








Preview text:
  lOMoAR cPSD| 47886956 
SEMINAR – LUẬT HIẾN PHÁP 2  
Họ tên:Mai Đặng Minh Nhật  Lớp : QN27.01 
Mã sinh viên: 2722150951 
Câu 1: Theo anh chị, tại sao từ "Kiểm soát" được bổ sung vào 
khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013? 
Vấn đề kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện 
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được thể hiện như thế nào 
trong Hiến pháp năm 2013?  Trả lời 
 Kế thừa và phát triển những giá trị cốt lõi từ các bản Hiến pháp 
trước, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện chủ quyền của Nhân dân ở một 
tầm khái quát mới, sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Điều 2 Hiến pháp 2013 đã 
bổ sung quy định quan trọng đó là có sự “kiểm soát giữa các cơ quan 
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. 
Có thể thấy, với quy định mang tính nguyên tắc này, Hiến pháp 2013 đã 
có sự kế thừa về bản chất và mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy trong 
Hiến pháp 1992, đồng thời một lần nữa khẳng định tầm quan trọng hơn 
bao giờ hết của việc kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay. Kiểm soát 
quyền lực nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ quốc 
gia nào trên thế giới nhằm đảm bảo cho việc tổ chức, thực hiện quyền 
lực nhà nước hoạt động đúng mục đích, hiệu quả, vì lợi ích của Nhân 
dân. Nếu việc kiểm soát quyền lực nhà nước không được thực hiện tốt 
thì quốc gia đó sẽ khó có thể phát triển một cách ổn định và bền vững.      lOMoAR cPSD| 47886956   
Về kiểm soát quyền lập pháp 
 Trong các bản Hiến pháp trước cũng như Hiến pháp 2013, chưa có 
quy định nào về kiểm soát quyền lập pháp của Quốc hội và không xác 
định một cơ quan chuyên trách nào kiểm soát việc thực hiện quyền lực 
của Quốc hội. Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định “ Quốc hội là cơ quan 
đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất 
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Với việc quy định này, 
có người sẽ cho rằng Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nên Quốc 
hội cao hơn Chính phủ và Tòa án Nhân dân tối cao, tức là quyền lập 
pháp sẽ cao hơn quyền hành pháp và quyền tư pháp. Nếu hiểu như vậy là 
hiểu chưa đúng tinh thần của Hiến pháp 2013. Tại khoản 3 Điều 2 Hiến 
pháp 2013 quy định “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân 
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực 
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Trong Nhà nước pháp 
quyền XHCN, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Quốc hội là 
thiết chế do Nhân dân bầu ra, các cơ quan và cá nhân đứng đầu các 
quyền hành pháp và tư pháp do Quốc hội bầu ra. Vì thế, Quốc hội được 
coi như là thiết chế trung tâm, có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy  nhà nước. 
 Bên cạnh đó, Hiến pháp 2013 đã trao quyền chủ động và độc lập hơn 
cho các cơ quan nhà nước, đặc biệt là Chính phủ trong thực hiện quyền 
lập pháp. Hiến pháp 2013 đã quy định Chính phủ có quyền chủ động xây 
dựng kế hoạch trình dự án, thực hiện quyền trình các dự án luật thì 
Chính phủ cũng có thể rút lại các dự án đó trong trường hợp do luật 
định. Trong quá trình làm luật của Quốc hội, Chính phủ tổ chức triển 
khai, tiếp nhận các phản hồi và thảo luận để hoàn thiện các dự án luật. 
Mặc dù, Quốc hội có quyền đề xuất và quyết định các sửa đổi dự án luật 
theo đệ trình của Chính phủ nhưng Chính phủ có quyền thảo luận các đề 
xuất, ý kiến của Quốc hội để các dự án luật có tính khả thi khi áp dụng. 
Do vậy, trong quá trình đề xuất, xây dựng dự án luật, cần đề cao trách 
nhiệm của Chính phủ trong việc tham vấn Quốc hội cũng như nâng cao 
hiệu quả giám sát của Quốc hội nhằm bảo đảm chất lượng của các dự án        lOMoAR cPSD| 47886956 
luật. Thực tế ở Việt Nam cho thấy, việc kiểm soát hoạt động lập pháp 
chỉ mang tính một chiều. Mặc dù quá trình xây dựng dự án luật có rất 
nhiều chủ thể tham gia nhưng có thể thấy cơ bản là do Chính phủ chủ trì 
thực hiện, vì thế chất lượng của các dự án luật phụ thuộc rất nhiều vào 
chất lượng hoạt động của Chính phủ. 
 Ngoài ra, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp 
2013 có quy định về ủy quyền lập pháp. Theo đó, Điều 100 Hiến pháp 
2013 quy định “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Trưởng, Thủ 
trưởng các cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện 
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và 
xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”. Thực tế, trong 
thời gian vừa qua, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật gặp rất 
nhiều bất cập, thậm chí có một số văn bản có dấu hiệu vi hiến. Do vậy, 
để đảm bảo cho Chính phủ thực thi lập pháp ủy quyền, tránh lạm quyền 
trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Quốc hội cần tăng 
cường giám sát nhằm đảm bảo cơ chế về ủy quyền lập pháp được thực  hiện hiệu quả. 
Về kiểm soát quyền hành pháp 
 Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện 
quyền hành pháp. Theo đó, Chính phủ có quyền ban hành các chính 
sách, văn bản độc lập để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Mặc 
dù Chính phủ là do cơ quan quyền lực nhà nước lập ra nhưng không có 
nghĩa rằng quyền hành pháp là quyền tái sinh từ cơ quan quyền lực. 
Quyền hành pháp là một trong ba nhánh quyền lực tạo nên sự thống nhất 
của quyền lực nhà nước nhưng trong quá trình thực thi quyền lực, quyền 
hành pháp của Chính phủ luôn phải chịu sự kiểm soát, giám sát tối cao 
của Quốc hội. Tính chất quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội xuất 
phát từ tính chất trực tiếp đại diện cao nhất cho ý chí, nguyện vọng và lợi 
ích của toàn dân. Điều này được Hiến định trong các nội dung sau: Quốc 
hội “xét báo cáo công tác của Chính phủ”, “quy định tổ chức và hoạt 
động của Chính phủ”, “bãi bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính 
phủ trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội”. Còn 
Chính phủ “chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước 
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội”. So với quyền lập pháp và      lOMoAR cPSD| 47886956 
quyền tư pháp, thì quyền hành pháp có đặc trưng cơ bản là “hành động 
để đưa pháp luật vào cuộc sống”. “Hành động” này chính là việc Chính 
phủ đề xuất chính sách, pháp luật để Quốc hội phê chuẩn, thông qua. Từ 
đó Chính phủ lại tổ chức triển khai chính sách, pháp luật đó. Vì vậy, 
Chính phủ luôn là chủ thể chính bảo đảm hiệu quả hoạt động của các 
nhánh quyền lực trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Trong việc thực hiện 
quyền hành pháp, mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ còn được 
thể hiện ở quyền quyết định và hoạch định chính sách. Theo đó, Quốc 
hội quyết định những chính sách dài hạn, mang tầm định hướng quốc 
gia, còn Chính phủ quyết định những chính sách ngắn hạn, mang tính 
chất điều hành các mặt kinh tế, xã hội của đất nước. Khoản 2 Điều 96 
Hiến pháp 2013 một lần nữa đã khẳng định vai trò hoạch định chính 
sách của Chính phủ “Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy 
ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền 
để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn…” . 
 Bên cạnh đó, cơ chế kiểm soát quyền lực trong việc thực hiện quyền 
hành pháp còn thể hiện thông qua việc Quốc hội tham gia vào việc quy 
định tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Quốc hội có quyền bầu, bãi 
nhiệm, miễm nhiệm Thủ tướng chính phủ, có quyền phê chuẩn việc bổ 
nhiệm, miễm nhiệm, cách chức các Phó thủ tướng, các bộ trưởng… 
Về kiểm soát quyền tư pháp 
 Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét 
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư 
pháp”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta quy định 
trong toàn hệ thống chính trị, Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng 
xét xử và thực hiện quyền tư pháp, tức là có chức năng xét xử các vụ án, 
giải quyết các việc có tranh chấp theo thẩm quyền quy định. Hiến pháp 
2013 quy định cơ chế kiểm soát quyền tư pháp từ phía cơ quan lập 
pháp, thể hiện qua việc Quốc hội có quyền bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm 
đối với các chức danh Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, lấy phiếu tín 
nhiệm, miễn nhiệm đối với các chức danh do mình bầu, như Chánh án 
Toàn án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tuy 
nhiên, việc kiểm soát quyền lực này chủ yếu mang tính một chiều giữa        lOMoAR cPSD| 47886956 
cơ quan quyền lực nhà nước với cơ quan tư pháp mà hầu như chưa có 
chiều kiểm soát ngược lại. 
 Cơ chế kiểm soát thứ hai đối với kiểm soát quyền tư pháp là từ phía 
Chủ tịch Nước. Khoản 7 Điều 70 và khoản 3 Điều 88 Hiến pháp 2013 thì 
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tich nước bổ nhiệm, miễn 
nhiệm và cách chức theo phê chuẩn của Quốc hội. Thẩm phán các cấp 
khác do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn 
và giám sát Thẩm phán quốc gia. Quy định này thể hiện nguyên tắc tổ 
chức bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền, nâng cao vị thế của 
cơ quan tư pháp với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp; đảm bảo 
nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan 
nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. 
 Với vai trò là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án nhân dân thực 
hiện chức năng kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp 
theo nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định. Theo đó, Tòa án nhân dân thực 
hiện quyền sáng kiến lập pháp; kiến nghị sửa đổi, bổ sung luật nếu thông 
qua hoạt động xét xử thấy văn bản luật trái Hiến pháp, mâu thuẫn với 
luật khác hoặc không phù hợp với thực tiễn. Ngoài ra, Tòa án nhân dân 
có thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính đối với các hành vi hành 
chính, quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước; các 
phán quyết về các vi phạm quyền con người… 
 Ở nước ta, quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều bắt nguồn từ 
Nhân dân. Cả ba quyền này tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau 
nhưng đều là những yếu tố tạo nên sự thống nhất của quyền lực nhà 
nước. Hiến pháp 2013 ra đời là một bước tiến quan trọng trong việc 
hoàn thiện bộ máy nhà nước, tạo dựng cơ chế phân công, phối hợp và 
kiểm soát quyền lực, bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả. 
Câu 2: Anh chị hãy cho biết các nhận định sau đây đúng hay sai?  
Giải thích tại sao?  1 
– Theo quy định của pháp luật hiện hành, Ủy ban thường vụ 
Quốc hội chỉ có quyền đình chỉ thi hành, không có quyền bãi bỏ 
các văn bản trái pháp luật của Chính phủ.      lOMoAR cPSD| 47886956  2 
– Theo quy định của pháp luật hiện hành, Thủ tướng Chính 
phủ có quyền bổ nhiệm, điều động, đình chỉ công tác, cách chức 
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Trả lời  1 
– Theo quy định của pháp luật hiện hành, Ủy ban thường vụ 
Quốc hội chỉ có quyền đình chỉ thi hành, không có quyền bãi bỏ 
các văn bản trái pháp luật của Chính phủ. 
• Nhận định này là sai 
• Theo Khoản 4 Điều 74 Hiến pháp 2013 quy định 
• Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội có quyền đình chỉ việc thi hành 
văn bản của Chính phủ và quyền bãi bỏ các văn bản đó nếu xét 
thấy nó trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội. 
 Các loại văn bản đó không phải trái với Pháp luật mà là trái với Hiến 
pháp, Luật và Nghị quyết. 
 Luật : là văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội ban hành 
 Pháp luật: là những nguyên tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do 
NN ban hành và nhìn nhận, được NN đảm bảo quyền thực hiện, gồm 3 
hình thức văn bản chính: văn bản quy phạm pháp luật, tiền lệ pháp và  tập quán pháp.  2 
– Theo quy định của pháp luật hiện hành, Thủ tướng Chính 
phủ có quyền bổ nhiệm, điều động, đình chỉ công tác, cách chức 
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh 
• Nhận định này là sai 
• Vì quyền này thuộc về Uỷ ban nhân dân cấp trên, tức là Uỷ ban 
nhân dân cấp trung ương hoặc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trực  tiếp. 
• Thủ tướng Chính phủ có trách nhiệm chỉ đạo và điều hành các 
hoạt động của Chính phủ, đồng thời có quyền bổ nhiệm, điều 
động và đình chỉ công tác cán bộ, công chức trong hệ thống hành 
chính nhà nước. Tuy nhiên, trong trường hợp cách chức Chủ tịch        lOMoAR cPSD| 47886956 
và Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, quyền này thuộc về 
Uỷ ban nhân dân cấp trên theo quy định của pháp luật hiện hành. 
Câu 3: Anh (Chị) hãy trình bày mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa 
Tòa án nhân dân cùng cấp và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp theo 
quy định của pháp luật hiện hành.  Trả lời 
 Trong hoạt động tư pháp, Tòa án nhân dân và Việm kiếm sát nhân 
dân vừa có mối quan hệ phối hợp, vừa có mối quan hệ ức chế lẫn nhau 
• Mối quan hệ phối hợp giữa tòa án và Viện kiểm sát nhân dân: 
 Tòa án nhân dân và Việm kiếm sát nhân dân đều có chung nhiệm vụ 
là đấu tranh, phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã 
hội và cùng có trách nhiệm là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện 
điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, không để lọt tội phạm và không 
làm oan người vô tội, tôn trọng quyền và lợi ích của công dân, bảo vệ 
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính từ mục đích chung đó đã hình thành 
nên mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Toà án. Mối quan hệ 
phối hợp đó cơ bản là quan hệ giữa chức năng xét xử và chức năng buộc 
tội. Bản thân hai chức năng này có quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau. 
Không thể xét xử nếu không có sự buộc tội, hay nói cách khác, ở đâu có 
buộc tội, thì ở đó phát sinh hoạt động xét xử và bào chữa. Nếu Viện 
kiểm sát làm tốt chức năng buộc tội thì hỗ trợ đắc lực cho chức năng xét 
xử và ngược lại thì tác dụng không tốt. Ngay từ khi thu thập chứng cứ, 
đánh giá chứng cứ nhằm xác định tội trạng và khung hình phạt truy tố, 
cũng như thủ tục tố tụng được tiến hành chặt chẽ đặt nền móng cho Toà 
án thực hiện hiệu quả hoạt động tố tụng. Tại phiên toà, nếu kiểm sát viên 
làm tốt vai trò công tố nhà nước thì tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động 
xét xử. Ngược lại Toà án thực hiện chức năng xét xử đúng đắn tạo điều 
kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố nhà nước và 
kiểm sát hoạt động tư pháp. 
 Cơ sở của sự phối hợp là chỉ khi xảy ra việc giải quyết vụ án hình sự 
và dựa trên các nguyên tắc cơ bản Bộ luật Tố tụng hình sự đã định, trong 
đó là nguyên tắc xác định sự thật vụ án và nguyên tắc phối hợp giữa các      lOMoAR cPSD| 47886956 
cơ quan tố tụng hình sự với các cơ quan, tổ chức nhà nước. Bên cạnh đó 
quan hệ phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự còn 
xuất phát từ yêu cầu phải thực hiện đúng đắn thẩm quyền của người tiến 
hành tố tụng; việc thực hiện các quy định của pháp luật do có sự bất cập, 
chưa hoàn thiện, do đó đòi hỏi có sự phối hợp hoạt động để đạt hiệu quả 
trong hoạt động tố tụng và áp dụng thống nhất căn cứpháp luật, tránh 
oan sai, bỏ lọt tội phạm. 
• Mối quan hệ chế ước giữa Tòa án và Viện kiểm sát: 
 Sự tác động qua lại của hai chủ thể (Tòa án nhân dân và Viện kiểm 
sát nhân dân) trong những điều kiện nhất định giúp cho việc thực thi 
công vụ đúng đắn, tránh lạm quyền; tránh sai sót, vi phạm pháp luật dẫn 
đến việc xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nhà nước và  xã hội. 
 Quan hệ chế ước giữa các chủ thể đó thể hiện ở chỗ: Khi Viện kiểm 
sát là cơ quan có độc quyền truy tố một người ra toà nhưng việc kết tội 
lại thuộc về Toà án. Tại phiên toà xét xử nhân danh nhà nước thực hành 
quyền công tố, nhưng kiểm sát viên chỉ đưa ra ý kiến đề xuất quan điểm 
giải quyết vụ án còn quyết định về tội trạng, mức hình phạtvẫn là hội 
đồng xét xử. Nhưng mọi hoạt động xét xử của Toà án phải đảm bảo 
đúng yêu cầu là có truy tố về hành vi về con người thì mới được xét xử. 
Toà án không thể tuỳ tiện làm trái thủ tục tố tụng, do đó pháp luật quy 
định Viện kiểm sát ngoài chức năng công tố còn có chức năng kiểm sát 
hoạt động tư pháp, đó là giám sát việc tuân thủ của hội đồng xét xử tại 
phiên toà, cũng như giám sát hoạt động tố tụng của người có thẩm 
quyền. Trong trường hợp vi phạm thủ tục tố tụng tại phiên toà thì kiểm 
sát viên có quyền ý kiến trực tiếp. 
 Như vậy có thể thấy, dù Toà án có quyền độc lập trong việc phán 
quyết, tuy nhiên nếu trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị, 
kháng nghị để đảm bảo cho việc chấp hành pháp luật của Toà án. Pháp 
luật nước ta còn quy định, nếu kiến nghị của Viện kiểm sát không được 
Toà án tiếp thu, thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Toà án cấp trên và        lOMoAR cPSD| 47886956 
báo cáo Viện kiểm sát cấp trên để kiến nghị được đảm bảo thực hiện. 
Qua hoạt động giám sát của Viện kiểm sát còn giúp cho Toà án tránh 
được những sai sót, vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế. 
 Về bản chất của mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát là phối 
hợp, chế ước nhưng không làm mất đi tính độc lập trong thực thi chức 
năng mỗi ngành và phối hợp nhưng không bao biện lẫn nhau. Chúng tôi 
tán thành nhận định rằng: “Ở giai đoạn xét xử, tuy Toà án (hoặc hội 
đồng xét xử) là cơ quan giữ vai trò chỉ đạo việc xét xử, là cơ quan quyết 
định quá trình xét xử, nhưng Viện kiểm sát và Toà án lại hoàn toàn độc 
lập với nhau. Mỗi cơ quan tự chịu trách nhiệm về công việc của mình. 
Toà án không làm thay hay can thiệp vào công việc của Viện kiểm sát 
(kiểm sát viên) và ngược lại, Viện kiểm sát cũng không can thiệp vào 
công việc xét xử của Toà án, mặc dù Viện kiểm sát có quyền và trách 
nhiệm kiểm sát hoạt động xét xử của Toà án”. 
 Trong quan hệ phối hợp cơ bản là để giải quyết những vướng mắc, 
bất cập trong hoạt động tố tụng hình sự. Trong quan hệ chế ước, cơ bản 
là nhằm tránh lạm quyền trong thực hiện chức năng tiến hành tố tụng đối 
với Toà án và Viện kiểm sát. Trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, 
thì mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát cần được xây dựng theo 
hướng phối hợp, chế ước nhưng phải đảm bảo tính độc lập của người 
tiến hành và trên cơ sở đảm bảo thực hiện đúng chức năng xét xử của 
Toà án và tăng cường yếu tố tranh tụng.