm vi, một giới hạn nhất
định. Khi lực lượng sản xuất phát triển và có nhiều thành tựu mới, con người dần
thoát khỏi nền kinh tế tự nhiên và chuyển sang nền kinh tế hàng hóa mà đỉnh cao
của nó chính là nền kinh tế thị trường. Sản xuất hàng hóa là một bộ phận của kinh
tế quốc tế, là tổng thể của các quan hệ kinh tế, khoa học, kĩ thuật, công nghệ được
thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của
lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, sản xuất hàng hóa được ví như một bộ phận quan trọng
trong guồng máy của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là trong xu thế
hội nhập và phát triển hiện nay. Sản xuất hàng hóa không những góp phần vào quá
trình thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển mà còn mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế.
Sản xuất hàng hóa trong thời đại kinh tế mở và đầy cạnh tranh như hiện nay
đòi hỏi mỗi quốc gia cần phải có hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh đất nước cũng như tình hình chung của khu vực, thế giới. Xác
định đúng hướng phát triển cho nền sản xuất hàng hóa sẽ giúp đất nước có được
bước tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, mở rộng thêm thị trường tiêu thụ, đem lại lợi
ích cho đất nước, còn ngược lại thì nó sẽ khiến đất nước rơi vào tình trạng kém
phát triển, đời sống nhân dân không được đảm bảo. Vì những lý do trên, em đã lựa
chọn đề tài: “Sản xuất hàng hóa là gì? Cho ví dụ. Nền sản xuất hàng hóa có
những hạn chế gì? Theo quan điểm cá nhân, nền kinh tế Việt Nam cần làm gì
để khắc phục những hạn chế này?” cho bài tiểu luận kết thúc môn của mình. 1 NỘI DUNG
1. Khái quát lý luận về nền sản xuất hàng hóa và thị trường
1.1. Khái niệm về sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính trị
Marx-Lenin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất
ra không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra
nó mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi,
mua bán. Hay nói một cách khác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà sản
phẩm sản xuất ra là để bán.
1.2. Điều kiện tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hóa
Để có thể tồn tại, sản xuất hàng hóa cần đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, có sự phân công lao động xã hội: Phân công lao động xã hội là sự
chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động vào những ngành, những lĩnh vực
khác nhau của nền sản xuất xã hội.
Thứ hai, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất:
Sự tách biệt này là do quan hệ sở hữu khác nhau và sự phát triển xã hội hóa khác
nhau về tư liệu sản xuất quy định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của
họ và do họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải
thông qua trao đổi, mua bán.
Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa, nếu thiếu một trong hai
điều kiện thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.
1.3. Mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa
Trong nền sản xuất hàng hóa, giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có
mâu thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó là mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa.
Mâu thuẫn này biểu hiện ra khi: 2
Sản xuất của người sản xuất hàng hóa nhỏ và nhu cầu của xã hội không ăn
khớp với nhau. Hoặc sản xuất không đủ cung cấp cho xã hội hoặc sản xuất vượt
quá khả năng tiêu thụ của xã hội. Trong trường hợp sản xuất vượt quá khả năng
tiêu thụ của xã hội sẽ có một số hàng hóa không bán được, tức là không thực hiện
được giá trị. Sở dĩ có tình hình đó là do sản xuất dựa trên chế độ tư hữu làm cho
người sản xuất không thể biết được xã hội cần gì và cần bao nhiêu.
Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa không phù hợp
với mức tiêu hao lao động mà xã hội chấp nhận được. Nếu tiêu hao quá mức, xã
hội không có khả năng thanh toán, tất nhiên hàng hóa không bán được. Mâu thuẫn
giữa lao động tư nhân và lao động xã hội chứa đựng khả năng sản xuất “thừa” và là
mầm mống của mọi mâu thuẫn của kinh tế hàng hóa trong tiến trình phát triển của lịch sử.
1.4. Ưu thế của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên
môn hóa sản xuất chính vì thế, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội,
kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa
phương. Bên cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở lại,
thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao
động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở
rộng, sâu sắc. Phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi
địa phương làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng, nhu cầu của
xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa
các quốc gia, thì nó còn khai thác được lợi thế của các quốc gia với nhau.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi
nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi
vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực 3
của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành tựu
khoa học - kỹ thuật vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất
và trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh...
buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán,
cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản
xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao
lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm cho
đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn,
phong phú hơn, đa dạng hơn.
2. Hạn chế của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
Bên cạnh những mặt tích cực, nền sản xuất hàng hóa còn ẩn chứa nhiều tiêu
cực, đặc biệt với một quốc gia đang phát triển, căn cơ chưa bền vững như Việt
Nam, các mặt hạn chế còn thể hiện ra một cách trực diện và gây ra ảnh hưởng to
lớn hơn nhiều. Cụ thể, những hạn chế trong nền sản xuất hàng hóa của Việt Nam như sau:
Thứ nhất, sản xuất phụ thuộc vào bên ngoài
Sau hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế, thế và lực của nền kinh tế nước
ta đã tăng lên đáng kể. Đất nước đã ra nhập nhóm nước đang phát triển có thu nhập
trung bình. Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững, góp
phần tạo dựng môi trường thuận lợi và tăng cường nguồn lực phát triển đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, tiềm năng và lợi thế phát triển, nền kinh tế
nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Chất lượng tăng trưởng, hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế, yếu kém. 4
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao nhưng chủ yếu dựa nhiều vào các
yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển chiều sâu, năng suất
lao động thấp, tụt hậu so với các nước trong khu vực. Kinh tế nước ta có độ mở
lớn, sản xuất và xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên
ngoài, chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu chiếm tới 40,11% trong tổng chi phí
nguyên vật liệu dùng trong sản xuất của nền kinh tế. Tỷ lệ này trong ngành công
nghiệp chế biến chế tạo - ngành có vai trò quan trọng đóng góp vào tăng trưởng
của đất nước chiếm tới 50,98%. Công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển khiến Việt
Nam chưa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hình 2. 1. Việt Nam đã có nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, song chúng ta
vẫn còn một khoảng cách khá xa so với thế giới 5
Việt Nam mỗi năm phải nhập tới 85,4% tổng nhu cầu sơ xợi trong nước.
Nhiều ngành sản xuất chính như dệt may phụ thuộc đến 50% vào nguyên phụ liệu
nhập khẩu, với da giày là khoảng 45% và sản xuất nhựa lên tới 80%. Thậm chí, thế
mạnh truyền thống của Việt Nam là nông nghiệp cũng phải nhập khẩu hơn 70%
máy móc, thiết bị; 80% giống rau và 60% giống ngô…
Nguyên vật liệu nhập khẩu dùng cho sản xuất phụ thuộc vào một số ít thị
trường. Đây là rủi ro đối với kinh tế Việt Nam khi các thị trường này xảy ra biến
cố. Chẳng hạn, Trung Quốc là thị trường chủ yếu của Việt Nam với kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hóa chiếm gần 25% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của toàn bộ
nền kinh tế, nhập khẩu tư liệu sản xuất từ Trung Quốc chiếm khoảng 1/3 tổng kim
ngạch nhập khẩu tư liệu sản xuất.
Thứ hai, quá trình mua bán, sáp nhập và đầu tư nước ngoài có thể đẩy nền
kinh tế ra xa "bến bờ" độc lập, tự chủ
Hình 2. 2. Đầu tư nước ngoài đem lại những lợi ích to lớn, nhưng đồng thời cũng
là những thách thức không nhỏ cho nền kinh tế Việt Nam 6
Trong những năm qua, vị thế kinh tế Việt Nam trong thương mại quốc tế
được củng cố và khẳng định. Tuy vậy, thương mại quốc tế của nước ta phụ thuộc
khá lớn vào khu vực FDI. Theo số liệu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của khu vực FDI chiếm 74,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn nền kinh tế, kim
ngạch chỉ của 2 nhóm hàng thuộc khu vực FDI chiếm tới 30,8% tổng kim ngạch
xuất khẩu. Điều này phản ánh thương mại quốc tế của nước ta dễ bị tổn thương.
Từ năm 2018 đến nay, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có xu
hướng chuyển dịch rất đáng chú ý với mua bán và sáp nhập (M&A) ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn và có tốc độ tăng nhanh.
Các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng ưa chuộng hình thức M&A là điều dễ
hiểu vì đầu tư vào Việt Nam bằng hình thức này nhanh hơn so với đầu tư trực tiếp
thành lập pháp nhân mới. Việc các nhà đầu tư nước ngoài mua bán và sáp nhập
khiến quyền sở hữu các tổ chức kinh tế của nước ta rơi vào tay các nhà đầu tư nước
ngoài, đưa đến kinh tế Việt Nam phụ thuộc nước ngoài. Thực tế cho thấy, khi dịch
COVID-19 bùng phát, xu hướng bảo hộ ngày càng gia tăng. Chính phủ các nước
đã khẩn trương đưa ra giải pháp bảo vệ các doanh nghiệp có thể bị phá sản do đại
dịch khỏi sự thâu tóm bởi nước ngoài. Tiêu biểu có thể kể đến như một số trường hợp dưới đây:
Ngày 25/3/2020, Ủy ban châu Âu công bố hướng dẫn mới quy định bổ sung
về tiêu chuẩn sàng lọc đầu tư nước ngoài trong và sau đại dịch, khuyến nghị mạnh
mẽ các quốc gia thành viên thực thi nghiêm túc cơ chế sàng lọc đầu tư nước ngoài
để bảo vệ những tài sản nhạy cảm khỏi bị nước ngoài thôn tính trong đại dịch.
Tây Ban Nha, Ý và Pháp đã sửa đổi chi tiết các quy định về đầu tư nước
ngoài, như giảm ngưỡng xem xét đối với một số hoặc tất cả các nhà đầu tư nước
ngoài, đồng thời mở rộng danh mục các lĩnh vực phải xem xét. Các quốc gia như
Úc, Canada và Ấn Độ đều áp đặt những hạn chế chặt chẽ hơn đối với đầu tư nước
ngoài để bảo vệ các mục tiêu trong nước khỏi bị nước ngoài chiếm đoạt. 7
Ngày 28/4/2020, Pháp ra thông báo hạ thấp ngưỡng kiểm soát đối với việc
mua lại cổ phần của các nhà đầu tư ngoài châu Âu, thắt chặt hơn nữa ngưỡng kiểm
soát ở mức 10% so với ngưỡng 25% đã được hạ xuống chỉ vài tuần trước đó.
Ngày 17/4/2020, Ấn Độ tuyên bố thắt chặt các quy định về đầu tư nước
ngoài để hạn chế việc chiếm đoạt cơ hội và mua lại các công ty Ấn Độ do đại dịch.
Ấn Độ còn đưa ra hạn chế mới áp dụng cho các nhà đầu tư từ các quốc gia có
chung biên giới trên bộ với Ấn Độ hoặc chủ sở hữu thụ hưởng là công dân của
quốc gia đó. Chính phủ Ấn Độ phê duyệt tất cả các dự án đầu tư nước ngoài thuộc
mọi lĩnh vực đến từ các quốc gia có chung đường biên giới, đồng thời Chính phủ
cũng yêu cầu phê duyệt đối với những thay đổi về quyền sở hữu có lợi đối với bất
kỳ nguồn vốn đầu tư nước ngoài hiện tại hoặc tương lai nào thuộc phạm vi của hạn
chế mới. Sửa đổi này tác động lớn đến sự dễ dàng đầu tư từ Trung Quốc.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội
Thị trường lao động nước ta hiện nay có một số hạn chế đáng lo ngại: cả bên
cung và bên cầu chưa đáp ứng được một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt,
bền vững và hội nhập. Cơ cấu lao động theo 3 khu vực kinh tế chưa hợp lý, lao
động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tới 27,5% tổng
số. Số lượng lao động tăng nhanh ở khu vực phi chính thức. Chất lượng lao động
không đáp ứng nhu cầu. Tính bấp bênh và dễ bị tổn thương đến việc làm và thu
nhập của người lao động khá cao. Lao động thời vụ phát triển, hạn chế về đào tạo kỹ năng.
Theo số liệu thống kê năm 2021, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp,
chứng chỉ rất thấp. Lao động không có trình độ chiếm 72,5% trong tổng số lực
lượng lao động; trình độ sơ cấp 6,8%; trình độ trung cấp 4,3%; Cao đẳng 3,7%; Đại học trở lên 12,5%. 8
Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản đánh giá khả năng hội nhập của lao động
Việt chưa cao. Trình độ tay nghề tương đối thấp so với tiêu chuẩn khu vực và thế
giới. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu trong thời kỳ 4.0 (GCI 4.0) năm 2019
chỉ ra Việt Nam xếp thứ 67/141 quốc gia về chỉ số GCI 4.0, nhưng chỉ xếp thứ 93 về kỹ năng.
Thứ tư, nhân lực khoa học và công nghệ vẫn còn hạn chế về chất lượng
Số lượng và trình độ cán bộ nghiên cứu tuy đã tăng lên và được nâng cao
nhưng số cán bộ nghiên cứu quy đổi toàn thời gian của Việt Nam năm 2015 đạt
bình quân 6,9 cán bộ trên một vạn dân, thấp hơn so với Thái Lan 9,7; Trung Quốc
11,1; Malaysia 20,5 và thấp hơn rất nhiều so với Nhật Bản 53,9; Singapore 66,6.
Chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ còn hạn chế, thiếu các nhà khoa
học và chuyên gia giỏi, đầu ngành trong các lĩnh vực công nghệ trình độ cao.
Tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm còn yếu, khó hình
thành các nhóm nghiên cứu mạnh và các nhóm nghiên cứu liên ngành hoạt động
lâu dài, bền vững. Điều này dẫn đến nội dung các nhiệm vụ khoa học và công nghệ
bị phân tán, hạn chế trong phối hợp thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ
quan trọng, quy mô lớn. Bên cạnh đó nhân lực khoa học và công nghệ phân bố
không đều, một bộ phận sử dụng nhiều thời gian cho công tác quản lý.
Thứ năm, Việt Nam vẫn chưa có chính sách trọng dụng hiệu quả nhân tài quốc gia
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng những nhiệm kỳ gần đây đều
khẳng định sự cần thiết phải đào tạo, thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các
nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, thực sự tôn vinh các
doanh nhân có tài và thành đạt, đóng góp nhiều cho xã hội.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh việc
xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài. Luật Cán bộ, 9
Công chức đã quy định: "Nhà nước có chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng,
trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng".
Những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh
sự nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và sự cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng, thu
hút, trọng dụng nhân tài trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy vậy, chính
sách thu hút, đãi ngộ chưa tạo thành động lực để phát huy hiệu quả năng lực sáng
tạo của đội ngũ trí thức khoa học có trình độ cao, tài năng trẻ. Chưa có chính sách
thoả đáng để thu hút và sử dụng các trí thức tài năng là người Việt Nam ở nước
ngoài tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cho nước nhà.
Để có nhân tài trong các cơ quan, tổ chức hết lòng hiến dâng tài năng phục
vụ đất nước đòi hỏi người lãnh đạo ở các cơ quan, tổ chức đó phải thực sự có tài,
có tâm. Hiện nay, công tác nhân sự, chọn cán bộ lãnh đạo theo quy trình tưởng là
chặt chẽ nhưng không dựa vào đánh giá kết quả cụ thể họ đã làm được gì trong
thực thi nhiệm vụ, trong đề xuất chính sách, đổi mới nâng cao hiệu quả công việc.
Kinh nghiệm từ Mỹ - quốc gia có nền kinh tế, quân sự phát triển hàng đầu
thế giới cho thấy, vị thế của nước Mỹ được tạo dựng, duy trì và đảm bảo bằng nền
tảng khoa học công nghệ tiên tiến với đội ngũ nhân lực dồi dào về số lượng, ưu tú
và vượt trội về chất lượng. Chính phủ Mỹ qua tất cả các nhiệm kỳ tổng thống luôn
xác định "Nhân lực là trung tâm của mọi sự phát triển", Chính phủ tập trung thực
thi với mức độ ưu tiên chiến lược đào tạo và thu hút nhân tài từ khắp các châu lục,
coi đó là chiến lược sống còn xuyên suốt lịch sử phát triển.
Mỹ đặc biệt coi trọng giáo dục đại học trong đào tạo, bồi dưỡng phát triển
nhân tài và thực hiện có hệ thống, được luật hóa. Mỹ thành lập hệ thống quản lý
nhân lực nhằm tuyển dụng, giữ chân và tôn vinh lực lượng lao động đẳng cấp thế
giới để phục vụ nhân dân Mỹ. Các nhà quản lý nhân sự Mỹ nhận thức: "Muốn 10
quản lý được nhân tài, trước hết nhà quản lý phải là người tài, có những suy nghĩ
vượt tầm so với thông thường".
Đất nước Trung Quốc cũng có chính sách đào tạo và thu hút nhân tài khiến
thế giới phải nể phục. Trong 60 năm qua, Trung Quốc từ một quốc gia nghèo đói
đã vươn lên trở thành cường quốc hàng đầu thế giới. Đạt được kết quả thần kỳ này
nhờ Trung Quốc thực hiện rất nhiều chính sách kinh tế, xã hội trọng điểm, trong đó
có chính sách đào tạo và thu hút nhân tài. Trung Quốc luôn quan tâm đến chất
lượng hơn là số lượng, thi vào đại học ở Trung Quốc được đánh giá khốc liệt nhất
thế giới. Trung Quốc cũng tích cực gửi sinh viên đi học ở các nước tiên tiến, đồng
thời có chính sách hấp dẫn để họ trở về nước. Số sinh viên Trung Quốc du học trở
về rất đông cho thấy mức độ thành công của chiến lược đào tạo nhân tài ở nước ngoài.
Bên cạnh chiến lược thu hút nhân tài người Hoa ở nước ngoài, Trung Quốc
cũng triển khai chiến lược thu hút nhân tài của thế giới đến Trung Quốc để nghiên
cứu khoa học. Cuối năm 2008, Trung Quốc đưa ra Kế hoạch 1.000 nhân tài nhằm
thu hút các nhà khoa học, nhà kinh tế, chiến lược gia hàng đầu thế giới đã có thành
tích nghiên cứu tại các nước Âu - Mỹ và Nhật với chế độ đãi ngộ tuyệt vời.
Trong khu vực Đông Nam Á, Singapore là quốc gia có chính sách thu hút
nhân tài nước ngoài bài bản, rõ ràng nhất thế giới. Chính phủ Singapore xác định
nhân tài là yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh và phát triển của đất nước.
Chính phủ Singapore đã tạo dựng niềm tin người tài luôn có vị trí cao với
mức lương tương xứng với giá trị chất xám, đồng thời chính phủ sẵn sàng chào đón
nhân tài ngoại vào bộ máy nhà nước. Cố Thủ tướng Lý Quang Diệu có quan điểm
rất rõ ràng: "Lãnh đạo giỏi là đầu tầu định hướng cho đất nước phát triển. Lãnh đạo
dốt sẽ ngáng chân những người giỏi, không cho họ ngồi vào những vị trí quan trọng". 11
Thứ sáu, giáo dục, đào tạo hướng tới nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhưng chuyển biến chậm
Chất lượng của hệ thống giáo dục và đào tạo đáng để nghiêm túc suy nghĩ.
Năm 2020, Ngân hàng Thế giới xếp hạng 1.000 trường đại học theo ba bảng xếp
hạng uy tín Webometrics, QS và THE, Việt Nam đứng cuối cùng, sau Philippines,
Indonesia, Malaysia và Thái Lan.
Tại mỗi bảng QS và THE, Việt Nam chỉ có hai trường góp mặt trong top
1.000 và không có trường nào được xếp hạng theo bảng Webbometrics. Trong khi
đó Thái Lan có 8, 5 và 6; Trung Quốc đứng đầu bảng xếp hạng khi có đến 40 đại
diện ở top 1.000 xếp theo QS, 63 đại diện xếp theo THE và 103 đại diện theo Webometrics.
Hoạt động nghiên cứu trong các đại học Việt Nam tụt hậu. Giai đoạn 2010-
2017, tỷ lệ nghiên cứu trên một triệu dân của Việt Nam tăng từ 23 lên 63, thấp hơn
mức 212 của Thái Lan và kém xa mức 4.813 của Thuỵ Sĩ, quốc gia đứng đầu danh
sách. Trong 10 năm 2008-2018, Việt Nam tăng từ vị trí 64 lên 45 về chỉ số đổi mới
toàn cầu nhưng vẫn đứng chót về hầu hết chỉ số khác.
Trong những năm vừa qua, hệ thống giáo dục Việt Nam có bước tiến quan
trọng trong đổi mới chương trình, lấy người học làm trung tâm. Đây là bước
chuyển theo hướng tiếp cận phát triển năng lực, phản ánh nỗ lực của Chính phủ
thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. 12
Hình 2. 3. Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã có nhiều cải thiện, song nguồn
nhân lực chất lượng cao vẫn còn thiếu, đặc biệt là nhân sự quản lý cấp cao
Thứ bảy, đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
Năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
chưa đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế; trách nhiệm công vụ còn kém, lề lối làm việc trì trệ, chậm đổi mới, đùn đẩy, né tránh.
Một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý chưa nâng cao tinh
thần trách nhiệm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, coi việc thực thi
công vụ, phục vụ nhân dân như là ban phát ân huệ.
3. Một số đề xuất nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong nền sản
xuất hàng hóa của Việt Nam 13
Đại hội Đảng lần thứ XIII thổi bùng ngọn lửa khát vọng một Việt Nam hùng
cường, phồn vinh, hạnh phúc. Để hiện thực hóa khát vọng cao quý và vinh quang
này trong bối cảnh thế giới có nhiều bất định, biến đổi khó lường, kinh tế Việt Nam
hội nhập sâu, rộng vào kinh tế toàn cầu, cơ hội và thách thức đan xen, nhưng khó
khăn thách thức nhiều hơn, đòi hỏi chúng ta phải khẩn trương xây dựng và phát
triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, hệ thống chính trị cần khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, bản lĩnh, đạo
đức, tài năng, phẩm chất của con người Việt Nam để thực sự trở thành sức mạnh
nội sinh, động lực phát triển đất nước.
Trên tinh thần đóng góp mang tính cầu thị, dựa trên nghiên cứu của bản
thân, tác giả xin đề xuất một số giải pháp khắc phục hạn chế của nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, về thể chế. Chính phủ cần khẩn trương cải cách thể chế, sửa đổi,
bổ sung và xóa bỏ những quy định cản trở, không còn phù hợp với quá trình phát
triển. Đặc biệt, Chính phủ cần khẩn trương cải cách nền quản trị quốc gia theo
quan điểm chuyên nghiệp hóa phải là linh hồn của những cải cách, các nguyên tắc,
chuẩn mực và quy trình mang tính kỹ trị nghiêm ngặt trong việc ban hành chính
sách và pháp luật. Các ưu tiên chính sách phải được xác lập trên cơ sở lợi ích quốc gia.
Thứ hai, về kinh tế. Chính phủ cần quán triệt quan điểm và mục tiêu nâng
cao năng lực, tính độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh với các nhóm giải pháp:
Cơ cấu lại nền kinh tế; sử dụng linh hoạt, hợp lý, hiệu quả các công cụ của
chính sách tài khóa, tiền tệ; củng cố ổn định vĩ mô, tăng khả năng chống chịu của
nền kinh tế với các biến động bên ngoài. 14
Nâng cao tính độc lập tự chủ, năng lực cạnh tranh của thương mại trong
nước và quốc tế; gia tăng sản xuất tiêu dùng trong nước, thúc đẩy xuất khẩu các
mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, đa dạng hóa đối tác thương mại và thị trường.
Chính phủ cần thực hiện Chiến lược xây dựng các nguồn lực vật chất thiết
yếu đảm bảo các cân đối lớn, đảm bảo an ninh năng lượng, lương thực, an ninh tài
chính tiền tệ để tạo dựng độc lập, tự chủ về tiềm lực kinh tế. Đối với an ninh năng
lượng, thực hiện chương trình chuyển đổi từ năng lượng sử dụng than, năng lượng
hóa thạch sang năng lượng tái tạo và năng lượng xanh.
Tái cơ cấu, nâng cao năng lực, tính độc lập tự chủ trong đầu tư, cải thiện thể
chế đầu tư; đẩy nhanh tiến độ thực hiện, nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư; sàng
lọc, rà soát kỹ, tăng chất lượng dòng vốn đầu tư nước ngoài; giám sát các hoạt
động mua bán sáp nhập để doanh nghiệp Việt không bị nước ngoài thôn tính.
Công nghệ luôn là phương thức và công cụ mạnh nhất để xây dựng một xã
hội thịnh vượng vượt trội trong mọi thời đại. Chính phủ cần thực thi chính sách
phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; ứng dụng công nghệ
số, trí tuệ nhân tạo trong quản trị xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống. Thực
hiện chính sách tài khóa, tiền tệ đột phá thúc đẩy áp dụng công nghệ tiên tiến, đổi
mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất lao động doanh nghiệp và xã hội.
Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và gia công cơ khí để từng bước tự
chủ nguồn nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước, từ đó nâng cao giá trị gia
tăng, sức cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp Việt. Phát triển công nghiệp hỗ
trợ là giải pháp quan trọng để Việt Nam tham gia sâu, trở thành mắt xích không thể
thiếu, khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, hấp thu khoa học, công
nghệ, trình độ kỹ thuật, quản trị tiên tiến từ các doanh nghiệp FDI. Đồng thời,
Chính phủ có chính sách ưu đãi, đầu tư phát triển các ngành công nghiệp sản xuất
nguyên vật liệu gốc, hạn chế nhập nguyên vật liệu về làm gia công, nâng cao năng
lực tự chủ. Cần có kế hoạch tập trung đầu tư cho các ngành mũi nhọn trọng điểm 15
của quốc gia như công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm, thông tin vệ
tinh, số hóa, năng lượng mới, vật liệu mới nano, công nghệ sinh học và sự tích hợp giữa chúng.
Đổi mới cơ chế và chính sách để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ của doanh nghiệp, chú trọng cơ chế về tài chính, thuế nhằm khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư cho lĩnh vực đổi mới công nghệ nhất là đối với công nghệ
thông tin và công nghệ tiên tiến khác. Tận dụng tiềm năng tri thức, kinh nghiệm
chuyển giao công nghệ mới của lực lượng Việt kiều ở nước ngoài.
Để tận dụng cơ hội và khắc phục thách thức khó khăn dưới tác động cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao
nhận thức, tuyên truyền thông tin về bản chất xu hướng phát triển và tác động của
cuộc cách mạng này trong hệ thống giáo dục - đào tạo, những thời cơ thách thức
đặt ra để định hướng dư luận từ các cơ quan của Chính phủ, Bộ ngành đến các tổ
chức, doanh nghiệp và người dân có nhận thức đẩy đủ và đúng đắn vể Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trong Chương trình hành động của Chính phủ ngoài việc quyết tâm chính
trị, nắm bắt thời cơ, cần chú trọng các yếu tố về đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực, cần đầu tư đồng bộ, tập trung phát triển hạ tầng công nghệ thông tin là yêu cầu
mang tính nền tảng. Bên cạnh đó thực hiện đổi mới giáo dục, đào tạo dậy nghề
trong hệ thống các trường đào tạo nghề theo hướng phát triển nguồn nhân lực,
chuyển đổi nghề nghiệp có kỹ năng phù hợp, có thể tiếp thu làm chủ và khai thác
vận hành hiệu quả những tiến bộ công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ ba, về nguồn nhân lực. Con người là chủ thể, trung tâm, động lực thực
hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Chính phủ cần hoàn thiện thể
chế, chính sách đồng bộ, thống nhất nhằm tạo dựng và nâng cao hiệu quả vận hành 16
thị trường lao động linh hoạt, hội nhập và bền vững đáp ứng nhu cầu lao động của
doanh nghiệp, xu hướng chuyển đổi chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, đảm bảo
khả năng cung ứng lao động cho chuyển dịch đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Cần chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao với các trọng tâm sau đây:
Một là, cần tiếp tục củng cố và tăng cường, bảo đảm các yếu tố cơ bản nền
móng và đổi mới tư duy về phát triển giáo dục, đào tạo trong tổng thể chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước. Cần đổi
mới định hướng và chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo tại Việt Nam trong bối
cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự hình thành nền kinh tế số.
Muốn vậy, về mặt nhận thức quan điểm phải thực sự coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu, từ đó xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp, với lộ trình, bước đi hợp
lý, khoa học. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi với hành, lý luận
gắn với thực tiễn. Mục tiêu là đào tạo đội ngũ lao động chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước; cụ thể là chuyển từ biệt lập, tự phát
về số lượng sang chất lượng, có kết nối giữa đào tạo và sử dụng lao động, từ cách
đào tạo làm cho người học thụ động sang chủ động sáng tạo, không ngại đương
đầu với những khó khăn, thách thức trong sự phát triển mạnh của khoa học công
nghệ, thông tin, truyền thông và hội nhập quốc tế.Phát triển giáo dục và đào tạo
phải gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường
lao động. Thực hiện mục tiêu trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, phấn đấu đến
năm 2030, nền giáo dục của Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Hai là, Nhà nước cần kịp thời bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý tạo môi
trường thuận lợi để phát triển nguồn nhân lực, khuyến khích phát triển thị trường
nguồn nhân lực chất lượng cao; thị trường sản phẩm khoa học công nghệ phải phản
ánh đầy đủ quan hệ cung - cầu, qua đó, làm căn cứ hoạch định chiến lược và chính 17
sách trọng tâm, trọng điểm phù hợp cho sự phát triển lâu dài của đất nước; đồng
thời, cần có chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp,
đổi mới sáng tạo trong các trường đại học đào tạo về khoa học, kỹ thuật và công
nghệ; Gắn kết chặt chẽ giữa các vườn ươm khởi nghiệp với các trường đại học và
các doanh nghiệp, các khu kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao.
Ba là, cần phát triển mô hình giáo dục đại học 4.0. Đây là mô hình giáo dục
thông minh, liên kết giữa nhà trường với nhà quản lý và doanh nghiệp. Cho nên,
các cơ sở giáo dục đại học cần tăng cường liên kết với các doanh nghiệp, các
trường đại học quốc tế để xây dựng các phòng thí nghiệm đủ tiêu chuẩn với các
thiệt bị, kỹ thuật hiện đại của một số ngành kinh tế mũi nhọn trọng điểm mà nước
ta có ưu thế theo hình thức hợp tác công – tư; xây dựng mô hình giáo dục 4.0 theo
kịp với xu hướng công nghệ hiện đại trong sự hình thành nền kinh tế số. Nghiên
cứu và phát triển là chìa khoá quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội;
cần gắn kết chặt chẽ có hiệu quả giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất, giữa sản
xuất với nghiên cứu khoa học trong quá trình tạo ra các sản phẩm phục vụ thiết
thực cho cuộc sống của con người và xã hội.
Bốn là, các trường đại học cần tập trung xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ
nghiên cứu có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, nhất là tiếng anh; cần có chính
sách thu hút cán bộ giỏi, có trình độ kỹ thuật cao, các chuyên gia trong và ngoài
nước hợp tác với nhà trường. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp
học và trình độ đào tạo. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu
cầu đổi mới và giáo dục đào tạo. Đổi mới cơ chế quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa
học, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và
đào tạo lại đội ngũ giảng viên là khâu then chốt có ý nghĩa quyết định đối với nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo của đất nước trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 18
Năm là, cần đổi mới chương trình, nội dung giáo dục theo hướng tinh giản,
hiện đại, phù hợp với mọi lứa tuổi, trình độ, ngành nghề, theo hướng coi trọng phát
triển phẩm chất, năng lực của người học. Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân
theo hướng hệ thống giáo dục mở, phải học tập suốt đời và xây dựng xã hội học
tập. Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, đảm bảo dân chủ thống
nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi
trọng quản lý chất lượng. Đối với các nội dung, chương trình đào tạo về lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn cần sử dụng các công nghệ thông tin, truyền thông
hiện đại để làm sáng tỏ thêm những kiến thức khoa học cơ bản về quy luật phát
triển của xã hội, về mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên, con người và xã hội
trong sự phát triển của nhân loại phù hợp với xu hướng của thời đại mới. Tăng
cường và đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, nghiên cứu về khoa học Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về lịch sử, văn hoá dân tộc, con người Việt Nam gắn
liền với thực tiễn của cách mạng công nghiệp 4.0 và công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước và chủ động hội nhập quốc tế, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt, trong các loại trường đại học (nghiên cứu, ứng dụng và thực hành)
thì trường đại học nghiên cứu có vai trò đặc biệt trong việc duy trì sự ưu tú, tạo ra
những kiến thức mới, ý tưởng mới, sáng tạo mới nhằm dẫn dắt tiến bộ xã hội cũng
như thúc đẩy sự giàu mạnh của quốc gia. Các trường đại học “tinh hoa mới” là
cách nói khác của các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của mỗi quốc gia, đào
tạo nguồn nhân lực tài năng, chất lượng cao, nghiên cứu khoa học đỉnh cao, đóng
vai trò hoa tiêu, dẫn đầu, tiên phong và trụ cột của nền giáo dục đại học của đất
nước hội nhập và cạnh tranh, phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Thứ tư, về hợp tác quốc tế. Chính phủ cần tăng cường và phát triển hợp tác
kinh tế, công nghệ với các nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới và hợp tác Nam 19
- Nam giữa các nước đang phát triển là giải pháp quan trọng, cần thiết đảm bảo độc lập kinh tế.
Chính phủ cần thúc đẩy các hình thức hợp tác phát triển hiệu quả thông qua
học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm và những bài học thực tiễn có giá trị; phát triển và áp
dụng những công nghệ thích hợp giữa các nước đang phát triển; mở rộng thương
mại, đầu tư, chia sẻ kiến thức và hợp tác kỹ thuật; đồng thời cung cấp các giải pháp
cụ thể với những thách thức phát triển chung của toàn cầu.
Với tiềm năng rất lớn về con người, kinh tế và công nghệ, các nước đang
phát triển cần mở rộng, đẩy mạnh hợp tác, trao đổi kinh tế và công nghệ trên
nguyên tắc độc lập, tự chủ tập thể. Một khi tranh thủ và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực này, các nước đang phát triển sẽ phát triển nhanh hơn, tăng tốc hơn
trong xây dựng kinh tế quốc gia độc lập và phát triển thịnh vượng chung. 20 KẾT LUẬN
Thực hiện khát vọng một Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc trong
bối cảnh thế giới thay đổi sâu sắc, toàn diện với nhiều bất định; khi chúng ta kết
hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ,
chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối đa
nội lực, tranh thủ ngoại lực, đặc biệt phát huy tối đa nguồn lực nội sinh, quan trọng
nhất là nguồn lực con người để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; khi lãnh đạo
các cấp và mỗi người dân luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, linh hoạt, sáng tạo,
kiên cường vượt khó, luôn đau đáu mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ;
cùng với sự chỉ đạo kịp thời của Đảng; điều hành chủ động, linh hoạt, thực hiện
đồng thời và hiệu quả các giải pháp của Chính phủ; sự đồng hành trách nhiệm của
Quốc hội, Việt Nam sẽ xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ đưa đất
nước sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới trong vài thập niên tới. 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2015, Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin.
2. PGS.TS Ngô Đăng Tri, 2017, Sự bổ sung, phát triển đường lối đổi mới của
Đảng trong thời kỳ đổi mới (1986-2016), Website Đại học Khoa học Xã hội &
Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. NĐT – PHM, 2021, Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản đương đại những
giới hạn không thể vượt qua, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Nguyễn Bích Lâm, 2023, Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, thổi bùng khát
vọng Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, Cổng thông tin điện tử chính phủ 22