Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 48 - Chân trời sáng tạo 6
Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 48 - Chân trời sáng tạo 6 được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn học sinh cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Bài 2: Miền cổ tích (CTST)
Môn: Ngữ Văn 6
Sách: Chân trời sáng tạo
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Soạn văn 6: Thực hành tiếng Việt (trang 48)
Câu 1. Tìm và nêu tác dụng của trạng ngữ trong các câu dưới đây:
a. Ngày cưới, trong nhà Sọ Dừa, cỗ bàn thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập.
• Trạng ngữ xác định thời gian: ngày cưới
• Trạng ngữ xác định nơi trốn: trong nhà Sọ Dừa
b. Đúng lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu.
Trạng ngữ xác định thời gian: đúng lúc rước dâu.
c. Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con vào ban thưởng rất hậu.
Trạng ngữ xác định thời gian: lập tức
d. Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan đưa mắt nhìn nhau.
Trạng ngữ xác định thời gian: Sau khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ.
Câu 2. Nêu tác dụng liên kết câu của trạng ngữ trong hai đoạn văn sau:
a. Năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, có chiếu nhà vua sai quan
trạng đi sứ. Khi chia tay, quan trạng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và
hai quả trứng gà, dặn phải giắt luôn trong người phòng khi dùng đến.
• Các trạng ngữ: năm ấy, chẳng bao lâu, khi chia tay.
• Các trạng ngữ này nhằm xác định rõ diễn biến về mặt thời gian, liên kết
các sự kiện xảy ra trước, xảy ra sau.
b. Từ ngày cô em út lấy được chồng trạng nguyên, hai cô chị càng sinh lòng
ghen ghét. Định tâm hại em để thay em làm bà trạng. Nhân quan trạng đi sứ
vắng, hai cô chị sang chơi, rủ em chèo thuyền ra biển, rồi đẩy em xuống nước.
• Trạng ngữ chỉ thời gian: từ ngày cô em út lấy được chồng trạng nguyên,
trạng ngữ chỉ mục đích: nhân quan trạng sứ đi vắng.
• Tác dụng: Các trạng ngữ nhằm xác định rõ điều kiện về mặt thời gian,
mục đích cho các sự kiện diễn ra trong đoạn văn, tạo mối liên hệ nhân
quả (cô em út lấy chồng trạng nguyên khiến hai cô chị ghen ghét, tiếp đến
là việc quan trạng đi vắng mới dẫn đến việc hai cô chị hại em).
Câu 3. Đọc đoạn văn sau:
Một hôm, cô út vừa mang cơm đến chân đồi thì nghe tiếng sáo véo von. Cô lấy
làm lạ, rón rén bước lên, nấp sau bụi cây rình xem, thì thấy một chàng trai khôi
ngô đang ngồi trên chiếc võng đào mắc vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò
gặm cỏ. Có tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy.
Nhiều lần như thế, cô gái biết Sọ Dừa không phải người phàm trần. Cô đem
lòng yêu, có của ngon vật lạ đều giấu đem cho chàng.
a. Tìm các từ láy trong đoạn văn trên.
Các từ láy là: véo von, rón rén, lăn lóc.
b. Chỉ ra tác dụng của việc sử dụng từ láy trong đoạn văn trên.
Các từ láy giúp người đọc hình dung rõ: Từ “véo von” diễn tả âm thanh, “rón
rén” và “lăn lóc” diễn tả hành động.
Câu 4. Đọc đoạn văn sau:
Viên quan sung sướng, vội vàng trở về tâu vua. Vua và các triều thần nghe nói
mừng như mở cờ trong bụng. Quả nhiên con kiến càng đã xâu được sợi chỉ
xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt thán phục của sứ giả nước láng giềng.
a. Tìm thành ngữ được sử dụng trong đoạn văn trên.
Thành ngữ: mở cờ trong bụng
b. Nêu ý nghĩa của thành ngữ đó.
Ý nghĩa: vui mừng, sung sướng và phần khởi. * Viết ngắn
Viết một đoạn văn (khoảng 150 đến 200 chữ) trình bày cảm nghĩ về một truyện
cổ tích mà em yêu thích, trong đó sử dụng ba trạng ngữ. Gợi ý: - Truyện Cây khế:
Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, em rất thích truyện Cây khế. Như mọi
câu chuyện cổ tích khác, “Cây khế” được bắt đầu bằng cụm từ “ngày xửa ngày
xưa” và “ở một nhà kia” chỉ thời gian trong quá khứ và không gian không xác
định. Tiếp đến tác giả dân gian bắt đầu giới thiệu những nhân vật chính trong
truyện - đó là hai anh em. Cha mẹ mất sớm, họ cùng nhau làm lụng vất vả nên
cũng đủ ăn. Nhưng từ khi có vợ, người anh đâm ra lười biếng. Người anh sợ
rằng em tranh giành của cải, liền bàn với vợ cho người em ra ở riêng, và chỉ
chia cho em một gian nhà lụp xụp, ở trước cửa có một cây khế ngọt. Kể từ đó,
vợ chồng người em chăm sóc cho cây khế tươi tốt. Đến mùa, khế ra rất nhiều
quả. Bỗng một hôm có con chim lạ đến ăn khế chín suốt một tháng trời. Người
vợ lo lắng, liền cầu xin chim đừng ăn khế nữa. Chim thần đáp lại: “Ăn một quả,
trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng”. Hai vợ chồng người em làm
theo lời chim. Hôm sau, chim đưa người em ra đảo lấy vàng và trở về. Từ đó,
người em trở nên giàu có. Qua đây, tác giả dân gian muốn gửi gắm bài học rằng
nếu chăm chỉ làm lụng mới có thành quả tốt, và người hiền lành tốt bụng sẽ
được đền đáp xứng đáng. Còn về phần người anh, sau khi nghe tin em trai bỗng
trở nên giàu có, liền vội đến hỏi chuyện. Nghe em kể hết đầu đuôi, người anh
liền gạ đổi hết gia sản để lấy túp lều và cây khế. Đến mùa khế chín, chim lại đến
ăn và trả lời như người em kể. Hai vợ chồng người anh tham lam may cái túi to
gấp ba lần. Đến nơi, người anh cố nhặt vàng và kim cương cho thật đầy. Trên
đường về, vì quá nặng lại gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Người anh bị
ngọn sóng cuốn đi với tay nải vàng và châu báu đầy người, còn chim thì lại
vùng lên bay về núi rừng. Kết cục này là xứng đáng với kẻ tham lam, lười
biếng. Cốt truyện đơn giản, cách kể chuyện gần gũi nhưng gửi gắm bài học ý nghĩa cho mỗi người.
Trạng ngữ: Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Đến mùa khế chín - Truyện Tấm Cám:
Tấm Cám là một truyện cổ tích mà em yêu thích nhất. Ở đoạn đầu truyện, các
tác giả dân gian giúp người đọc hiểu hơn về hoàn cảnh sống của nhân vật. Tấm
và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm mồ côi cha mẹ từ sớm, nên phải ở
cùng dì ghẻ. Hàng ngày, Tấm phải làm lụng vất vả nhưng vẫn bị mẹ con Cám
ngược đãi. Lời giới thiệu không chỉ gọn, rõ mà còn khiến người đọc đồng cảm
với số phận đắng cay của nhân vật Tấm. Câu chuyện tiếp tục được gợi mở
với nhiều tình huống xảy ra. Ít lâu sau, nhà vua mở hội, dì ghẻ trộn lẫn thóc với
gạo, bắt Tấm ở nhà nhặt xong mới được đi. Bụt hiện lên nhờ đàn chim nhặt
thóc, giúp Tấm có quần áo đẹp đi dự hội. Trên đường đi, Tấm đánh rơi chiếc
hài. Nhà vua nhặt được, đem lòng yêu mến người mang hài, truyền cho ai đi
vừa sẽ lấy làm vợ. Duy chỉ có Tấm đi vừa nên trở thành vợ vua. Đến ngày giỗ
cha, Tấm về cúng giỗ thì bị mẹ con Cám bày mưu giết chết. Thật tức giận biết
bao trước sự độc ác của mẹ con Cám! Sau đó, Tấm lần lượt hóa thân thành chim
vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị. Một hôm, có bà hàng nước đi quả
thấy quả thị liền bảo: “Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không
ăn”. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ
về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Bà quyết tâm rình
xem thì phát hiện ra nàng Tấm xinh đẹp từ quả thị bước ra. Bà lão rón rén lại
gần rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước. Một hôm, nhà vua đi
qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng giống của Tấm, liền gặng hỏi bà
lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau. Khi trở về hoàng cung, Cám thấy chị xinh
đẹp hơn xưa liền hỏi Tấm. Cám làm theo thì chết bỏng. Tấm sai người đem xác
Cám đi làm mắm rồi đem cho dì ghẻ. Dì ghẻ biết mắm được làm từ xác của con
mình thì lăn đùng ra chết. Kết thúc của chuyện đã giúp người đọc hiểu được
ước mơ của nhân dân về sự công bằng. “Ở hiền gặp lành”, “Ác giả ác báo” là
bài học thấm thía mà truyện cổ tích Tấm Cám muốn nhắn nhủ người nghe, người đọc.
Các trạng ngữ: Ở đoạn đầu truyện…; Hàng ngày..., Trên đường đi...
- Truyện Em bé thông minh:
Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, em thích nhất là truyện Em bé thông
minh. Truyện kể về việc một ông vua nọ muốn tìm người tài cứu nước nên đã
sai viên quan đi dò la khắp nơi. Một hôm nọ, viên quan đi qua cánh đồng ở một
làng kia, thấy bên vệ đường có hai cha con đang làm ruộng, viên quan liền lại
gần và hỏi người cha rằng trâu của ông một ngày cày được bao nhiêu đường.
Người cha chưa biết trả lời thế nào thì đứa con đã hỏi lại viên quan rằng ngựa
của ông ta một ngày đi được mấy bước. Quan nghe đến đấy thì nghĩ bụng đã
tìm ra nhân tài, liền về bẩm báo với nhà vua. Vua nghe chuyện thấy mừng
nhưng vẫn muốn thử tài cậu bé một lần nữa. Vua sai ban cho làng ấy ba thúng
gạo nếp với ba con trâu đực ra lệnh phải nuôi cho ba con trâu đẻ thành chín con,
năm sau đem nộp bằng không cả làng phải chịu tội. Cậu bé thấy vậy bảo làng
giết thịt trâu và đồ hai thúng gạo nếp ăn còn mình cùng cha lên kinh đô gặp vua.
Đến hoàng cung, cậu bé đã thuyết phục vua hiểu rõ lí do trâu đực không thể đẻ
con và được vua ban thưởng hậu hĩnh. Lúc bấy giờ, nước láng giềng muốn xâm
lược nước ta, để dò xét họ liền sai sứ giả mang một cái vỏ ốc vặn dài hai đầu
với lời thách đố xuyên được sợi chỉ qua. Vua sai viên quan đến hỏi cậu bé và
câu đố được giải khiến sứ giả nước láng giềng kinh ngạc. Những thử thách được
tạo ra nhằm giúp nhân vật bộc lộ tài năng, phẩm chất và trí thông minh của
mình. Đến cuối câu chuyện, em bé được phong làm trạng nguyên, và sống ở
một dinh thự cạnh hoàng cung để tiện hỏi han. Đó là phần thưởng xứng đáng
mà cậu bé nhận được. Truyện đề cao trí thông minh được đúc kết từ kinh
nghiệm thực tế trong đời sống, giúp người đọc hiểu rõ tầm quan trọng việc tích
lũy kiến thức từ đời sống.
Trạng ngữ: Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Một hôm nọ, Lúc bấy giờ.