Soạn bài Ôn tập trang 58 - Chân trời sáng tạo 6
Soạn bài Ôn tập trang 58 - Chân trời sáng tạo 6 được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn học sinh cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Bài 2: Miền cổ tích (CTST)
Môn: Ngữ Văn 6
Sách: Chân trời sáng tạo
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Soạn văn 6: Ôn tập (trang 58)
Soạn bài Ôn tập (trang 58) - Mẫu 1
Câu 1. Hãy tóm tắt cốt truyện và nêu chủ đề của các truyện đã đọc vào bảng theo mẫu sau: Tên
Tóm tắt cốt truyện Chủ đề truyện truyện
Sọ Dừa Ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo phải đi ở Truyện thể hiện tấm
cho phú ông, họ hiền lành chịu khó mà vẫn lòng nhân ái với những
chưa có con cái. Một hôm, bà vợ vào rừng con người hiền lành,
hái củi, khát quá mà không tìm thấy suốt. tốt bụng và niềm
Thấy cái sọ dừa đựng đầy nước bèn bưng thương cảm với những
lên uống. Về nhà bà có mang, ít lâu sau, con người bất hạnh.
sinh ra một đứa bé không chân không tay
tròn như một quả dừa. Bà toan vứt đi thì
đứa con bảo mình là người nên bà giữ lại
nuôi và đặt tên nó là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ
Dừa được mẹ gửi vào nhà phú ông chăn bò.
Ba cô con gái nhà phú ông thay phiên nhau
đưa cơm cho Sọ Dừa nhưng chỉ có cô út là
đối đãi tử tế với Sọ Dừa. Phát hiện Sọ Dừa
không phải người trần, cô út đem lòng yêu
mến. Sọ Dừa đòi mẹ đến nhà phú ông hỏi
vợ cho, phú ông cười mỉa mai và thách cưới
rất nặng. Đến ngày cưới, Sọ Dừa chuẩn bị
đầy đủ sính lễ đem đến nhà phú ông và xuất
hiện với hình dáng của một chàng trai khôi
ngô tuấn tú khiến hai cô chị ghen tức. Hai
vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, Sọ Dừa
đỗ trạng nguyên được vua cử đi sứ. Trước
ngày lên đường, chàng đưa cho vợ một con
dao, hai quả trứng gà, dặn luôn mang bên
người. Lại nói hai cô chị vì muốn thay thế
em gái làm bà trạng, tính kệ hãm hại em
khiến cô rơi xuống biển. Nhờ những đồ vật
chồng đưa cho, cô thoát chết và chờ được
ngày chồng đến cứu. Hai vợ chồng đoàn tụ
còn hai cô chị thấy em gái trở về bình an,
liền trốn đi biệt xứ. Em bé
Ngày xưa, có một ông vua nọ vì muốn tìm
Truyện đề cao trí thông thông
người tài giúp nước nên sai một viên quan
minh được đúc kết từ minh
đi dò la khắp nơi. Viên quan đi đến đâu kinh nghiệm thực tế
cũng ra những câu đố oái oăm nhưng vẫn trong đời sống.
chưa tìm thấy người nào thật lỗi lạc. Một
hôm nọ, viên quan đi qua cánh đồng ở một
làng kia, thấy bên vệ đường có hai cha con
đang làm ruộng, viên quan liền lại gần và
hỏi người cha rằng trâu của ông một ngày
cày được bao nhiêu đường. Người cha chưa
biết trả lời thế nào thì đứa con đã hỏi lại
viên quan rằng ngựa của ông ta một ngày đi
được mấy bước. Quan nghe đến đấy thì
nghĩ bụng đã tìm ra nhân tài, liền về bẩm
báo với nhà vua. Vua nghe chuyện thấy
mừng nhưng vẫn muốn thử tài cậu bé một
lần nữa. Vua sai ban cho làng ấy ba thúng
gạo nếp với ba con trâu đực ra lệnh phải
nuôi cho ba con trâu đẻ thành chín con, năm
sau đem nộp bằng không cả làng phải chịu
tội. Cậu bé thấy vậy bảo làng giết thịt trâu
và đồ hai thúng gạo nếp ăn còn mình cùng
cha lên kinh đô gặp vua. Đến hoàng cung,
cậu bé đã thuyết phục vua hiểu rõ lí do trâu
đực không thể đẻ con và được vua ban
thưởng hậu hĩnh. Lúc bấy giờ, nước láng
giềng muốn xâm lược nước ta, để dò xét họ
liền sai sứ giả mang một cái vỏ ốc vặn dài
hai đầu với lời thách đố xuyên được sợi chỉ
qua. Vua sai viên quan đến hỏi cậu bé và
câu đố được giải khiến sứ giả nước láng
giềng kinh ngạc. Về sau, cậu bé được phong làm trạng nguyên. Non-bu
Ngày xưa, một gia đình nọ có hai anh em. Truyện thể hiện khát và Hen-
Anh là Non-bu tham lam, xấu tính. Em là vọng của nhân dân về bu
Hen-bu hiền lành, tốt bụng. Người anh một cuộc sống công
giành hết tài sản. Còn người em không có gì bằng, cái thiện chiến
nhưng vẫn chăm chỉ làm ăn, giúp đỡ mọi
thắng cái ác, người ở
người. Một năm, có đôi chim nhạn đến làm hiền gặp lành.
tổ trên mái nhà, Hen-bu đã đã cứu con chim
nhạn khỏi hiểm nguy và đến mùa xuân. Đôi
chim nhạn quay trở về và nhả cho chàng
một hạt bầu. Chàng trồng cây bầu và khi
quả lớn, chàng bổ ra nhận được rất nhiều
trân châu, hồng ngọc, tiền vàng, trở nên
giàu có. Non-bu thấy vậy về nhà mua một
đôi chim nhạn để nuôi. Sau đó còn tự bẻ
gãy chân một con chim nhạn rồi băng bó vết
thương, để được trả ơn khi hạt bầu. Đến khi
Non-bu trồng được ra quả thì khi bổ ra toàn
là các tráng sĩ tây cầm gậy rồi yêu tinh xuất
hiện, người anh trở thành kẻ ăn mày. Nghe
tin anh trai nghèo khó, suy sụp chạy đến tìm
và mời gia đình anh trai sống cùng mình.
Câu 2. Em thích nhất truyện nào trong các truyện trên? Vì sao?
- Học sinh tự lựa chọn truyện mình yêu thích nhất.
- Gợi ý: Sọ Dừa. Vì qua truyện Sọ Dừa, em học được rằng không nên nhìn
nhận, đánh giá con người chỉ qua vẻ bề ngoài của họ. Điều quan trọng là vẻ đẹp
phẩm chất bên trong của con người.
Câu 3. Theo em, để có thể kể lại truyện cổ tích một cách sinh động, hấp dẫn
(bằng hình thức viết và nói) thì cần phải chú ý những điều gì?
• Cần đọc kĩ truyện cổ tích để nắm được những nội dung chính.
• Tìm ý, sắp xếp các ý và lập dàn ý.
• Chú ý cách sử dụng từ ngữ, diễn đạt…
Câu 4. Truyện cổ tích có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống của chúng ta?
• Truyện cố tích chứa đựng những giá trị văn hóa dân gian lâu đời của dân tộc Việt Nam.
• Mỗi câu chuyện đều gửi gắm những bài học có giá trị nhân văn sâu sắc.
• Truyện giúp chúng ta hiểu hơn về nguồn cội, truyền thống của dân tộc.
Soạn bài Ôn tập trang 58 - Mẫu 2
Câu 1. Hãy tóm tắt cốt truyện và nêu chủ đề của các truyện đã đọc vào bảng theo mẫu sau: Tên
Tóm tắt cốt truyện Chủ đề truyện truyện
Ở làng nọ, có hai vợ chồng đi ở cho nhà phú Sọ Dừa Truyện thể hiện ước
ông. Họ tốt bụng, chăm chỉ nhưng ngoài năm mơ của nhân dân về
mươi vẫn chưa có con. Một hôm, bà vợ vào sự đổi đời: những
rừng lấy củi, khát quá mà không tìm thấy người hiền lành, tốt
suối. Bà nhìn thấy cái sọ dừa bên gốc cây bụng sẽ có được cuộc
đựng đầy nước mưa liền bưng lên uống. Về sống hạnh phúc.
nhà bà có mang. Chẳng bao lâu người chồng
qua đời. Bà sinh ra một đứa bé không chân
không tay tròn như một quả dừa. Bà toan vứt
đi thì đứa con bảo mình là người. Thương
con, bà giữ lại nuôi và đặt tên nó là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa chẳng khác gì lúc nhỏ.
Thấy mẹ than phiền chẳng giúp được việc gì,
Sọ Dừa liền xin đi chăn bò thuê ở nhà phú
ông. Đến mùa gặt, tôi tớ ra đồng làm cả. Ba
cô con gái nhà phú ông thay phiên nhau đưa
cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị tỏ ra coi thường,
chỉ có cô em út là đối đãi tử tế với Sọ Dừa.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa xin mẹ đem sính lễ sang
hỏi cưới con gái phú ông. Nhưng phú ông
thách cưới rất nặng, bà mẹ về nói với con,
nghĩ con sẽ thôi hẳn việc đòi lấy vợ. Nhưng
Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm. Đúng ngày hẹn,
bà mẹ vô cùng ngạc nhiên khi trong nhà có
đầy đủ lễ vật mà phú ông yêu cầu. Trong
đám cưới, mọi người không thấy Sọ Dừa
đâu. Một chàng trai khôi ngô tuấn tú xuất
hiện. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn
hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức. Sọ
Dừa và vợ sống rất hạnh phúc. Nhờ học hành
chăm chỉ, chàng đỗ trạng nguyên và được
vua cử đi sứ. Trước khi chia tay, Sọ Dừa đưa
cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai
quả trứng gà, dặn phải luôn mang trong
người phòng khi cần dùng đến. Nhân cơ hội,
họ bày mưu, rủ em gái chèo thuyền ra biển
chơi, rồi đẩy em xuống nước. Nhờ có những
vật mà Sọ Dừa đưa cho, cô út thoát chết,
sống trên đảo hoang. Hai vợ chồng Sọ Dừa
gặp lại nhau, trở về sống hạnh phúc. Còn hai
cô chị thì trốn đi biệt sứ. Em
bé Ngày xửa ngày xưa, có một ông vua muốn Truyện đề cao trí thông
tìm người tài để giúp nước. Viên quan đi đến thông minh được đúc minh
đâu cũng đặt ra những câu hỏi để thử thách kết từ kinh nghiệm
mọi người. Một lần, viên quan đến làng nọ, thực tế trong đời sống.
thấy hai cha con đang làm ruộng. Viên quan
liền hỏi người cha rằng rằng trâu của ông
một ngày cày được bao nhiêu đường. Người
cha chưa biết trả lời thế nào, thì đứa con trai
đã hỏi lại viên quan rằng ngựa của ông ta
một ngày đi được mấy bước. Quan nghe vậy
thì mừng rỡ, liền vội về tâu vua. Nhà vua
biết chuyện, liền thử tài cậu bé một lần nữa.
Vua sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp
với ba con trâu đực ra lệnh phải nuôi cho ba
con trâu đẻ thành chín con, năm sau đem nộp
bằng không cả làng phải chịu tội. Cậu bé bảo
thưa với cha bảo dân làng giết trâu ăn thịt
trâu và đồ hai thúng gạo nếp ăn còn mình
cùng cha lên kinh đô gặp vua. Khi đến hoàng
cung, cậu bé khóc lóc om sòm. Vua cho
người gọi vào hỏi rõ sự tình. Cậu mới bảo
rằng cha không chịu đẻ em bé cho mình có
bạn. Nhà vua bật cười nói rằng muốn có em
bé thì phải lấy vợ khác cho cha. Cậu bé hỏi
lại vua vậy vì sao lại bắt làng nuôi trâu đực
đẻ con. Lần nọ, khi hai cha con đang ngồi ăn
cơm ở quán, vua sai người đem đến một con
chim sẻ bắt làm thành ba mâm cỗ. Cậu bé
nhờ cha lấy một chiếc kim may rồi đưa cho
sứ giả bảo cầm về rèn thành một con dao để
xẻ thịt chim. Lúc này, vua hoàn toàn phục
cậu bé, cho gọi cả hai cha con vào trọng
thưởng. Bấy giờ, nước láng giềng muốn xâm
lược nước ta, để dò xét họ liền sai sứ giả
mang một cái vỏ ốc vặn dài hai đầu với lời
thách đố xuyên được sợi chỉ qua. Vua sai
viên quan đến hỏi cậu bé và câu đố được giải
khiến sứ giả nước láng giềng kinh ngạc. Vua
đã phong cậu bé làm trạng nguyên, còn cho
xây một dinh thự ở cạnh hoàng cung cho em bé ở, tiện hỏi han.
Non-bu Ngày xưa có hai anh em nọ. Người anh tên là Truyện thể hiện mong
và Hen- Non-bu - tham lam, xấu tính. Còn người em muốn về một cuộc bu
tên là Heng-bu - hiền lành, tốt bụng. Người sống công bằng, ở
anh lấy hết tài sản của cha để lại. Còn người hiền gặp lành.
em không có gì nhưng vẫn chăm chỉ làm ăn,
giúp đỡ mọi người. Lũ lụt, mất mùa khiến
cho gia đình người em nghèo túng. Heng-bu
đến xin người anh giúp đỡ nhưng bị đuổi đi.
Một năm nọ, có đôi chim nhạn đến làm tổ
trên mái nhà, Heng-bu đã đã cứu con chim
nhạn khỏi hiểm nguy và đến mùa xuân. Đôi
chim nhạn quay trở về và nhả cho chàng một
hạt bầu. Chàng trồng cây bầu và khi quả lớn,
chàng bổ ra nhận được rất nhiều trân châu,
hồng ngọc, tiền vàng, trở nên giàu có. Non-
bu thấy vậy về nhà mua một đôi chim nhạn
để nuôi. Sau đó còn tự bẻ gãy chân một con
chim nhạn rồi băng bó vết thương, để được
trả ơn khi hạt bầu. Non-bu trồng được ra quả
thì khi bổ ra toàn là các tráng sĩ tây cầm gậy
rồi yêu tinh xuất hiện, người anh trở thành kẻ
ăn mày. Nghe tin anh trai nghèo khó, suy sụp
chạy đến tìm và mời gia đình anh trai sống
cùng mình. Người anh cảm động ôm chầm lấy em trai.
Câu 2. Em thích nhất truyện nào trong các truyện trên? Vì sao? Gợi ý:
- Em thích nhất truyện: Em bé thông minh.
- Vì em cảm thấy rất khâm phục và ngưỡng mộ trí thông minh của nhân vật em
bé trong truyện. Qua câu chuyện về em bé thông minh, em nhận ra cần phải cố
gắng học tập, rèn luyện trí thông minh của mình.
Câu 3. Theo em, để có thể kể lại truyện cổ tích một cách sinh động, hấp dẫn
(bằng hình thức viết và nói) thì cần phải chú ý những điều gì?
Theo em, để có thể kể lại truyện cổ tích một cách sinh động, hấp dẫn (bằng hình
thức viết và nói) thì cần phải chú ý: Cần nắm được các sự kiện chính của truyện,
diễn đạt theo cách hiểu của bản thân nhưng vẫn cần rõ ràng, phù hợp….
Câu 4. Truyện cổ tích có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc sống của chúng ta?
Ý nghĩa của truyện cổ tích đối với cuộc sống của con người: Truyện cổ tích trở
thành một “món ăn tinh thần” không thể thiếu đối con người, đặc biệt là với trẻ em. Bởi vì: ⚫
Truyện cố tích thể hiện ước mơ của con người về một cuộc sống hạnh phúc, công bằng… ⚫
Lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc: phong tục tập quán, lễ hội… ⚫
Mỗi truyện đều gửi gắm bài học giá trị nhân văn sâu sắc. ⚫
Truyện giúp chúng ta hiểu hơn về nguồn cội, truyền thống của dân tộc.