Sinh lý học con người - Môn sinh lý | Đại học Y dược Cần Thơ

Đại học Y dược Cần Thơ với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và học tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.­­­

Sinh lý học con
người
Sinh lý học con người là một khoa học
nghiên cứu về các chức năng sinh học, lý
học và hóa sinh học của hay cácngười
cơ quan hoặc bộ phận của cơ thể người.
Định hướng cơ bản của là ởsinh lý học
mức các cơ quan hay các hệ thống trong
cơ thể người. Phần lớn các khía cạnh của
sinh lý học con người là tương đối gần
gũi với các lĩnh vực tương ứng của sinh lý
học , vì thế các động vật thực nghiệm trên
động vật đã cung cấp nhiều nền tảng cho
các kiến thức của ngành khoa học này.
Sinh lý học con người là một trong những
khoa học cơ bản để nghiên cứu , vày học
vì thế nó được áp dụng trong thực tế như
.chăm sóc y tế
Nhiều thay đổi sinh lý học (chẳng hạn
lượng (đường) trong máu, nhiệtglucose
độ cơ thể, độ của máu v.v) cần phảipH
duy trì ở một phạm vi thay đổi hẹp để
đảm bảo có sức khỏe tốt. Một chủ đề
quan trọng trong sinh lý học là sự điều
bình ( ), nó duy trì môi trườnghomeostasis
bên trong ổn định không phụ thuộc vào
các thay đổi bên ngoài. Thực vậy, các
chức năng cơ bản của nhiều bộ phận cơ
thể là duy trì tình trạng điều bình. Ví dụ,
hệ bài tiết giúp cho việc kiểm soát mức
độ chứa nước trong cơ thể cũng như là
độ pH của máu và hàng loạt các chất thải
khác, đảm bảo cung cấp ổnhệ tuần hoàn
định và các chất dinh dưỡng tới cácoxy
tế bào và loại bỏ các chất thải.
Theo truyền thống, các ngành học kinh
điển của sinh lý học xem xét cơ thể như
là một tập hợp của các hệ thống tương
tác, mỗi một hệ thống có các tổ hợp của
các chức năng và mục đích khác nhau.
Não người
Hệ thần kinh bao gồm hệ thần kinh
trung ương tủy (nó bao gồm não
sống) và . Nãohệ thần kinh ngoại biên
là cơ quan của các quá trình ý thức,
cảm xúc và cảm giác, và nó phục vụ
như là đường truyền thông tin và kiểm
soát các hệ thống và các chức năng
khác. Việc nghiên cứu về hệ thần kinh
được gọi chung là ;khoa học thần kinh
với định hướng vào nghiên cứu các loại
bệnh tật thần kinh, thì nó được gọi là
học. Một nhánh của y học dự báo, chữa
trị và nghiên cứu các bệnh thuộc về
thần kinh cũng như các trạng thái hành
vi, được gọi là .tâm thần học
Các đặc biệt bao gồm giác quan thị
giác, , .thính giác vị giác khứu giác
Mắt tai lưỡi mũi, , thu thập các
thông tin về môi trường xung quanh
cơ thể. Việc nghiên cứu về thị giác
và mắt được gọi là , trong khimắt học
việc nghiên cứu về thính giác, vị giác
và khứu giác được gọi là tai mũi
họng học.
Hệ vận động bao gồm bộ xương người
(nó bao gồm các , , xương dây chằng gân
) và các bám vào. Nó giữ chosụn
cơ thể có cấu trúc cơ bản và khả năng
chuyển động. Bổ sung thêm cho vai trò
giữ cấu trúc của chúng thì các xương
lớn trong cơ thể chứa , làtủy xương
một hệ thống sản xuất các máu.tế bào
Ngoaoài ra, tất cả các xương là kho
chứa chính của và các muốicalci
phosphat. Việc nghiên cứu về xương
được gọi là ; với định hướngxương học
về các rối loạn của xương gọi là chỉnh
hình học.
Hệ tuần hoàn bao gồm và cáctim
mạch máu ( , ,động mạch tĩnh mạch
mao mạch) để chuyên chở máu. Tim là
cơ quan tạo áp suất để luân chuyển
máu oxy, phục vụ việc chuyên chở , các
chất dinh dưỡng tạo năng lượng tới các
tế bào, các tế bào miễn dịch, các chất
thải và các phân tử thông tin (ví dụ
hoóc môn) từ phần này tới phần khác
của cơ thể. Việc nghiên cứu về hệ tuần
hoàn được gọi là sinh lý học ;tim mạch
với định hướng về các bệnh tim mạch
thì gọi là .bệnh tim học
Tế bào hồng cầu
Máu là một chất lỏng chứa các tế
bào trong tuần hoàn, bao gồm một
số chuyển động từ các mô tới mạch
máu và ngược lại, cũng như tỳ tủy
xương hồng. Các tế bào bao gồm
cầu chuyên chở oxy, làmbạch cầu
trung gian trong các phản ứng của
cơ thể đối với các bệnh nhiễm trùng
và các vật thể lạ, vớitiểu huyết cầu
các bổ sung cóprotein huyết tương
tác dụng làm kín miệng và làm lành
vết thương. Nghiên cứu về máu gọi
.huyết học
Hệ tiêu hóa
Hệ tiêu hóa bao gồm , ,miệng thực quản
dạ dày ruột non ruột già trực, ruột ( ),
tràng gan mật, cũng như là , , lá lách
tuyến nước bọt. Chúng chuyển hóa
thức ăn thành các phân tử nhỏ, có giá
trị dinh dưỡng và không độc hại và
được phân phối nhờ hệ tuần hoàn tới
các mô trong cơ thể, cũng như thải các
chất không tiêu hóa được ra khỏi cơ
thể. Nghiên cứu về hệ tiêu hóa được
gọi là .tiêu hóa học
Quan hệ của tim
(từ cuốnphổi
sách cổ Giải
phẫu học Gray)
Hệ hô hấp bao gồm , , mũi họng khí quản
. Chúng mang oxy từ phổi không khí
vào cơ thể, thải (CO )cacbon dioxide
2
ra ngoài không khí. Nghiênnước
cứu về hệ thống này gọi là sinh lý học
hô hấp. Khoa học nghiên cứu về bệnh
lý của hệ thống này gọi là .phổi học
Hệ bài tiết bao gồm , ,thận niệu quản
bàng quang niệu đạo . Chúng lấy
nước từ máu để sản xuất , lànước tiểu
hỗn hợp của các phân tử bị thải ra
cũng như các dư thừa và nước raion
ngoài cơ thể. Nghiên cứu về chức năng
của hệ bài tiết được gọi là haythận học
sinh lý học thận; với định hướng về các
bệnh cấu trúc thì gọi là .tiết niệu học
Hệ miễn dịch bao gồm ,bạch cầu
thymus bạch, bướu bạch huyết
huyết, chúng là một phần của hệ bạch
huyết. Hệ miễn dịch cung cấp cơ chế
cho cơ thể để phân biệt các tế bào và
mô của chúng với các tế bào và các vi
sinh vật lạ để trung hòa hay tiêu diệt
những tế bào (vi sinh vật) lạ đó bằng
các protein chuyên biệt chẳng hạn như
bằng các , và cáckháng thể phân bào
thụ quan tương tự toll v.v. Nghiên cứu
về hệ miễn dịch gọi là .miễn dịch học
Hệ nội tiết
Hệ nội tiết bao gồm các tuyến nội tiết
cơ bản: the , , tuyến yên tuyến giáp tuyến
thượng thận tuyến tụy tuyến cận giáp, ,
, nhưng gần như tấttuyến sinh dục
cả các cơ quan và mô đều sản xuất nội
tiết đặc trưng riêng ( ). Cáchoóc môn
hoóc môn nội tiết phục vụ như là các
tín hiệu từ một bộ phận của cơ thể tới
bộ phận khác liên quan đến một mảng
lớn các trạng thái và tạo ra một loạt
các thay đổi trong chức năng. Nghiên
cứu về hệ thống này gọi là .nội tiết học
Hệ sinh dục bao gồm các tuyến sinh
dục và các trong vàcơ quan sinh dục
ngoài. Cơ quan sinh dục sản xuất ra
các trong mỗi , co chế đểgiao tử giới
chúng tổ hợp với nhau và môi trường
nuôi dưỡng trong chín tháng đầu tiên
của sự phát triển của thai nhi. Nghiên
cứu về chức năng vật lý của hệ thống
này được gọi là sinh lý học sinh sản; khi
nghiên cứu về các rối loạn trong cơ
quan sinh sản gọi là hayphụ khoa
andrology?? (bệnh đường sinh dục của
nam giới). Nghiên cứu về khía cạnh
hành vi tình dục thì gọi là tình dục học
và khi nghiên cứu về sự phát triển của
thai nhi thì gọi là .phôi thai học
Mô hình các lớp
da người
Da là các lớp che phủ trên cơ thể, bao
gồm , cũng như cáctóc lông móng
cấu trúc quan trọng về chức năng khác,
chẳng hạn các và tuyếntuyến mồ hôi
bã nhờn. Da cung cấp chỗ chứa, cấu
trúc và sự bảo vệ cho các cơ quan
khác, và cũng là cơ quan cảm nhận
chính trong giao tiếp với thế giới bên
ngoài. Nghiên cứu về da gọi là da liễu
học.Ở dưới là mô hình da liễu học.
Các mô chứa một số dạng của chấtmỡ
béo trong cơ thể, nằm dưới da và bao
vây xung quanh các nội quan. Nó là
nguồn dự trữ năng lượng cũng như là
lớp chủ yếu, và nó cung cấpcách ly
thông tin về tình trạng dinh dưỡng cho
các hệ thống khác. Nghiên cứu về các
chức năng của hệ thống này là rất mới
và vì thế vẫn chưa có tên gọi được sử
dụng một cách rộng rãi cho ngành học
này.
Sự phân chia truyền thống theo các hệ cơ
quan mang nhiều tính tùy hứng. Rất nhiều
bộ phận trong cơ thể người tham gia vào
nhiều hệ thống cơ quan khác nhau và các
hệ thống có thể được tổ chức theo chức
năng, theo nguồn gốc phôi thai hay theo
các tiêu chí khác. Ngoài ra, nhiều khía
cạnh của sinh lý học không thể dễ dàng
Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 23
tháng 6 năm 2023, 13:23.
đưa vào theo phân loại của sinh lý học
truyền thống.
Nghiên cứu về sự thay đổi của sinh lý
theo bệnh tật gọi là (bệnh lý học).
Sinh lý học trên Thư viện khoa học VLOS
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?
title=Sinh_lý_học_con_người&oldid=70370143
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nội dung được phát hành theo ,CC BY-SA 4.0
ngoại trừ khi có ghi chú khác.
| 1/16

Preview text:

Sinh lý học con người
Sinh lý học con người là một khoa học
nghiên cứu về các chức năng sinh học, lý
học và hóa sinh học của người hay các
cơ quan hoặc bộ phận của cơ thể người.
Định hướng cơ bản của sinh lý học là ở
mức các cơ quan hay các hệ thống trong
cơ thể người. Phần lớn các khía cạnh của
sinh lý học con người là tương đối gần
gũi với các lĩnh vực tương ứng của sinh lý
học động vật, vì thế các thực nghiệm trên
động vật đã cung cấp nhiều nền tảng cho
các kiến thức của ngành khoa học này.
Sinh lý học con người là một trong những
khoa học cơ bản để nghiên cứu y học, và
vì thế nó được áp dụng trong thực tế như là chăm sóc y tế.
Nhiều thay đổi sinh lý học (chẳng hạn
lượng glucose (đường) trong máu, nhiệt
độ cơ thể, độ pH của máu v.v) cần phải
duy trì ở một phạm vi thay đổi hẹp để
đảm bảo có sức khỏe tốt. Một chủ đề
quan trọng trong sinh lý học là sự điều
bình (homeostasis), nó duy trì môi trường
bên trong ổn định không phụ thuộc vào
các thay đổi bên ngoài. Thực vậy, các
chức năng cơ bản của nhiều bộ phận cơ
thể là duy trì tình trạng điều bình. Ví dụ,
hệ bài tiết giúp cho việc kiểm soát mức
độ chứa nước trong cơ thể cũng như là
độ pH của máu và hàng loạt các chất thải
khác, hệ tuần hoàn đảm bảo cung cấp ổn định
và các chất dinh dưỡng tới các oxy
tế bào và loại bỏ các chất thải.
Theo truyền thống, các ngành học kinh
điển của sinh lý học xem xét cơ thể như
là một tập hợp của các hệ thống tương
tác, mỗi một hệ thống có các tổ hợp của
các chức năng và mục đích khác nhau. Não người
Hệ thần kinh bao gồm hệ thần kinh
trung ương (nó bao gồm não và tủy
sống) và hệ thần kinh ngoại biên. Não
là cơ quan của các quá trình ý thức,
cảm xúc và cảm giác, và nó phục vụ
như là đường truyền thông tin và kiểm
soát các hệ thống và các chức năng
khác. Việc nghiên cứu về hệ thần kinh
được gọi chung là khoa học thần kinh;
với định hướng vào nghiên cứu các loại
bệnh tật, thì nó được gọi là thần kinh
học. Một nhánh của y học dự báo, chữa
trị và nghiên cứu các bệnh thuộc về
thần kinh cũng như các trạng thái hành
vi, được gọi là tâm thần học.
Các giác quan đặc biệt bao gồm thị
giác, thính giác, vị giác và khứu giác.
Mắt, tai, lưỡi và mũi thu thập các
thông tin về môi trường xung quanh
cơ thể. Việc nghiên cứu về thị giác
và mắt được gọi là mắt học, trong khi
việc nghiên cứu về thính giác, vị giác
và khứu giác được gọi là tai mũi họng học.
Hệ vận động bao gồm bộ xương người (nó bao gồm cácxương, , dây chằng gân
và sụn) và các cơ bám vào. Nó giữ cho
cơ thể có cấu trúc cơ bản và khả năng
chuyển động. Bổ sung thêm cho vai trò
giữ cấu trúc của chúng thì các xương
lớn trong cơ thể chứa tủy xương, là
một hệ thống sản xuất các tế bào máu.
Ngoaoài ra, tất cả các xương là kho
chứa chính của calci và các muối
phosphat. Việc nghiên cứu về xương
được gọi là xương học; với định hướng
về các rối loạn của xương gọi là chỉnh hình học.
Hệ tuần hoàn bao gồm tim và các
mạch máu (động mạch, tĩnh mạch,
mao mạch) để chuyên chở máu. Tim là
cơ quan tạo áp suất để luân chuyển
máu, phục vụ việc chuyên chở oxy, các
chất dinh dưỡng tạo năng lượng tới các
tế bào, các tế bào miễn dịch, các chất
thải và các phân tử thông tin (ví dụ
hoóc môn) từ phần này tới phần khác
của cơ thể. Việc nghiên cứu về hệ tuần
hoàn được gọi là sinh lý học tim mạch;
với định hướng về các bệnh tim mạch
thì gọi là bệnh tim học. Tế bào hồng cầu
Máu là một chất lỏng chứa các tế
bào trong tuần hoàn, bao gồm một
số chuyển động từ các mô tới mạch
máu và ngược lại, cũng như tỳ và tủy
xương. Các tế bào bao gồm hồng
cầu chuyên chở oxy, bạch cầu làm
trung gian trong các phản ứng của
cơ thể đối với các bệnh nhiễm trùng
và các vật thể lạ, tiểu huyết cầu với
các protein huyết tương bổ sung có
tác dụng làm kín miệng và làm lành
vết thương. Nghiên cứu về máu gọi là huyết học. Hệ tiêu hóa
Hệ tiêu hóa bao gồm miệng, thực quản, dạ dày, ruột ruột non ( và ruột già trực ),
tràng, cũng như là gan, lá lách, mật và
tuyến nước bọt. Chúng chuyển hóa
thức ăn thành các phân tử nhỏ, có giá
trị dinh dưỡng và không độc hại và
được phân phối nhờ hệ tuần hoàn tới
các mô trong cơ thể, cũng như thải các
chất không tiêu hóa được ra khỏi cơ
thể. Nghiên cứu về hệ tiêu hóa được gọi là tiêu hóa học. Quan hệ của tim và phổi (từ cuốn sách cổ Giải phẫu học Gray) Hệ hô hấp bao gồm , mũi họng, khí quản
và phổi. Chúng mang oxy từ không khí
vào cơ thể, thải cacbon dioxide (CO ) 2
và nước ra ngoài không khí. Nghiên
cứu về hệ thống này gọi là sinh lý học
hô hấp. Khoa học nghiên cứu về bệnh
lý của hệ thống này gọi là phổi học.
Hệ bài tiết bao gồm thận, niệu quản,
bàng quang và niệu đạo. Chúng lấy
nước từ máu để sản xuất nước tiểu, là
hỗn hợp của các phân tử bị thải ra
cũng như các ion dư thừa và nước ra
ngoài cơ thể. Nghiên cứu về chức năng
của hệ bài tiết được gọi là thận học hay
sinh lý học thận; với định hướng về các
bệnh cấu trúc thì gọi là tiết niệu học.
Hệ miễn dịch bao gồm bạch cầu,
thymus, bướu bạch huyết và bạch
huyết, chúng là một phần của hệ bạch
huyết. Hệ miễn dịch cung cấp cơ chế
cho cơ thể để phân biệt các tế bào và
mô của chúng với các tế bào và các vi
sinh vật lạ để trung hòa hay tiêu diệt
những tế bào (vi sinh vật) lạ đó bằng
các protein chuyên biệt chẳng hạn như
bằng các kháng thể, phân bào và các
thụ quan tương tự toll v.v. Nghiên cứu
về hệ miễn dịch gọi là miễn dịch học. Hệ nội tiết
Hệ nội tiết bao gồm các tuyến nội tiết
cơ bản: the tuyến yên, tuyến giáp, tuyến
thượng thận, tuyến tụy, tuyến cận giáp
và tuyến sinh dục, nhưng gần như tất
cả các cơ quan và mô đều sản xuất nội
tiết đặc trưng riêng (hoóc môn). Các
hoóc môn nội tiết phục vụ như là các
tín hiệu từ một bộ phận của cơ thể tới
bộ phận khác liên quan đến một mảng
lớn các trạng thái và tạo ra một loạt
các thay đổi trong chức năng. Nghiên
cứu về hệ thống này gọi là nội tiết học.
Hệ sinh dục bao gồm các tuyến sinh
dục và các cơ quan sinh dục trong và
ngoài. Cơ quan sinh dục sản xuất ra
các giao tử trong mỗi giới, co chế để
chúng tổ hợp với nhau và môi trường
nuôi dưỡng trong chín tháng đầu tiên
của sự phát triển của thai nhi. Nghiên
cứu về chức năng vật lý của hệ thống
này được gọi là sinh lý học sinh sản; khi
nghiên cứu về các rối loạn trong cơ
quan sinh sản gọi là phụ khoa hay
andrology?? (bệnh đường sinh dục của
nam giới). Nghiên cứu về khía cạnh
hành vi tình dục thì gọi là tình dục học
và khi nghiên cứu về sự phát triển của
thai nhi thì gọi là phôi thai học. Mô hình các lớp da người
Da là các lớp che phủ trên cơ thể, bao
gồm tóc, lông và móng cũng như các
cấu trúc quan trọng về chức năng khác,
chẳng hạn các tuyến mồ hôi và tuyến
bã nhờn. Da cung cấp chỗ chứa, cấu
trúc và sự bảo vệ cho các cơ quan
khác, và cũng là cơ quan cảm nhận
chính trong giao tiếp với thế giới bên
ngoài. Nghiên cứu về da gọi là da liễu
học.Ở dưới là mô hình da liễu học. Các mô
chứa một số dạng của chất mỡ
béo trong cơ thể, nằm dưới da và bao
vây xung quanh các nội quan. Nó là
nguồn dự trữ năng lượng cũng như là
lớp cách ly chủ yếu, và nó cung cấp
thông tin về tình trạng dinh dưỡng cho
các hệ thống khác. Nghiên cứu về các
chức năng của hệ thống này là rất mới
và vì thế vẫn chưa có tên gọi được sử
dụng một cách rộng rãi cho ngành học này.
Sự phân chia truyền thống theo các hệ cơ
quan mang nhiều tính tùy hứng. Rất nhiều
bộ phận trong cơ thể người tham gia vào
nhiều hệ thống cơ quan khác nhau và các
hệ thống có thể được tổ chức theo chức
năng, theo nguồn gốc phôi thai hay theo
các tiêu chí khác. Ngoài ra, nhiều khía
cạnh của sinh lý học không thể dễ dàng
đưa vào theo phân loại của sinh lý học truyền thống.
Nghiên cứu về sự thay đổi của sinh lý
theo bệnh tật gọi là (bệnh lý học). Tham khảo Liên kết ngoài
Sinh lý học trên Thư viện khoa học VLOS
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?
title=Sinh_lý_học_con_người&oldid=70370143”
Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 23 tháng 6 năm 2023, 13:23. •
Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 4.0 ,
ngoại trừ khi có ghi chú khác.