Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ | Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức (Tập 1)

Xin gửi tới quý thày cô và các em học sinh Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ | Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức (Tập 1). Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và chuẩn bị tốt nhất cho bài học sắp tới của mình. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích bài viết tham khảo
Văn bản: Cảm hứng mùa thu trong Thu vịnh Đây mùa thu tới
1. Giới thiệu hai bài thơ định hướng so sánh
- Hai bài thơ: Thu Vịnh (Nguyễn Khuyến) Đây mùa thu tới (Xuân Diệu).
- Định hướng: So sánh bức tranh thiên nhiên mùa thu hai bài thơ từ đó so sánh
tâm trạng của hai nhà thơ.
2. Phân tích điểm tương đồng của hai bài thơ.
Gặp gỡ điểm đều viết về cảnh thu, tình thu đẹp nhưng buồn.
3. Giới thiệu nét riêng chỉ ra yếu tố tạo nên sự khác biệt của đối tượng so
sánh
Nét riêng biệt do sự khác biệt thế hệ của hai nhà thơ nên những quan điểm
thẩm khác nhau.
4. Phân tích nét riêng trong cảnh tình của bài Thu Vịnh.
Đây bức tranh thu làng quê Việt Nam, dân yên bình. Tâm nhà thơ bộn
bề với nỗi lo lắng về vận nước nhà.
5. Phân tích nét riêng của bài Đây Mùa Thu Tới trong sự đối sánh với bài Thu
Vịnh.
Nỗi buồn trong thơ Xuân Diệu nỗi buồn đầy trực cảm --> mùa thu đến đi gợi
cho Xuân Diệu nỗi lắng lo về sự chảy trôi của thời gian chứ không ngưng đọng cảnh
như Nguyễn Khuyến.
6. Khẳng định vị trí, giá trị sức hấp dẫn của hai bài thơ.
Một bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển với phong vị ẩn dật, mộ bài thơ mang đậm
nét hiện đại với cái tôi nhân mới mẻ.
7. Nêu ý kiến khẳng định về kết quả ý nghĩa của việc so sánh.
Cả hai tâm hồn đều yêu tha thiết mùa thu đều muốn hướng về tình yêu quê
hương xứ sở.
Thực hiện các yêu cầu sau khi đọc bài viết tham khảo:
Câu 1 trang 56 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Trong bài viết, tác giả đã dựa trên những sở nào khi chọn 2 bài thơ để so sánh,
đánh giá?
Trả lời
sở so sánh: Cảm hứng mùa thu; những cảm nhận nỗi niềm chung riêng,…
Câu 2 trang 56 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Bài viết triển khai các nội dung so sánh, đánh giá như thế nào? Bạn nhận xét
về hiệu quả của cách triển khai đó?
Trả lời
Cách triển khai:
- Phân tích điểm tương đồng 2 bài thơ.
- Giới thiệu nét riêng chỉ ra yếu tố tạo nên sự khác biệt của đối tượng so sánh.
- Phân tích nét riêng trong cảnh tình Thu vịnh.
- Phân tích nét riêng trong Đây mùa thu tới.
- Khẳng định vị trí, giá trị sức hấp dẫn của 2 bài thơ.
- Nêu ý kiến khẳng định.
Câu 3 trang 56 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Theo bạn, thể những cách trình bày nào khác về nội dung so sánh, đánh giá
trong bài viết?
Trả lời
Triển khai theo cách khác:
- Lần lượt phân tích từng bài thơ, sau đó chỉ ra điểm tương đồng, sự gặp gỡ
những điểm khác biệt, giải nguyên nhân của sự tương đồng khác biệt đó; đồng
thời đánh giá về giá trị đóng góp của mỗi bài thơ. Cách này dễ làm nhưng nhiều
khi bị trùng lặp ý mục đích so sánh không được làm nổi bật.
- Phân tích bài thơ thứ nhất theo các phương diện đã xác định, khi phân tích bài thơ
thứ hai sẽ so sánh với bài thơ thứ nhất theo từng phương diện giải nguyên
nhân của những điểm tương đồng khác biệt giữa hai bài thơ, từ đó, đánh giá về
giá trị đóng góp của mỗi bài thơ. Cách này cũng dễ thực hiện tránh bị trùng
lặp, thể hiện được ý so sánh, nhưng mạch so sánh khi trình bày bài thơ thứ nhất dễ
bị chìm.
Thực hành viết
So sánh bức tranh mùa thu của 2 bài thơ: Đây mùa thu tới - Xuân Diệu Đất nước
- Nguyễn Đình Thi.
Bài viết tham khảo
Văn học từ muôn đời xưa, cho đến muôn đời sau bao giờ cũng viết về con người.
chỉ tả một làn mây dòng suối, cành lá, tiếng chim, thì cũng nhằm nói về con
người. Cho nên thiên nhiên trong văn học những bức tranh tâm trạng. Người
buồn thì cảnh buồn, người vui thì cảnh vui. Qua hai bài thơ Đây mùa thu tới của
Xuân Diệu Đất nước của Nguyễn Đình Thi, chúng ta cũng thể thấy điều đó.
Mùa thu từ bao đời nay sẽ mãi mãi nguồn thi hứng, đề tài hấp dẫn đối với
các thi nhân. Các nhà thơ nổi tiếng thế giới cũng như Việt Nam như Huy-gô, Rim-bô,
Véc-len, Đỗ Phủ, Bạch Dị, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà đều đã
những bài thơ rất đặc sắc dành cho mùa thu. Nhưng không thế thơ viết về
mùa thu trở nên mòn sáo, đơn điệu. Bởi cảnh thu thời nào cũng vậy, nhưng lòng
người thì mỗi thời mỗi khác. thế cảnh sắc mùa thu trong mỗi bài thơ đều
những vẻ đẹp riêng độc đáo. Chính trạng thái cảm xúc của thi nhân đã quy định
cảnh sắc mùa thu trong thơ.
Bài Đây mùa thu tới một bài thơ hay về mùa thu của Xuân Diệu trước cách mạng.
Bài Đất nước (1948-1955) của Nguyễn Đình Thi không phải bài thơ viết về mùa
thu, nhưng cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Hai bài thơ viết
trong hai giai đoạn lịch sử khác nhau, thể hiện hai trạng thái cảm xúc khác nhau của
nhà thơ trước mùa thu.
Cảnh sắc mùa thu trong bài Đây mùa thu tới thấm một nỗi buồn. Đó cái buồn
muôn thuở, nhưng cũng cái buồn của thời đại, cái buồn của riêng “thơ mới”. Buồn
cái lạnh len lỏi đâu đây gợi nỗi đơn, buồn sự chia lìa từ hoa cỏ, chim muông
đến con người. Buồn một nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ phảng phất trong không gian
trong lòng người. (Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh rặng liễu buồn như những
gái xoã tóc chịu tang, cùng hàng ngàn dòng lệ hàng nối hàng tuôn rơi. Các khổ thơ
tiếp theo tác giả tái hiện cảnh hoa, rụng, cành cây khô gầy, vầng trăng vơ.
Sương mờ không khí trời u uất... tất cả những hình ảnh ấy gợi lên sự chia ly, tàn tạ,
phai nhạt làm nổi nỗi buồn đơn).
Cảnh thu buồn hiu hắt bi thương nhưng vẫn cái đó dịu nhẹ, trẻ trung rất
đẹp. Bởi cảnh thu ngoài việc được so sánh với một hình ảnh độc đáo, còn được
Xuân Diệu miêu tả với vẻ đẹp thơ mộng duyên dáng, tươi Bằng với tấm “áo phai
dệt vàng” vừa thực vừa ảo. Sắc vàng mùa thu đã làm sáng cả không gian.
Như vậy mùa thu bên cạnh cái vẻ đìu hiu buồn, một cái buồn rất đẹp của cảnh vật,
vẫn chứa đựng bên trong một sức sống trẻ trung. Ấy cái chất trẻ trung được phát
hiện bằng con mắt “xanh non” của tác giả cái sức sống của tuổi trẻ tình yêu
xốn xao trong cảnh vật.
Cảnh thu rất đẹp buồn lòng người lúc ấy còn buồn bã. Nỗi buồn của Xuân
Diệu cũng nỗi buồn của cả một thế hệ trí thức tiểu sản đương thời “yêu đời
nhưng đau đời” (Huy Cận) chưa tìm được lối ra. Nỗi buồn ấy chính tấm lòng thiết
tha yêu đời, thiết tha giao cảm với đời.
Đang trong tâm trạng ấy cho nên nhà thơ rất nhạy cảm trước khung cảnh đất trời
chuyển vào thu:
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo phai dệt vàng
Câu thơ cất lên như một tiếng reo khẽ, vồ vập, khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của
mùa thu. Phải tấm lòng yêu đời thì giữa cảnh thu buồn bã, nhà thơ mới thể
đón nhận được một niềm vui nho nhỏ như thế. Sự nhạy cảm của hồn thơ Xuân Diệu
còn được thể hiện qua cách cảm nhận của mùa thu. Nếu trong phần mở đầu, tác giả
phát hiện cảnh thu bằng thị giác để tái hiện sắc thu thì đến phần giữa bài thơ tác giả
đã thâm nhập vào bên trong cảnh vật để cảm nhận tinh tế bằng cảm giác của mình:
Cành run rẩy, sắc đổi màu, nhành cây ớn lạnh đến tận xương khô, rét mướt
luồn trong gió. Cuối cùng nhà thơ gửi gắm tâm trạng của mình qua nỗi lòng của
người thiếu nữ. “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”, một nỗi nhớ thương ngơ ngác mặc
thiếu nữ không nói, nhưng ràng đó thế suy của người muốn đón
nhận, của tâm trạng đang hướng về cuộc đời.
Tóm lại: cảnh thu, lòng người trước mùa thu buồn đơn, nhưng không quá
tuyệt vọng vẫn tươi trẻ. Toát lên từ toàn bộ bài thơ cảnh thu vẻ đẹp của một
nỗi buồn. Đó nỗi buồn đầy cảm xúc của cái tôi đơn biểu hiện một niềm yêu đời,
khát khao giao cảm với đời của nhà thơ Xuân Diệu.
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi bài thơ về “Đất nước bùn đứng dậy
sáng loà” qua cuộc kháng chiến 9 năm (1946-1954) nhưng cảm hứng đất nước lại
bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Mở đầu hình ảnh mùa thu “Sáng mát trong như
sáng năm xưa”, “Gió thổi mùa thu hương cốm mới”. Đó cảnh sắc thân thuộc của
mùa thu Việt Nam muôn đời. Cảnh thu trong sáng, vui tươi. Đoạn thơ tiếp theo, tác
giả khắc hoạ cảnh thu Nội ra đi nghĩa lớn. Đó cảnh thu với vẻ đẹp thơ mộng
xao xác buồn, buồn tưởng như thiếu hẳn bóng người. Buồn niềm bâng
khuâng lưu luyến của sự chia ly “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” nhưng thực ra
thì chẳng muốn rời:
Sáng chớm lạnh trong lòng Nội
Sau lưng thềm nắng rơi đầy
Còn mùa thu hiện tại mùa thu sau Cách mạng tháng Tám mùa thu chiến khu
Việt Bắc, lúc này đang chiến khu tự do, căn cứ địa của kháng chiến chống Pháp,
nơi Bác Hồ, Chính phủ kháng chiến đang điều khiển cuộc chiến tranh thần thánh
của dân tộc. Nguyễn Đình Thi đã đến với mùa thu này bằng một niềm vui tràn ngập,
niềm vui của người tự thấy mình được tự do, dân tộc được tự do, ít ra chiến
khu này. Đang trong tâm trạng vui, nên tác giả thấy cảnh thu hiện lên với vẻ đẹp tươi
sáng, đầy sức sống, đầy âm thanh màu sắc rộn rã, tươi vui. Bầu trời như thay áo
mới, cảnh vật như hồi sinh, những âm thanh của cảnh vật cuộc sống con người
cũng ríu ran ríu rít đầy niềm vui.
không gian mùa thu như trải dài, mở rộng theo những con đường, dòng sông,
đồng lúa, cánh rừng trùng điệp của đất nước.
Cảm hứng của Nguyễn Đình Thi trong bài Đất nước cảm hứng tự hào làm chủ
của một nghệ đang tham gia trực tiếp vào sự nghiệp bảo vệ xây dựng Tổ quốc
độc lập tự do. Trong đoạn thơ nói về mùa thu Nội 1946, tác giả thể hiện tâm
trạng buồn nhưng đó nỗi buồn của một người tha thiết yêu quê hương phải
tạm biệt quê hương lên đường nghĩa lớn. Nỗi buồn này khác nỗi buồn của Xuân
Diệu.
Cảm hứng chủ đạo của nhà thơ vẫn niềm vui, niềm tự hào về đất nước giang sơn
gấm vóc, về độc lập chủ quyền vậy đoạn thơ viết về mùa thu chiến khu Việt Bắc
vang lên sang sảng tự hào đầy kiêu hãnh.
Cùng viết về mùa thu Xuân Diệu chỉ thấy một mùa thu rất đẹp rất buồn. Còn
Nguyễn Đình Thi lại tiếp nhận một mùa thu trong trẻo, đầy âm thanh, màu sắc, đầy
niềm vui, sức sống của cảnh vật con người. Điều đó, xét cho cùng nguyên
nhân thời đại chi phối hồn thơ. Chính cảm xúc về thời đại đã quy định cảm hứng, qui
định tình thu của nhà thơ từ cảm hứng, tình thơ của nhà thơ lại qui định cảnh sắc
mùa thu trong thơ.
Trước cách mạng, Xuân Diệu sống trong cảnh ngộ của người dân lệ. Nỗi buồn
của người dân mất nước đã tạo nên cách nhìn, cách cảm của thi nhân trước mùa
thu. Từ sau cách mạng Xuân Diệu đã đến với đất nước bằng niềm vui, niềm tự hào
nên cảnh thu cũng đã thay đổi.
Ba năm qua nay lại mùa thu tới
Mỗi lần thu tới lại mùa thu tới
Thu từ nay không thu thảm thu sầu
thu sướng nhuộm màu xuân mát mát
biếc xanh xanh
Trời thu bát ngát
Da tươi thịt thắm
Nở lại cùng sương
Ảnh mấy bay như múa khúc nghê thường
Nắng hạ giọng nói những điều dịu sáng.
Còn Nguyễn Đình Thi viết bài Đất nước sau cách mạng lúc nhà thơ đã một người
dân tự do, cùng nhân dân làm chủ đất nước. Thời đại mới, đã tạo nên cảm hứng
mới cho nhà thơ. vậy, cảnh thu trong cách nhìn, cánh cảm nhận của nhà thơ trở
nên trong trẻo, tươi sáng, tràn đầy sức sống niềm vui.
| 1/6

Preview text:

Phân tích bài viết tham khảo
Văn bản: Cảm hứng mùa thu trong Thu vịnh và Đây mùa thu tới
1. Giới thiệu hai bài thơ và định hướng so sánh
- Hai bài thơ: Thu Vịnh (Nguyễn Khuyến) và Đây mùa thu tới (Xuân Diệu).
- Định hướng: So sánh bức tranh thiên nhiên mùa thu ở hai bài thơ từ đó so sánh
tâm trạng của hai nhà thơ.
2. Phân tích điểm tương đồng của hai bài thơ.
Gặp gỡ ở điểm là đều viết về cảnh thu, tình thu đẹp nhưng buồn.
3. Giới thiệu nét riêng và chỉ ra yếu tố tạo nên sự khác biệt của đối tượng so sánh
Nét riêng biệt là do sự khác biệt thế hệ của hai nhà thơ nên có những quan điểm thẩm mĩ khác nhau.
4. Phân tích nét riêng trong cảnh và tình của bài Thu Vịnh.
Đây là bức tranh thu ở làng quê Việt Nam, dân dã và yên bình. Tâm tư nhà thơ bộn
bề với nỗi lo lắng về vận nước nhà.
5. Phân tích nét riêng của bài Đây Mùa Thu Tới trong sự đối sánh với bài Thu Vịnh.
Nỗi buồn trong thơ Xuân Diệu là nỗi buồn đầy trực cảm --> mùa thu đến và đi gợi
cho Xuân Diệu nỗi lắng lo về sự chảy trôi của thời gian chứ không ngưng đọng cảnh như Nguyễn Khuyến.
6. Khẳng định vị trí, giá trị và sức hấp dẫn của hai bài thơ.
Một bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển với phong vị ẩn dật, mộ bài thơ mang đậm
nét hiện đại với cái tôi cá nhân mới mẻ.
7. Nêu ý kiến khẳng định về kết quả và ý nghĩa của việc so sánh.
Cả hai tâm hồn đều yêu tha thiết mùa thu và đều muốn hướng về tình yêu quê hương xứ sở.
Thực hiện các yêu cầu sau khi đọc bài viết tham khảo:
Câu 1 trang 56 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Trong bài viết, tác giả đã dựa trên những cơ sở nào khi chọn 2 bài thơ để so sánh, đánh giá? Trả lời
Cơ sở so sánh: Cảm hứng mùa thu; những cảm nhận và nỗi niềm chung và riêng,…
Câu 2 trang 56 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Bài viết triển khai các nội dung so sánh, đánh giá như thế nào? Bạn có nhận xét gì
về hiệu quả của cách triển khai đó? Trả lời Cách triển khai:
- Phân tích điểm tương đồng 2 bài thơ.
- Giới thiệu nét riêng và chỉ ra yếu tố tạo nên sự khác biệt của đối tượng so sánh.
- Phân tích nét riêng trong cảnh và tình Thu vịnh.
- Phân tích nét riêng trong Đây mùa thu tới.
- Khẳng định vị trí, giá trị và sức hấp dẫn của 2 bài thơ.
- Nêu ý kiến khẳng định.
Câu 3 trang 56 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Theo bạn, có thể có những cách trình bày nào khác về nội dung so sánh, đánh giá trong bài viết? Trả lời Triển khai theo cách khác:
- Lần lượt phân tích từng bài thơ, sau đó chỉ ra điểm tương đồng, sự gặp gỡ và
những điểm khác biệt, lí giải nguyên nhân của sự tương đồng và khác biệt đó; đồng
thời đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ. Cách này dễ làm nhưng nhiều
khi bị trùng lặp ý và mục đích so sánh không được làm nổi bật.
- Phân tích bài thơ thứ nhất theo các phương diện đã xác định, khi phân tích bài thơ
thứ hai sẽ so sánh với bài thơ thứ nhất theo từng phương diện và lí giải nguyên
nhân của những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai bài thơ, từ đó, đánh giá về
giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ. Cách này cũng dễ thực hiện và tránh bị trùng
lặp, thể hiện được ý so sánh, nhưng mạch so sánh khi trình bày bài thơ thứ nhất dễ bị chìm. Thực hành viết
So sánh bức tranh mùa thu của 2 bài thơ: Đây mùa thu tới - Xuân Diệu và Đất nước - Nguyễn Đình Thi. Bài viết tham khảo
Văn học từ muôn đời xưa, cho đến muôn đời sau bao giờ cũng viết về con người.
Dù chỉ tả một làn mây dòng suối, cành lá, tiếng chim, thì cũng nhằm nói về con
người. Cho nên thiên nhiên trong văn học là những bức tranh tâm trạng. Người
buồn thì cảnh buồn, người vui thì cảnh vui. Qua hai bài thơ Đây mùa thu tới của
Xuân Diệu và Đất nước của Nguyễn Đình Thi, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
Mùa thu từ bao đời nay và sẽ mãi mãi là nguồn thi hứng, là đề tài hấp dẫn đối với
các thi nhân. Các nhà thơ nổi tiếng thế giới cũng như Việt Nam như Huy-gô, Rim-bô,
Véc-len, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà đều đã có
những bài thơ rất đặc sắc dành cho mùa thu. Nhưng không vì thế mà thơ viết về
mùa thu trở nên mòn sáo, đơn điệu. Bởi cảnh thu thời nào cũng vậy, nhưng lòng
người thì mỗi thời mỗi khác. Vì thế cảnh sắc mùa thu trong mỗi bài thơ đều có
những vẻ đẹp riêng độc đáo. Chính trạng thái cảm xúc của thi nhân đã quy định
cảnh sắc mùa thu trong thơ.
Bài Đây mùa thu tới là một bài thơ hay về mùa thu của Xuân Diệu trước cách mạng.
Bài Đất nước (1948-1955) của Nguyễn Đình Thi không phải là bài thơ viết về mùa
thu, nhưng cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Hai bài thơ viết
trong hai giai đoạn lịch sử khác nhau, thể hiện hai trạng thái cảm xúc khác nhau của nhà thơ trước mùa thu.
Cảnh sắc mùa thu trong bài Đây mùa thu tới thấm một nỗi buồn. Đó là cái buồn
muôn thuở, nhưng cũng là cái buồn của thời đại, cái buồn của riêng “thơ mới”. Buồn
vì cái lạnh len lỏi đâu đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì sự chia lìa từ hoa cỏ, chim muông
đến con người. Buồn vì một nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ phảng phất trong không gian
và trong lòng người. (Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh rặng liễu buồn như những cô
gái xoã tóc chịu tang, cùng hàng ngàn dòng lệ hàng nối hàng tuôn rơi. Các khổ thơ
tiếp theo tác giả tái hiện cảnh hoa, lá rụng, cành cây khô gầy, vầng trăng bơ vơ.
Sương mờ không khí trời u uất... tất cả những hình ảnh ấy gợi lên sự chia ly, tàn tạ,
phai nhạt làm nổi rõ nỗi buồn cô đơn).
Cảnh thu buồn hiu hắt bi thương nhưng vẫn có cái gì đó dịu nhẹ, trẻ trung và rất
đẹp. Bởi cảnh thu ngoài việc được so sánh với một hình ảnh độc đáo, còn được
Xuân Diệu miêu tả với vẻ đẹp thơ mộng duyên dáng, tươi Bằng với tấm “áo mơ phai
dệt lá vàng” vừa thực vừa ảo. Sắc vàng mùa thu đã làm sáng cả không gian.
Như vậy mùa thu bên cạnh cái vẻ đìu hiu buồn, một cái buồn rất đẹp của cảnh vật,
vẫn chứa đựng bên trong một sức sống trẻ trung. Ấy là cái chất trẻ trung được phát
hiện bằng con mắt “xanh non” của tác giả là cái sức sống của tuổi trẻ và tình yêu xốn xao trong cảnh vật.
Cảnh thu rất đẹp mà buồn vì lòng người lúc ấy còn buồn bã. Nỗi buồn của Xuân
Diệu cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản đương thời “yêu đời
nhưng đau đời” (Huy Cận) chưa tìm được lối ra. Nỗi buồn ấy chính là tấm lòng thiết
tha yêu đời, thiết tha giao cảm với đời.
Đang trong tâm trạng ấy cho nên nhà thơ rất nhạy cảm trước khung cảnh đất trời chuyển vào thu:
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Câu thơ cất lên như một tiếng reo khẽ, vồ vập, khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của
mùa thu. Phải có tấm lòng yêu đời thì giữa cảnh thu buồn bã, nhà thơ mới có thể
đón nhận được một niềm vui nho nhỏ như thế. Sự nhạy cảm của hồn thơ Xuân Diệu
còn được thể hiện qua cách cảm nhận của mùa thu. Nếu trong phần mở đầu, tác giả
phát hiện cảnh thu bằng thị giác để tái hiện sắc thu thì đến phần giữa bài thơ tác giả
đã thâm nhập vào bên trong cảnh vật để cảm nhận tinh tế bằng cảm giác của mình:
Cành lá run rẩy, sắc lá đổi màu, nhành cây ớn lạnh đến tận xương khô, rét mướt
luồn trong gió. Cuối cùng nhà thơ gửi gắm tâm trạng của mình qua nỗi lòng của
người thiếu nữ. “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”, một nỗi nhớ thương ngơ ngác mặc
dù cô thiếu nữ không nói, nhưng rõ ràng đó là tư thế suy tư của người muốn đón
nhận, của tâm trạng đang hướng về cuộc đời.
Tóm lại: cảnh thu, lòng người trước mùa thu có buồn bã cô đơn, nhưng không quá
tuyệt vọng mà vẫn tươi trẻ. Toát lên từ toàn bộ bài thơ cảnh thu là vẻ đẹp của một
nỗi buồn. Đó là nỗi buồn đầy cảm xúc của cái tôi cô đơn biểu hiện một niềm yêu đời,
khát khao giao cảm với đời của nhà thơ Xuân Diệu.
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi là bài thơ về “Đất nước rũ bùn đứng dậy
sáng loà” qua cuộc kháng chiến 9 năm (1946-1954) nhưng cảm hứng đất nước lại
bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Mở đầu là hình ảnh mùa thu “Sáng mát trong như
sáng năm xưa”, “Gió thổi mùa thu hương cốm mới”. Đó là cảnh sắc thân thuộc của
mùa thu Việt Nam muôn đời. Cảnh thu trong sáng, vui tươi. Đoạn thơ tiếp theo, tác
giả khắc hoạ cảnh thu Hà Nội ra đi vì nghĩa lớn. Đó là cảnh thu với vẻ đẹp thơ mộng
mà xao xác buồn, buồn vì tưởng như thiếu hẳn bóng người. Buồn vì niềm bâng
khuâng lưu luyến của sự chia ly “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” nhưng thực ra thì chẳng muốn rời:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Còn mùa thu hiện tại là mùa thu sau Cách mạng tháng Tám mùa thu ở chiến khu
Việt Bắc, lúc này đang là chiến khu tự do, căn cứ địa của kháng chiến chống Pháp,
nơi Bác Hồ, Chính phủ kháng chiến đang điều khiển cuộc chiến tranh thần thánh
của dân tộc. Nguyễn Đình Thi đã đến với mùa thu này bằng một niềm vui tràn ngập,
niềm vui của người tự thấy mình được tự do, dân tộc được tự do, ít ra là ở chiến
khu này. Đang trong tâm trạng vui, nên tác giả thấy cảnh thu hiện lên với vẻ đẹp tươi
sáng, đầy sức sống, đầy âm thanh màu sắc rộn rã, tươi vui. Bầu trời như thay áo
mới, cảnh vật như hồi sinh, những âm thanh của cảnh vật và cuộc sống con người
cũng ríu ran ríu rít đầy niềm vui.
Và không gian mùa thu như trải dài, mở rộng theo những con đường, dòng sông,
đồng lúa, cánh rừng trùng điệp của đất nước.
Cảm hứng của Nguyễn Đình Thi trong bài Đất nước là cảm hứng tự hào làm chủ
của một nghệ sĩ đang tham gia trực tiếp vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc
độc lập tự do. Trong đoạn thơ nói về mùa thu Hà Nội 1946, tác giả có thể hiện tâm
trạng buồn nhưng đó là nỗi buồn của một người tha thiết yêu quê hương mà phải
tạm biệt quê hương lên đường vì nghĩa lớn. Nỗi buồn này khác nỗi buồn của Xuân Diệu.
Cảm hứng chủ đạo của nhà thơ vẫn là niềm vui, niềm tự hào về đất nước giang sơn
gấm vóc, về độc lập chủ quyền vì vậy đoạn thơ viết về mùa thu chiến khu Việt Bắc
vang lên sang sảng tự hào đầy kiêu hãnh.
Cùng viết về mùa thu mà Xuân Diệu chỉ thấy một mùa thu rất đẹp mà rất buồn. Còn
Nguyễn Đình Thi lại tiếp nhận một mùa thu trong trẻo, đầy âm thanh, màu sắc, đầy
niềm vui, sức sống của cảnh vật và con người. Điều đó, xét cho cùng có nguyên
nhân thời đại chi phối hồn thơ. Chính cảm xúc về thời đại đã quy định cảm hứng, qui
định tình thu của nhà thơ và từ cảm hứng, tình thơ của nhà thơ lại qui định cảnh sắc mùa thu trong thơ.
Trước cách mạng, Xuân Diệu sống trong cảnh ngộ của người dân nô lệ. Nỗi buồn
của người dân mất nước đã tạo nên cách nhìn, cách cảm của thi nhân trước mùa
thu. Từ sau cách mạng Xuân Diệu đã đến với đất nước bằng niềm vui, niềm tự hào
nên cảnh thu cũng đã thay đổi.
Ba năm qua nay lại mùa thu tới
Mỗi lần thu tới lại mùa thu tới
Thu từ nay không thu thảm thu sầu
Mà thu sướng nhuộm màu xuân mát mát Lá biếc xanh xanh Trời thu bát ngát Da tươi thịt thắm Nở lại cùng sương
Ảnh mấy bay như múa khúc nghê thường
Nắng hạ giọng nói những điều dịu sáng.
Còn Nguyễn Đình Thi viết bài Đất nước sau cách mạng lúc nhà thơ đã là một người
dân tự do, cùng nhân dân làm chủ đất nước. Thời đại mới, đã tạo nên cảm hứng
mới cho nhà thơ. Vì vậy, cảnh thu trong cách nhìn, cánh cảm nhận của nhà thơ trở
nên trong trẻo, tươi sáng, tràn đầy sức sống niềm vui.