So sánh hai đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ và Trao duyên | Văn mẫu lớp 10

1. Mở bài - Giới thiệu về người phụ nữ. - Họ đặc biệt xuất hiện trong các áng thi văn thời trung đại mà nổi tiếng là Truyện Kiều với hai đoạn trích Trao duyên, cùng đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn). Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 10 232 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 10 1.3 K tài liệu

Thông tin:
11 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

So sánh hai đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ và Trao duyên | Văn mẫu lớp 10

1. Mở bài - Giới thiệu về người phụ nữ. - Họ đặc biệt xuất hiện trong các áng thi văn thời trung đại mà nổi tiếng là Truyện Kiều với hai đoạn trích Trao duyên, cùng đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn). Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

82 41 lượt tải Tải xuống
Dàn ý phân tích thân phận người phụ nữ trong hội
qua Trao duyên, Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ
1. Mở bài
- Giới thiệu về người phụ nữ.
- Họ đặc biệt xuất hiện trong các áng thi văn thời trung đại nổi tiếng Truyện
Kiều với hai đoạn trích Trao duyên, cùng đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn).
2. Thân bài
a. Bối cảnh hội:
- Sự xuất hiện của Nho giáo, ảnh hưởng mạnh mẽ tới tất cả các mặt trong đời sống,
đặc biệt tới vị thế của người phụ nữ.(tư tưởng "trọng nam khinh nữ", nam quyền).
- Người phụ nữ phải gánh chịu những bất công trong hội, với tam quan "tam tòng
tứ đức", không được học hành, cả thể xác tinh thần.
- hội đề cao người nam giới, còn phụ nữ bị buộc trong những định kiến hội
khiến họ rơi vào bi kịch.
- Ngoài ra thời điểm này các cuộc chiến tranh tranh giành, phân chia lãnh thổ luôn
xảy ra liên miên.
b. Vẻ đẹp của người phụ nữ: Họ hiện thân cho cái đẹp, với sự thủy chung, hiếu
thảo, đức hy sinh, lòng khao khát hạnh phúc.
- Nhân vật Thúy Kiều: một người phụ nữ xinh đẹp, tài năng, hiếu thảo với đức hy
sinh cao cả, người phụ nữ với tấm lòng thủy chung.
+ Thúy Kiều người con gái xinh đẹp với tài năng cầm kỳ thi họa, đặc biệt tài
năng gảy đàn khiến cho ai cũng phải trầm trồ "Làn thu thủy ... tài đành họa hai",
"cung thương làu ... Hồ cầm một chương".
+ Không chỉ vậy, nàng còn cùng hiếu thảo khi bán mình để cứu cha em.
+ Nàng rất thông minh khi thuyết phục em mình nhận lấy mối duyên mình trao "lạy
em em ...sẽ thưa".
+ Nàng cũng người phụ nữ giàu đức hi sinh rất chung thủy, trao duyên cho em,
để em thay mình trả nghĩa cho người yêu, rằng nàng vẫn còn yêu Kim Trọng
cùng "lạy em em ...mặc em".
- Người chinh phụ: người phụ nữ rất chung thủy với chồng luôn khao khát
hạnh phúc lứa đôi.
+ Chồng phải đi xa nơi chiến trận, nàng nhà cũng luôn một mực thủy chung, lo
lắng cho chồng. Năm canh dài nàng thao thức, mong chờ: "Trời thăm thẳm ...nào
xong", "lòng này gửi ...bằng trời", nàng khao khát hạnh phúc.
c. Số phận của những người phụ nữ: Mặc xinh đẹp, tài năng, thủy chung, thế
nhưng họ vẫn luôn phải chịu những bất công, tủi khổ, nạn nhân của hội đương
thời.
- Họ nạn nhân của hội đa thê, nam quyền, trọng nam khinh nữ, đàn ông quyết
định mọi thứ:
+ Những người phụ nữ phải sống trong khuôn khổ "tam tòng tứ đức", "xuất giá tòng
phu" - những người đàn ông thể "năm thê bảy thiếp", vui chơi chốn lầu xanh.
+ Trong trích đoạn Trao duyên, Kiều trở thành một gái lầu xanh, mặc sức để đám
đàn ông chơi đùa "Biết bao bướm ...Trường Khanh".
- Chế độ hội bất công, đồng tiền quyết định mọi thứ:
+ Điều này đã đẩy bao người phụ nữ vào bi kịch, trong đó Kiều. Cha em trai bị
bắt, nàng buộc lòng phải bán mình để cứu cha em "Cò bớt ...bốn trăm", đành
phải trao đi mối duyên đầu đậm sâu cho em gái "Lạy em em ...tơ thừa mặc em".
+ hội ấy cũng đẩy Kiều vào con đường thanh lâu nhơ nhớp, khởi đầu cho chuỗi
mười lăm năm lưu lạc đầy oan trái của nàng "Khi tỉnh rượu ...giữa đường".
+ Nàng tài sắc nhưng lại không được trân trọng, bị coi như một món hàng để
người ta "cò kè" bớt giá, rồi bị lừa bán đi, bị đánh đập
- Những cuộc chiến tranh phi nghĩa:
+ Người chinh phụ chiến tranh phải xa lìa chồng mình, cắt đi khát khao hạnh
phúc nàng cùng mong mỏi: "Gà eo óc ...bể xa" => Nỗi nhớ mong chồng của
nàng day dứt từng đêm.
+ Niềm khát khao hạnh phúc của nàng bị đứt đoạn, những yêu thương chỉ được gửi
theo gió "Lòng này gửi ...bằng trời".
- Những người phụ nữ nạn nhân của hội phong kiến, không được lên tiếng đòi
quyền sống, quyền được hạnh phúc:
+ Kiều trong chốn lầu xanh, nàng thương cho số phận mình, thương thân mình,
nhưng chỉ biết bầu bạn với cảnh vật xung quanh, chứ không thể lên tiếng đòi quyền
tự do, quyền được hạnh phúc cho bản thân mình "Mặc người mưa ...xuân gì",
"Vui ...với ai".
+ Người chinh phụ đơn, lẻ loi thế, nhưng nàng đâu quyền lên tiếng đòi hỏi
hạnh phúc khi triều đình bắt lính.
=> Tất cả những người phụ nữ xưa đều nạn nhân của hội phong kiến, họ tài
hoa, chung thủy, xinh đẹp nhưng bạc mệnh. Họ bị hội đưa đẩy tới bước đường
cùng, biến cuộc sống của họ thành bi kịch.
3. Kết bài
- Khẳng định lại số phận của người phụ nữ cùng với phẩm chất của họ.
So sánh hai tác phẩm Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ Trao duyên mẫu 1
Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã mượn lời Thuý Kiều - gái tài hoa bạc
mệnh, để khái quát chung về số phận bi thảm của người phụ nữ dưới thời phong
kiến trọng nam khinh nữ:
Đau đớn thay phận đàn
Lời rằng bạc mệnh cũng lời chung.
Câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, ai oán, như một lời than phẫn uất trước định mệnh bất
công. Tiếc thay, trong hội như thế thì bạc mệnh đã trở thành số phận chung của
bao kẻ hồng nhan. Các tác phẩm nổi tiếng như Độc Tiểu Thanh (Nguyễn Du),
Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn) Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều) đã
chứng minh cho bi kịch ấy.
Độc Tiểu Thanh một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du, in
trong Thanh Hiên thi tập. thể Nguyễn Du sáng tác bài thơ này trước hoặc sau khi
được triều đình nhà Nguyễn cử đi sứ sang Trung Quốc. Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền
với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc, sổng vào đầu đời Minh. hoàn cảnh éo
le, nàng phải làm lẽ một thương gia giàu họ Phùng Hàng Châu. Vợ cả ghen,
bắt Tiểu Thanh một mình trong ngôi nhà biệt lập trên núi Sơn. Tuổi thanh xuân
của nàng bị giam hãm trong bốn bức tường quạnh quẽ. Thương thân, tiếc phận,
Tiểu Thanh làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. Ít lâu sau, nàng-chết
buồn, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập
thơ, may còn sót lại một số bài được người đương thời chép lại, đặt tên Phần
(đốt còn sót lại) thuật luôn câu chuyện bạc mệnh của nàng.
Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm gái tài hoa bạc
mệnh, đồng thời bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao phụ
nữ tài hoa khác, cảm xúc ấy đã được tác giả thể hiện qua bài thơ nổi tiếng:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi.
Cái ẩn phong lưu khách tự mang,
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chàng?
Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau khi nàng mất, nhà thơ ngậm ngùi trước cảnh
đời tang thương dâu bể cảnh đẹp Tây Hổ đã hoá hoang Thời gian huỷ hoại tất
cả. Trên hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nhắc
đến cảnh đẹp Tây Hổ, chắc hẳn tác giả ý nói về con người đã từng sống đây,
tức nàng Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc ấy cũng chẳng còn lại
ngoài những giai thoại về nàng, cảnh ấy khiến tinh này nhân lên gấp bội. Trái tim
của thi thổn thức trước tập thơ gợi lại kiếp người xấu số:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua tập thơ như thế nào? Chắc chắn đó
nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang thống thiết hơn cả
nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Nhã thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa
bạc mệnh cảm giác như linh hồn nàng vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết
trong đơn, héo hắt. Tuổi thanh xuân của nàng đã bị đọa đày, tước đoạt thì oan
hồn nàng làm sao siêu thoát được?
Son phấn thần chôn vẫn hận,
Vãn chương mệnh đốt còn vương.
Son phấn tượng trưng cho sắc đẹp của phụ nữ, sắc đẹp thì thần. người
đẹp thể bị đọa đày, vùi dập chết đi thi tên tuổi họ vẫn đời đời lưu lại như Tây
Thi, Dương Quý Phi... Văn chương cái tài của Tiểu Thanh nói riêng cũng vẻ
đẹp tinh thần của giới văn nhân tài tử nói chung. chương mệnh bởi không
biết đến sống chết, ấy vậy đây, chương như linh hồn, cũng biết giận hờn
biết cố gắng chống bạo lực hủy diệt để tồn tại, để nhắn gửi đến hậu thế những điều
tâm huyết.
tập thơ của Tiểu Thanh đã bị đốt phần lớn nhưng chỉ một chút còn lại cũng đủ để
người đời thương cảm xót xa cho nàng. Trong hội phong kiến cũ, biết bao
nhiêu nàng Tiểu Thanh như thế? Cùng một mối thông cảm xót thương như
Nguyễn Du, Đặng Trần Côn đã sáng tác ra Chinh phụ ngâm để phản ánh nỗi khổ
của những người phụ nữ chồng ra trận, lên án chiến tranh gây nên cảnh sinh li tử
biệt. Tác phẩm chứa đựng tưởng đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của
con người. Nữ Đoàn Thị Điểm đã dịch từ chữ Hán sang chữ Nôm, chuyển tải một
cách tài tình nội dung nghệ thuật của nguyên tác.
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ gồm từ câu 193 đến câu 228, kể về
việc sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường
đẩy hiểm nguy chốt chóc xót xa, lo lẳng cho chồng. Một lần nữa nàng tự hỏi
sao đôi lứa phải chia lìa? sao nàng phải lâm vào tình cảnh éo le một mình nuôi
mẹ già con dại? sao nàng chồng lại phải chịu cảnh phòng không chiếc
bóng? thể coi đây đoạn thơ thể hiện nhất tài năng miêu tả tâm nhân vật
của tác giả.
Người chồng đã lên đường ra trận, người vợ thấy lòng trống vắng lạ lùng. Nàng lặng
lỗ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, trong nỗi đơn trĩu nặng. Tâm trạng nàng
bồn chồn, đứng ngồi không yên, sốt ruột mong ngóng tin vui chẳng thấy. Suốt
năm canh một mình một bóng bên đèn, nỗi khổ không biết san sẻ cùng ai:
Đèn biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bôn.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Nỗi ai oán hiện trong từng chữ, từng câu, cho tác giả không hề nhắc đến hai
chữ chiến tranh:
Hương gượng đốt hồn đà mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu
nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên nghĩa.
Dường như người chinh phụ không muốn đụng tới bất cứ thứ tình cảm đến sự
chia lìa, tan vỡ của hạnh phúc lứa đôi. Tâm thư của nàng thật chông chênh, chơi
vơi, khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi tuyệt
vọng, nàng chỉ còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió:
Lòng này gửi gió đông tiện?
Nghìn vàng gửi đến non yên
Non Yên chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng.
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Tình cảnh ấy. tâm trạng ấy tự đã nói lên bi kịch không được sống hạnh phúc của
người phụ nữ trong hội cũ, đồng thời cũng phản ánh thái độ lên án chiến tranh
của tác giả. Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều lời ca ai oán của người
cung nữ tài sắc, lúc đầu được vua yêu chuộng, nhưng chẳng bao lâu lại bị ruồng
bỏ, lãng quên, trong cung cấm, nàng xót thương cho thân phận mình oán trách
nhà vua phụ bạc.
Đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ gồm 36 câu, từ câu 209 đến 244 của tác
phẩm. Nhà thơ đặc tả tâm trạng chua chát, cay đắng của người cung nữ:
Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân!
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
Trong tình cảnh đơn tuyệt vọng, nàng nhớ lại ngay mơi vao cung, nhan sắc
tươi đẹp, mơn mởn như bông hoa vừa nở, thắm sắc thơm hương. Còn giờ đây,
thân phận nàng nào khác chi hoa tàn nhụy rữa, chẳng ai còn thương tưởng, đoái
hoài. Càng ngẫm nghĩ lại càng chua xót. Nỗi chua xót, tủi hờn cứ theo ngày tháng
cuộn dâng, giày tâm hồn thể xác nàng. Người cung nữ cay đắng bất
bình trước một điều phi lí: Bỗng không hoá ra người vị vong, nghĩa mình
chẳng khác chi một người đàn goá bụa, trớ trêu hơn góa bụa giữa tuổi xuân
xanh. Tâm trạng của người cung nữ lúc ngậm ngùi buồn khổ, lúc ai oán băn khoăn,
khi thẫn thờ da diết cuối cùng bực bội, giận hờn. Dường như nàng ngày một
chìm sâu trong nỗi chán chường, tuyệt vọng. Không thể giải thoát khỏi cảnh đơn,
nàng âm thầm rút vào cuộc sống nội tâm đầy giằng xé, dằn vặt. Nàng buồn rầu đến
khắc khoải, ngao ngán đến ngẩn ngơ đau đớn đến lòng khi nhìn, thẳng vào
thực trạng thê thảm của số phận:
Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa!
Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để nhụy vàng!
Nỗi buồn tủi đã kéo dài quá sức chịu đựng, người cung nữ oán trách nhà vua một
cách gián tiếp nhưng không kém phần gay gắt:
Đêm năm canh lần nương vách quế.
Cái buồn này ai dễ giết nhau.
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!
Cuối cùng sự bất bình của nàng trước số kiếp hồng nhan bạc mệnh, muốn phá
tung tất cả cung vàng lầu ngọc để trở về với cuộc sống bình thường, dân
hạnh phúc:
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ!
Xe thế này dở dang không?
Dang tay muốn dứt hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng ra!
Các nhà thơ lòng nhân ái sâu xa đã đưa hình tượng người phụ nữ cùng bi kịch
của họ vào văn chương muôn đời. Những số phận bất hạnh như Tiểu Thanh, Thuý
Kiểu, người chinh phụ, người cung nữ tề chi một vài trong muôn triệu kiếp sống
khổ đau dưới hội phong kiến đầy ràng buộc khắt khe định kiến nghiệt ngã đối
với phụ nữ. Đọc thơ của các nhà thơ trên, chúng ta hiểu sao phải xoá bỏ hội
bảo thủ, bất công, lạc hậu ấy để bảo vệ quyền sống tự do, hạnh phúc cho phụ nữ
nói riêng con người nói chung.
So sánh hai tác phẩm Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ Trao duyên mẫu 2
Người phụ nữ bất cứ thời nào cũng luôn phái yếu, luôn người chịu
những thiệt thòi đặc biệt trong hội phong kiến xưa. thể nói, hội ấy đã
cướp đi của người phụ nữ không biết bao nhiêu quyền lợi cũng như gây nên cho họ
biết bao đau thương. Vậy nên, các nhà văn thời trung đại đã ưu ái đặt người phụ
nữ thành trung tâm các tác phẩm của họ, để phơi bày những nỗi khổ cũng như làm
sáng lên nhân cách cao đẹp của họ. chúng ta thể cảm nhận được thân
phận của người phụ nữ trong hội đương thời thông qua một số đoạn trích trong
các tác phẩm trung đại như đoạn trích Trao duyên, Nỗi thương mình Tình cảnh lẻ
loi của người chinh phụ.
Các đoạn trích trên được sáng tác trong giai đoạn lịch sử phong kiến Việt Nam khi
Nho giáo xuất hiện thống trị bối cảnh hội thời bấy giờ. người phụ nữ
trong hội, họ chịu ảnh hưởng nặng nề từ chế độ phong kiến Nho giáo bởi Nho
giáo thì coi trọng bậc nam tử, coi những người phụ nữ chỉ cái bóng phía sau
người đàn ông họ còn phải chịu đựng những thiệt thòi, áp bức từ giai cấp cường
quyền, các hủ tục các tưởng lễ nghĩa. tưởng "trọng nam khinh nữ" khi ấy
đã ăn sâu vào tâm trí, phong tục cũng như lối sống của người xưa, vậy nên, người
phụ nữ càng phải chịu thêm nhiều áp bức, bị buộc trong tam quan "tam tòng tứ
đức", không được học hành, bị về cả thể xác lẫn tinh thần. Không chỉ vậy
tham vọng mở rộng bờ cõi của các bậc vua chúa cũng một phần đẩy người phụ
nữ vào bi kịch cuộc đời.
Những người phụ nữ ngày xưa thường được dạy dỗ rằng phải biết "tam tòng tứ
đức", cầm kỳ thi họa, phải giúp ích cho chồng con, cung phụng chồng con cũng
như phải một lòng gia đình nhà chồng. Bởi vậy khi lớn lên, họ biểu trưng,
hiện thân cho cái đẹp không chỉ ngoại hình còn phẩm chất với sự thủy chung,
hiếu thảo, đức hi sinh, tài năng khát khao hạnh phúc lứa đôi.
như trong tác phẩm Truyện Kiều, Thúy Kiều - nàng hiện thân của cái đẹp
đầu tiên nét đẹp về nhan sắc "chim sa lặn":
"Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"
Vẻ đẹp ấy không chỉ khiến trăm hoa phải ghen tỵ hàng liễu cũng phải tủi hổ khi
đứng trước nàng. Biết bao câu từ để miêu tả vẻ đẹp rạng ngời ấy của nàng, nhan
sắc ấy của nàng! Kiều chẳng những đẹp dung nhan còn đẹp tài năng
vượt trội. Cầm, kì, thi, họa, ngón nghề nào nàng cũng tinh thông, đặc biệt tài năng
gảy đàn với những khúc nhạc tuyệt đỉnh:
"Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một chương"
Những khúc đàn của nàng khiến người nghe phải rơi lệ, khiến cho Hồ Tôn Hiến hay
bao đàn ông khác phải say. thể nói, Kiều minh chứng cho câu nói "tài
sắc vẹn toàn".
Không chỉ vậy, nàng còn một người con cùng hiếu thảo, một người phụ nữ
đức hy sinh cùng cao cả. Cha em trai bị bắt bớ cớ, muốn được cứu ra
phải tốn trăm lạng vàng, những tưởng một phận liễu yếu đào như nàng không thể
xoay xở. Nhưng không, nàng đã chấp nhận, nuốt nước mắt, bán mình lấy bốn trăm
lạng vàng cứu lấy người thân của mình, chấp nhận làm vợ lẽ cho người ta:
"Cò bớt một thêm hai
Giờ sau ngã giá vàng ngoài bốn trăm".
Phải nói, thế gian mấy ai được sự hiếu thảo, sự hy sinh cao cả như Kiều. Nàng
quả người con gái hiếu thảo hết mực. nàng cũng một người phụ nữ hết mực
lo lắng cho người mình yêu, thủy chung, son sắt cùng thông minh.
Đêm cuối trước ngày ra đi, Kiều đã nhờ Thúy Vân "chắp mối duyên thừa" của mình,
trao cho người em tình yêu đầu với Kim Trọng. Nàng trao hết những kỷ vật của mình
người yêu cho em, mong em giúp mình nên duyên cùng chàng Kim. Bằng những
lời nói thông minh thuyết phục em mình, Kiều đã thuyết phục được Vân nối tiếp
duyên nợ với chàng Kim, thế nhưng trong thâm tâm của Kiều, nàng vẫn luôn đau
đáu mối duyên tình đậm sâu ấy, thủy chung một lòng với người mình yêu thương.
Đến khi nghĩ tới viễn cảnh cái chết nơi âm tào địa phủ, nàng vẫn luôn canh cánh về
"lời thề" dưới ánh trăng hôm ấy:
"Hồn còn mang nặng lời thề
Rảy xin chén nước cho người thác oan"
Một lời thể nguyện ăn sâu vào trái tim của nàng, khiến nàng luôn đau đáu khôn
nguôi, trao đi kỷ vật, trao lại cho em gái tất cả nhưng mối duyên đậm sâu kia,
nàng chẳng thể nào buông bỏ được.
Nhắc về sự thủy chung trong tình yêu thì không thể nhắc tới người chinh phụ trong
"Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" của Đặng Trần Côn được. Bởi người phụ nữ
ấy minh chứng ràng nhất cho tấm lòng thủy chung, son sắt của người vợ đối
với chồng mình. Chồng nơi biên ải xa xôi, người vợ nhà năm canh đều trông
đợi, mòn mỏi bên cạnh chiếc đèn khuya. Người phụ nữ ấy khao khát được một
mái ấm, một niềm hạnh phúc nhỏ bên người chồng của mình, vậy nên khi mong
ngóng chồng, thời khắc trôi qua "đằng đẵng như niên":
"Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa"
Người chinh phụ ấy không chỉ đức hy sinh cao cả, sự thủy chung một lòng với
chồng còn luôn khao khát hạnh phúc lứa đôi. Đây chính những phẩm chất cao
đẹp của người phụ nữ trong hội phong kiến. Kiều cũng vậy, nàng một trong
những người phụ nữ tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong hội
phong kiến xưa, hiện thân cho cái đẹp, vừa thủy chung, hiếu thảo, tài năng lại
luôn biết hy sinh người khác.
Những người phụ nữ như thế, đáng ra họ phải được một cuộc sống hạnh phúc,
an yên, với những người đàn ông yêu thương, trân trọng lo lắng hết mực cho họ
mới phải. Thế nhưng, xinh đẹp, giỏi giang, tài năng thế nào thì những người
phụ nữ ấy đều phải chịu đựng đủ mọi thiệt thòi trong hội, bị coi thường, bị rẻ
rúng, trở thành những cái bóng mờ nhạt giữa cuộc đời. Họ thành những nạn nhân
của hội phong kiến với những bi kịch chồng chất.
Đối với Nho giáo, vị thế của người đàn ông độc tôn trong hội, họ được hưởng
thụ mọi quyền lợi cũng như được đáp ứng tất cả các nhu cầu khác. Nếu như người
phụ nữ phải chịu buộc trong lễ giáo, với "tam tòng tứ đức" thì người đàn ông lại
được phép "năm thê bảy thiếp", người phụ nữ cả đời chỉ thờ một chồng, còn người
đàn ông thì mặc sức cưới hỏi, chơi bời. Đây chính một phần làm nên bi kịch của
người phụ nữ: chế độ đa thê, nam quyền, người đàn ông được phép quyết định mọi
thứ, chính điều này đã làm nên những bi kịch đau khổ cho người phụ nữ. Như trong
trích đoạn Nỗi thương mình, Kiều sau khi bán mình cứu cha thì bị lừa bán vào lầu
xanh, đây, mỗi ngày, biết bao kẻ nam nhân kéo nhau ra vào lượt mua vui trên
thân xác người phụ nữ:
"Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh"
Nếu như người vợ, người phụ nữ phải luôn nhà lo việc nhà cửa, cơm nước, chăm
sóc con trẻ, thủy chung chờ chồng, coi chồng bầu trời, tất cả thì những người
đàn ông luôn được đứng cao hơn họ một bậc, mặc sức ăn chơi trong những chốn
xa hoa, lầu xanh. Chế độ đa thê, nam quyền trong hội phong kiến đã gây nên nỗi
khổ đau, thiệt thòi cho người phụ nữ không điều thể đắp được.
Không chỉ vậy, hội ấy còn một hội với bao điều bất công, khi những kẻ nắm
trong tay sức mạnh luôn đi đàn áp những kẻ yếu thế hơn một hội đồng tiền
cán cân đánh giá tất cả.
tiền Kiều phải bán mình cứu lấy cha em, tiền cuộc đời của Kiều mới
bi thảm hết lần này tới lần khác bị lừa bán vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, biến
cuộc đời một gái khuê các thành mười lăm năm lưu lạc đau khổ. đồng tiền
những ma dẫn gái đã biến Kiều trở thành một gái làng chơi khiến một người con
gái xinh đẹp, tài năng phải chán chường chính bản thân mình:
"Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
Mặc người mưa Sở gió Tần
Những mình nào biết xuân gì"
Cũng chính đồng tiền người con gái ấy phải từ bỏ mối tình đầu đầy hạnh
phúc, trao lại duyên tình của mình cho em gái, thuyết phục em gái trả nghĩa cho tình
lang của mình:
"Lạy em em chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương
Keo loan chắp mối thừa mặc em"
Nếu như hội ấy công bằng hơn, tình người hơn thì liệu rằng, Kiều phải dứt
lòng trao duyên, phải đến nỗi bán mình lấy tiền cứu cha hay không? Chắc chắn
không! Bởi hội ấy thối nát, ích kỷ với cường quyền đầy xảo trá mới đẩy con
người ta tới bước đường cùng, đẩy những người phụ nữ tới bước truân chuyên, bi
kịch của số kiếp.
hội phong kiến đầy rẫy những nỗi bất công, được điều khiển bởi quyền lực
đồng tiền, thế nên chẳng thể tránh khỏi những cuộc chiến tranh phi nghĩa, tước
đi quyền hạnh phúc của bao nhiêu người phụ nữ trong hội.
Những người phụ nữ khi lấy chồng, luôn mang trong mình khao khát một cuộc sống
lứa đôi hạnh phúc, vui vầy. Niềm hạnh phúc ấy đến từ người chồng bởi với họ,
người chồng tất cả của họ "xuất giá tòng phu", chính khuôn khổ này. Thế
nhưng, khi người phụ nữ đang được vui thú nghi gia, được hưởng sự hạnh phúc ấy
thì những cuộc chiến tranh phi nghĩa xảy ra. Triều đình bắt bớ trai đinh đi lính,
những người phụ nữ kia trở thành những nàng chinh phụ. Chồng nơi chiến trận, ra
hiểm vào nguy, làm sao người vợ không lo lắng cho được? Như nàng Thị kia
đã trở thành núi Vọng Phu chỉ chờ chồng đó sao? Hay như nàng Nương trong
"Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, bi kịch gia đình xảy ra chẳng
phải nguyên nhân sâu xa xuất phát từ việc người chồng bị bắt đi lính chiêm hay
sao? Còn người chinh phụ trong đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ"
cũng chịu chung số phận ấy. Nàng một mình suốt năm canh, ngày này qua
tháng khác, mòn mỏi chờ đợi tin của người chồng của mình. Suốt đêm thâu, nàng
ngồi bên rèm, mỗi khắc trôi qua những tưởng cả một năm ròng rã:
"Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa"
Còn nỗi nhớ chồng thì dài đằng đẵng như "đường lên trời":
"Lòng này gửi gió đông tiện
Nghìn vàng xin gửi tới non Yên
Non Yên chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
thể nói, chiến tranh phi nghĩa đã cướp mất đi của người phụ nữ những niềm
hạnh phúc nhỏ nhất, đẩy họ tới bi kịch trong cuộc sống.
không chỉ thế, những người phụ nữ ấy còn trở thành những cái bóng phía sau
chồng con, bởi họ không quyền được lên tiếng đòi quyền được hạnh phúc, được
sống phải chịu đủ mọi đắng cay, tủi nhục.
như Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình, nàng hiểu những bi kịch của số
phận, hiểu sự nhơ nhớp của chốn thanh lâu, hiểu nỗi đau mình phải chịu để tự
"thương mình". Thế nhưng, nàng đâu quyền được đòi hỏi một cuộc sống khác,
không được quyền hưởng niềm hạnh phúc khác, bởi nàng đã bị bán đi vào đây như
một món hàng người ta mua bán ngoài chợ, bị rẻ rúng, khinh miệt đến thể nhưng
nàng không thể lên tiếng để đòi quyền được sống, được hạnh phúc. Đó chính do
cái hội kia ban tặng, người phụ nữ chỉ vốn một món hàng, một thứ vật trang trí
làm đẹp cho những người đàn ông trong hội này thôi.
Tất cả những người phụ nữ trong hội phong kiến, họ nạn nhân của cả cái
hội đen tối, xấu xa đó. tài sắc, lòng chung thủy, bao dung đến đâu, họ
cũng sẽ phải gánh chịu những nỗi thiệt thòi, oan khiên, đôi khi cả bi kịch được tạo
nên từ lễ giáo, phong tục trong hội ấy. Họ tài hoa bạc mệnh, như Kiều, như
người chinh phụ kia hay như muôn vàn người phụ nữ khác danh trong hội
phong kiến đương thời.
Đúng như Nguyễn Du đã cảm thán một câu về thân phận người phụ nữ trong
Truyện Kiều rằng:
"Đớn đau thay phận đàn
Lời rằng bạc mệnh cũng lời chung"
Cuộc sống của người phụ nữ trong hội xưa chỉ mảnh chuông treo ngoài cửa
sổ, chẳng lấy một ai đảm bảo cho họ được quyền sống, được hạnh phúc cả. Đọc
những tác phẩm trên, ta mới thấy được nỗi bất hạnh tới cùng cực của những người
phụ nữ thời phong kiến. Từ đó, chúng ta ngày nay càng thêm cảm thông, thấu hiểu
trân trọng những người phụ nữ ấy, càng thêm trân trọng, yêu quý những người
phụ nữ xung quanh mình.
------------------------
So sánh hai đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ Trao duyên để thấy
được nhân vật người phụ nữ trong hội phong kiến vừa được VnDoc.com gửi tới
bạn đọc. Bài viết được tổng hợp gồm 2 bài văn mẫu. Qua bài viết bạn đọc thể
thấy được người phụ nữ bất cứ thời nào cũng luôn phái yếu, luôn người
chịu những thiệt thòi đặc biệt trong hội phong kiến xưa. Chúng ta thể cảm
nhận được thân phận của người phụ nữ trong hội đương thời thông qua một
số đoạn trích trong các tác phẩm trung đại như đoạn trích Trao duyên, Nỗi thương
mình Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Trong truyện Kiều thì Thúy Kiều
một người tài giỏi, nàng còn một người con cùng hiếu thảo, một người phụ
nữ đức hy sinh cùng cao cả. Nàng đã chấp nhận, nuốt nước mắt, bán mình
lấy bốn trăm lạng vàng cứu lấy người thân của mình, chấp nhận làm vợ lẽ cho
người ta. Kiều đã thuyết phục được Vân nối tiếp duyên nợ với chàng Kim, thế
nhưng trong thâm tâm của Kiều, nàng vẫn luôn đau đáu mối duyên tình đậm sâu ấy,
thủy chung một lòng với người mình yêu thương. Nói đến sự thủy chung thì phải
nhắc đến người chinh phụ trong Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Bởi người
phụ nữ ấy minh chứng ràng nhất cho tấm lòng thủy chung, son sắt của người
vợ đối với chồng mình. Chồng nơi biên ải xa xôi, người vợ nhà năm canh đều
trông đợi, mòn mỏi. Cuộc sống của người phụ nữ trong hội xưa chỉ mảnh
chuông treo ngoài cửa sổ, chẳng lấy một ai đảm bảo cho họ được quyền sống,
được hạnh phúc cả. Mong rằng qua bài viết bạn đọc thêm tài liệu để học tập nhé.
| 1/11

Preview text:

Dàn ý phân tích thân phận người phụ nữ trong xã hội
cũ qua Trao duyên, Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 1. Mở bài
- Giới thiệu về người phụ nữ.
- Họ đặc biệt xuất hiện trong các áng thi văn thời trung đại mà nổi tiếng là Truyện
Kiều với hai đoạn trích Trao duyên, cùng đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn). 2. Thân bài a. Bối cảnh xã hội:
- Sự xuất hiện của Nho giáo, ảnh hưởng mạnh mẽ tới tất cả các mặt trong đời sống,
đặc biệt là tới vị thế của người phụ nữ.(tư tưởng "trọng nam khinh nữ", nam quyền).
- Người phụ nữ phải gánh chịu những bất công trong xã hội, với tam quan "tam tòng
tứ đức", không được học hành, gò bó cả thể xác và tinh thần.
- Xã hội đề cao người nam giới, còn phụ nữ bị bó buộc trong những định kiến xã hội
khiến họ rơi vào bi kịch.
- Ngoài ra thời điểm này các cuộc chiến tranh tranh giành, phân chia lãnh thổ luôn xảy ra liên miên.
b. Vẻ đẹp của người phụ nữ: Họ là hiện thân cho cái đẹp, với sự thủy chung, hiếu
thảo, đức hy sinh, và lòng khao khát hạnh phúc.
- Nhân vật Thúy Kiều: là một người phụ nữ xinh đẹp, tài năng, hiếu thảo với đức hy
sinh cao cả, là người phụ nữ với tấm lòng thủy chung.
+ Thúy Kiều là người con gái xinh đẹp với tài năng cầm kỳ thi họa, đặc biệt là tài
năng gảy đàn khiến cho ai cũng phải trầm trồ "Làn thu thủy ... tài đành họa hai",
"cung thương làu ... Hồ cầm một chương".
+ Không chỉ vậy, nàng còn vô cùng hiếu thảo khi bán mình để cứu cha và em.
+ Nàng rất thông minh khi thuyết phục em mình nhận lấy mối duyên mình trao "lạy em em ...sẽ thưa".
+ Nàng cũng là người phụ nữ giàu đức hi sinh và rất chung thủy, trao duyên cho em,
để em thay mình trả nghĩa cho người yêu, dù rằng nàng vẫn còn yêu Kim Trọng vô
cùng "lạy em em có ...mặc em".
- Người chinh phụ: là người phụ nữ rất chung thủy với chồng và luôn khao khát hạnh phúc lứa đôi.
+ Chồng phải đi xa nơi chiến trận, nàng ở nhà cũng luôn một mực thủy chung, lo
lắng cho chồng. Năm canh dài nàng thao thức, mong chờ: "Trời thăm thẳm ...nào
xong", "lòng này gửi ...bằng trời", nàng khao khát hạnh phúc.
c. Số phận của những người phụ nữ: Mặc dù xinh đẹp, tài năng, thủy chung, thế
nhưng họ vẫn luôn phải chịu những bất công, tủi khổ, là nạn nhân của xã hội đương thời.
- Họ là nạn nhân của xã hội đa thê, nam quyền, trọng nam khinh nữ, đàn ông quyết định mọi thứ:
+ Những người phụ nữ phải sống trong khuôn khổ "tam tòng tứ đức", "xuất giá tòng
phu" - những người đàn ông có thể "năm thê bảy thiếp", vui chơi chốn lầu xanh.
+ Trong trích đoạn Trao duyên, Kiều trở thành một cô gái lầu xanh, mặc sức để đám
đàn ông chơi đùa "Biết bao bướm ...Trường Khanh".
- Chế độ xã hội bất công, đồng tiền quyết định mọi thứ:
+ Điều này đã đẩy bao người phụ nữ vào bi kịch, trong đó có Kiều. Cha và em trai bị
bắt, nàng buộc lòng phải bán mình để cứu cha và em "Cò kè bớt ...bốn trăm", đành
phải trao đi mối duyên đầu đậm sâu cho em gái "Lạy em em ...tơ thừa mặc em".
+ Xã hội ấy cũng đẩy Kiều vào con đường thanh lâu nhơ nhớp, khởi đầu cho chuỗi
mười lăm năm lưu lạc đầy oan trái của nàng "Khi tỉnh rượu ...giữa đường".
+ Nàng có tài có sắc nhưng lại không được trân trọng, bị coi như một món hàng để
người ta "cò kè" bớt giá, rồi bị lừa bán đi, bị đánh đập
- Những cuộc chiến tranh phi nghĩa:
+ Người chinh phụ vì chiến tranh mà phải xa lìa chồng mình, cắt đi khát khao hạnh
phúc mà nàng vô cùng mong mỏi: "Gà eo óc ...bể xa" => Nỗi nhớ mong chồng của nàng day dứt từng đêm.
+ Niềm khát khao hạnh phúc của nàng bị đứt đoạn, những yêu thương chỉ được gửi
theo gió "Lòng này gửi ...bằng trời".
- Những người phụ nữ là nạn nhân của xã hội phong kiến, không được lên tiếng đòi
quyền sống, quyền được hạnh phúc:
+ Kiều trong chốn lầu xanh, nàng thương cho số phận mình, thương thân mình,
nhưng chỉ biết bầu bạn với cảnh vật xung quanh, chứ không thể lên tiếng đòi quyền
tự do, quyền được hạnh phúc cho bản thân mình "Mặc người mưa ...xuân là gì", "Vui là ...với ai".
+ Người chinh phụ cô đơn, lẻ loi là thế, nhưng nàng đâu có quyền lên tiếng đòi hỏi
hạnh phúc khi triều đình bắt lính.
=> Tất cả những người phụ nữ xưa đều là nạn nhân của xã hội phong kiến, họ tài
hoa, chung thủy, xinh đẹp nhưng bạc mệnh. Họ bị xã hội đưa đẩy tới bước đường
cùng, biến cuộc sống của họ thành bi kịch. 3. Kết bài
- Khẳng định lại số phận của người phụ nữ cùng với phẩm chất của họ.
So sánh hai tác phẩm Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ và Trao duyên mẫu 1
Trong Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã mượn lời Thuý Kiều - cô gái tài hoa bạc
mệnh, để khái quát chung về số phận bi thảm của người phụ nữ dưới thời phong kiến trọng nam khinh nữ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Câu thơ thấm đẫm nỗi xót xa, ai oán, như một lời than phẫn uất trước định mệnh bất
công. Tiếc thay, trong xã hội như thế thì bạc mệnh đã trở thành số phận chung của
bao kẻ hồng nhan. Các tác phẩm nổi tiếng như Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du),
Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn) và Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều) đã
chứng minh cho bi kịch ấy.
Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du, in
trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài thơ này trước hoặc sau khi
được triều đình nhà Nguyễn cử đi sứ sang Trung Quốc. Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền
với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc, sổng vào đầu đời Minh. Vì hoàn cảnh éo
le, nàng phải làm lẽ một thương gia giàu có họ Phùng ở Hàng Châu. Vợ cả ghen,
bắt Tiểu Thanh ở một mình trong ngôi nhà biệt lập trên núi Cô Sơn. Tuổi thanh xuân
của nàng bị giam hãm trong bốn bức tường quạnh quẽ. Thương thân, tiếc phận,
Tiểu Thanh làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. Ít lâu sau, nàng-chết
vì buồn, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập
thơ, may còn sót lại một số bài được người đương thời chép lại, đặt tên là Phần dư
(đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc mệnh của nàng.
Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc
mệnh, đồng thời bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao phụ
nữ tài hoa khác, cảm xúc ấy đã được tác giả thể hiện qua bài thơ nổi tiếng:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi.
Cái ẩn phong lưu khách tự mang,
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chàng?
Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau khi nàng mất, nhà thơ ngậm ngùi trước cảnh
đời tang thương dâu bể cảnh đẹp Tây Hổ đã hoá gò hoang Thời gian huỷ hoại tất
cả. Trên gò hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nhắc
đến cảnh đẹp Tây Hổ, chắc hẳn tác giả có ý nói về con người đã từng sống ở đây,
tức nàng Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc ấy cũng chẳng còn lại gì
ngoài những giai thoại về nàng, cảnh ấy khiến tinh này nhân lên gấp bội. Trái tim
của thi sĩ thổn thức trước tập thơ gợi lại kiếp người xấu số:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua tập thơ như thế nào? Chắc chắn đó là
nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả
là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Nhã thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa
bạc mệnh và có cảm giác như linh hồn nàng vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết
trong cô đơn, héo hắt. Tuổi thanh xuân của nàng đã bị đọa đày, tước đoạt thì oan
hồn nàng làm sao siêu thoát được?
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Vãn chương vô mệnh đốt còn vương.
Son phấn tượng trưng cho sắc đẹp của phụ nữ, mà sắc đẹp thì có thần. Dù người
đẹp có thể bị đọa đày, vùi dập và chết đi thi tên tuổi họ vẫn đời đời lưu lại như Tây
Thi, Dương Quý Phi... Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ
đẹp tinh thần của giới văn nhân tài tử nói chung. Vá chương vô mệnh bởi nó không
biết đến sống chết, ấy vậy mà ở đây, chương như có linh hồn, cũng biết giận hờn và
biết cố gắng chống bạo lực hủy diệt để tồn tại, để nhắn gửi đến hậu thế những điều tâm huyết. ● ● ● ●
Dù tập thơ của Tiểu Thanh đã bị đốt phần lớn nhưng chỉ một chút còn lại cũng đủ để
người đời thương cảm và xót xa cho nàng. Trong xã hội phong kiến cũ, có biết bao
nhiêu nàng Tiểu Thanh như thế? Cùng một mối thông cảm và xót thương như
Nguyễn Du, Đặng Trần Côn đã sáng tác ra Chinh phụ ngâm để phản ánh nỗi khổ
của những người phụ nữ có chồng ra trận, lên án chiến tranh gây nên cảnh sinh li tử
biệt. Tác phẩm chứa đựng tư tưởng đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của
con người. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã dịch từ chữ Hán sang chữ Nôm, chuyển tải một
cách tài tình nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ gồm từ câu 193 đến câu 228, kể về
việc sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường
đẩy hiểm nguy chốt chóc mà xót xa, lo lẳng cho chồng. Một lần nữa nàng tự hỏi vì
sao đôi lứa phải chia lìa? Vì sao nàng phải lâm vào tình cảnh éo le một mình nuôi
mẹ già con dại? Vì sao nàng có chồng mà lại phải chịu cảnh phòng không chiếc
bóng? Có thể coi đây là đoạn thơ thể hiện rõ nhất tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả.
Người chồng đã lên đường ra trận, người vợ thấy lòng trống vắng lạ lùng. Nàng lặng
lỗ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, trong nỗi cô đơn trĩu nặng. Tâm trạng nàng
bồn chồn, đứng ngồi không yên, sốt ruột mong ngóng tin vui mà chẳng thấy. Suốt
năm canh một mình một bóng bên đèn, nỗi khổ không biết san sẻ cùng ai:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bôn.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, cho dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu
nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa.
Dường như người chinh phụ không muốn đụng tới bất cứ thứ gì vì tình cảm đến sự
chia lìa, tan vỡ của hạnh phúc lứa đôi. Tâm thư của nàng thật chông chênh, chơi
vơi, khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt
vọng, nàng chỉ còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió:
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng gửi đến non yên
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng.
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Tình cảnh ấy. tâm trạng ấy tự nó đã nói lên bi kịch không được sống hạnh phúc của
người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời cũng phản ánh thái độ lên án chiến tranh
của tác giả. Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là lời ca ai oán của người
cung nữ có tài sắc, lúc đầu được vua yêu chuộng, nhưng chẳng bao lâu lại bị ruồng
bỏ, lãng quên, ở trong cung cấm, nàng xót thương cho thân phận mình và oán trách nhà vua phụ bạc.
Đoạn trích Nỗi sầu oán của người cung nữ gồm 36 câu, từ câu 209 đến 244 của tác
phẩm. Nhà thơ đặc tả tâm trạng chua chát, cay đắng của người cung nữ:
Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân!
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.
Trong tình cảnh cô đơn và tuyệt vọng, nàng nhớ lại ngay mơi vao cung, nhan sắc
tươi đẹp, mơn mởn như bông hoa vừa hé nở, thắm sắc thơm hương. Còn giờ đây,
thân phận nàng nào có khác chi hoa tàn nhụy rữa, chẳng ai còn thương tưởng, đoái
hoài. Càng ngẫm nghĩ lại càng chua xót. Nỗi chua xót, tủi hờn cứ theo ngày tháng
mà cuộn dâng, giày vò tâm hồn và thể xác nàng. Người cung nữ cay đắng và bất
bình trước một điều phi lí: Bỗng không mà hoá ra người vị vong, có nghĩa là mình
chẳng khác chi một người đàn bà goá bụa, trớ trêu hơn là góa bụa giữa tuổi xuân
xanh. Tâm trạng của người cung nữ lúc ngậm ngùi buồn khổ, lúc ai oán băn khoăn,
khi thẫn thờ da diết và cuối cùng là bực bội, giận hờn. Dường như nàng ngày một
chìm sâu trong nỗi chán chường, tuyệt vọng. Không thể giải thoát khỏi cảnh cô đơn,
nàng âm thầm rút vào cuộc sống nội tâm đầy giằng xé, dằn vặt. Nàng buồn rầu đến
khắc khoải, ngao ngán đến ngẩn ngơ và đau đớn đến xé lòng khi nhìn, thẳng vào
thực trạng thê thảm của số phận:
Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa!
Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều, bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng!
Nỗi buồn tủi đã kéo dài quá sức chịu đựng, người cung nữ oán trách nhà vua một
cách gián tiếp nhưng không kém phần gay gắt:
Đêm năm canh lần nương vách quế.
Cái buồn này ai dễ giết nhau.
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!
Cuối cùng là sự bất bình của nàng trước số kiếp hồng nhan bạc mệnh, muốn phá
tung tất cả cung vàng lầu ngọc để trở về với cuộc sống bình thường, dân dã mà hạnh phúc:
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ!
Xe thế này có dở dang không?
Dang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!
Các nhà thơ có lòng nhân ái sâu xa đã đưa hình tượng người phụ nữ cùng bi kịch
của họ vào văn chương muôn đời. Những số phận bất hạnh như Tiểu Thanh, Thuý
Kiểu, người chinh phụ, người cung nữ tề chi là một vài trong muôn triệu kiếp sống
khổ đau dưới xã hội phong kiến đầy ràng buộc khắt khe và định kiến nghiệt ngã đối
với phụ nữ. Đọc thơ của các nhà thơ trên, chúng ta hiểu vì sao phải xoá bỏ xã hội
bảo thủ, bất công, lạc hậu ấy để bảo vệ quyền sống tự do, hạnh phúc cho phụ nữ
nói riêng và con người nói chung.
So sánh hai tác phẩm Tình cảnh lẻ loi của người chinh
phụ và Trao duyên mẫu 2

Người phụ nữ dù ở bất cứ thời kì nào cũng luôn là phái yếu, luôn là người chịu
những thiệt thòi đặc biệt là trong xã hội phong kiến xưa. Có thể nói, xã hội ấy đã
cướp đi của người phụ nữ không biết bao nhiêu quyền lợi cũng như gây nên cho họ
biết bao đau thương. Vậy nên, các nhà văn thời kì trung đại đã ưu ái đặt người phụ
nữ thành trung tâm các tác phẩm của họ, để phơi bày những nỗi khổ cũng như làm
sáng lên nhân cách cao đẹp của họ. Và chúng ta có thể cảm nhận rõ được thân
phận của người phụ nữ trong xã hội đương thời thông qua một số đoạn trích trong
các tác phẩm trung đại như đoạn trích Trao duyên, Nỗi thương mình và Tình cảnh lẻ
loi của người chinh phụ.
Các đoạn trích trên được sáng tác trong giai đoạn lịch sử phong kiến Việt Nam khi
mà Nho giáo xuất hiện và thống trị bối cảnh xã hội thời bấy giờ. Là người phụ nữ
trong xã hội, họ chịu ảnh hưởng nặng nề từ chế độ phong kiến Nho giáo bởi Nho
giáo thì coi trọng bậc nam tử, coi những người phụ nữ chỉ là cái bóng phía sau
người đàn ông và họ còn phải chịu đựng những thiệt thòi, áp bức từ giai cấp cường
quyền, các hủ tục và các tư tưởng lễ nghĩa. Tư tưởng "trọng nam khinh nữ" khi ấy
đã ăn sâu vào tâm trí, phong tục cũng như lối sống của người xưa, vậy nên, người
phụ nữ càng phải chịu thêm nhiều áp bức, bị bó buộc trong tam quan "tam tòng tứ
đức", không được học hành, bị gò bó về cả thể xác lẫn tinh thần. Không chỉ vậy
tham vọng mở rộng bờ cõi của các bậc vua chúa cũng là một phần đẩy người phụ
nữ vào bi kịch cuộc đời.
Những người phụ nữ ngày xưa thường được dạy dỗ rằng phải biết "tam tòng tứ
đức", cầm kỳ thi họa, và phải giúp ích cho chồng con, cung phụng chồng con cũng
như phải một lòng vì gia đình nhà chồng. Bởi vậy khi lớn lên, họ là biểu trưng, là
hiện thân cho cái đẹp không chỉ ngoại hình mà còn là phẩm chất với sự thủy chung,
hiếu thảo, đức hi sinh, tài năng và khát khao hạnh phúc lứa đôi.
Ví như trong tác phẩm Truyện Kiều, Thúy Kiều - nàng là hiện thân của cái đẹp mà
đầu tiên là nét đẹp về nhan sắc "chim sa cá lặn":
"Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"
Vẻ đẹp ấy không chỉ khiến trăm hoa phải ghen tỵ mà hàng liễu cũng phải tủi hổ khi
đứng trước nàng. Biết bao câu từ để miêu tả vẻ đẹp rạng ngời ấy của nàng, nhan
sắc ấy của nàng! Và Kiều chẳng những đẹp ở dung nhan mà còn đẹp ở tài năng
vượt trội. Cầm, kì, thi, họa, ngón nghề nào nàng cũng tinh thông, đặc biệt là tài năng
gảy đàn với những khúc nhạc tuyệt đỉnh:
"Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một chương"
Những khúc đàn của nàng khiến người nghe phải rơi lệ, khiến cho Hồ Tôn Hiến hay
bao gã đàn ông khác phải mê say. Có thể nói, Kiều là minh chứng cho câu nói "tài sắc vẹn toàn".
Không chỉ vậy, nàng còn là một người con vô cùng hiếu thảo, là một người phụ nữ
có đức hy sinh vô cùng cao cả. Cha và em trai bị bắt bớ vô cớ, muốn được cứu ra
phải tốn trăm lạng vàng, những tưởng một phận liễu yếu đào tơ như nàng không thể
xoay xở. Nhưng không, nàng đã chấp nhận, nuốt nước mắt, bán mình lấy bốn trăm
lạng vàng cứu lấy người thân của mình, chấp nhận làm vợ lẽ cho người ta:
"Cò kè bớt một thêm hai
Giờ sau ngã giá vàng ngoài bốn trăm".
Phải nói, thế gian mấy ai có được sự hiếu thảo, sự hy sinh cao cả như Kiều. Nàng
quả là người con gái hiếu thảo hết mực. Và nàng cũng là một người phụ nữ hết mực
lo lắng cho người mình yêu, thủy chung, son sắt và vô cùng thông minh.
Đêm cuối trước ngày ra đi, Kiều đã nhờ Thúy Vân "chắp mối duyên thừa" của mình,
trao cho người em tình yêu đầu với Kim Trọng. Nàng trao hết những kỷ vật của mình
và người yêu cho em, mong em giúp mình nên duyên cùng chàng Kim. Bằng những
lời nói thông minh thuyết phục em mình, Kiều đã thuyết phục được Vân nối tiếp
duyên nợ với chàng Kim, thế nhưng trong thâm tâm của Kiều, nàng vẫn luôn đau
đáu mối duyên tình đậm sâu ấy, thủy chung một lòng với người mình yêu thương.
Đến khi nghĩ tới viễn cảnh cái chết nơi âm tào địa phủ, nàng vẫn luôn canh cánh về
"lời thề" dưới ánh trăng hôm ấy:
"Hồn còn mang nặng lời thề
Rảy xin chén nước cho người thác oan"
Một lời thể nguyện ăn sâu vào trái tim của nàng, khiến nàng luôn đau đáu khôn
nguôi, dù có trao đi kỷ vật, trao lại cho em gái tất cả nhưng mối duyên đậm sâu kia,
nàng chẳng thể nào buông bỏ được.
Nhắc về sự thủy chung trong tình yêu thì không thể nhắc tới người chinh phụ trong
"Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ" của Đặng Trần Côn được. Bởi người phụ nữ
ấy là minh chứng rõ ràng nhất cho tấm lòng thủy chung, son sắt của người vợ đối
với chồng mình. Chồng ở nơi biên ải xa xôi, người vợ ở nhà năm canh đều trông
đợi, mòn mỏi bên cạnh chiếc đèn khuya. Người phụ nữ ấy khao khát có được một
mái ấm, một niềm hạnh phúc bé nhỏ bên người chồng của mình, vậy nên khi mong
ngóng chồng, thời khắc trôi qua mà "đằng đẵng như niên":
"Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa"
Người chinh phụ ấy không chỉ có đức hy sinh cao cả, sự thủy chung một lòng với
chồng mà còn luôn khao khát hạnh phúc lứa đôi. Đây chính là những phẩm chất cao
đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Và Kiều cũng vậy, nàng là một trong
những người phụ nữ tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong xã hội
phong kiến xưa, là hiện thân cho cái đẹp, vừa thủy chung, hiếu thảo, tài năng lại
luôn biết hy sinh vì người khác.
Những người phụ nữ như thế, đáng ra họ phải có được một cuộc sống hạnh phúc,
an yên, với những người đàn ông yêu thương, trân trọng và lo lắng hết mực cho họ
mới phải. Thế nhưng, dù có xinh đẹp, giỏi giang, tài năng thế nào thì những người
phụ nữ ấy đều phải chịu đựng đủ mọi thiệt thòi trong xã hội, bị coi thường, bị rẻ
rúng, trở thành những cái bóng mờ nhạt giữa cuộc đời. Họ thành những nạn nhân
của xã hội phong kiến với những bi kịch chồng chất.
Đối với Nho giáo, vị thế của người đàn ông là độc tôn trong xã hội, họ được hưởng
thụ mọi quyền lợi cũng như được đáp ứng tất cả các nhu cầu khác. Nếu như người
phụ nữ phải chịu bó buộc trong lễ giáo, với "tam tòng tứ đức" thì người đàn ông lại
được phép "năm thê bảy thiếp", người phụ nữ cả đời chỉ thờ một chồng, còn người
đàn ông thì mặc sức cưới hỏi, chơi bời. Đây chính là một phần làm nên bi kịch của
người phụ nữ: chế độ đa thê, nam quyền, người đàn ông được phép quyết định mọi
thứ, chính điều này đã làm nên những bi kịch đau khổ cho người phụ nữ. Như trong
trích đoạn Nỗi thương mình, Kiều sau khi bán mình cứu cha thì bị lừa bán vào lầu
xanh, ở đây, mỗi ngày, biết bao kẻ nam nhân kéo nhau ra vào lũ lượt mua vui trên
thân xác người phụ nữ:
"Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh"
Nếu như người vợ, người phụ nữ phải luôn ở nhà lo việc nhà cửa, cơm nước, chăm
sóc con trẻ, thủy chung chờ chồng, coi chồng là bầu trời, là tất cả thì những người
đàn ông luôn được đứng cao hơn họ một bậc, mặc sức ăn chơi trong những chốn
xa hoa, lầu xanh. Chế độ đa thê, nam quyền trong xã hội phong kiến đã gây nên nỗi
khổ đau, thiệt thòi cho người phụ nữ mà không điều gì có thể bù đắp được.
Không chỉ vậy, xã hội ấy còn là một xã hội với bao điều bất công, khi những kẻ nắm
trong tay sức mạnh luôn đi đàn áp những kẻ yếu thế hơn và một xã hội mà đồng tiền
là cán cân đánh giá tất cả.
Vì tiền mà Kiều phải bán mình cứu lấy cha và em, vì tiền mà cuộc đời của Kiều mới
bi thảm mà hết lần này tới lần khác bị lừa bán vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, biến
cuộc đời một cô gái khuê các thành mười lăm năm lưu lạc đau khổ. Vì đồng tiền mà
những ma cô dẫn gái đã biến Kiều trở thành một gái làng chơi khiến một người con
gái xinh đẹp, tài năng phải chán chường chính bản thân mình:
"Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
Mặc người mưa Sở gió Tần
Những mình nào biết có xuân là gì"
Cũng chính vì đồng tiền mà người con gái ấy phải từ bỏ mối tình đầu đầy hạnh
phúc, trao lại duyên tình của mình cho em gái, thuyết phục em gái trả nghĩa cho tình lang của mình:
"Lạy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em"
Nếu như xã hội ấy công bằng hơn, có tình người hơn thì liệu rằng, Kiều có phải dứt
lòng trao duyên, có phải đến nỗi bán mình lấy tiền cứu cha hay không? Chắc chắn là
không! Bởi xã hội ấy thối nát, ích kỷ với lũ cường quyền đầy xảo trá mới đẩy con
người ta tới bước đường cùng, đẩy những người phụ nữ tới bước truân chuyên, bi kịch của số kiếp.
Xã hội phong kiến đầy rẫy những nỗi bất công, được điều khiển bởi quyền lực và
đồng tiền, thế nên nó chẳng thể tránh khỏi những cuộc chiến tranh phi nghĩa, tước
đi quyền hạnh phúc của bao nhiêu người phụ nữ trong xã hội.
Những người phụ nữ khi lấy chồng, luôn mang trong mình khao khát một cuộc sống
lứa đôi hạnh phúc, vui vầy. Niềm hạnh phúc ấy đến từ người chồng bởi với họ,
người chồng là tất cả của họ "xuất giá tòng phu", chính là khuôn khổ này. Thế
nhưng, khi người phụ nữ đang được vui thú nghi gia, được hưởng sự hạnh phúc ấy
thì những cuộc chiến tranh phi nghĩa xảy ra. Triều đình bắt bớ trai đinh đi lính, và
những người phụ nữ kia trở thành những nàng chinh phụ. Chồng nơi chiến trận, ra
hiểm vào nguy, làm sao mà người vợ không lo lắng cho được? Như nàng Tô Thị kia
đã trở thành núi Vọng Phu chỉ vì chờ chồng đó sao? Hay như nàng Vũ Nương trong
"Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ, bi kịch gia đình xảy ra chẳng
phải nguyên nhân sâu xa xuất phát từ việc người chồng bị bắt đi lính chiêm hay
sao? Còn người chinh phụ trong đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ"
cũng chịu chung số phận ấy. Nàng vò võ một mình suốt năm canh, ngày này qua
tháng khác, mòn mỏi chờ đợi tin của người chồng của mình. Suốt đêm thâu, nàng
ngồi bên rèm, mỗi khắc trôi qua những tưởng cả một năm ròng rã:
"Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa"
Còn nỗi nhớ chồng thì dài đằng đẵng như "đường lên trời":
"Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi tới non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
Có thể nói, chiến tranh phi nghĩa đã cướp mất đi của người phụ nữ những niềm
hạnh phúc nhỏ bé nhất, đẩy họ tới bi kịch trong cuộc sống.
Và không chỉ thế, những người phụ nữ ấy còn trở thành những cái bóng phía sau
chồng con, bởi họ không có quyền được lên tiếng đòi quyền được hạnh phúc, được
sống mà phải chịu đủ mọi đắng cay, tủi nhục.
Ví như Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình, nàng hiểu rõ những bi kịch của số
phận, hiểu rõ sự nhơ nhớp của chốn thanh lâu, hiểu rõ nỗi đau mình phải chịu để tự
"thương mình". Thế nhưng, nàng đâu có quyền được đòi hỏi một cuộc sống khác,
không được quyền hưởng niềm hạnh phúc khác, bởi nàng đã bị bán đi vào đây như
một món hàng người ta mua bán ngoài chợ, bị rẻ rúng, khinh miệt đến thể nhưng
nàng không thể lên tiếng để đòi quyền được sống, được hạnh phúc. Đó chính là do
cái xã hội kia ban tặng, người phụ nữ chỉ vốn là một món hàng, một thứ vật trang trí
làm đẹp cho những người đàn ông trong xã hội này mà thôi.
Tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến, họ là nạn nhân của cả cái xã
hội đen tối, xấu xa đó. Dù có tài có sắc, có lòng chung thủy, bao dung đến đâu, họ
cũng sẽ phải gánh chịu những nỗi thiệt thòi, oan khiên, đôi khi là cả bi kịch được tạo
nên từ lễ giáo, phong tục trong xã hội ấy. Họ tài hoa mà bạc mệnh, như Kiều, như
người chinh phụ kia hay như muôn vàn người phụ nữ khác vô danh trong xã hội phong kiến đương thời.
Đúng như Nguyễn Du đã cảm thán một câu về thân phận người phụ nữ trong Truyện Kiều rằng:
"Đớn đau thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
Cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội xưa chỉ là mảnh chuông treo ngoài cửa
sổ, chẳng có lấy một ai đảm bảo cho họ được quyền sống, được hạnh phúc cả. Đọc
những tác phẩm trên, ta mới thấy được nỗi bất hạnh tới cùng cực của những người
phụ nữ thời phong kiến. Từ đó, chúng ta ngày nay càng thêm cảm thông, thấu hiểu
và trân trọng những người phụ nữ ấy, càng thêm trân trọng, yêu quý những người phụ nữ xung quanh mình. ------------------------
So sánh hai đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ và Trao duyên để thấy
được nhân vật người phụ nữ trong xã hội phong kiến vừa được VnDoc.com gửi tới
bạn đọc. Bài viết được tổng hợp gồm có 2 bài văn mẫu. Qua bài viết bạn đọc có thể
thấy được người phụ nữ dù ở bất cứ thời kì nào cũng luôn là phái yếu, luôn là người
chịu những thiệt thòi đặc biệt là trong xã hội phong kiến xưa. Chúng ta có thể cảm
nhận rõ được thân phận của người phụ nữ trong xã hội đương thời thông qua một
số đoạn trích trong các tác phẩm trung đại như đoạn trích Trao duyên, Nỗi thương
mình và Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Trong truyện Kiều thì Thúy Kiều là
một người tài giỏi, nàng còn là một người con vô cùng hiếu thảo, là một người phụ
nữ có đức hy sinh vô cùng cao cả. Nàng đã chấp nhận, nuốt nước mắt, bán mình
lấy bốn trăm lạng vàng cứu lấy người thân của mình, chấp nhận làm vợ lẽ cho
người ta. Kiều đã thuyết phục được Vân nối tiếp duyên nợ với chàng Kim, thế
nhưng trong thâm tâm của Kiều, nàng vẫn luôn đau đáu mối duyên tình đậm sâu ấy,
thủy chung một lòng với người mình yêu thương. Nói đến sự thủy chung thì phải
nhắc đến người chinh phụ trong Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Bởi người
phụ nữ ấy là minh chứng rõ ràng nhất cho tấm lòng thủy chung, son sắt của người
vợ đối với chồng mình. Chồng ở nơi biên ải xa xôi, người vợ ở nhà năm canh đều
trông đợi, mòn mỏi. Cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội xưa chỉ là mảnh
chuông treo ngoài cửa sổ, chẳng có lấy một ai đảm bảo cho họ được quyền sống,
được hạnh phúc cả. Mong rằng qua bài viết bạn đọc có thêm tài liệu để học tập nhé.