lOMoARcPSD| 61431571
SỔ TAY CẨM NANG KIẾN THỨC LÍ LUẬN DÀNH CHO HSG
VĂN THPT (99 ĐOẠN KIẾN THỨC LÍ LUẬN VĂN HỌC)
1. Viêt văn - hoạt động sáng tạo của người nghệ
“Viết văn là đem đến cho tâm hồn con người ta đồng thời sự yên ổn không
yên ổn, cùng một lúc vừa cởi giải, vừa gây n khoăn, thắc mắc.... Chuỗi quá trình
ấy diễn ra liên tục thông qua ... vẻ đẹp của ngôn ngữ” (Nguyễn Minh Châu - Trang
giấy trước đèn - NXB Khoa học xã hội, H. 1995). Hoạt động viết văn là biến cái
bình thường trở nên hấp dẫn, nhà văn phát hiện ra cái đẹp trong cái rất đỗi bình
thường. “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn nảy nở lên từ
những chân cảm đối với những con người tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam
một nhà văn quý mến cuộc sống, trân trọng trước sự sống của mọi người xung
quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái vị và cái nhã thú của
những tác phẩm cốt cách phẩm chất văn học" (Nguyễn Tuân). c phẩm
nghệ thuật phải tiến nói xuất phát từ những rung động chân thực của nhà văn
trước hiện thực, nảy nở lên từ những tình cản nhà văn dành cho con người, biết
sống cùng những ước mơ, khát vọng của những mọi người quanh mình. Nếu thiếu
đi trái tim đầy tình yêu thương của nhà văn thì cái hiện thực kia sẽ mãi mãi nằm
trong yên lặng. Mỗi nhà văn mở lòng ra đón lấy tất cả các vang động của đời; đến
những “vùng đất mới” để đào xới một mảnh đất để lật lên những vỉa hiện thực
tìm cho mình thế giới hình tượng đó, hay tìm đến mảnh đất hiện thực đã rất quen
thuộc để nhìn bằng đôi mắt mới. Nếu như Trọng Phụng xuất sắc ở mãng đề
tài về cuộc sống thành thị của một hội “chó đểu”, nếu như Nguyễn Công Hoan
tài năng trong việc khắc hoạ bức tranh thế giới quan lại khả bất lương Nam
Cao rực rỡ trong sáng tác về người nông dân và trí thức của tiểu tư sản thì Thạch
Lam lại hướng ngòi bút vào cuộc sống của những người tầng lớp dân nghèo với
những khám phá tinh vi về thế giới nội tâm, đời sống tinh thần bên cạnh nỗi khổ
“áo cơm ghì sát đất”.
2. Giá trị của nhà thơ ở đâu - trong chính tác phẩm của họ.
Điều kiến tạo nên giá trị của một nhà thơ? Cuộc sống vật chất của người
nghệ trong hội rất thiếu thốn, nhưng tâm hồn họ thì luôn dạt dào yêu
thương. Thi nhân nhìn đâu cũng thấy nét thơ mộng, lãng mạn. Và nỗi buồn chẳng
qua là sự biểu hiện ngược của lòng yêu đời khát khao a nhập vào cuộc sống.
Lòng họ đẹp, họ cũng tưởng sống, nhưng họ lại đầu thai nhầm thế kỷ (Vũ
Hoàng Chương), nên họ khó thực hiện hiện được tưởng của mình. thế,
họ cảm thấy xót xa, cảm thấy vơ lạc loài giữa thế giới ồn ào xung quanh. Nhưng
ngay cả khi cuộc sống tốt hơn, thì cái làm nên giá trị của nhà thơ chính “kho
lOMoARcPSD| 61431571
tâm hồn đầy phong hoa tuyết nguyệt” của chính nhà thơ luôn biết đón mọi ngọn
gió cảm xúc vang động từ cuộc đời.
Mỗi nhà thơ có một tạng riêng - đó cũng là cơ sở tạo nên giá trị của nhà thơ.
Chẳng hạn, Huy Cận “Nhạy cảm với buổi chiều cũng nhạy cảm trước nỗi buồn
đơn của con người, đồng thời cũng thhiện sự thất vọng của con người
trước thức tại. Thế giới nghệ thuật của Lửa thiêng đã góp phần bộc lộ niềm khát
vọng lớn nỗi thất vọng lớn của Huy Cận. Khát vọng lớn khát vọng bất tử
cùng thời gian, khát vọng tìm kiếm hạnh phúc trong thời quá khứ,trong sự hòa
đồng với thiên nhiên và nhân loại. Nhưng Huy Cận đã thất vọng vì càng xuôi về
quá khứ nhà thơ càngđơn để cuối cùng chợt nhận ra tình trạng của mình
trên con đường thời gian vô tận” (Trần Khánh ThànhLê Dục Tú. Huy Cận về tác
gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục, 2003) - đó là tạng riêng của Huy cận, và đó cũng
sở để tạo nên gương mặt nhà thơ trong vườn hoa đa màu, đa âm của Thơ
Mới. Tuy nhiên “Cuộc đời nhà thơ, giá trị nhà thơ không nên tìm đâu xa mà ngay
trong chính tác pham của họ ”? Nhà thơ qua thi phấm của mình bộc lộ những cảm
xúc giấu kín. Thông qua đó, ta có thể hiểu được những tâm tư, những sự việc nhà
thơ từng trải để thể thấy được cả cuộc đời, số phận nhà thơ từ đó. Cội nguồn
cảm hứng sáng tạo của thơ ca là những sự kiện trong chính cuộc đời của nhà thơ.
những nhà thơ lấy mình đối tượng để phản ánh trong sáng tác, Trong sáng
tác văn học, tính chủ thể là tất yếu, bởi người nghệ sĩ không thể sáng tác khi tâm
hồn nguội lạnh, dửng dưng. Tính chủ thể thể hiện ở tư tưởng, quan niệm, tâm hồn,
tình cảm thị hiếu, vốn sống, inh nghiệm, tài nghệ của nhân tác giả. Qua sáng
tác, người nghệ nmở cánh của tâm hồn riêng của mình cho người đọc.
Hình tượng trong thơ không ai khác chính là nhà thơ. Hai chữ “nhà thơ” có lúc
tư cách của người trong cuộc, có khi viết về sự kiện khác của cuộc sống hoặc viết
về những người khác thì bẩn thân nhà thơ vẫn sự hóa thân sâu sắc. Chính
vậy dường như tác phẩm phản ánh phần nào bóng dáng cuộc đời, tiểu sử, số
phận của nhà thơ. “Giá trị nhà thơ không nên tìm đâu xa mà ngay trong chính tác
pham của họ” - Bởi lẽ nhà thơ chnhân, cha đẻ của những tác phẩm tinh thần
đó nên tác phẩm bao giờ cũng ý nghĩa quyết đinh sự tồn tạo, tên tuổi của tác
giả. Chỉ con đường đến với tác phẩm thì người đọc mới đánh giá được tài năng,
giá trị của nhà thơ, của bất cứ nghệ sĩ nào.
3. Hiện thực là “men say” trong tác phẩm (Mối quan hệ giữa hiện thực
sáng tạo của người nghệ sĩ)Tác phẩm đó chính những “giọt mật” ngọt
ngào, kết tinh của tài năng tâm sức, quá trình lao động nghệ thuật hăng say
của người nghệ sĩ, kết quả đẹp đẽ của cuộc sống đã được lắng lọc, chăm chút.
lOMoARcPSD| 61431571
Nhà thơ cũng giống như “bầy ong giữ hộ cho người/ những mùa hoa đã tàn phai
tháng ngày”. Quá trình sáng tạo giờ đây không chỉ tuân thủ quy luật phản ánh hiện
thực đơn thuần mà còn phù hợp với chức năng của văn chương chân chính: nhận
thức, giáo dục để hướng con người đến với cái đẹp đích thực. Bằng cách gilại
những “mùa hoa” đẹp nhất, những hương vị đậm đà nhất của cuộc sống, con người
thể nhìn lại, thấy được một hiện thực đã qua một cách sống động, để rồi tự cảm,
tự ngẫm ra bao thông điệp sâu sắc thú vị. Nhờ vậy mà hiện thực trở nên có giá trị
lâu dài bền vững khi được lưu giữ trên trang giấy- trang văn. Văn học cũng
vậy, những tác phẩm sẽ sống nếu được tắm mát nuôi dưỡng trong mạch sữa
tươi mát của cuộc đời. Chế Lan Viên -người đã từng trải nghiệm thấm thía điều
này nên trong bài “Sổ tay thơ” thi sĩ đã viết:
Bài thơ anh, anh làm một nửa thôi Còn một nửa, đmùa thu làm lấy Cái xào
xạc hồn anh chính là xào xạc lá Nó không là anh, nhưng nó là mùa.
Khi hiện thực bước vào tác phẩm, hiện thực ấy không còn “vị ngọt mùi
hương” đơn thuần nữa. Qua bàn tay của nhà văn, nó trở thành “men say” - cái đẹp
khả năng làm nên sức mạnh nội tại, giúp văn chương trải qua bao mưa nắng
với đầy làm say đất trời, lôi cuốn độc giả, hướng con người đến cái Chân -
Thiện - Mĩ. Làm nên điều diệu đó phải nhờ đến cuộc hành trình” âm thầm,
lặng lẽ, không ngừng dấn thân, không ngừng khám phá và miêu tả cuộc sống của
nhà văn. Người nghệ chân chính người yêu say cuộc đời thiết tha, yêu thương
con người hết mực, với trái tim không ngừng rung cảm trước mọi sự việc mà anh
ta bắt gặp, cũng như không bao giờ cho phép bản thân thôi ngụp lặn giữa bể đời
để tìm cho ra “chất vàng mười” đem gửi vào trang sách một cách lặng thầm. Quá
trình sáng tạo là một hành trình song song - cuộc đời thẩm thấu qua lăng kính của
người nghệ sĩ, và trở lại, chính người nghệ sĩ lại cất những khúc ca về cuộc đời.
4. Hành trình lao động sáng tạo riêng của người nghệ - khổ hạnh trên
con chữ.
Lao động nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ là một thứ lạo động đặc biệt. Phải
hứng, nếu không hoặc chưa cảm hứng thì chưa thể sáng tác. Mỗi nhà văn,
nhà thơ một cách sáng tác riêng. Mỗi người nghệ một con đường, hành
trình lao động sáng tạo riêng. Xuân Diệu làm thơ được “thiết kế” ng phu chặt
chẽ. Tố Hữu thì “câu thơ trước gọi câu thơ sau”. Hoàng Cầm làm thơ, có thể như
ai đọc chính tả cho chép lại. Ông sáng tác bài: “Lá Diêu Bông” vào quá nửa
đêm mùa rét 1959. Khi cả nhà đang ngủ say, ông tỉnh giấc “chợt bên tai vẳng lên
một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, tiết điệu, nghe ntừ thời
nào, xa xưa vẳng đến, lẽ ttiền kiếp vọng về: “Váy Đình Bảng buông chùng
lOMoARcPSD| 61431571
cửa võng... (“Về Kinh Bắc). Nhà thơ Chế Lan Viên qua đời n để lại một núi
“Phác thảo t- di bút”. Đọc hồi các nhà văn, nhà thơ danh tiếng, ta ngạc nhiên
cùng khâm phục về lao động sáng tạo của họ. câu thơ được viết hàng
tháng. Đạt nói: “Nhà thơ phải nhọc mệt, phải làm phu chữ. Chữ bầu lên nhà
thơ”. Với tâm niệm ấy, Lê Đạt tạo ra câu thơ của riêng mình, không giống bất kỳ
nhà thơ nào. Đối với Lê Đạt, không có chữ cũ, chữ mới. Vấn đề là nhà thơ đặt nó
vào đâu trong câu thơ, trong bài thơ để bài thơ mang tinh thần hiện đại. Bài thơ
“Xưng danh” của ông đã sử dụng rất đắc địa chữ “vô” trong các câu thơ: “Phó
thường dân/phố nhỏ vô danh/ vô giai thoại/ Thành tích/ mấy trang giấy sờn/ mấy
câu thơ vui/ i Vô Sơn”. . Đúng là “quá trình sáng tạo nghệ thuật chân chính bao
giờ cũng là một quá trình kép, vừa sáng tạo ra thế giới, vừa kiến tạo nên bản thân
mình” - sáng tạo văn chương và kiến tạo nên gương mặt mình một hành trình
khổ hạnh song hành. Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:
“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật Một giọt mật thành, đời
vạn chuyến ong bay Nay rừng nhãn non Đoài, mai vườn cam xứ Bắc Ngọt mật ở
đồng bằng mà hút nhụy tận miền tây.”
Người nghệ phải hút lấy chất mật ngọt tinh túy nhất của “quặng” cuộc đời,
chưng cất những chất liệu hiên thực để tạo nên tác phẩn thật s giá trị đời.
Sáng tạo nghệ thuật là một hành trình lao động miệt mài và thấm đẫm những giọt
nước mắt. Để trở thành nhà văn không khó nhưng một nhà văn chân chính lại
không hề dễ dàng. Người nghệ sĩ phải sống thật với đời, “ cảm” sâu những tiếng
nói tình cảm vẫn ngày đêm thổn thức giữa chốn bộn bề, không ngừng sáng tạo và
bồi dưỡng tâm hồn mình để tưởng tình cảm tốt đẹp thể lan tỏa muôn nơi.
Văn học dẫu cho cùng vẫn là câu chuyện của những trái tim đồng điệu, của những
tiếng i đồng tình, đồng chí, đồng ý vì thế bạn đọc phải nâng cao nhận thức cũng
như không ngừng bồi đắp trái tim cho đẹp, cho tốt. Khi ấy văn học đã hoàn thành
sứ mệnh thiêng liêng của mình: hướng con người đến giá trị đích thực Chân -
Thiện - Mỹ.
5. Làm thơ, ấy dùng lời những dấu hiệu thay cho lời nói, tức
chữ
“Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần” - Một nhà văn, muốn sáng tác
một tác phẩm hay, tồn tại mãi với thời gian, thì ngoài sự hiểu biết rộng rãi, tài
năng bẩm sinh còn phải cảm xúc thật sự tđáy lòng mình, thì mới sáng tác
được. Bên cạnh đó còn tài năng sử dụng ngôn ngữ, nghệ thuật một cách đầy
thẩm mỹ, nhân văn. Trong Mấy ý nghĩ về thơ, Nguyễn Đình Thi đã từng khẳng
định: “Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, tức là chữ - để
lOMoARcPSD| 61431571
thể hiện một trạng thái tâm đang rung chuyển khác thường” “Chữ” đây không
chỉ hiểu đơn giản vỏ bọc âm thanh trong đó ngôn tcòn được sử dụng, được
tổ chức một cách nghệ thuật. Ngôn từ trong văn chương không phải ngôn từ thô
ráp như trong cuộc sống hàng ngày mà nó đã được gọt rũa bằng bàn tay khéo léo
của người nghệ để làm nên tác phẩm văn học giá trị nhất. Bởi “yếu tố đầu
tiên của văn học là ngôn từ”. Gọt rũa được những ngôn từ hay, độc đáo trong tác
phẩm chính là một phàn thành công của người nghệ sĩ. Phải chăng ngôn từ trong
văn học không chỉ đơn thuần một hiệu bình thường còn đòi hỏi phải
chạm đến trái tim người đọc, phải “thể hiện một trạng thái tâm bất thường”.
Tức qua ngôn từ, nhà thơ ghi lại trạng thái tâm hồn nh đang những biến
chuyển, rung động sâu sắc, mạnh mẽ, căng thẳng, những say khác thường,
những cảm xúc chỉ thăng hoa một lần rồi vụt tắt. Nói cách khác, cội nguồn của
sáng tác văn học chính là nguồn cảm hứng trong lòng mỗi nhà văn. Và ngôn từ là
nơi ghi dấu lại những thăng trầm trong cảm xúc đó. “Đọc một tác phẩm văn
chương, tôi luôn khát khao thám mã giá trị tác phẩm, những kiến tạo đầy hoặc
của các con chữ mà có khi chính người sáng tạo cũng không nghĩ đến” (Nhà phê
bình Hoàng Thụy Anh) - muốn được một cuộc thám hiểm chữ nơi người đọc,
thì trước tiên người sáng tạo phải khổ hạnh trên cánh đồng chữ ấy.
6. Giá trị của “chữ” - “Chữ bâu nên nhà thơ” (Lê Đạt)
“Chữ” đây không còn những chữ bình thường tri mà đã được thổi
hồn, trở thành ngôn ngữ thơ, được sử dụng đầy tính nghệ thuật trong văn bản văn
học. "Chữ bầu lên nhà thơ '' là cách nói để khẳng định, cách vận dụng, cấu tạo từ
ngữ trong tác phẩm sẽ thể hiện tài năng, truyền tải tư tưởng tình cảm cảu thi sĩ.
Từ ''chữ'' là hình thức nghệ thuật bên ngoài ta cảm nhận được thế giới tâm hồn
của thi sĩ. Người thi sĩ có tài sẽ là người tổ chức được chữ nghĩa khéo léo tinh tế,
tạo cho ngôn từ sức gợi mở, ba, chuyên chở được những thông điệp kiins
đáo, sâu sắc. Ý kiến của Đạt đã khẳng định ý nghĩa của ngôn từ trong việc biểu
hiện con người, tâm hồn, tài năng của nhà thơ. "Chữ" trong tác phẩm văn học bao
giời cũng được sử dụng một cách dụng ý. Người nghệ làm văn đgửi vào
đó bao nhiêu nỗi niềm tình cảm của mình, những tình cảm đó đến với người đọc
nhờ lớp ngôn từ. ''Chữ'' trong thơ được cấu tạo đặc biệt đúc, hàm súc, giàu
tính biểu cảm và đặc biệt là giàu nhạc điệu. Vì vậy quá trình sáng tạo của nhà thơ
phải quá trình miệt mài chon lọc, sử dụng câu chữ sao cho đạt hiệu quả cao
nhất. Mỗi chữ đều là kết quả của quá trình lao tâm khổ tứ của người nghệ sĩ. Nhìn
vào '' chữ'' trong thơ, không chỉ thấy được tâm sự nỗi lòng của nhà thơ, ta còn
thấy được cái tài của người cầm bút. Cái tâm, cái tài ấy không đồng điệu thì cũng
lOMoARcPSD| 61431571
khó cảm nhận được. Để được ch'' hay'' đòi hỏi người cầm bút phải trải
nghiệm, phải suy ngẫm, rung cảm mãnh liệt. Mỗi chữ là một tiếng lòng, mỗi chữ
đều'' bầu lên nhà thơ'' chính là bởi lẽ vậy. Có nhà thơ đã từng tâm sự rằng: "Phải
phí tổn ngàn cân quặng chữ/ Để thu vmột chữ thôi/ Những chữ ấy làm cho
rung động/ Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài'. Dịch giả Nguyễn ch Lan
từng chia s“Tôi nguyện người thợ cày trên cánh đồng chữ”, đó cũng nỗi
niềm đau đáu cho cả người sáng tác văn chương. từng quan niệm: “Ngọn gió nhà
thơ băng qua rừng, băng qua biển để tìm ra tiếng nói của riêng mình”. Để tìm ra
khẳng định tên tuổi mình trên thương trường giấy bút, nhà văn đều phải trải
qua những thử thách cam go, vất vả. Nhưng thành quả cho quá trình khổ luyện y
là dấu ấn phong cách được lưu lại muôn đời, không thể trộn lẫn, không thể quên
trong lòng độc giả. Có lẽ đây là món quà quý giá bậc nhất cho bất cứ ai đặt chân
vào lĩnh vực nghệ thuật. M.Gorki đã đặt ra yêu cầu với người cầm bút: “Nghệ sĩ
là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những
ấn tượng đó giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình
thức riêng”. “Nghệ sĩ” người khai sinh ra những tác phẩm nghệ thuật đích thực.
“Những ấn tượng chủ quan” mà họ phải “biết khai thác” chính là cảm nhận, tình
cảm, cách đánh giá, nhìn nhận của riêng nghệ trước sự kiện cuộc sống, không
bắt chước, lặp lại người khác. Nhưng “ấn tượng” ấy còn phải mang “giá trị khái
quát” nghĩa là nó không chỉ xuất phát từ cảm nhận chủ quan nhà văn mà còn phải
sức tổng quát, tái hiện cả hiện thực rộng lớn, thực trạng chung của hội.
Những điều này đều được tác giả gửi gắm vào nội dung tác phẩm. Tuy nhiên cũng
cần “biết làm cho những ấn tượng đó những hình thức riêng”, tức nhà văn
đồng thời phải biết chuyển hóa những khám phá, cảm nhận của mình bằng cách
sáng tạo hình thức nghệ thuật hấp dẫn, đặc biệt. Mỗi tác phẩm văn học có thể coi
như “một tia lửa không lặp lại” của chính người viết, cũng như của một nền văn
học. Tác phẩm sống lâu bền, lưu giữ trong tâm trí bạn đọc bởi chứa đựng những
giá trị riêng biệt, là “ấn tượng chủ quan” mang tính “khái quát”, được chuyển tải
qua “hình thức riêng” của nghệ sĩ. lẽ vậy cuốn tiểu thuyết “Chiến tranh
không một khuôn mặt phụ nữ” của nhà văn người Belarus Svetlana Alexievich
đã chiếm trọn tình cảm bạn đọc, xứng đáng nhận giải thưởng Nobel Văn chương
năm 2015. Tác phẩm thể hiện “ấn tượng chủ quan” của nhà văn về cuộc chiến
tranh vệ quốc của nhân dân Viết chống lại Đức quốc phe đồng minh
trong thế chiến thứ hai, nhưng chiến tranh được nhìn dưới góc độ của người
phụ nra trận, qua đó khái quát lên hiện thực tàn khốc của cuộc chiến, bày tỏ khát
vọng sống, hòa bình của nhân loại. Truyện cũng chọn được hình thức biểu đạt
lOMoARcPSD| 61431571
riêng, không trộn lẫn. “Mỗi nghệ sĩ thể đến với văn chương và cuộc đời bằng
con đường riêng của mình” (Lã Nguyên). Họ có quyền được lựa chọn điều mình
quan tâm, phản ánh. trên hết viết về điều họ cũng đều lưu lại đó “ấn
tượng” chủ quan “có gtrị khái quát” đi cùng với hình thức riêng biệt, độc đáo.
lẽ đó yêu cầu cần của mỗi một người nghệ khi bước vào địa hạt văn
chương.
8. Sáng tạo của người nghệ sĩChế Lan Viên từng
đặt câu hỏi:
“Có nên chăng Ta nói mãi cái truyền thống, cái ngàn năm Đến nỗi tay
chẳng làm gì được nữa?"
Câu hỏi lẽ đã để lại day dứt trong lòng nhiều người cầm bút, vì không thể
cứ nói mãi những “cái truyền thống, cái ngàn năm” theo lối mòn nữa, mà cần
sự sáng tạo, đổi mới. Nhưng sáng tạo không nghĩa tạo ra những quái,
khó hiểu, cần mang tính nhân văn, hướng đến lợi ích chung của cộng đồng.
Khi chấp nhận dấn thân vào nghệ thuật đồng nghĩa việc dấn thân với thử thách,
phải sáng tạo không ngừng, tìm được lối đi, “ấn tượng” riêng cho mình. Để s
sáng tạo trở nên thành công, trước tiên anh phải ngụp lặn, trải nghiệm với đới, tạo
cho mình cái nhãn quan đúng đắn, sâu sắc, sau đó mới khám phá điều mới lạ,
chưa ai m thấy. Nghệ phải hình thành cho mình hệ tưởng đúng đắn, phổ
quát toàn nhân loại, đồng thời cũng phải tài năng trong sáng tạo hình thức nghệ
thuật. Tác phẩm sẽ chết nếu như không có bạn đọc. Vì thế, người đọc với vai trò
đồng sáng tạo với nhà văn cần biết trân trọng công sức của họ, đón nhận tác phẩm
với tất cả lòng nhiệt thành, thấy được cái mới của trang viết, từ đó học hỏi, mở
rộng tầm mắt mình trước cuộc sống. M. Gorki đã viết: “Người tạo lên tác phẩm
là tác giả nhưng người quyết định số phận tác phẩm lại là độc giả?” - để có được
độc giả thật sự bền vững thì phải khởi nguồn sáng tạo của người nghệ sĩ. “Tác
phẩm nghệ thuật luôn được xây dựng từ những vật liệu mượn thực tại, nhưng
nhà văn không chỉ muốn ghi lại những cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều
mới mê'" (Nguyễn Đình Thi). “Ở đâu lao động, đó sáng tạo ngôn ngữ”.
Chính từ những hoạt động sống hằng ngày, từng lao động, tsinh hoạt ngôn
ngữ ra đời. Ngôn ngữ tồn tại khách quan, không một cá nhân nào thể tùy tiện
thay đổi, làm biến dạng, như một thứ khế ước mọi thành viên trong cộng
đồng đều phải học cách sử dụng.
Ngôn ngữ chính những vỉa quặng từ đó nhà văn, bằng tài năng nghệ
thuật và cảm nhận tinh tế, tôi luyện thành ngôn từ nghệ thuật của mình, là những
tinh tế nhất, hàm súc nhất, biểu cảm nhất, để thể truyền tải trọn vẹn tưởng,
lOMoARcPSD| 61431571
tình cảm anh ta đang ấp ủ. Quá trình đó rất gian khổ, nhưng thành quả cũng
thật cao quý. “Phải tốn hằng tấn quặng ngôn từ/Chthu về một chữ thôi/ Những
chữ ấy làm cho rung động/Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”. Như vậy
thể nói, một vật liệu không thể thiếu để làm nên tác phẩm nghệ thuật mà nhà văn
mượn từ thực tại, chính ngôn ngữ. Sáng tạo nghệ thuật từ chất liệu hiện thực,
snags tạo nghệ thuật trên cả chất liệu ngôn từ.
9. Văn học phải cảm nhận bằng tất cả tâm hồn,
phải dùng trí tưởng tượng,sự liên tưởng, suy luận cảm xúc
với tất cả mọi giác quan và tâm hồn mới có thể hình dung
được những sự vật, hiện tượng trong đời sống, điều đó nói
lên rằng ngôn từ mang tính chất phi vật thể.Nhờ đó văn
bản có thể diễn tả được những sự việc theo dòng chảy lịch
sử hang ngàn năm, vạn năm trên một không gian hữu hạn
hoặc vô hạn. Văn học nghệ thuật ngôn từ. Người nghệ
sĩ tài năng là người nghệ sĩ biết sáng tạo “Chất liệu” ngôn
ngữ của dân tộc để làm nên tác phẩm của mình, xây dựng
hình tượng nghệ thuật của riêng mình tạo cho mình một
giọng điệu riêng, một phong cách riêng, không nhầm lẫn
vào đâu được. Văn hào Nga Chekhov đã khẳng định “Nếu
tác ginào không lối nói riêng của mình thì người đó
không bao giờ là nhà văn cả”. Người ta thể nói phong
cách HXuân Hương, Nguyễn Tuân, Nam Cao , Trọng
Phụng chứ không nói phong cách cho những nhà văn ít ai
biết đến. Chekhov (Nga) quan niệm : “phong cách cần
được định nghĩa như một thủ pháp biểu hiện cách khai thác
hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục
thu hút tác giả“. Theo ông ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên tạo
nên phong cách tác giả. Nhà ngôn ngữ học Đào Thản cho
rằng: ”Những nét biến hóa riêng của tác giả trong việc sử
dụng ngôn ngữ nhằm mục đich diễn đạt nội dung . bao
gồm các yếu tố được luôn luôn tái hiện và hình thành bền
vững trong ngôn ngữ tác giả. thnói, khí của nhà
văn ngôn từ, văn chương quan trọng nhất là chữ nghĩa,
từ ngôn từ nghệ thuật ta nhận ra hiện thực, tài năng, thái
độ của nhà văn thể hiện trong tác phẩm’”. Ngôn ngữ đó
chính là sản phẩm của trí tưởng tượng, của sự trải nghiệm
lOMoARcPSD| 61431571
là tài năng của nhà văn. Cho nên ngôn ngữ nghệ thuật
bao giờ cũng có tính đa nghĩa và độ chênh lệch giữa cái
biểu đạt cái được biểu đạt tạo lập nên những tín hiệu
ngôn ngữ mang ý nghĩa hình tượng. Người ta còn gọi
tính “mơ hồ “của ngôn ngữ, hay tính “lạ hóa” của ngôn
ngữ. Nhà văn tài hoa nhà văn tạo nên nhiều tầng ý nghĩa
trong ngôn ngữ của mình.
Xét riêng về ngôn ngữ trong thơ, một bài thơ hay không dễ ta cảm nhận
được ngay, có khi chỉ bằng linh cảm nhận ra. Đọc rồi, đọc nữa, suy ngẫm, liên
tưởng ta mới nhận ra thứ ánh sáng, màu sắc, hương thơm man mát bên trong hình
tượng thơ. Chẳng thế mà nhà thơ Hoàng Đức Lương đã rất đề cao nàng thơ: Thơ
là sắc đẹp ở ngoài sắc, vị ngọt ở ngoài vị, không thể trông bằng mắt thường được,
chỉ có thi nhân trông thì mới thấy đẹp, nếm mới thấy ngon... Hay như Sóng Hồng
viết: Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng tượng. Vì vậy để hiểu được
bài thơ hay, viết được bài thơ hay nhà thơ không thể không khổ công đi tìm ý, tứ,
câu, chữ bao yếu tố khác trong thơ và ngoài thơ. “Khác với văn xuôi, thơ ca
chỉ dùng một lượng hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện cái hạn của cuộc
sống bao gồm các sự kiện tự nhiên và hội cũng như những điều thầm n trong
tâm linh con người” (TS Hữu Đạt).
Nhà thơ Lưu Quang đã ngợi ca trong bài thơ “Tiếng Việt”: Tiếng tha thiết
nói thường như hát/ Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh/ Như gió nước không thể
nào nắm bắt/ Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh. Và dường như Tiếng Việt với
đủ 6 thanh sinh ra, phương tiện để dành cho thơ ca. Nhà thơ đã lấy trong kho
ngôn ngữ toàn dân, cùng với snags tạo riêng, để mỗi tngữ trong câu thơ phải
diễn tả được đúng điều nhà thơ nhìn thấy, cảm thấy những điều sẽ thấy. Lựa
chọn được một từ ngữ “đắt” để diễn đạt một ý không phải lúc nào cũng suôn sẻ.
Trong một trường liên tưởng của tngữ nhiều từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái
nghĩa..., người viết cần liệt kê vài từ để chọn. Chẳng hạn như, từ “ép” trong câu:
Tuổi già hạt lệ như sương/ Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan một “nhãn tự”
(mắt chữ) trong bài “Khóc Dương Khuê ” của Nguyễn Khuyến. Mỗi câu thơ hay,
bài thơ hay dường như nhất thiết phải một “mắt chữ”. Tản Đà đã suy nghĩ rất
nhiều khi chọn từ “khô” đđưa vào câu thơ: Non cao những ngóng cùng trông/
Suối khô dỏng lệ chờ mong tháng ngày (Thề non nước). Nếu thay từ “khô ” bằng
từ “tuôn ”, hay từ “trôi” thì hiệu quả sẽ như thế nào? - Chắc chắn hiệu quả sẽ giảm
đi rất nhiều, thbiểu ý nhưng cái tình bị xẹp đi rất nhiều. Đúng là, việc trau
chuốt, gọt lựa từng chữ, từng từ như người nghệ nhân tạo tác một tác phẩm điêu
lOMoARcPSD| 61431571
khắc trên đá cẩm thạch. Ngôn ngữ là thứ của cải cùng quý báu và lâu đời của
dân tộc (Bác Hồ). Mỗi nhà thơ sẽ cách tiếp cận, sử dụng riêng vốn ngữ toàn
dân, ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ nghệ thuật để đưa vào bài thơ. Và, thơ ca khi
trở lại với con người và cuộc sống sgóp phần làm cho tiếng Việt ngày thêm giàu
có, trong sáng. Nhưng mỗi một nhà thơ tài năng, không chỉ thả vào thời gian
những câu thơ đáng đọc còn đlại những câu thơ lay động trái tim - đó
những câu thơ làm “mắt chữ” thật sự.
11. Sự vi diệu của ngôn từ trong việc biểu đạt cảm xúc -
M. Gorki: “Nhà văn không chỉ viết bằng ngoi bút cỏn vẽ bằng từ ngữ thể
hiện một cách hoàn hảo những tư tưởng của tác giả, xây dựng một bức tranh đậm
đà, đắp nên những hình tượng sinh động, sức thuyết phục đến nỗi người đọc
trông thấy được những điều tác giả tả” Còn Abbé Duros: “Nhà thơ tìm
hình ảnh để tả cái đẹp bằng từ ngữ thích hợp, khiến người ta khả giác được
tưởng'1”. Mỗi từ ngữ sự vi diệu lấp lánh riêng, bởi bản chất của nghệ rất giàu
cảm xúc hoạt động sáng tạo văn nghệ cũng một phương thức vận dụng qui
luật và đặc trưng của tình cảm.
Tính biểu cảm của ngôn ngữ văn học gắn liền với chức năng biểu hiện cảm
xúc của văn học.Văn xuỗi đặc biệt là thơ ca góp phần bộc lộ tình cảm của người
viết rộng ra là tình cảm của cuộc đời chung. Nghệ thuật nói bằng một thứ tiếng
nói duy nhất đó là ngôn ngữ của chính thế giới bên trong, ngôn ngữ của cảm xúc
và biểu cảm. Raspuchin đã chia sẻ “Nếu tôi viết là tôi đau ở đâu đấy trong người.
Tôi cảm thấy một sự thiếu thốn nào đó”. Tính biểu cảm biểu hiện qua tác phẩm
bằng hình tượng bao quát ngay trong những từ ngữ cụ thể. Tính biểu cảm biểu
hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau như gián tiếp, trực tiếp, hình ảnh hoặc
chỉ là ngôn ngữ thuần tuý. Tuy vậy, tính biểu cảm bộc lộ rõ nhất ấy là khi tác giả
muốn nhấn mạnh cảm xúc nội tâm. Những dòng văn bằng ngôn từ tràn đầy cảm
xúc thanh sơ, dịu nhẹ, trong trẻo mà Thanh Tịnh đã nương vào lòng người đọc -
“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm
tay tôi dân đi trên con đường làng dai hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại
lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ [...] Hằng năm cứ vào cuối thu, ngoài
đường rụng nhiều trên không những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức
những kniệm n man của buổi tựu trường.” (Thanh Tịnh - ""Tôi đi học'"). Hay
Chế Lan Viên đã viết: “Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt/ Như mẹ cha ta như vợ
như chồng/ Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết/ Cho môi ngôi nhà ngọn núi dòng sông” .
Văn học là một hình thái ý thức xã hội cũng là một hình thái nghệ thuật, nhưng
văn học khác với các ngành nghệ thuật khác nhờ đặc trưng chất liệu sáng tạo tác
lOMoARcPSD| 61431571
phẩm. Ngôn ngữ văn học tính chính xác, hàm súc, đa nghĩa, hình tượng biểu
cảm. Ngôn ngữ văn học tạo được tác dụng và hiệu quả thẩm mĩ cho văn bản văn
chương. Tuy vậy, ngôn ngữ văn học chỉ có thể đẹp và phát huy những phẩm chất
của chúng khi nhà văn thực sự tài năng, có năng lực làm chủ vốn ngôn ngữ và có
tính sáng tạo độc đáo. Tsêkhôp: “Mỗi nhà văn phải lối nói riêng của mình.
Nếu tác giả không có lối nói riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là n
văn cả.”
12.Sáng tao
Bất kỳ nhà văn đại của dân tộc nào cũng sử dụng ngôn ngữ của dân tộc
mình để sáng tác. Nhưng vấn đề là ngôn ngữ đó khi tạo nên ngôn ngữ nghệ thuật
của một tác phẩm văn học nó không còn cái nguyên xi của ngôn ngữ đời thường,
của thực tế cuộc sống. Ngôn ngữ đó chính là sản phẩm của trí tưởng tượng, của
sự trải nghiệm và là tài năng của nhà văn. Cho nên ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ
cũng có tính đa nghĩa độ chênh lệch giữa cái biểu đạt cái được biểu đạt
tạo lập nên những tín hiệu ngôn ngữ mang ý nghĩa hình tượng. Người ta còn gọi
là tính “mơ hồ “của ngôn ngữ, hay tính “lạ hóa” của ngôn ngữ. Nhà văn tài hoa
nhà văn tạo nên nhiều tầng ý nghĩa trong ngôn ngữ của mình . Hiểu theo cách trên,
ràng sự “lệch chuẩn ngôn ngữ chỉ đưọc những nhà văn lớn, những nhà
văn phong cách. Chúng ta nên hiểu sự lệch chuẩn đó là ssáng tạo ngôn ngữ
chứ không phải chống lại sự chuẩn mực chung của ngôn ngữ dân tộc. Trái lại
sự lệch chuẩn ngôn ngữ góp phần làm phát triển ngôn ngữ tạo ra những chuẩn
mới của ngôn ngữ, smở rộng chuẩn mực ngôn ngữ. Bởi sự sáng tạo chân
chính trong lời nói nhà văn xét đến cùng đều bắt nguồn từ khả năng tiềm tàng của
ngôn ngữ, từ những qui luật sâu xa của hệ thống ngôn ngữ chung. Vậy chuẩn mực
ngôn ngữgì? Là toàn bộ các phương tiện qui tắc thống nhất và ổn định về cách
sử dụng ngôn ngữ, được qui định phát triển trong xã hội một hiện tượng
ngôn ngữ mang tính truyền thống được hội chấp nhận sử dụng. Vì là truyền
thống nên tính chất bắt buộc. ngược lại sự lệch chuẩn lại là việc sử dụng
ngôn ngữ tính sáng tạo của nhân gắn liền với cách nhìn, quan điểm của
người nói nhưng được xã hội chấp nhận. Những phương diện thường đưọc các
nhà văn sử dụng để tạo nên sự lệch chuẩn bao gồm: Các qui tắc tu từ về ngữ âm;
Từ vựng ngữ nghĩa; pháp; Phương pháp diễn đạt bố cục tác phẩm; Việc
lệch chuẩn ngôn ngữ không chỉ taọ ra hiệu quả thẩm mỹ cho ngôn ngữ nghệ thuật,
ngôn ngữ dân tộc chính tạo ra một văn phong của nhà văn cụ thể. Hồ Xuân
Hương sử dụng ngôn ngữ để tạo hình, tạo nhạc cuối cùng tạo nghĩa. Cách tạo
nghĩa lững có lẽ cơ bản nhất vẫn sự lệch chuẩn ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ
lOMoARcPSD| 61431571
đời thường của Xuân Hương. Những từ ngữ : Lá đa, nguyệt, hoa rữa, miếng trầu,
cái bánh trôi, động Hương Tích, thu, lạnh , Lạch Đào Nguyên....là những ký hiệu
ngôn ngữ di chuyển từ cái miêu tả đến cái ẩn dụ cùng đa dạng, biểu đạt sức
sống tầm cở trụ cái vĩnh cửu. Cái ngạc nhiên, cái đột ngột, cái bật cười thấm
thía nỗi buồn tạo nên bởi cái lệch không ăn khớp những đặc điểm trong
phong cách thơ nôm của Hồ Xuân Hương. Hay như nhà thơ hiện đại Vi Thùy
Linh, Linh ưa dùng những động từ mạnh, như phản ứng với đời sống nghiệt ngã
và đối diện với cái ngang trái không toàn vẹn trong tình yêu - một kiểu trực diện
không tránh. “Đập nát”, “vắt mình”, “phá vỡ”... tương chiếu của ý muốn
vượt thoát khỏi định kiến thông thường của người đời vươn mình đến cõi Linh
của tình yêu. Giọng thơ vậy cứng cỏi, bạo liệt. Người đọc dễ bị cuốn vào nguồn
cảm xúc của Linh, ào ạt như một cơn thác - Anh yêu của em/ Em yêu Anh cuồng
điên/ Yêu đến tan cả em/ Ào tung ký ức (Người dệt tầm gai).
13.Ngôn ngữ văn chương giàu tính biểu cảm
Tính biểu cảm - Là sự bộc lộ cảm xúc trực tiếp hay gián tiếp qua mỗi từ ngữ
thơ. Đó các cung bậc: ái, ố, hỉ, nộ của lòng người. Khi nghe tin bạn mất, Nguyễn
Khuyến đã thốt lên: Bác Dương thôi, đã, thôi rồi/ Nước mây man mát ngậm ngùi
lòng ta (Khóc Dương Khuê). Xuân Quỳnh lại rất nhỏ nhẹ, đầy nữ tính khi bộc lộ
cảm xúc với Trái tim đập những điều không thể nói. Trong bài Sóng, chị viết về
nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp, chỉ nói với lòng mình thôi về một tình yêu vĩnh hằng
chung thủy: Dữ dội dịu êm/ Ồn ào lặng lẽ. / Con sóng dưới lòng sâu/ Con
sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em
nhớ đến anh/ Cả trong còn thức. để rồi cùng đọng lại nỗi nhớ là: Hướng về
anh một phương. Nét độc đáo trước tiên trong ngôn từ nghệ thuật của văn chương
Nguyễn Tuân, ông biết khai thác tối ưu hiệu ứng âm thanh của tiếng Việt đơn
âm tiết, nhưng lại đa thanh điệu, tạo cho câu văn giàu tính nhạc vang hưởng chất
thơ. Những năm trước và sau thập kỷ sáu mươi, Nguyễn Tuân nhiều lần len lỏi
giữa rừng Việt Bắc đại ngàn. Với một tình yêu rừng da diết, nhà văn như đang
nghe giai điệu rừng dội từ vách đá, vọng xuống lũng sâu, cộng hưởng vào tâm hồn
chan chứa thơ nhạc của người bộ hành Nghệ Nguyễn Tuân. Ông đã dùng những
nét chữ để âm khúc nhạc rừng độc đáo: "Lòng tôi sao toàn những cảm xúc
của một người bộ hành thời Trung cổ đặt chân vào giữa một vùng Cổ đại. Đầu
toàn nhớ lại những âm từ thơ Đường. Cảnh nơi dọc đường cũng Tùy Tùy Đường
Đường cũng Lý
Lý Trần Trần như thế thôi. Nhịp sống, nét sống cũng phong phong trần trần
mộng mộng đào đào nguyên nguyên vậy'' [Tuyển tập Nguyễn Tuân, NXB khoa
lOMoARcPSD| 61431571
học hội, l998.]. Đọc đoạn văn sau, chưa cần tìm vào ý nghĩa, chỉ nghe âm
hưởng vang lên, cũng đã gợi trong ta liên tưởng như những tiếng nức nở của Chiêu
Quân cống Hồ đồng vọng trong tâm hồn đời chị Hoài như vại dưa muối đã hỏng:
"Nương theo cái chiều tưởng tượng gây gây mùi hoài cựu, tôi nghĩ xa, tôi nghĩ
gần, rồi tôi nhận thấy cả một đời chị Hoài cũng chỉ một đời một nàng Hạnh
Nguyên bước đi một bước thêm một bước cống Hồ. Rặt cống Hồ. Cống Hồ.
Toàn là nhịp cống Hồ. Toàn cung Nam. chìm hẳn xuống như những tiếng
rầu" Tố Hữu nhận xét Nguyễn Tuân "người thợ kim hoàn của chữ"; Lại Nguyên
Ân khen: "con người ông, phong cách ông cũng đẹp một cách độc đáo như câu
văn ông, loại câu văn một không hai trong nghệ thuật ngôn từ tiếng Việt" - Một
phương diện giúp khẳng định phong cách của bất cứ nhà văn nào, chúng ta
không thể bỏ qua, đó nghiên cứu yếu tố ngôn từ - chất liệu cơ bản để sáng tạo
nên tác phẩm văn chương nhà văn đã vận dụng một cách nghệ thuật. từ
ngôn ngữ thơ cho đến ngôn ngữ văn xuôi, tính biểu cảm thể hiện rất rõ đặc trưng
của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương.
14.Sứ mệnh của văn
Nhà văn không cứu rỗi cho riêng mình, anh phải mang lấy sứ mệnh tinh thần
của văn nhân: cứu rỗi người khác. Nhà văn không viết văn cho riêng mình đọc,
anh phải viết cho độc giả và vì độc giả của mình. Văn chương chỉ có nổi ý nghĩa
có nổi một chỗ đứng ở đời bởi tham dự vào cuộc đời như một nỗ lực cống
hiến trái tim, khối óc của nhà văn; bởi nếu văn chương không làm được gì hơn là
phun châu nhả ngọc những ngôn tphù phiếm véo von bổ, tvăn chương quả
thứ xa xỉ vô ích chẳng mang lại được hiệu ứng thiết thực như mỹ phẩm
son phấn của các quí qcô. Henry Miller nói: “Đừng băn khoăn về văn chương
. Nếu chúng ta thể làm được việc khác thay văn chương thì hãy làm cái
việc khác đấy". nhà văn không làm việc gì khác hơn là vun đắp cho sự nghiệp văn
chương của mình mỗi ngày một đồ sộ ý nghĩa tận hiến cho đời sống, bởi văn
chương cao cả hơn nhiều việc hát ru những ngôn từ sáo rỗng. William Faulkner
đã nói về sứ mệnh của văn chương như sau: “Nghệ thuật thông thường kích
thích mãnh liệt cuộc đời, một nôi say sưa cuộc đời"' Khi sống cùng mọi người,
nhà văn đối thoại với tha nhân, tìm kiếm tha nhân, kết ước với tha nhân, anh
bắt tay vào sự nghiệp của mình: “Nâng đỡ con người và khuyến khích con người
trong cuộc chiến đấu để sinh tồn thường tồn ghê gớm này thiên chức của nhà
văn. Sáng tạo nhân vật là đòi hỏi cần có ở người cầm bút. Với Nguyễn Tuân, ông
luôn chú trọng vào việc xây dựng nhât vật mang nét biệt hóa, không lặp lại,
chất chứa những tưởng, quan niệm của nhà văn v cuộc đời” Tiêu biểu cho tài
lOMoARcPSD| 61431571
năng này hình ảnh Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Nhân vật
hiện lên với vẻ đẹp phi phàm hòa trộn giữa tài năng, khí phách, thiên lương, được
tái hiện qua nghệ thuật xây dựng nhân vật đầy tài hoa của tác giả. Huấn Cao gây
ấn tượng mạnh bởi vẻ đẹp hoàn mỹ. Ông tài viết chữ đẹp với “nét chữ vuông
tươi tắn ”, tài năng ấy được lan truyền như một huyền thoại. Nó đã trở thành ước
cả một đời của viên quản ngục. Để xin được chữ của Huấn Cao, quản ngục đã
bất chấp coi thường cả quyền lợi của một viên quan, an nguy của tính mạng bằng
việc biệt nhỡn Huấn Cao, chỉ ước mong một ngày được con chữ kia. Huấn Cao
hiện lên thực sự là một người nghệ sĩ tài hoa, mang một vẻ đẹp lí tưởng. Tài năng
của Huấn Cao khiến cho những người đại diện của hội đương thời Huấn
Cao chống lại phải ngưỡng mộ. Nhà văn con người, ngợi ca con người dù trong
hoàn cảnh nào thì cái đẹp cũng cứu rỗi con người, nhà văn người dẫn lối vào
cái đẹp. Tuy nhiên, nhà văn không được chiều theo yếu đuối sa đoạ của con
người, không thể một thứ nghệ thuật vô, không thể một thứ nghệ thuật
đòi chết. Không thể có một thứ nghệ thuật bi quan. Nghệ thuật bao giờ cũng phải
khẳng định” (W. Faulkner).
“Ai không biết hy sinh cho thế giới này, người đó chẳng bao giờ thấy được
thế giới khác" (Kinh Gita). Con người chủ thể. Văn chương scất tiếng v
con người. Khi phần người lên tiếng thì khi đó văn chương. Văn chương
những gì sáng đẹp - phần Người. Đời sống là đối tượng phản ánh của nghệ thuật.
Đứng trước hiện thực cuộc sống phong phú, người nghệ những cảm xúc, suy
ngẫm, lý giải khác nhau, lựa chọn những mảng đề tài khác nhau để đặt ra những
vấn đề khác nhau. đó cũng con đường riêng mỗi nvăn tạo ra cho mình.
Nếu không sự sáng tạo riêng của mình, không mang đến một chút mới lạ
cho văn chương thì c phẩm của họ sẽ trở thành sự sao chép, sdẫm lên vết chân
của người đi trước, sẽ bị thời gian đào thải. Sứ mệnh của nhà văn chân chính thể
hiện qua cái tâm của người cầm bút. Con người là là trung tâm khám phá của văn
học nghệ thuật. Văn học thể viết về mọi vấn đcủa đời sống, mọi hình thức
sáng tạo, nhưng đều hướng tới những vấn đề nhân sinh. Văn học chân chính thứ
văn vị đời, nhà văn chân chính phải nhà văn con người, tác phẩm mới đạt
đến tầm nhân bản, viên ngọc sáng qua thời gian tấm màng lọc nghiệt ngã.
Nietzsche nói: “Ta yêu thích những con người không tìm kiếm đằng sau những
tinh ta yêu những con người hy sinh cho trần gian để ngày kia trần gian
thuộc về siêu nhân'". Một khi văn chương xa rời sứ mệnh của mình văn chương
đã đánh mất vị trí trong hội. Văn chương trở thành một phương tiện giải trí,
thành trò chơi ngôn ngữ của người cầm bút thì n chương không còn văn
lOMoARcPSD| 61431571
chương theo đúng nghĩa chân chính của từ này. Trong cuộc sống luôn tồn tại
những cái cao cả bên những cái thấp hèn và tâm hồn con người cũng luôn đấu
tranh để chiến thắng cái thấp hèn trong mình xung quanh mình. Người nào
vượt lên được trong cuộc đấu tranh này sẽ trở thành người hơn và ngược lại. n
học nghệ thuật cũng như cuộc sống, phong phú kỳ lạ và còn nhiều ẩn số. Nó gắn
cuộc sống giống như cánh diều phải gắn với mặt đất bằng sợi dây. Cánh diều
càng bay cao thì sợi dây càng mờ đi, đến nỗi nhiều khi người ta chỉ còn nhìn thấy
cánh diều thôi. Nhưng nếu cắt đứt sợi dây thì cánh diều bị lật nhào. Nếu văn học
tấm gương phản chiếu đời sống hội (Stendhal) thì nhà văn chính thư
của thời đại (Balzac). Mỗi tác phẩm ra đời đều là một thành quả nghệ thuật chứa
đầy tâm huyết của nhà văn. Bởi đó là nơi để nhà văn gửi gắm những tình cảm sâu
lắng nhất, những cảm xúc, khát vọng chân thành nhất, mãnh liệt nhất về con người
và về cuộc đời. Dưới mỗi con chữ sáng tạo của nhà văn là biết bao xúc động, biết
bao tình yêu cũng như nỗi đau đời trong tâm hồn nhạy cảm của người cầm bút vì
con người ltrước hết thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho
những người cùng đường, tuyệt lộ” (Nguyễn Minh Châu)
Người nghệ sĩ phải tài năng lòng dũng cảm trong quá trình phản ánh
hiện thực: Tài năng nhìn nhận, đánh giá cuộc sống phải dũng cảm để chỉ ra
những điều tốt đẹp lẫn sự xấu xa, độc ác. Viết về "những vùng tối của hiện thực
đời sống để góp phần hoàn thiện nhân cách làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp
hơn". Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống phục vụ
cuộc sống (bức tranh con thuyền, con người, nhiều yếu tố thiên nhiên
đẹp đẽ khác nsương mù, ánh bình minh... nhưng thiếu hơi thở cuộc sống,
chỉ bức ảnh thể hiện vẻ đẹp bên ngoài của cuộc sống). Nghệ thuật đích thực
phải thể hiện được bản chất sâu xa, sự thật ẩn sâu của cuộc sống. Chính nhà văn
Nguyễn Minh Châu đã từng khẳng định "Nhà văn không quyền nhìn sự thật
một cách đơn giản, nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các
tầng sâu lịch sử" . Đó một cái nhìn đa diện, nhiều chiều, đi sâu khám phá s
thật của đời sống bình diện đạo đức, thế sự để hiểu đúng bản chất bên trong của
hiện thực. Chẳng hạn, khi ta đến với nhà văn Nguyễn Minh Châu tác phẩm của
ông, ta sẽ cảm nhận được cái tha thiết với sứ mệnh của văn chương nhà văn
trong mục tiêu cao cả con người. Ông viết:“Nhà văn tồn tại trên đời lẽ
trước hết thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người
cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân
tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi đoạ đày đến ê chề,
hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời.
lOMoARcPSD| 61431571
16.Sứ mệnh của nhà văn -
Nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những con người không ai để
bênh vực” (Ngồi buồn mà chơi). Để làm được như thế, phẩm chất đầu tiên cần
của một người viết văn phải tình yêu thương con người: “Tôi không thể nào
tưởng tượng nổi một nvăn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc
sống nhất tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa
một niềm hân hoan say mê, vừa một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan
hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm
giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới khả năng cảm thông sâu sắc với
những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ thể vượt qua những khủng
hoảng tinh thần đứng vững được trước cuộc sống”. (Phỏng vấn đầu xuân 1986).
một nhà văn trải qua nhiều biến cố lịch sử cả hai giai đoạn lớn trong nền
văn học nước nhà, Kim Lân một trong số ít những cây bút truyện ngắn để
lại một số lượng tác phẩm không nhiều so với các nhà văn cùng thời nhưng sáng
tác nào của ông cũng rất hay và sâu sắc. Bằng giọng văn chân thực, giản dị, Kim
Lân đưa cả làng quê con người Việt Nam vào những câu chuyện của mình cùng
một tâm hồn đầy tình cảm gắn bó với quê hương đất nước. Mang trong lòng một
nỗi niềm nặng nvới cuộc sống, Kim Lân tìm tới viết lách để tự giải thoát cho
chính mình và từ đó ông bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp văn chương. Nhưng trong
sự nghiệp cầm bút của mình, ông không chỉ viết về cá nhân ông, vùng không gian
nghệ thuật nơi ông sinh ra gắn bó, hơn hết những trang viết của Kim Lân
những trang viết đau đáu về phận người, như tác phẩm “Vợ nhặt”. Từ bóng tối,
ánh sáng của hoàn cảnh vừa phơi bày hiện thực nhưng tác phẩm của ông còn hơn
thế, đau đáu nhìn vào nhân cách, nhìn vào tình người như ánh sáng cứu vơt con
người.
17. Người nghệ với một trái tim nhân ái - “đê môi ý thơ của anh
khi thấm vào trong giấy trắng tinh khôi phải một liều thuốc bổ về tinh
thần” (Thạch Lam)
Nghệ sĩ sẽ không thể làm thơ nếu của lòng khép kín, nếu trong từng vần thơ
của anh không schắt lọc tinh tế gạn lọc những bồ của hiện thực. Nói
như Thạch Lam: “Đối với tôi, văn chương không phải cách mạng đến cho người
đọc sự thoát li, hay sự quên. Trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và
tự đắc lực chúng ta để vừa tố cáo thay đổi một cái thế giới giả dối
làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn! Thế nên, văn chương
không cần phải sự chắt chiu trong ngôn từ hay sự bay bổng trong từng câu thơ”.
Văn chương chỉ thể một tiếng thét khổ đau, tuyệt vọng được cất lên từ bể
lOMoARcPSD| 61431571
sâu của cuộc đời. Người nghệ với một trái tim nhân ái và bao dung, một tâm
hồn tài năng thi vị, anh sẽ thổi vào từng vần thơ của mình một niềm cảm thông
chi sẻ cao độ, đmỗi ý thơ của anh khi thấm vào trong giấy trắng tinh khôi
phải là một liều thuốc bổ về tinh thần. Liều thuốc ấy khi đến với trái tim bạn đọc
như một sự thức tỉnh về tâm hồn mãnh liệt, thơ ca sẽ giúp chúng ta vượt qua nỗi
rào cản về số phận hay những lúc đua khổ tột cùng, chúng ta tìm đến thơ như một
người tri kỉ để bày tỏ nỗi lòng. Thơ đâu phải quả bóng bay cao vời vợi nằm
ngoài tầm bắt. Đạt: “Đọc một câu thơ hay, ta thường có cảm giác đứng trước
một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường hướng thiện
với những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính hơn” n học nói chung và thơ ca nói
riêng phải gợi cho người đọc một sự thức tỉnh trong tâm hồn, người nghệ sĩ phải
làm sao để từng ý thơ được viết ra là “một bến đò gió nổi”, một cơ hội trong suốt
lộ trình dài đằng đẵng của cuộc sống, một ý nghĩ muốn khao khát thoát khỏi sự
ràng buộc của cuộc đời. Mồi vẫn thơ cất lên phải có sự va chạm giữa tâm hồn và
cảm xúc con người, ý thơ cho ta một thứ khát khao mãnh liệt với cuộc đời, hình
ảnh của thơ tóe lên trong tâm tcủa mỗi người với những quan niệm vnhân
sinh, quan niệm về cái đẹp. Đến khi từng giai điệu trong thơ hoàn toàn dừng hẳn
thì con người lại một “khao khát sang ng”, một mong muốn thay đổi số phận,
một thúc đẩy lên đường hướng thiện với những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính
hơn. Maia cốp xki: “Trên đời những vấn đề chỉ thể giải quyết bằng thơ”.
Phải chăng đôi cánh của thơ ca chính dòng tình cảm chân thật đằm thắm?
Thơ ca mang những tâm trạng đến với những tâm trạng, thơ ca khả năng bao
quát sâu rộng không gian và thời gian.
18. Sứ mệnh của nhà văn - “là người dẫn đường vào xứ sở cái đẹp”
Mỗi trang văn không phải lúc nào cũng rực rỡ như ánh nắng sớm mai mùa
hạ, đẹp đẽ như nụ hoa chớm nở đầu xuân, ấm áp như ánh lửa hồng trong đêm giá
rét yên bình như mặt đất đón nhận chiếc thu rơi xào xạc tìm về với nguồn
cội. còn những mảng màu tối của bức tranh hiện thực, những cơn mưa
bão xối xả, ào ạt trước khi để lại trên nền trời vđẹp bảy sắc cầu vồng. Nhà văn
Pautốpxki cho rằng: “Thiên chức của nvăn người dân đường vào xứ scái
đẹp” - "Đã là văn chương thì phải đẹp" (Nguyên Ngọc) và đối với Pauxtốpxki cái
đẹp đã trở thành bến đỗ cho tâm hồn người nghệ sĩ nuôi dưỡng bao hương thơm
trái ngọt cho cuộc đời. "Xứ sở của cái đẹp" chính những vẻ đẹp của hiện
thực cuộc sống con người được nhà văn khẳng định và ca ngợi. Hành trình vươn
tới nghệ thuật đích thực của người nghệ hành trình khám phá những vẻ đẹp
của cuộc đời, hình thành nên những giá trị tốt đẹp trong trí nhớ và trái tim người
lOMoARcPSD| 61431571
đọc. "Cái đẹp điều kiện không thể thiếu của nghệ thuật"(Bêlinxki). Đó như một
chân theo suốt quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ. Người ta đến với tác phẩm
đâu chỉ đơn giản là đón nhận một thành quả lao động nghệ thuật của nhà văn
còn muốn nhìn thấy được những bài học nhân sinh sâu sắc, hướng đến những hành
động ý nghĩa thưởng thức những giá trị thẩm mới mẻ đặc sắc. Bởi vậy
kết đọng lại trên trang văn của người nghệ cái nhìn đầy nhân văn trước
cuộc đời, hướng tới những gì chân- thiện- mỹ.
Mỗi nhà văn lại dẫn con người đến một cái đẹp theo một nẻo riêng, không
trộn lẫn. Cái đẹp đa dạng, nhiểu vẻ như hành trình của bầy ong tìm mật để đem
lại hương thơm mật ngọt cho đời. Với nhà văn Thạch Lam, vẻ đẹp một cái
chỉ hiện ra mong manh thấp thoáng nên dễ bị bỏ qua. Ông viết: "Cái đẹp man c
khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường...".
Cái đẹp trong văn Thạch Lam là cái đẹp cổ điển: đẹp và buồn. Từ những bài báo
nhỏ đến những truyện ngắn đọng, viết văn với Thạch Lam đồng nghĩa với việc
săn sóc tới cái đẹp, và nhắc nhở về sự có mặt của nó với mọi người. “Viết là viết,
bất kỳ lúc nào, không sắp đặt, không bố cục. Cứ để đoạn sau cuốn theo đoạn
trước’” - đó lại chia sẻ của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, chị nghĩ viết cũng gần
gũi như sống đời thường, như ăn nói, đi đứng tnhiên hằng ngày của con người
không thần thánh hóa văn chương. Hẳn nhà văn đã nghĩ người viết hay ng
như một diễn viên phải đóng nhập vai trên sân khấu. Nghĩa tác giả viết như
đang trong tâm trạng của chính nhân vật trong truyện của mình như một chân
không được coi xa lạ, thờ ơ đối với người cầm bút. Nguyễn Ngọc đã
thong dong, bền bỉ đi theo con đường nghệ thuật mình- đó cũng sứ mệnh của
nhà văn đi tìm “hạt ngọc ẩn giấu” trong chính vẻ đẹp đời thường hôm nay.
19.Sứ mệnh của nhà văn - còn phải gắn mình với con người, với dân tộc
và thời đại mình.
Nguyễn Tuân từng nói: “Nvăn chân chính nào cũng có một thế giới riêng.
Cái thế giới ấy là những hình tượng sáng tạo ra do nhân sinh quan và vũ trụ quan
của nvăn phản anh nên cái thực tế của thời đại” Một nhà văn chân chính
không đem đến một cách nhìn khác đi? Một nhà văn đích thực chỉ đem một
tiếng nói chung chung vùng nhạt nhẽo? Ây đâu phải nghệ thuật. Nghề n
không hề dễ dàng, để sáng tạo nên tác phẩm tác phẩm hay đó là cả một quá trình
lao động đầy gian khó cực nhọc. Trải mình với đời, ta lắng lòng chiêm
nghiệm với những ngang trái trong bốn bể, ta chắt lọc được những điều quý giá
đẹp đẽ của cuộc đời con người, đó cũng là lúc ta “kiến tạo nên gương mặt
mình”. Tự chính strải nghiệm, nhà văn sẽ dần hoàn thiện nhân cách bản thân,
lOMoARcPSD| 61431571
nhân văn hơn, tốt đẹp hơn - đó là hành trình sáng tạo nghệ thuật của một nhà văn
chân chính. Không chỉ vẽ ra thế giới thu nhỏ của hiện thực cuộc đời mà chính nhà
văn còn xây dựng hoàn thiện bản thân cho cao đẹp. Cuộc đời này chính chất
liệu tận, là biển xanh trùng khơi cho người nghệ khai khác những “hạt bụi
vàng” góp nên trang. Hoài Thanh đã nhấn mạnh về sứ mệnh của nhà văn
mở ra mối quan hệ của nhà văn với hiện thực: “Nvăn không phép thần thông
để vượt ra ngoài thế giới này, nhưng thế giới này trong con mắt nhà văn phải
một hình sắc riêng" - nhưng ngay trong mối quan hệ giữa nhà văn với hiện thực
cũng đề cao, nhấn mạnh hành trình sáng tạo của nhà văn. Qua mỗi tác phẩm văn
học nghệ thuật chân chính ta có thể thấy cuộc sống dường nđang phập phồng
trong từng con chữ. Tuy nhiên, một nhà văn vĩ đại không thể chỉ một nhân
riêng lẻ, cuộc đời, số phận snghiệp sáng tác củạ ông ta phải được đặt
trong mối quan hệ gắn bó khăng khít với bối cảnh của dân tộc, đất nước. Nhà văn
đó phải bằng sức mạnh tư tưởng của các tác phẩm của mình thuyết phục, thu hút,
gắn kết c tâm hồn, các tầng lớp, giai cấp, tạo nên một tiếng nói chung nhất. Một
nhà văn đại phải đại ngay tchính những tác phẩm của mình, từ tấm lòng
yêu thương con người Tổ quốc, tưởng phấn đấu, hi sinh cho tưởng
ấy. Đô-xtôi-ép-xki luôn gắn mình với bối cảnh thời sự chính trị văn chương
của nước Nga, sứ mệnh của nhà văn xét đến cùng là đồng hành cùng số phận con
người, với dân tộc thười đại mình. như thế, sự đại của nhà văn chẳng
những đối với lịch sử văn học mà còn với cả lịch sử xã hội của đất nước. Nếu Đô-
xtôi-ép-xki, Puskin, Lep Toxtoi đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát
triển của văn học
Nga lịch sử của dân tộc Nga, thì những nhà văn như Nam cao, Hoài, Nguyễn
Tuân, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,. cũng đã góp sức mình trong tiến
trình của văn học dân tộc.
20.Nhà văn còn phải đứng trong bóng tối - “để đánh thức, khơi dậy
những điều chân, thiện, mĩ” (Diêm Liên Khoa)
Theo Gô- gôn "có những thời đại", nhiệm vụ của Nhà văn "chỉ ra tận ng toàn
bộ cái xấu xa đê tiện của cuộc sống hiện tại". Đây chính khi người nghệ nhìn
cuộc đời với những gì trần trụi nhất, tái hiện tất cả những mặt tối tăm mù mịt của
bức tranh hiện thực. Tác phẩm văn chương đâu chỉ khoác lên mình chiếc áo
choàng lộng lẫy còn sống với những phần bần tiện, thấp hèn nhất của bộ
mặt hiện thực. Nếu không vạch trần được những góc khuất xấu xa, những đám
mây u ám đang vây kín bầu trời đẹp đẽ kia thì "sẽ không còn cách nào để hướng
hội tới cái đẹp". Thoát thai từ hiện thực, văn học sẽ mãi luôn bén rễ vào cuộc
lOMoARcPSD| 61431571
đời, hút nguồn nhựa dạt dào chảy trong lòng cuộc sống và trở thành cây xanh tỏa
bóng mát lại cho đời. nhà văn, anh phải đngòi bút thấm đẫm chất mặn mòi
của nghiên mực để văn anh cất lên những âm thanh mang hơi thở của hiện thực,
vẽ nên bức tranh về đời một cách chân thực sâu sắc. Thần Ăng-tê chỉ bất khả
chiến bại khi chân chạm vào đất. Không một ai địch nổi người trừ khi người bị
nhấc ra khỏi mặt đất. Lúc ấy chàng sẽ chết vì không còn nhận được sức mạnh từ
Đất Mẹ. Văn học cũng vậy, những tác phẩm ssống nếu được tắm mát nuôi
dưỡng trong mạch sữa tươi mát của cuộc đời. Nhưng cuộc đời không pahir thảm
hoa hồng, trang giấy trắng, lấp lánh ánh hào quang, còn những lấm lem
than bụi, những mặt trái góc khuất. Tại buổi tọa đàm văn học Khám phá tiểu thuyết
với sự hiện diện của các diễn giả là nhà văn Diêm Liên Khoa (Đại học Nhân dân
Trung Quốc) và giáo sư Vương Nghiêu (Đại học Tô Châu,Trung Quốc), nhà văn
Diêm Liên Khoa chia sẻ về con đường đến với văn chương của mình. khởi ông
đến với văn chương một ước mong trần tục, đó là thoát khỏi những lao động
ruộng đồng. Bây giờ nhìn lại, nhà văn nhận ra, “mình không thể làm khác ngoài
viết lách ”. Những quan niệm về văn chương cốt lõi để Diêm Liên Khoa định
hướng cho những sáng tạo của mình. Một phần không nhỏ trong những tác phẩm
của ông lối viết đi sâu vào cái ác để soi chiếu điều thiện. Nhà văn cho rằng: n
học chỉ quan tâm đến cái thiện tình yêu một nền văn học nông cạn. Sự đại,
lớn lao là văn học quan tâm đến cái ác, ở trong bóng tối để nhìn ra ánh sáng và cái
thiện. Sự quan tâm một chiều sẽ làm cho văn học trở nên lạc hậu. Mọi thứ trong
cuộc sống của chúng ta đều tài nguyên của văn học. nhà văn thì nên xem
mọi thứ không tốt cũng không xấu. Ông nhấn mạnh: “Tôi luôn đứng trong
bóng tối để đánh thức, khơi dậy những điều chân, thiện, mĩ”. Mỗi nhà văn trong
mỗi thời đại đều ý thức rõ sứ mệnh của mình với hiện hực của thời đại - “Khi đối
diện với tự nhiên, bạn coi đại tnhiên như một con người thì hãy viết, còn nếu
chỉ viết như văn miêu tả phong cảnh thì hãy dừng lại. Viết về đại tự nhiên không
chỉ là trách nhiệm của nhà văn chân chính mà vì tự nhiên chính là một phần sinh
mệnh của chúng ta” (Diêm Liên Khoa) - đó cũng là ý thức cao độ về sứ mệnh của
nhà văn với hiện thực thời đại mình - biết đứng trong bóng tối để hướng con người
về ánh sáng.
21.Sứ mệnh của văn chương là vì con người
“Đối với tôi, văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát li hay
sự quên; trái lại, văn chương là một thứ kgiới thanh cao và đắc lực chúng ta
có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng
người đọc thêm trong sạch phong phú hơn (Thạch Lam). Mỗi tác phẩm văn

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61431571
SỔ TAY CẨM NANG KIẾN THỨC LÍ LUẬN DÀNH CHO HSG
VĂN THPT (99 ĐOẠN KIẾN THỨC LÍ LUẬN VĂN HỌC) 1.
Viêt văn - hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ
“Viết văn là đem đến cho tâm hồn con người ta đồng thời sự yên ổn và không
yên ổn, cùng một lúc vừa cởi giải, vừa gây băn khoăn, thắc mắc.... Chuỗi quá trình
ấy diễn ra liên tục thông qua ... vẻ đẹp của ngôn ngữ” (Nguyễn Minh Châu - Trang
giấy trước đèn - NXB Khoa học xã hội, H. 1995). Hoạt động viết văn là biến cái
bình thường trở nên hấp dẫn, nhà văn phát hiện ra cái đẹp trong cái rất đỗi bình
thường. “Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ
những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là
một nhà văn quý mến cuộc sống, trân trọng trước sự sống của mọi người xung
quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của
những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học" (Nguyễn Tuân). Tác phẩm
nghệ thuật phải là tiến nói xuất phát từ những rung động chân thực của nhà văn
trước hiện thực, nảy nở lên từ những tình cản nhà văn dành cho con người, biết
sống cùng những ước mơ, khát vọng của những mọi người quanh mình. Nếu thiếu
đi trái tim đầy tình yêu thương của nhà văn thì cái hiện thực kia sẽ mãi mãi nằm
trong yên lặng. Mỗi nhà văn mở lòng ra đón lấy tất cả các vang động của đời; đến
những “vùng đất mới” để đào xới một mảnh đất để lật lên những vỉa hiện thực và
tìm cho mình thế giới hình tượng đó, hay tìm đến mảnh đất hiện thực đã rất quen
thuộc để nhìn nó bằng đôi mắt mới. Nếu như Vũ Trọng Phụng xuất sắc ở mãng đề
tài về cuộc sống thành thị của một xã hội “chó đểu”, nếu như Nguyễn Công Hoan
tài năng trong việc khắc hoạ bức tranh thế giới quan lại khả ố bất lương và Nam
Cao rực rỡ trong sáng tác về người nông dân và trí thức của tiểu tư sản thì Thạch
Lam lại hướng ngòi bút vào cuộc sống của những người ở tầng lớp dân nghèo với
những khám phá tinh vi về thế giới nội tâm, đời sống tinh thần bên cạnh nỗi khổ
“áo cơm ghì sát đất”. 2.
Giá trị của nhà thơ ở đâu -
trong chính tác phẩm của họ.
Điều gì kiến tạo nên giá trị của một nhà thơ? Cuộc sống vật chất của người
nghệ sĩ trong xã hội cũ rất thiếu thốn, nhưng tâm hồn họ thì luôn dạt dào yêu
thương. Thi nhân nhìn đâu cũng thấy nét thơ mộng, lãng mạn. Và nỗi buồn chẳng
qua là sự biểu hiện ngược của lòng yêu đời và khát khao hòa nhập vào cuộc sống.
Lòng họ đẹp, họ cũng có lý tưởng sống, nhưng họ lại đầu thai nhầm thế kỷ (Vũ
Hoàng Chương), nên họ khó mà thực hiện hiện được lý tưởng của mình. Vì thế,
họ cảm thấy xót xa, cảm thấy bơ vơ lạc loài giữa thế giới ồn ào xung quanh. Nhưng
ngay cả khi cuộc sống tốt hơn, thì cái làm nên giá trị của nhà thơ chính là “kho lOMoAR cPSD| 61431571
tâm hồn đầy phong hoa tuyết nguyệt” của chính nhà thơ luôn biết đón mọi ngọn
gió cảm xúc vang động từ cuộc đời.
Mỗi nhà thơ có một tạng riêng - đó cũng là cơ sở tạo nên giá trị của nhà thơ.
Chẳng hạn, Huy Cận “Nhạy cảm với buổi chiều cũng là nhạy cảm trước nỗi buồn
bã cô đơn của con người, đồng thời cũng thể hiện sự thất vọng của con người
trước thức tại. Thế giới nghệ thuật của Lửa thiêng đã góp phần bộc lộ niềm khát
vọng lớn và nỗi thất vọng lớn của Huy Cận. Khát vọng lớn là khát vọng bất tử
cùng thời gian, khát vọng tìm kiếm hạnh phúc trong thời quá khứ,trong sự hòa
đồng với thiên nhiên và nhân loại. Nhưng Huy Cận đã thất vọng vì càng xuôi về
quá khứ nhà thơ càng cô đơn để cuối cùng chợt nhận ra tình trạng bơ vơ của mình
trên con đường thời gian vô tận” (Trần Khánh ThànhLê Dục Tú. Huy Cận về tác
gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục, 2003) - đó là tạng riêng của Huy cận, và đó cũng
là cơ sở để tạo nên gương mặt nhà thơ trong vườn hoa đa màu, đa âm của Thơ
Mới. Tuy nhiên “Cuộc đời nhà thơ, giá trị nhà thơ không nên tìm đâu xa mà ngay
trong chính tác pham của họ ”? Nhà thơ qua thi phấm của mình bộc lộ những cảm
xúc giấu kín. Thông qua đó, ta có thể hiểu được những tâm tư, những sự việc nhà
thơ từng trải để có thể thấy được cả cuộc đời, số phận nhà thơ từ đó. Cội nguồn
cảm hứng sáng tạo của thơ ca là những sự kiện trong chính cuộc đời của nhà thơ.
Có những nhà thơ lấy mình là đối tượng để phản ánh trong sáng tác, Trong sáng
tác văn học, tính chủ thể là tất yếu, bởi người nghệ sĩ không thể sáng tác khi tâm
hồn nguội lạnh, dửng dưng. Tính chủ thể thể hiện ở tư tưởng, quan niệm, tâm hồn,
tình cảm thị hiếu, vốn sống, inh nghiệm, tài nghệ của cá nhân tác giả. Qua sáng
tác, người nghệ sĩ như hé mở cánh của tâm hồn riêng của mình cho người đọc.
Hình tượng trong thơ không ai khác chính là nhà thơ. Hai chữ “nhà thơ” có lúc là
tư cách của người trong cuộc, có khi viết về sự kiện khác của cuộc sống hoặc viết
về những người khác thì bẩn thân nhà thơ vẫn có sự hóa thân sâu sắc. Chính vì
vậy mà dường như tác phẩm phản ánh phần nào bóng dáng cuộc đời, tiểu sử, số
phận của nhà thơ. “Giá trị nhà thơ không nên tìm đâu xa mà ngay trong chính tác
pham của họ” - Bởi lẽ nhà thơ là chủ nhân, là cha đẻ của những tác phẩm tinh thần
đó nên tác phẩm bao giờ cũng có ý nghĩa quyết đinh sự tồn tạo, tên tuổi của tác
giả. Chỉ có con đường đến với tác phẩm thì người đọc mới đánh giá được tài năng,
giá trị của nhà thơ, của bất cứ nghệ sĩ nào. 3.
Hiện thực là “men say” trong tác phẩm (Mối quan hệ giữa hiện thực
và sáng tạo của người nghệ sĩ)Tác phẩm đó chính là những “giọt mật” ngọt
ngào, là kết tinh của tài năng tâm sức, quá trình lao động nghệ thuật hăng say
của người nghệ sĩ, là kết quả đẹp đẽ của cuộc sống đã được lắng lọc, chăm chút. lOMoAR cPSD| 61431571
Nhà thơ cũng giống như “bầy ong giữ hộ cho người/ những mùa hoa đã tàn phai
tháng ngày”. Quá trình sáng tạo giờ đây không chỉ tuân thủ quy luật phản ánh hiện
thực đơn thuần mà còn phù hợp với chức năng của văn chương chân chính: nhận
thức, giáo dục để hướng con người đến với cái đẹp đích thực. Bằng cách giữ lại
những “mùa hoa” đẹp nhất, những hương vị đậm đà nhất của cuộc sống, con người
có thể nhìn lại, thấy được một hiện thực đã qua một cách sống động, để rồi tự cảm,
tự ngẫm ra bao thông điệp sâu sắc thú vị. Nhờ vậy mà hiện thực trở nên có giá trị
lâu dài và bền vững khi được lưu giữ trên trang giấy- trang văn. Văn học cũng
vậy, những tác phẩm sẽ sống nếu được tắm mát và nuôi dưỡng trong mạch sữa
tươi mát của cuộc đời. Chế Lan Viên -người đã từng trải nghiệm thấm thía điều
này nên trong bài “Sổ tay thơ” thi sĩ đã viết:
Bài thơ anh, anh làm một nửa thôi Còn một nửa, để mùa thu làm lấy Cái xào
xạc hồn anh chính là xào xạc lá Nó không là anh, nhưng nó là mùa.
Khi hiện thực bước vào tác phẩm, hiện thực ấy không còn là “vị ngọt mùi
hương” đơn thuần nữa. Qua bàn tay của nhà văn, nó trở thành “men say” - cái đẹp
có khả năng làm nên sức mạnh nội tại, giúp văn chương trải qua bao mưa nắng
với đầy mà làm say đất trời, lôi cuốn độc giả, hướng con người đến cái Chân -
Thiện - Mĩ. Làm nên điều kì diệu đó phải nhờ đến “ cuộc hành trình” âm thầm,
lặng lẽ, không ngừng dấn thân, không ngừng khám phá và miêu tả cuộc sống của
nhà văn. Người nghệ sĩ chân chính là người yêu say cuộc đời thiết tha, yêu thương
con người hết mực, với trái tim không ngừng rung cảm trước mọi sự việc mà anh
ta bắt gặp, cũng như không bao giờ cho phép bản thân thôi ngụp lặn giữa bể đời
để tìm cho ra “chất vàng mười” đem gửi vào trang sách một cách lặng thầm. Quá
trình sáng tạo là một hành trình song song - cuộc đời thẩm thấu qua lăng kính của
người nghệ sĩ, và trở lại, chính người nghệ sĩ lại cất những khúc ca về cuộc đời. 4.
Hành trình lao động sáng tạo riêng của người nghệ sĩ - khổ hạnh trên con chữ.
Lao động nghệ thuật của nhà văn, nhà thơ là một thứ lạo động đặc biệt. Phải
có hứng, nếu không có hoặc chưa có cảm hứng thì chưa thể sáng tác. Mỗi nhà văn,
nhà thơ có một cách sáng tác riêng. Mỗi người nghệ sĩ có một con đường, hành
trình lao động sáng tạo riêng. Xuân Diệu làm thơ được “thiết kế” công phu chặt
chẽ. Tố Hữu thì “câu thơ trước gọi câu thơ sau”. Hoàng Cầm làm thơ, có thể như
có ai đọc chính tả cho chép lại. Ông sáng tác bài: “Lá Diêu Bông” vào quá nửa
đêm mùa rét 1959. Khi cả nhà đang ngủ say, ông tỉnh giấc “chợt bên tai vẳng lên
một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời
nào, xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về: “Váy Đình Bảng buông chùng lOMoAR cPSD| 61431571
cửa võng... ” (“Về Kinh Bắc). Nhà thơ Chế Lan Viên qua đời còn để lại một núi
“Phác thảo thơ - di bút”. Đọc hồi kí các nhà văn, nhà thơ danh tiếng, ta ngạc nhiên
và vô cùng khâm phục về lao động sáng tạo của họ. Có câu thơ được viết hàng
tháng. Lê Đạt nói: “Nhà thơ phải nhọc mệt, phải làm phu chữ. Chữ bầu lên nhà
thơ”. Với tâm niệm ấy, Lê Đạt tạo ra câu thơ của riêng mình, không giống bất kỳ
nhà thơ nào. Đối với Lê Đạt, không có chữ cũ, chữ mới. Vấn đề là nhà thơ đặt nó
vào đâu trong câu thơ, trong bài thơ để bài thơ mang tinh thần hiện đại. Bài thơ
“Xưng danh” của ông đã sử dụng rất đắc địa chữ “vô” trong các câu thơ: “Phó
thường dân/phố nhỏ vô danh/ vô giai thoại/ Thành tích/ mấy trang giấy sờn/ mấy
câu thơ vui/ núi Vô Sơn”. . Đúng là “quá trình sáng tạo nghệ thuật chân chính bao
giờ cũng là một quá trình kép, vừa sáng tạo ra thế giới, vừa kiến tạo nên bản thân
mình” - sáng tạo văn chương và kiến tạo nên gương mặt mình là một hành trình
khổ hạnh song hành. Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:
“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật Một giọt mật thành, đời
vạn chuyến ong bay Nay rừng nhãn non Đoài, mai vườn cam xứ Bắc Ngọt mật ở
đồng bằng mà hút nhụy tận miền tây.”
Người nghệ sĩ phải hút lấy chất mật ngọt tinh túy nhất của “quặng” cuộc đời,
chưng cất những chất liệu hiên thực để tạo nên tác phẩn thật sự có giá trị ở đời.
Sáng tạo nghệ thuật là một hành trình lao động miệt mài và thấm đẫm những giọt
nước mắt. Để trở thành nhà văn không khó nhưng một nhà văn chân chính lại
không hề dễ dàng. Người nghệ sĩ phải sống thật với đời, “ cảm” sâu những tiếng
nói tình cảm vẫn ngày đêm thổn thức giữa chốn bộn bề, không ngừng sáng tạo và
bồi dưỡng tâm hồn mình để tư tưởng tình cảm tốt đẹp có thể lan tỏa muôn nơi.
Văn học dẫu cho cùng vẫn là câu chuyện của những trái tim đồng điệu, của những
tiếng nói đồng tình, đồng chí, đồng ý vì thế bạn đọc phải nâng cao nhận thức cũng
như không ngừng bồi đắp trái tim cho đẹp, cho tốt. Khi ấy văn học đã hoàn thành
sứ mệnh thiêng liêng của mình: hướng con người đến giá trị đích thực Chân - Thiện - Mỹ. 5.
Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, tức là chữ
“Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần” - Một nhà văn, muốn sáng tác
một tác phẩm hay, tồn tại mãi với thời gian, thì ngoài sự hiểu biết rộng rãi, tài
năng bẩm sinh còn phải có cảm xúc thật sự tự đáy lòng mình, thì mới sáng tác
được. Bên cạnh đó còn là tài năng sử dụng ngôn ngữ, nghệ thuật một cách đầy
thẩm mỹ, nhân văn. Trong Mấy ý nghĩ về thơ, Nguyễn Đình Thi đã từng khẳng
định: “Làm thơ, ấy là dùng lời và những dấu hiệu thay cho lời nói, tức là chữ - để lOMoAR cPSD| 61431571
thể hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển khác thường” “Chữ” ở đây không
chỉ hiểu đơn giản là vỏ bọc âm thanh mà trong đó ngôn từ còn được sử dụng, được
tổ chức một cách nghệ thuật. Ngôn từ trong văn chương không phải là ngôn từ thô
ráp như trong cuộc sống hàng ngày mà nó đã được gọt rũa bằng bàn tay khéo léo
của người nghệ sĩ để làm nên tác phẩm văn học có giá trị nhất. Bởi “yếu tố đầu
tiên của văn học là ngôn từ”. Gọt rũa được những ngôn từ hay, độc đáo trong tác
phẩm chính là một phàn thành công của người nghệ sĩ. Phải chăng ngôn từ trong
văn học không chỉ đơn thuần là một kí hiệu bình thường mà nó còn đòi hỏi phải
chạm đến trái tim người đọc, phải “thể hiện một trạng thái tâm lý bất thường”.
Tức là qua ngôn từ, nhà thơ ghi lại trạng thái tâm hồn mình đang có những biến
chuyển, rung động sâu sắc, mạnh mẽ, căng thẳng, những say mê khác thường,
những cảm xúc chỉ thăng hoa một lần rồi vụt tắt. Nói cách khác, cội nguồn của
sáng tác văn học chính là nguồn cảm hứng trong lòng mỗi nhà văn. Và ngôn từ là
nơi ghi dấu lại những thăng trầm trong cảm xúc đó. “Đọc một tác phẩm văn
chương, tôi luôn khát khao thám mã giá trị tác phẩm, những kiến tạo đầy mê hoặc
của các con chữ mà có khi chính người sáng tạo cũng không nghĩ đến” (Nhà phê
bình Hoàng Thụy Anh) - muốn có được một cuộc thám hiểm chữ nơi người đọc,
thì trước tiên người sáng tạo phải khổ hạnh trên cánh đồng chữ ấy. 6.
Giá trị của “chữ” - “Chữ bâu nên nhà thơ” (Lê Đạt)
“Chữ” ở đây không còn là những chữ bình thường vô tri mà nó đã được thổi
hồn, trở thành ngôn ngữ thơ, được sử dụng đầy tính nghệ thuật trong văn bản văn
học. "Chữ bầu lên nhà thơ '' là cách nói để khẳng định, cách vận dụng, cấu tạo từ
ngữ trong tác phẩm sẽ thể hiện tài năng, truyền tải tư tưởng tình cảm cảu thi sĩ.
Từ ''chữ'' là hình thức nghệ thuật bên ngoài mà ta cảm nhận được thế giới tâm hồn
của thi sĩ. Người thi sĩ có tài sẽ là người tổ chức được chữ nghĩa khéo léo tinh tế,
tạo cho ngôn từ có sức gợi mở, dư ba, chuyên chở được những thông điệp kiins
đáo, sâu sắc. Ý kiến của Lê Đạt đã khẳng định ý nghĩa của ngôn từ trong việc biểu
hiện con người, tâm hồn, tài năng của nhà thơ. "Chữ" trong tác phẩm văn học bao
giời cũng được sử dụng một cách có dụng ý. Người nghệ sĩ làm văn để gửi vào
đó bao nhiêu nỗi niềm tình cảm của mình, những tình cảm đó đến với người đọc
là nhờ có lớp ngôn từ. ''Chữ'' trong thơ được cấu tạo đặc biệt cô đúc, hàm súc, giàu
tính biểu cảm và đặc biệt là giàu nhạc điệu. Vì vậy quá trình sáng tạo của nhà thơ
phải là quá trình miệt mài chon lọc, sử dụng câu chữ sao cho đạt hiệu quả cao
nhất. Mỗi chữ đều là kết quả của quá trình lao tâm khổ tứ của người nghệ sĩ. Nhìn
vào '' chữ'' trong thơ, không chỉ thấy được tâm sự nỗi lòng của nhà thơ, mà ta còn
thấy được cái tài của người cầm bút. Cái tâm, cái tài ấy không đồng điệu thì cũng lOMoAR cPSD| 61431571
khó mà cảm nhận được. Để có được chữ '' hay'' đòi hỏi người cầm bút phải trải
nghiệm, phải suy ngẫm, rung cảm mãnh liệt. Mỗi chữ là một tiếng lòng, mỗi chữ
đều'' bầu lên nhà thơ'' chính là bởi lẽ vậy. Có nhà thơ đã từng tâm sự rằng: "Phải
phí tổn ngàn cân quặng chữ/ Để thu về một chữ mà thôi/ Những chữ ấy làm cho
rung động/ Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài'. Dịch giả Nguyễn Bích Lan
từng chia sẻ “Tôi nguyện là người thợ cày trên cánh đồng chữ”, đó cũng là nỗi
niềm đau đáu cho cả người sáng tác văn chương. từng quan niệm: “Ngọn gió nhà
thơ băng qua rừng, băng qua biển để tìm ra tiếng nói của riêng mình”. Để tìm ra
và khẳng định tên tuổi mình trên thương trường giấy bút, nhà văn đều phải trải
qua những thử thách cam go, vất vả. Nhưng thành quả cho quá trình khổ luyện ấy
là dấu ấn phong cách được lưu lại muôn đời, không thể trộn lẫn, không thể quên
trong lòng độc giả. Có lẽ đây là món quà quý giá bậc nhất cho bất cứ ai đặt chân
vào lĩnh vực nghệ thuật. M.Gorki đã đặt ra yêu cầu với người cầm bút: “Nghệ sĩ
là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những
ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình
thức riêng”. “Nghệ sĩ” là người khai sinh ra những tác phẩm nghệ thuật đích thực.
“Những ấn tượng chủ quan” mà họ phải “biết khai thác” chính là cảm nhận, tình
cảm, cách đánh giá, nhìn nhận của riêng nghệ sĩ trước sự kiện cuộc sống, không
bắt chước, lặp lại người khác. Nhưng “ấn tượng” ấy còn phải mang “giá trị khái
quát” nghĩa là nó không chỉ xuất phát từ cảm nhận chủ quan nhà văn mà còn phải
có sức tổng quát, tái hiện cả hiện thực rộng lớn, thực trạng chung của xã hội.
Những điều này đều được tác giả gửi gắm vào nội dung tác phẩm. Tuy nhiên cũng
cần “biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng”, tức là nhà văn
đồng thời phải biết chuyển hóa những khám phá, cảm nhận của mình bằng cách
sáng tạo hình thức nghệ thuật hấp dẫn, đặc biệt. Mỗi tác phẩm văn học có thể coi
như “một tia lửa không lặp lại” của chính người viết, cũng như của một nền văn
học. Tác phẩm sống lâu bền, lưu giữ trong tâm trí bạn đọc bởi nó chứa đựng những
giá trị riêng biệt, là “ấn tượng chủ quan” mang tính “khái quát”, được chuyển tải
qua “hình thức riêng” của nghệ sĩ. Có lẽ vậy mà cuốn tiểu thuyết “Chiến tranh
không có một khuôn mặt phụ nữ” của nhà văn người Belarus Svetlana Alexievich
đã chiếm trọn tình cảm bạn đọc, xứng đáng nhận giải thưởng Nobel Văn chương
năm 2015. Tác phẩm thể hiện “ấn tượng chủ quan” của nhà văn về cuộc chiến
tranh vệ quốc của nhân dân Xô Viết chống lại Đức quốc xã và phe đồng minh
trong thế chiến thứ hai, nhưng là chiến tranh được nhìn dưới góc độ của người
phụ nữ ra trận, qua đó khái quát lên hiện thực tàn khốc của cuộc chiến, bày tỏ khát
vọng sống, hòa bình của nhân loại. Truyện cũng chọn được hình thức biểu đạt lOMoAR cPSD| 61431571
riêng, không trộn lẫn. “Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng
con đường riêng của mình” (Lã Nguyên). Họ có quyền được lựa chọn điều mình
quan tâm, phản ánh. Và trên hết dù viết về điều gì họ cũng đều lưu lại đó “ấn
tượng” chủ quan “có giá trị khái quát” đi cùng với hình thức riêng biệt, độc đáo.
Có lẽ đó là yêu cầu cần có của mỗi một người nghệ sĩ khi bước vào địa hạt văn chương. 8.
Sáng tạo của người nghệ sĩChế Lan Viên từng đặt câu hỏi:
“Có nên chăng Ta nói mãi cái truyền thống, cái ngàn năm Đến nỗi bó tay
chẳng làm gì được nữa?"
Câu hỏi có lẽ đã để lại day dứt trong lòng nhiều người cầm bút, vì không thể
cứ nói mãi những “cái truyền thống, cái ngàn năm” theo lối mòn nữa, mà cần có
sự sáng tạo, đổi mới. Nhưng sáng tạo không có nghĩa là tạo ra những gì kì quái,
khó hiểu, nó cần mang tính nhân văn, hướng đến lợi ích chung của cộng đồng.
Khi chấp nhận dấn thân vào nghệ thuật đồng nghĩa việc dấn thân với thử thách,
phải sáng tạo không ngừng, tìm được lối đi, “ấn tượng” riêng cho mình. Để sự
sáng tạo trở nên thành công, trước tiên anh phải ngụp lặn, trải nghiệm với đới, tạo
cho mình cái nhãn quan đúng đắn, sâu sắc, sau đó mới là khám phá điều mới lạ,
chưa ai tìm thấy. Nghệ sĩ phải hình thành cho mình hệ tư tưởng đúng đắn, phổ
quát toàn nhân loại, đồng thời cũng phải có tài năng trong sáng tạo hình thức nghệ
thuật. Tác phẩm sẽ chết nếu như không có bạn đọc. Vì thế, người đọc với vai trò
đồng sáng tạo với nhà văn cần biết trân trọng công sức của họ, đón nhận tác phẩm
với tất cả lòng nhiệt thành, thấy được cái mới của trang viết, từ đó học hỏi, mở
rộng tầm mắt mình trước cuộc sống. M. Gorki đã viết: “Người tạo lên tác phẩm
là tác giả nhưng người quyết định số phận tác phẩm lại là độc giả?” - để có được
độc giả thật sự bền vững thì phải khởi nguồn sáng tạo của người nghệ sĩ. “Tác
phẩm nghệ thuật luôn được xây dựng từ những vật liệu mượn ở thực tại, nhưng
nhà văn không chỉ muốn ghi lại những cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì
mới mê'" (Nguyễn Đình Thi). “Ở đâu có lao động, ở đó có sáng tạo ngôn ngữ”.
Chính từ những hoạt động sống hằng ngày, từng lao động, từ sinh hoạt mà ngôn
ngữ ra đời. Ngôn ngữ tồn tại khách quan, không một cá nhân nào có thể tùy tiện
thay đổi, làm biến dạng, nó như một thứ khế ước mà mọi thành viên trong cộng
đồng đều phải học cách sử dụng.
Ngôn ngữ chính là những vỉa quặng mà từ đó nhà văn, bằng tài năng nghệ
thuật và cảm nhận tinh tế, tôi luyện thành ngôn từ nghệ thuật của mình, là những
gì tinh tế nhất, hàm súc nhất, biểu cảm nhất, để có thể truyền tải trọn vẹn tư tưởng, lOMoAR cPSD| 61431571
tình cảm mà anh ta đang ấp ủ. Quá trình đó rất gian khổ, nhưng thành quả cũng
thật cao quý. “Phải tốn hằng tấn quặng ngôn từ/Chỉ thu về một chữ mà thôi/ Những
chữ ấy làm cho rung động/Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”. Như vậy có
thể nói, một vật liệu không thể thiếu để làm nên tác phẩm nghệ thuật mà nhà văn
mượn từ thực tại, chính là ngôn ngữ. Sáng tạo nghệ thuật từ chất liệu hiện thực,
snags tạo nghệ thuật trên cả chất liệu ngôn từ. 9.
Văn học phải cảm nhận bằng tất cả tâm hồn,
phải dùng trí tưởng tượng,sự liên tưởng, suy luận cảm xúc
với tất cả mọi giác quan và tâm hồn mới có thể hình dung
được những sự vật, hiện tượng trong đời sống, điều đó nói
lên rằng ngôn từ mang tính chất phi vật thể.Nhờ đó văn
bản có thể diễn tả được những sự việc theo dòng chảy lịch
sử hang ngàn năm, vạn năm trên một không gian hữu hạn
hoặc vô hạn. Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Người nghệ
sĩ tài năng là người nghệ sĩ biết sáng tạo “Chất liệu” ngôn
ngữ của dân tộc để làm nên tác phẩm của mình, xây dựng
hình tượng nghệ thuật của riêng mình và tạo cho mình một
giọng điệu riêng, một phong cách riêng, không nhầm lẫn
vào đâu được. Văn hào Nga Chekhov đã khẳng định “Nếu
tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó
không bao giờ là nhà văn cả”. Người ta có thể nói phong
cách Hồ Xuân Hương, Nguyễn Tuân, Nam Cao , Vũ Trọng
Phụng chứ không nói phong cách cho những nhà văn ít ai
biết đến. Chekhov (Nga) quan niệm : “phong cách cần
được định nghĩa như một thủ pháp biểu hiện cách khai thác
hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục
thu hút tác giả“. Theo ông ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên tạo
nên phong cách tác giả. Nhà ngôn ngữ học Đào Thản cho
rằng: ”Những nét biến hóa riêng của tác giả trong việc sử
dụng ngôn ngữ nhằm mục đich diễn đạt nội dung . Nó bao
gồm các yếu tố được luôn luôn tái hiện và hình thành bền
vững trong ngôn ngữ tác giả. Có thể nói, vũ khí của nhà
văn là ngôn từ, văn chương quan trọng nhất là chữ nghĩa,
từ ngôn từ nghệ thuật ta nhận ra hiện thực, tài năng, thái
độ của nhà văn thể hiện trong tác phẩm’”. Ngôn ngữ đó
chính là sản phẩm của trí tưởng tượng, của sự trải nghiệm lOMoAR cPSD| 61431571
và là tài năng của nhà văn. Cho nên ngôn ngữ nghệ thuật
bao giờ cũng có tính đa nghĩa và có độ chênh lệch giữa cái
biểu đạt và cái được biểu đạt tạo lập nên những tín hiệu
ngôn ngữ mang ý nghĩa hình tượng. Người ta còn gọi là
tính “mơ hồ “của ngôn ngữ, hay tính “lạ hóa” của ngôn
ngữ. Nhà văn tài hoa là nhà văn tạo nên nhiều tầng ý nghĩa
trong ngôn ngữ của mình.
Xét riêng về ngôn ngữ trong thơ, một bài thơ hay không dễ gì ta cảm nhận
được ngay, có khi chỉ bằng linh cảm mà nhận ra. Đọc rồi, đọc nữa, suy ngẫm, liên
tưởng ta mới nhận ra thứ ánh sáng, màu sắc, hương thơm man mát bên trong hình
tượng thơ. Chẳng thế mà nhà thơ Hoàng Đức Lương đã rất đề cao nàng thơ: Thơ
là sắc đẹp ở ngoài sắc, vị ngọt ở ngoài vị, không thể trông bằng mắt thường được,
chỉ có thi nhân trông thì mới thấy đẹp, nếm mới thấy ngon... Hay như Sóng Hồng
viết: Thơ là nghệ thuật kỳ diệu bậc nhất của trí tưởng tượng. Vì vậy để hiểu được
bài thơ hay, viết được bài thơ hay nhà thơ không thể không khổ công đi tìm ý, tứ,
câu, chữ và bao yếu tố khác trong thơ và ngoài thơ. “Khác với văn xuôi, thơ ca
chỉ dùng một lượng hữu hạn các đơn vị ngôn ngữ để biểu hiện cái vô hạn của cuộc
sống bao gồm các sự kiện tự nhiên và xã hội cũng như những điều thầm kín trong
tâm linh con người” (TS Hữu Đạt).
Nhà thơ Lưu Quang Vũ đã ngợi ca trong bài thơ “Tiếng Việt”: Tiếng tha thiết
nói thường như hát/ Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh/ Như gió nước không thể
nào nắm bắt/ Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh. Và dường như Tiếng Việt với
đủ 6 thanh sinh ra, là phương tiện để dành cho thơ ca. Nhà thơ đã lấy trong kho
ngôn ngữ toàn dân, cùng với snags tạo riêng, để mỗi từ ngữ trong câu thơ phải
diễn tả được đúng điều mà nhà thơ nhìn thấy, cảm thấy và những điều sẽ thấy. Lựa
chọn được một từ ngữ “đắt” để diễn đạt một ý không phải lúc nào cũng suôn sẻ.
Trong một trường liên tưởng của từ ngữ có nhiều từ cùng nghĩa, gần nghĩa, trái
nghĩa..., người viết cần liệt kê vài từ để chọn. Chẳng hạn như, từ “ép” trong câu:
Tuổi già hạt lệ như sương/ Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan là một “nhãn tự”
(mắt chữ) trong bài “Khóc Dương Khuê ” của Nguyễn Khuyến. Mỗi câu thơ hay,
bài thơ hay dường như nhất thiết phải có một “mắt chữ”. Tản Đà đã suy nghĩ rất
nhiều khi chọn từ “khô” để đưa vào câu thơ: Non cao những ngóng cùng trông/
Suối khô dỏng lệ chờ mong tháng ngày (Thề non nước). Nếu thay từ “khô ” bằng
từ “tuôn ”, hay từ “trôi” thì hiệu quả sẽ như thế nào? - Chắc chắn hiệu quả sẽ giảm
đi rất nhiều, có thể biểu ý nhưng cái tình bị xẹp đi rất nhiều. Đúng là, việc trau
chuốt, gọt lựa từng chữ, từng từ như người nghệ nhân tạo tác một tác phẩm điêu lOMoAR cPSD| 61431571
khắc trên đá cẩm thạch. Ngôn ngữ là thứ của cải vô cùng quý báu và lâu đời của
dân tộc (Bác Hồ). Mỗi nhà thơ sẽ có cách tiếp cận, sử dụng riêng vốn ngữ toàn
dân, ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ nghệ thuật để đưa vào bài thơ. Và, thơ ca khi
trở lại với con người và cuộc sống sẽ góp phần làm cho tiếng Việt ngày thêm giàu
có, trong sáng. Nhưng mỗi một nhà thơ tài năng, không chỉ thả vào thời gian
những câu thơ đáng đọc mà còn để lại những câu thơ lay động trái tim - đó là
những câu thơ làm “mắt chữ” thật sự. 11.
Sự vi diệu của ngôn từ trong việc biểu đạt cảm xúc -
M. Gorki: “Nhà văn không chỉ viết bằng ngoi bút mà cỏn vẽ bằng từ ngữ thể
hiện một cách hoàn hảo những tư tưởng của tác giả, xây dựng một bức tranh đậm
đà, đắp nên những hình tượng sinh động, có sức thuyết phục đến nỗi người đọc
trông thấy được những điều mà tác giả mô tả” Còn Abbé Duros: “Nhà thơ tìm
hình ảnh để tả cái đẹp bằng từ ngữ thích hợp, khiến người ta khả giác được tư
tưởng'1”. Mỗi từ ngữ có sự vi diệu lấp lánh riêng, bởi bản chất của nghệ sĩ rất giàu
cảm xúc và hoạt động sáng tạo văn nghệ cũng là một phương thức vận dụng qui
luật và đặc trưng của tình cảm.
Tính biểu cảm của ngôn ngữ văn học gắn liền với chức năng biểu hiện cảm
xúc của văn học.Văn xuỗi đặc biệt là thơ ca góp phần bộc lộ tình cảm của người
viết và rộng ra là tình cảm của cuộc đời chung. Nghệ thuật nói bằng một thứ tiếng
nói duy nhất đó là ngôn ngữ của chính thế giới bên trong, ngôn ngữ của cảm xúc
và biểu cảm. Raspuchin đã chia sẻ “Nếu tôi viết là tôi đau ở đâu đấy trong người.
Tôi cảm thấy một sự thiếu thốn nào đó”. Tính biểu cảm biểu hiện qua tác phẩm
bằng hình tượng bao quát và ngay trong những từ ngữ cụ thể. Tính biểu cảm biểu
hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau như gián tiếp, trực tiếp, có hình ảnh hoặc
chỉ là ngôn ngữ thuần tuý. Tuy vậy, tính biểu cảm bộc lộ rõ nhất ấy là khi tác giả
muốn nhấn mạnh cảm xúc nội tâm. Những dòng văn bằng ngôn từ tràn đầy cảm
xúc thanh sơ, dịu nhẹ, trong trẻo mà Thanh Tịnh đã nương vào lòng người đọc -
“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm
tay tôi dân đi trên con đường làng dai và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại
lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ [...] Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài
đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức
những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường.” (Thanh Tịnh - ""Tôi đi học'"). Hay
Chế Lan Viên đã viết: “Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt/ Như mẹ cha ta như vợ
như chồng/ Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết/ Cho môi ngôi nhà ngọn núi dòng sông” .
Văn học là một hình thái ý thức xã hội và cũng là một hình thái nghệ thuật, nhưng
văn học khác với các ngành nghệ thuật khác nhờ đặc trưng chất liệu sáng tạo tác lOMoAR cPSD| 61431571
phẩm. Ngôn ngữ văn học có tính chính xác, hàm súc, đa nghĩa, hình tượng và biểu
cảm. Ngôn ngữ văn học tạo được tác dụng và hiệu quả thẩm mĩ cho văn bản văn
chương. Tuy vậy, ngôn ngữ văn học chỉ có thể đẹp và phát huy những phẩm chất
của chúng khi nhà văn thực sự tài năng, có năng lực làm chủ vốn ngôn ngữ và có
cá tính sáng tạo độc đáo. Tsêkhôp: “Mỗi nhà văn phải có lối nói riêng của mình.
Nếu tác giả không có lối nói riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả.” 12.Sáng tao
Bất kỳ nhà văn vĩ đại của dân tộc nào cũng sử dụng ngôn ngữ của dân tộc
mình để sáng tác. Nhưng vấn đề là ngôn ngữ đó khi tạo nên ngôn ngữ nghệ thuật
của một tác phẩm văn học nó không còn cái nguyên xi của ngôn ngữ đời thường,
của thực tế cuộc sống. Ngôn ngữ đó chính là sản phẩm của trí tưởng tượng, của
sự trải nghiệm và là tài năng của nhà văn. Cho nên ngôn ngữ nghệ thuật bao giờ
cũng có tính đa nghĩa và có độ chênh lệch giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt
tạo lập nên những tín hiệu ngôn ngữ mang ý nghĩa hình tượng. Người ta còn gọi
là tính “mơ hồ “của ngôn ngữ, hay tính “lạ hóa” của ngôn ngữ. Nhà văn tài hoa là
nhà văn tạo nên nhiều tầng ý nghĩa trong ngôn ngữ của mình . Hiểu theo cách trên,
rõ ràng sự “lệch chuẩn ” ngôn ngữ chỉ có đưọc ở những nhà văn lớn, những nhà
văn có phong cách. Chúng ta nên hiểu sự lệch chuẩn đó là sự sáng tạo ngôn ngữ
chứ không phải là chống lại sự chuẩn mực chung của ngôn ngữ dân tộc. Trái lại
sự lệch chuẩn ngôn ngữ góp phần làm phát triển ngôn ngữ tạo ra những chuẩn
mới của ngôn ngữ, là sự mở rộng chuẩn mực ngôn ngữ. Bởi vì sự sáng tạo chân
chính trong lời nói nhà văn xét đến cùng đều bắt nguồn từ khả năng tiềm tàng của
ngôn ngữ, từ những qui luật sâu xa của hệ thống ngôn ngữ chung. Vậy chuẩn mực
ngôn ngữ là gì? Là toàn bộ các phương tiện qui tắc thống nhất và ổn định về cách
sử dụng ngôn ngữ, được qui định và phát triển trong xã hội vì một hiện tượng
ngôn ngữ mang tính truyền thống được xã hội chấp nhận và sử dụng. Vì là truyền
thống nên có tính chất bắt buộc. Và ngược lại sự lệch chuẩn lại là việc sử dụng
ngôn ngữ có tính sáng tạo của cá nhân gắn liền với cách nhìn, quan điểm của
người nói nhưng được xã hội chấp nhận. Những phương diện thường đưọc các
nhà văn sử dụng để tạo nên sự lệch chuẩn bao gồm: Các qui tắc tu từ về ngữ âm;
Từ vựng ngữ nghĩa; Cú pháp; Phương pháp diễn đạt và bố cục tác phẩm; Việc
lệch chuẩn ngôn ngữ không chỉ taọ ra hiệu quả thẩm mỹ cho ngôn ngữ nghệ thuật,
ngôn ngữ dân tộc mà chính tạo ra một văn phong của nhà văn cụ thể. Hồ Xuân
Hương sử dụng ngôn ngữ để tạo hình, tạo nhạc và cuối cùng tạo nghĩa. Cách tạo
nghĩa lơ lững có lẽ cơ bản nhất vẫn là sự lệch chuẩn ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ lOMoAR cPSD| 61431571
đời thường của Xuân Hương. Những từ ngữ : Lá đa, nguyệt, hoa rữa, miếng trầu,
cái bánh trôi, động Hương Tích, thu, lạnh , Lạch Đào Nguyên....là những ký hiệu
ngôn ngữ di chuyển từ cái miêu tả đến cái ẩn dụ vô cùng đa dạng, biểu đạt sức
sống có tầm cở vũ trụ cái vĩnh cửu. Cái ngạc nhiên, cái đột ngột, cái bật cười thấm
thía nỗi buồn tạo nên bởi cái xô lệch không ăn khớp là những đặc điểm trong
phong cách thơ nôm của Hồ Xuân Hương. Hay như nhà thơ hiện đại Vi Thùy
Linh, Linh ưa dùng những động từ mạnh, như phản ứng với đời sống nghiệt ngã
và đối diện với cái ngang trái không toàn vẹn trong tình yêu - một kiểu trực diện
không né tránh. “Đập nát”, “vắt mình”, “phá vỡ”... là tương chiếu của ý muốn
vượt thoát khỏi định kiến thông thường của người đời và vươn mình đến cõi Linh
của tình yêu. Giọng thơ vì vậy cứng cỏi, bạo liệt. Người đọc dễ bị cuốn vào nguồn
cảm xúc của Linh, ào ạt như một cơn thác lũ - Anh yêu của em/ Em yêu Anh cuồng
điên/ Yêu đến tan cả em/ Ào tung ký ức (Người dệt tầm gai).
13.Ngôn ngữ văn chương giàu tính biểu cảm
Tính biểu cảm - Là sự bộc lộ cảm xúc trực tiếp hay gián tiếp qua mỗi từ ngữ
thơ. Đó là các cung bậc: ái, ố, hỉ, nộ của lòng người. Khi nghe tin bạn mất, Nguyễn
Khuyến đã thốt lên: Bác Dương thôi, đã, thôi rồi/ Nước mây man mát ngậm ngùi
lòng ta (Khóc Dương Khuê). Xuân Quỳnh lại rất nhỏ nhẹ, đầy nữ tính khi bộc lộ
cảm xúc với Trái tim đập những điều không thể nói. Trong bài Sóng, chị viết về
nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp, chỉ nói với lòng mình thôi về một tình yêu vĩnh hằng
chung thủy: Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ. / Con sóng dưới lòng sâu/ Con
sóng trên mặt nước/ Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em
nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức. để rồi cùng đọng lại nỗi nhớ là: Hướng về
anh một phương. Nét độc đáo trước tiên trong ngôn từ nghệ thuật của văn chương
Nguyễn Tuân, là ông biết khai thác tối ưu hiệu ứng âm thanh của tiếng Việt đơn
âm tiết, nhưng lại đa thanh điệu, tạo cho câu văn giàu tính nhạc vang hưởng chất
thơ. Những năm trước và sau thập kỷ sáu mươi, Nguyễn Tuân nhiều lần len lỏi
giữa rừng Việt Bắc đại ngàn. Với một tình yêu rừng da diết, nhà văn như đang
nghe giai điệu rừng dội từ vách đá, vọng xuống lũng sâu, cộng hưởng vào tâm hồn
chan chứa thơ nhạc của người bộ hành Nghệ sĩ Nguyễn Tuân. Ông đã dùng những
nét chữ để ký âm khúc nhạc rừng độc đáo: "Lòng tôi sao toàn là những cảm xúc
của một người bộ hành thời Trung cổ đặt chân vào giữa một vùng Cổ đại. Đầu
toàn nhớ lại những âm từ thơ Đường. Cảnh nơi dọc đường cũng Tùy Tùy Đường Đường cũng Lý
Lý Trần Trần như thế thôi. Nhịp sống, nét sống cũng phong phong trần trần
mộng mộng đào đào nguyên nguyên vậy'' [Tuyển tập Nguyễn Tuân, NXB khoa lOMoAR cPSD| 61431571
học Xã hội, l998.]. Đọc đoạn văn sau, chưa cần tìm vào ý nghĩa, chỉ nghe âm
hưởng vang lên, cũng đã gợi trong ta liên tưởng như những tiếng nức nở của Chiêu
Quân cống Hồ đồng vọng trong tâm hồn đời chị Hoài như vại dưa muối đã hỏng:
"Nương theo cái chiều tưởng tượng gây gây mùi hoài cựu, tôi nghĩ xa, tôi nghĩ
gần, rồi tôi nhận thấy cả một đời chị Hoài cũng chỉ là một đời một nàng Hạnh
Nguyên bước đi một bước là thêm một bước cống Hồ. Rặt cống Hồ. Cống Hồ.
Toàn là nhịp cống Hồ. Toàn là cung Nam. Nó chìm hẳn xuống như những tiếng tơ
rầu" Tố Hữu nhận xét Nguyễn Tuân là "người thợ kim hoàn của chữ"; Lại Nguyên
Ân khen: "con người ông, phong cách ông cũng đẹp một cách độc đáo như câu
văn ông, loại câu văn có một không hai trong nghệ thuật ngôn từ tiếng Việt" - Một
phương diện giúp khẳng định phong cách của bất cứ nhà văn nào, mà chúng ta
không thể bỏ qua, đó là nghiên cứu yếu tố ngôn từ - chất liệu cơ bản để sáng tạo
nên tác phẩm văn chương mà nhà văn đã vận dụng một cách nghệ thuật. Và từ
ngôn ngữ thơ cho đến ngôn ngữ văn xuôi, tính biểu cảm thể hiện rất rõ đặc trưng
của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương.
14.Sứ mệnh của văn
Nhà văn không cứu rỗi cho riêng mình, anh phải mang lấy sứ mệnh tinh thần
của văn nhân: cứu rỗi người khác. Nhà văn không viết văn cho riêng mình đọc,
anh phải viết cho độc giả và vì độc giả của mình. Văn chương chỉ có nổi ý nghĩa
và có nổi một chỗ đứng ở đời bởi vì nó tham dự vào cuộc đời như một nỗ lực cống
hiến trái tim, khối óc của nhà văn; bởi nếu văn chương không làm được gì hơn là
phun châu nhả ngọc những ngôn từ phù phiếm véo von vô bổ, thì văn chương quả
là thứ xa xỉ vô ích vì nó chẳng mang lại được hiệu ứng thiết thực như mỹ phẩm
son phấn của các quí bà quí cô. Henry Miller nói: “Đừng băn khoăn về văn chương
. Nếu chúng ta có thể làm được việc gì khác thay vì văn chương thì hãy làm cái
việc khác đấy". nhà văn không làm việc gì khác hơn là vun đắp cho sự nghiệp văn
chương của mình mỗi ngày một đồ sộ ý nghĩa tận hiến cho đời sống, bởi văn
chương cao cả hơn nhiều việc hát ru những ngôn từ sáo rỗng. William Faulkner
đã nói về sứ mệnh của văn chương như sau: “Nghệ thuật thông thường là kích
thích mãnh liệt cuộc đời, một nôi say sưa cuộc đời"' Khi sống cùng mọi người,
nhà văn đối thoại với tha nhân, tìm kiếm tha nhân, kết ước với tha nhân, và anh
bắt tay vào sự nghiệp của mình: “Nâng đỡ con người và khuyến khích con người
trong cuộc chiến đấu để sinh tồn và thường tồn ghê gớm này là thiên chức của nhà
văn. Sáng tạo nhân vật là đòi hỏi cần có ở người cầm bút. Với Nguyễn Tuân, ông
luôn chú trọng vào việc xây dựng nhât vật mang nét cá biệt hóa, không lặp lại,
chất chứa những “tư tưởng, quan niệm của nhà văn về cuộc đời” Tiêu biểu cho tài lOMoAR cPSD| 61431571
năng này là hình ảnh Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Nhân vật
hiện lên với vẻ đẹp phi phàm hòa trộn giữa tài năng, khí phách, thiên lương, được
tái hiện qua nghệ thuật xây dựng nhân vật đầy tài hoa của tác giả. Huấn Cao gây
ấn tượng mạnh bởi vẻ đẹp hoàn mỹ. Ông có tài viết chữ đẹp với “nét chữ vuông
tươi tắn ”, tài năng ấy được lan truyền như một huyền thoại. Nó đã trở thành ước
mơ cả một đời của viên quản ngục. Để xin được chữ của Huấn Cao, quản ngục đã
bất chấp coi thường cả quyền lợi của một viên quan, an nguy của tính mạng bằng
việc biệt nhỡn Huấn Cao, chỉ ước mong một ngày có được con chữ kia. Huấn Cao
hiện lên thực sự là một người nghệ sĩ tài hoa, mang một vẻ đẹp lí tưởng. Tài năng
của Huấn Cao khiến cho những người đại diện của xã hội đương thời mà Huấn
Cao chống lại phải ngưỡng mộ. Nhà văn vì con người, ngợi ca con người dù trong
hoàn cảnh nào thì cái đẹp cũng cứu rỗi con người, và nhà văn là người dẫn lối vào
cái đẹp. Tuy nhiên, nhà văn không được chiều theo yếu đuối và sa đoạ của con
người, không thể có một thứ nghệ thuật hư vô, không thể có một thứ nghệ thuật
đòi chết. Không thể có một thứ nghệ thuật bi quan. Nghệ thuật bao giờ cũng phải
khẳng định” (W. Faulkner).
“Ai không biết hy sinh cho thế giới này, người đó chẳng bao giờ thấy được
thế giới khác" (Kinh Gita). Con người là chủ thể. Văn chương là sự cất tiếng về
con người. Khi phần người lên tiếng thì khi đó có văn chương. Văn chương là
những gì sáng đẹp - phần Người. Đời sống là đối tượng phản ánh của nghệ thuật.
Đứng trước hiện thực cuộc sống phong phú, người nghệ sĩ có những cảm xúc, suy
ngẫm, lý giải khác nhau, lựa chọn những mảng đề tài khác nhau để đặt ra những
vấn đề khác nhau. Và đó cũng là con đường riêng mà mỗi nhà văn tạo ra cho mình.
Nếu không có sự sáng tạo riêng của mình, không mang đến một chút gì mới lạ
cho văn chương thì tác phẩm của họ sẽ trở thành sự sao chép, sẽ dẫm lên vết chân
của người đi trước, sẽ bị thời gian đào thải. Sứ mệnh của nhà văn chân chính thể
hiện qua cái tâm của người cầm bút. Con người là là trung tâm khám phá của văn
học nghệ thuật. Văn học có thể viết về mọi vấn đề của đời sống, mọi hình thức
sáng tạo, nhưng đều hướng tới những vấn đề nhân sinh. Văn học chân chính là thứ
văn vị đời, nhà văn chân chính phải là nhà văn vì con người, tác phẩm mới đạt
đến tầm nhân bản, là viên ngọc sáng qua thời gian tấm màng lọc nghiệt ngã.
Nietzsche nói: “Ta yêu thích những con người không tìm kiếm đằng sau những vì
tinh tú mà ta yêu những con người hy sinh cho trần gian để ngày kia trần gian
thuộc về siêu nhân'". Một khi văn chương xa rời sứ mệnh của mình là văn chương
đã đánh mất vị trí trong xã hội. Văn chương trở thành một phương tiện giải trí,
thành trò chơi ngôn ngữ của người cầm bút thì văn chương không còn là văn lOMoAR cPSD| 61431571
chương theo đúng nghĩa chân chính của từ này. Trong cuộc sống luôn tồn tại
những cái cao cả bên những cái thấp hèn và tâm hồn con người cũng luôn đấu
tranh để chiến thắng cái thấp hèn ở trong mình và xung quanh mình. Người nào
vượt lên được trong cuộc đấu tranh này sẽ trở thành người hơn và ngược lại. Văn
học nghệ thuật cũng như cuộc sống, phong phú kỳ lạ và còn nhiều ẩn số. Nó gắn
bó cuộc sống giống như cánh diều phải gắn với mặt đất bằng sợi dây. Cánh diều
càng bay cao thì sợi dây càng mờ đi, đến nỗi nhiều khi người ta chỉ còn nhìn thấy
cánh diều thôi. Nhưng nếu cắt đứt sợi dây thì cánh diều bị lật nhào. Nếu văn học
là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội (Stendhal) thì nhà văn chính là thư ký
của thời đại (Balzac). Mỗi tác phẩm ra đời đều là một thành quả nghệ thuật chứa
đầy tâm huyết của nhà văn. Bởi đó là nơi để nhà văn gửi gắm những tình cảm sâu
lắng nhất, những cảm xúc, khát vọng chân thành nhất, mãnh liệt nhất về con người
và về cuộc đời. Dưới mỗi con chữ sáng tạo của nhà văn là biết bao xúc động, biết
bao tình yêu cũng như nỗi đau đời trong tâm hồn nhạy cảm của người cầm bút vì
con người lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho
những người cùng đường, tuyệt lộ” (Nguyễn Minh Châu)
Người nghệ sĩ phải có tài năng và lòng dũng cảm trong quá trình phản ánh
hiện thực: Tài năng nhìn nhận, đánh giá cuộc sống và phải dũng cảm để chỉ ra
những điều tốt đẹp lẫn sự xấu xa, độc ác. Viết về "những vùng tối của hiện thực
đời sống để góp phần hoàn thiện nhân cách làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp
hơn". Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống và phục vụ
cuộc sống (bức tranh có con thuyền, có con người, có nhiều yếu tố thiên nhiên
đẹp đẽ khác như sương mù, ánh bình minh... nhưng thiếu hơi thở cuộc sống, nó
chỉ là bức ảnh thể hiện vẻ đẹp bên ngoài của cuộc sống). Nghệ thuật đích thực
phải thể hiện được bản chất sâu xa, sự thật ẩn sâu của cuộc sống. Chính nhà văn
Nguyễn Minh Châu đã từng khẳng định "Nhà văn không có quyền nhìn sự thật
một cách đơn giản, nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các
tầng sâu lịch sử" . Đó là một cái nhìn đa diện, nhiều chiều, đi sâu khám phá sự
thật của đời sống ở bình diện đạo đức, thế sự để hiểu đúng bản chất bên trong của
hiện thực. Chẳng hạn, khi ta đến với nhà văn Nguyễn Minh Châu và tác phẩm của
ông, ta sẽ cảm nhận được cái tha thiết với sứ mệnh của văn chương và nhà văn
trong mục tiêu cao cả vì con người. Ông viết:“Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ
trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người
cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân
tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đày đến ê chề,
hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. lOMoAR cPSD| 61431571
16.Sứ mệnh của nhà văn -
Nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để
bênh vực” (Ngồi buồn mà chơi). Để làm được như thế, phẩm chất đầu tiên cần có
của một người viết văn phải là tình yêu thương con người: “Tôi không thể nào
tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc
sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là
một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan
hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm
giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với
những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng
hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống”. (Phỏng vấn đầu xuân 1986).
Là một nhà văn trải qua nhiều biến cố lịch sử và cả hai giai đoạn lớn trong nền
văn học nước nhà, Kim Lân là một trong số ít những cây bút truyện ngắn dù để
lại một số lượng tác phẩm không nhiều so với các nhà văn cùng thời nhưng sáng
tác nào của ông cũng rất hay và sâu sắc. Bằng giọng văn chân thực, giản dị, Kim
Lân đưa cả làng quê và con người Việt Nam vào những câu chuyện của mình cùng
một tâm hồn đầy tình cảm gắn bó với quê hương đất nước. Mang trong lòng một
nỗi niềm nặng nề với cuộc sống, Kim Lân tìm tới viết lách để tự giải thoát cho
chính mình và từ đó ông bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp văn chương. Nhưng trong
sự nghiệp cầm bút của mình, ông không chỉ viết về cá nhân ông, vùng không gian
nghệ thuật nơi ông sinh ra và gắn bó, hơn hết những trang viết của Kim Lân là
những trang viết đau đáu về phận người, như tác phẩm “Vợ nhặt”. Từ bóng tối,
ánh sáng của hoàn cảnh vừa phơi bày hiện thực nhưng tác phẩm của ông còn hơn
thế, đau đáu nhìn vào nhân cách, nhìn vào tình người như ánh sáng cứu vơt con người. 17.
Người nghệ sĩ với một trái tim nhân ái - “đê môi ý thơ của anh
khi thấm vào trong giấy trắng tinh khôi phải là một liều thuốc bổ về tinh thần” (Thạch Lam)
Nghệ sĩ sẽ không thể làm thơ nếu của lòng khép kín, nếu trong từng vần thơ
của anh không có sự chắt lọc tinh tế và gạn lọc những xô bồ của hiện thực. Nói
như Thạch Lam: “Đối với tôi, văn chương không phải là cách mạng đến cho người
đọc sự thoát li, hay sự quên. Trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và
tự đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và
làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn! Thế nên, văn chương
không cần phải là sự chắt chiu trong ngôn từ hay sự bay bổng trong từng câu thơ”.
Văn chương chỉ có thể là một tiếng thét khổ đau, tuyệt vọng được cất lên từ bể lOMoAR cPSD| 61431571
sâu của cuộc đời. Người nghệ sĩ với một trái tim nhân ái và bao dung, một tâm
hồn tài năng và thi vị, anh sẽ thổi vào từng vần thơ của mình một niềm cảm thông
và chi sẻ cao độ, để mỗi ý thơ của anh khi thấm vào trong giấy trắng tinh khôi
phải là một liều thuốc bổ về tinh thần. Liều thuốc ấy khi đến với trái tim bạn đọc
như một sự thức tỉnh về tâm hồn mãnh liệt, thơ ca sẽ giúp chúng ta vượt qua nỗi
rào cản về số phận hay những lúc đua khổ tột cùng, chúng ta tìm đến thơ như một
người tri kỉ để bày tỏ nỗi lòng. Thơ đâu phải là quả bóng bay cao vời vợi nằm
ngoài tầm bắt. Lê Đạt: “Đọc một câu thơ hay, ta thường có cảm giác đứng trước
một bến đò gió nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường hướng thiện
với những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính hơn” Văn học nói chung và thơ ca nói
riêng phải gợi cho người đọc một sự thức tỉnh trong tâm hồn, người nghệ sĩ phải
làm sao để từng ý thơ được viết ra là “một bến đò gió nổi”, một cơ hội trong suốt
lộ trình dài đằng đẵng của cuộc sống, một ý nghĩ muốn khao khát thoát khỏi sự
ràng buộc của cuộc đời. Mồi vẫn thơ cất lên phải có sự va chạm giữa tâm hồn và
cảm xúc con người, ý thơ cho ta một thứ khát khao mãnh liệt với cuộc đời, hình
ảnh của thơ tóe lên trong tâm trí của mỗi người với những quan niệm về nhân
sinh, quan niệm về cái đẹp. Đến khi từng giai điệu trong thơ hoàn toàn dừng hẳn
thì con người lại có một “khao khát sang sông”, một mong muốn thay đổi số phận,
một thúc đẩy lên đường hướng thiện với những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính
hơn. Maia cốp xki: “Trên đời có những vấn đề chỉ có thể giải quyết bằng thơ”.
Phải chăng đôi cánh của thơ ca chính là dòng tình cảm chân thật và đằm thắm?
Thơ ca mang những tâm trạng đến với những tâm trạng, thơ ca có khả năng bao
quát sâu rộng không gian và thời gian. 18.
Sứ mệnh của nhà văn - “là người dẫn đường vào xứ sở cái đẹp”
Mỗi trang văn không phải lúc nào cũng rực rỡ như ánh nắng sớm mai mùa
hạ, đẹp đẽ như nụ hoa chớm nở đầu xuân, ấm áp như ánh lửa hồng trong đêm giá
rét và yên bình như mặt đất đón nhận chiếc lá thu rơi xào xạc tìm về với nguồn
cội. Nó còn là những mảng màu tối của bức tranh hiện thực, là những cơn mưa
bão xối xả, ào ạt trước khi để lại trên nền trời vẻ đẹp bảy sắc cầu vồng. Nhà văn
Pautốpxki cho rằng: “Thiên chức của nhà văn là người dân đường vào xứ sở cái
đẹp” - "Đã là văn chương thì phải đẹp" (Nguyên Ngọc) và đối với Pauxtốpxki cái
đẹp đã trở thành bến đỗ cho tâm hồn người nghệ sĩ nuôi dưỡng bao hương thơm
và trái ngọt cho cuộc đời. "Xứ sở của cái đẹp" chính là những vẻ đẹp của hiện
thực cuộc sống con người được nhà văn khẳng định và ca ngợi. Hành trình vươn
tới nghệ thuật đích thực của người nghệ sĩ là hành trình khám phá những vẻ đẹp
của cuộc đời, hình thành nên những giá trị tốt đẹp trong trí nhớ và trái tim người lOMoAR cPSD| 61431571
đọc. "Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu của nghệ thuật"(Bêlinxki). Đó như một
chân lý theo suốt quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ. Người ta đến với tác phẩm
đâu chỉ đơn giản là đón nhận một thành quả lao động nghệ thuật của nhà văn mà
còn muốn nhìn thấy được những bài học nhân sinh sâu sắc, hướng đến những hành
động có ý nghĩa và thưởng thức những giá trị thẩm mĩ mới mẻ đặc sắc. Bởi vậy
mà kết đọng lại trên trang văn của người nghệ sĩ là cái nhìn đầy nhân văn trước
cuộc đời, hướng tới những gì chân- thiện- mỹ.
Mỗi nhà văn lại dẫn con người đến một cái đẹp theo một nẻo riêng, không
trộn lẫn. Cái đẹp đa dạng, nhiểu vẻ như hành trình của bầy ong tìm mật để đem
lại hương thơm mật ngọt cho đời. Với nhà văn Thạch Lam, vẻ đẹp là một cái gì
chỉ hiện ra mong manh thấp thoáng nên dễ bị bỏ qua. Ông viết: "Cái đẹp man mác
khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường...".
Cái đẹp trong văn Thạch Lam là cái đẹp cổ điển: đẹp và buồn. Từ những bài báo
nhỏ đến những truyện ngắn cô đọng, viết văn với Thạch Lam đồng nghĩa với việc
săn sóc tới cái đẹp, và nhắc nhở về sự có mặt của nó với mọi người. “Viết là viết,
bất kỳ lúc nào, không sắp đặt, không bố cục. Cứ để đoạn sau cuốn theo đoạn
trước’” - đó lại là chia sẻ của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, chị nghĩ viết cũng gần
gũi như sống đời thường, như ăn nói, đi đứng tự nhiên hằng ngày của con người
mà không thần thánh hóa văn chương. Hẳn là nhà văn đã nghĩ người viết hay cũng
như một diễn viên phải đóng nhập vai trên sân khấu. Nghĩa là tác giả viết như
đang trong tâm trạng của chính nhân vật trong truyện của mình như một chân lý
không được coi là xa lạ, thờ ơ đối với người cầm bút. Và Nguyễn Ngọc Tư đã
thong dong, bền bỉ đi theo con đường nghệ thuật mình- đó cũng là sứ mệnh của
nhà văn đi tìm “hạt ngọc ẩn giấu” trong chính vẻ đẹp đời thường hôm nay.
19.Sứ mệnh của nhà văn - còn phải gắn mình với con người, với dân tộc
và thời đại mình.
Nguyễn Tuân từng nói: “Nhà văn chân chính nào cũng có một thế giới riêng.
Cái thế giới ấy là những hình tượng sáng tạo ra do nhân sinh quan và vũ trụ quan
của nhà văn và phản anh nên cái thực tế của thời đại” Một nhà văn chân chính mà
không đem đến một cách nhìn khác đi? Một nhà văn đích thực mà chỉ đem một
tiếng nói chung chung vô vùng nhạt nhẽo? Ây đâu phải nghệ thuật. Nghề văn
không hề dễ dàng, để sáng tạo nên tác phẩm tác phẩm hay đó là cả một quá trình
lao động đầy gian khó và cực nhọc. Trải mình với đời, ta lắng lòng và chiêm
nghiệm với những ngang trái trong bốn bể, ta chắt lọc được những điều quý giá
và đẹp đẽ của cuộc đời và con người, đó cũng là lúc ta “kiến tạo nên gương mặt
mình”. Tự chính sự trải nghiệm, nhà văn sẽ dần hoàn thiện nhân cách bản thân, lOMoAR cPSD| 61431571
nhân văn hơn, tốt đẹp hơn - đó là hành trình sáng tạo nghệ thuật của một nhà văn
chân chính. Không chỉ vẽ ra thế giới thu nhỏ của hiện thực cuộc đời mà chính nhà
văn còn xây dựng và hoàn thiện bản thân cho cao đẹp. Cuộc đời này chính là chất
liệu vô tận, là biển xanh trùng khơi cho người nghệ sĩ khai khác những “hạt bụi
vàng” mà góp nên trang. Hoài Thanh đã nhấn mạnh về sứ mệnh của nhà văn và
mở ra mối quan hệ của nhà văn với hiện thực: “Nhà văn không có phép thần thông
để vượt ra ngoài thế giới này, nhưng thế giới này trong con mắt nhà văn phải có
một hình sắc riêng" - nhưng ngay trong mối quan hệ giữa nhà văn với hiện thực
cũng đề cao, nhấn mạnh hành trình sáng tạo của nhà văn. Qua mỗi tác phẩm văn
học nghệ thuật chân chính ta có thể thấy cuộc sống dường như đang phập phồng
trong từng con chữ. Tuy nhiên, một nhà văn vĩ đại không thể chỉ là một cá nhân
riêng lẻ, mà cuộc đời, số phận và sự nghiệp sáng tác củạ ông ta phải được đặt
trong mối quan hệ gắn bó khăng khít với bối cảnh của dân tộc, đất nước. Nhà văn
đó phải bằng sức mạnh tư tưởng của các tác phẩm của mình thuyết phục, thu hút,
gắn kết các tâm hồn, các tầng lớp, giai cấp, tạo nên một tiếng nói chung nhất. Một
nhà văn vĩ đại phải vĩ đại ngay từ chính những tác phẩm của mình, từ tấm lòng
yêu thương con người và Tổ quốc, có lí tưởng và phấn đấu, hi sinh cho lí tưởng
ấy. Đô-xtôi-ép-xki luôn gắn mình với bối cảnh thời sự chính trị và văn chương
của nước Nga, sứ mệnh của nhà văn xét đến cùng là đồng hành cùng số phận con
người, với dân tộc và thười đại mình. Và như thế, sự vĩ đại của nhà văn chẳng
những đối với lịch sử văn học mà còn với cả lịch sử xã hội của đất nước. Nếu Đô-
xtôi-ép-xki, Puskin, Lep Toxtoi đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của văn học
Nga và lịch sử của dân tộc Nga, thì những nhà văn như Nam cao, Tô Hoài, Nguyễn
Tuân, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,. cũng đã góp sức mình trong tiến
trình của văn học dân tộc.
20.Nhà văn còn phải đứng trong bóng tối - “để đánh thức, khơi dậy
những điều chân, thiện, mĩ” (Diêm Liên Khoa)
Theo Gô- gôn "có những thời đại", nhiệm vụ của Nhà văn là "chỉ ra tận cùng toàn
bộ cái xấu xa đê tiện của cuộc sống hiện tại". Đây chính là khi người nghệ sĩ nhìn
cuộc đời với những gì trần trụi nhất, tái hiện tất cả những mặt tối tăm mù mịt của
bức tranh hiện thực. Tác phẩm văn chương đâu chỉ khoác lên mình chiếc áo
choàng lộng lẫy mà nó còn sống với những phần bần tiện, thấp hèn nhất của bộ
mặt hiện thực. Nếu không vạch trần được những góc khuất xấu xa, những đám
mây u ám đang vây kín bầu trời đẹp đẽ kia thì "sẽ không còn cách nào để hướng
xã hội tới cái đẹp". Thoát thai từ hiện thực, văn học sẽ mãi luôn bén rễ vào cuộc lOMoAR cPSD| 61431571
đời, hút nguồn nhựa dạt dào chảy trong lòng cuộc sống và trở thành cây xanh tỏa
bóng mát lại cho đời. Là nhà văn, anh phải để ngòi bút thấm đẫm chất mặn mòi
của nghiên mực để văn anh cất lên những âm thanh mang hơi thở của hiện thực,
vẽ nên bức tranh về đời một cách chân thực và sâu sắc. Thần Ăng-tê chỉ bất khả
chiến bại khi chân chạm vào đất. Không một ai địch nổi người trừ khi người bị
nhấc ra khỏi mặt đất. Lúc ấy chàng sẽ chết vì không còn nhận được sức mạnh từ
Đất Mẹ. Văn học cũng vậy, những tác phẩm sẽ sống nếu được tắm mát và nuôi
dưỡng trong mạch sữa tươi mát của cuộc đời. Nhưng cuộc đời không pahir là thảm
hoa hồng, là trang giấy trắng, là lấp lánh ánh hào quang, mà còn là những lấm lem
than bụi, những mặt trái góc khuất. Tại buổi tọa đàm văn học Khám phá tiểu thuyết
với sự hiện diện của các diễn giả là nhà văn Diêm Liên Khoa (Đại học Nhân dân
Trung Quốc) và giáo sư Vương Nghiêu (Đại học Tô Châu,Trung Quốc), nhà văn
Diêm Liên Khoa chia sẻ về con đường đến với văn chương của mình. Sơ khởi ông
đến với văn chương vì một ước mong trần tục, đó là thoát khỏi những lao động
ruộng đồng. Bây giờ nhìn lại, nhà văn nhận ra, “mình không thể làm gì khác ngoài
viết lách ”. Những quan niệm về văn chương là cốt lõi để Diêm Liên Khoa định
hướng cho những sáng tạo của mình. Một phần không nhỏ trong những tác phẩm
của ông là lối viết đi sâu vào cái ác để soi chiếu điều thiện. Nhà văn cho rằng: Văn
học chỉ quan tâm đến cái thiện và tình yêu là một nền văn học nông cạn. Sự vĩ đại,
lớn lao là văn học quan tâm đến cái ác, ở trong bóng tối để nhìn ra ánh sáng và cái
thiện. Sự quan tâm một chiều sẽ làm cho văn học trở nên lạc hậu. Mọi thứ trong
cuộc sống của chúng ta đều là tài nguyên của văn học. Và nhà văn thì nên xem
mọi thứ không là tốt cũng không là xấu. Ông nhấn mạnh: “Tôi luôn đứng trong
bóng tối để đánh thức, khơi dậy những điều chân, thiện, mĩ”. Mỗi nhà văn trong
mỗi thời đại đều ý thức rõ sứ mệnh của mình với hiện hực của thời đại - “Khi đối
diện với tự nhiên, bạn coi đại tự nhiên như một con người thì hãy viết, còn nếu
chỉ viết như văn miêu tả phong cảnh thì hãy dừng lại. Viết về đại tự nhiên không
chỉ là trách nhiệm của nhà văn chân chính mà vì tự nhiên chính là một phần sinh
mệnh của chúng ta” (Diêm Liên Khoa) - đó cũng là ý thức cao độ về sứ mệnh của
nhà văn với hiện thực thời đại mình - biết đứng trong bóng tối để hướng con người về ánh sáng.
21.Sứ mệnh của văn chương là vì con người
“Đối với tôi, văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát li hay
sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta
có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng
người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn ” (Thạch Lam). Mỗi tác phẩm văn