Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện | Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức (Tập 1)

Xin gửi tới quý thày cô và các em học sinh Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện | Ngữ Văn 12 Kết nối tri thức (Tập 1). Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và chuẩn bị tốt nhất cho bài học sắp tới của mình. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích bài viết tham khảo:
1. Nêu sở của việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm:
Viết về cùng đề tài, tiêu biểu cho những cách tiếp cận hiện thực chiến tranh của văn
học trong một giai đoạn cụ thể.
2. Nêu mục đích của việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm
Sự thống nhất trong cảm hứng của hai nhà thơ, đồng thời thể hiện được những
phong cách, dấu ấn riêng của hai nhà thơ
3. Trình bày luận điểm khái quát về nét chung của hai tác phẩm.
Đều viết vào thời gian kháng chiến chống Mỹ.
4. Trình bày những thông tin cần thiết về từng tác phẩm được so sánh: xuất xứ, bối
cảnh câu chuyện, cốt truyện, nhân vật,…
- Xuất xứ: Mảnh trăng cuối rừng thuộc tập Những vùng trời khác nhau của Nguyễn
Minh Châu; truyện Những đứa con trong gia đình thuộc Truyện của Nguyễn
Thi.
- Bối cảnh: hai truyện đều viết trong bối cảnh chống đế quốc Mỹ
- Cốt truyện: Mảnh trăng cuối rừng kể về câu chuyện tình yêu trong thời chiến còn
Những đứa con trong gia đình kể về câu chuyện tình cảm gia đình.
5. Thông tin khái quát về Mảnh trăng cuối rừng.
Mảnh trăng cuối rừng thuộc tập Những vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu;
viết trong bối cảnh chống đế quốc Mỹ; Mảnh trăng cuối rừng kể về câu chuyện tình
yêu trong thời chiến.
6. Thông tin khái quát về Những đứa con trong gia đình.
Truyện Những đứa con trong gia đình thuộc Truyện của Nguyễn Thi; viết trong
bối cảnh chống đế quốc Mỹ; Những đứa con trong gia đình kể về câu chuyện tình
cảm gia đình.
7. Phân tích cụ thể điểm tương đồng giữa hai tác phẩm: tính chất của sự miêu tả
cảm hứng sáng tác.
Đều gắng làm sáng tỏ chủ nghĩa anh hùng lên đời sống tinh thần của nhân dân
trong thời chiến.
8. Phân tích nét riêng trong cách viết của từng tác phẩm - một vấn đề quan trọng
cho thấy sự đa dạng của văn xuôi cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975.
Phong cách thời đại chi phối cách viết của tác giả, nhưng mỗi người đều gửi gắm
trong đó những quan niệm, suy riêng.
9. Kết luận chung về giá trị của các tác phẩm gợi mở cách nhìn nhận phù hợp về
văn học của một gia đoạn đã qua.
Thời điểm đó, những tác phẩm đều mang những dấu ấn thời đại cùng nét.
Câu 1 trang 32 SGK Ngữ văn 12 tập 1
sở của việc lựa chọn so sánh hai tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng Những đứa
con trong gia đình gì?
Trả lời:
sở: Viết về cùng đề tài, tiêu biểu cho những cách tiếp cận hiện thực chiến tranh
của văn học trong một giai đoạn cụ thể.
Câu 2 trang 32 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Tác giả bài viết đã xác định mục đích so sánh hai tác phẩm như thế nào?
Trả lời:
Mục đích: Sự thống nhất trong cảm hứng của hai nhà thơ, đồng thời thể hiện được
những phong cách, dấu ấn riêng của hai nhà thơ.
Câu 3 trang 32 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Các phương diện bản nào của hai tác phẩm đã được đưa ra so sánh?
Trả lời:
Các phương diện: xuất xứ, bối cảnh câu chuyện, cốt truyện, nhân vật,…
Câu 4 trang 32 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Đánh giá nào về đặc điểm, giá trị của từng tác phẩm được nảy sinh trên sở so
sánh?
Trả lời:
Những tác phẩm đều mang những dấu ấn thời đại cùng nét.
* Thực hành viết theo các bước
So sánh hai đoạn kết truyện “Vợ nhặt” “Vợ chồng A Phủ”
Hoài Kim Lân đều một trong những tác giả tiêu biểu của văn xuôi thời kỳ
kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm của họ đều lấy cảm hứng từ cuộc sống hiện
thực của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng tám. Hai tác phẩm “Vợ
Nhặt” “Vợ chồng A Phủ” tuy phản ánh số phận của hai người nông dân khác
nhau nhưng đều mang một kết thúc mở. Nơi niềm hy sinh về cuộc sống mới tự
do hạnh phúc của họ được gửi gắm. Kết truyện không chỉ những tình tiết khép
lại câu chuyện còn nơi các nhà văn thể hiện những quan niệm, tưởng
mở ra những con đường cho nhân vật của mình. Nếu kết thúc truyện Chí Phèo
sự giải thoát cho một kiếp người bị tha hóa bởi hội thì cái kết của "Vợ nhặt"
"Vợ chồng A Phủ" lại được nhà văn Kim Lân, Hoài mở ra bằng một hướng đi mới
cho những số phận đau khổ cho những con người trong hai tác phẩm đó.
Hai tác phẩm "Vợ nhặt" "Vợ chồng A Phủ" hai tác phẩm tiêu biểu cho sự
nghiệp sáng tác của hai tác giả. Nếu như Kim Lân viết về tình cảnh thê thảm, tang
thương của những người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 thì Hoài lại
viết về cuộc sống tủi nhục, tối tăm của những người nông dân nghèo vùng núi Tây
Bắc. Tuy khác nhau về chủ đề cách thức thể hiện nhưng cả hai tác phẩm đều
những nét tương đồng, cả hai truyện ngắn đều viết về cuộc sống số phận của
những người nông dân nghèo; đều thể hiện sự đồng cảm, trân trọng của nhà văn
với số phận vẻ đẹp của các nhân vật, điều này được thể hiện nét qua phần kết
của hai tác phẩm.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân được viết năm 1954 về cuộc sống của
những người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói khủng khiếp năm
1945. Nhân vật chính của câu chuyện Tràng - một người đàn ông nghèo khổ, xấu
sống trong xóm Ngụ Cư. Trước sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của mọi người, Tràng
bất ngờ vợ ngay khi nạn đói đang hoành hành dữ dội nhất. Truyện kết thúc trong
chi tiết bữa cơm thảm hại ngày đói của gia đình Tràng: "có độc một lùm rau chuối
thái rối, một đĩa muối ăn với cháo" tiếng tiếng trống thúc thuế dồn dập. Trong
đầu Tràng hiện lên hình ảnh những dòng người "ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.
Đằng trước cờ đỏ to lắm".
Kết thúc của Vợ nhặt được Kim Lân lấy sở từ chính hiện thực cuộc sống của đất
nước ta lúc bấy giờ. Bởi sau nạn đói năm 1945, cả đất nước ta đang chuẩn bị cho
cuộc tổng khởi nghĩa giành lấy chính quyền tiên phong chính phong trào đi phá
kho thóc Nhật để chia cho dân nghèo. Những người nông dân cả đời chân lấm tay
bùn, họ ít học, ít hiểu, thế những cái đói khát cùng cực đã giúp họ nhận kẻ thù
của mình, đó chính thực dân Pháp Phát xít Nhật. Trong khi thực dân Pháp thực
hiện chính sách vét của cải thì bọn phát xít Nhật lại bắt dân ta "nhổ cỏ trồng đay",
đây cũng chính nguyên nhân chính gây ra thảm họa nạn đói khủng khiếp 1945
cho dân tộc Việt Nam. Sống trong đói khát, trong cái chết rình rập nên những người
nông dân đã ý thức được tìm cách đấu tranh giành lấy sự sống. họ đến với
cách mạng như một điều tất yếu, một lẽ đương nhiên. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim
Lân không thể hiện ràng rằng Tràng đi theo "lá cờ đỏ" ấy không, chỉ mở ra
một hướng liên tưởng cho người đọc. Thế nhưng phải chăng qua cái "kết thúc mở"
ấy, nhà văn Kim Lân muốn cho người đọc hiểu rằng cuộc đời của các nhân vật trong
câu chuyện của mình rồi sẽ thay đổi nếu như họ bắt gặp được ánh sáng Cách
mạng? Cuộc đời của Tràng mở ra bằng ánh chiều chập choạng với những cảnh
"đói sầm đói khát", thế nhưng khi kết thúc lại ánh bình minh của người mới với
hình ảnh của "lá cờ đỏ" kia. Tuy một kết thúc mở nhưng đã gieo vào lòng
chúng ta niềm tin mãnh liệt vào sự đổi đổi của Tràng, của gia đình Tràng, của hàng
ngàn người dân nghèo khác.
Với "Vợ chồng A Phủ", Hoài lại dẫn người đọc đến với cuộc sống của những
người nông dân nghèo vùng Tây Bắc. Nhân vật chính trong truyện Mị A Phủ.
Nếu như Mị "con dâu gạt nợ" nhà thống Tra, phải sống kiếp "con trâu,
con ngựa", bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần thì A Phủ trở thành người không
công cho nhà thống chỉ đánh nhau với con quan. Hai con người đau khổ ấy gặp
nhau, cảm thông, thấu hiểu cho nhau từ những giọt nước mắt họ đã quyết định
giải thoát cho nhau khỏi thân phận lệ.
Truyện kết thúc chi tiết Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ vụt chạy theo A Phủ để
giải phóng chính mình. Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở về với cuộc sống lầm lũi,
cam chịu như trước kia. Trong một lần "thổi lửa tay", Mị đã bắt gặp "một dòng
nước mắt lấp lánh xuống hai hõm đã xám đen lại" của A Phủ. Chính dòng
nước mắt ấy đã làm cho Mị bừng tình, nhận thức được quyền sống của mỗi con
người, nhận thức được sự độc ác của giai cấp thống trị. Vậy nên Mị đã "rút con dao
nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây" cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ thả A Phủ chạy thoát.
Thế nhưng chỉ vài phút "đứng lặng trong bóng tối", Mị cũng "vụt chạy ra" theo A Phủ.
rồi hai con người khốn khổ ấy "lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi". Sau
này, hai người trở thành vợ chồng dưới ánh sáng của cách mạng, họ cùng nhau
chiến đấu bảo vệ quê hương.
Cái kết của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã cho chúng ta thấy được sự đồng cảm
sâu sắc giữa những con người khốn khổ, cho ta thấy được sức sống tiềm tàng của
họ, nhận thực sâu sắc của họ về quyền sống, quyền được tự do hạnh phúc cùng
với đó tinh thần đấu tranh với bọn địa chủ phong kiến. Nếu như trước đây, Mị
sống "lùi lũi như con rùa nuôi trong cửa", sống cảm, hồn thì giọt nước mắt
của A Phủ đã đánh thức trong tâm hồn Mị ý thức về sự sống. Hành động cắt đứt dây
trói giải thoát cho A Phủ của Mị cũng sự giải thoát cho chính bản thân mình. Giọt
nước mắt ấy đã đánh thức khao khát sống tự do, hạnh phúc của cô. rồi hai con
người đau khổ của đất Hồng Ngài đã dẫn nhau "lẳng lặng" "lao chạy xuống dốc núi"
trốn thoát khỏi những hủ tục phong kiến, những sự thống trị tàn bạo man, đó
sự tự ý thức của họ về quyền sống, tự do của một con người.
Tuy hai nhà văn Kim Lân Hoài viết về hai đề tài khác nhau nhưng cách kết
thúc trong hai truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" "Vợ nhặt" lại những điểm tương
đồng. Đầu tiên đó hai cái kết đều mở ra một tương lai mới tươi sáng tự do cho
người nông dân nghèo khổ. Cả hai nhà văn đều hướng những nhân vật của mình
đến với ánh sáng của cách mạng với hy vọng chắc chắn rằng cách mạng sẽ giúp họ
đổi đời. Tuy nhiều điểm giống nhau nhưng Vợ nhặt Vợ chồng A Phủ cũng
những điểm khác biệt rất ràng. Nếu như Vợ nhặt hình ảnh của những người
nông dân phải sống trong đói nghèo, trong cái chết rình rập, họ thấy được tội ác của
bọn phát xít thực dân để từ đó hình ảnh "lá cờ đỏ" cùng đoàn người đi "phá kho thóc
Nhật" in đậm trong tâm trí họ, cho họ thấy được con đường thoát khỏi đói nghèo thì
Vợ chồng A Phủ lại cho ta thấy sức sống tiềm tàng của những người nông dân, họ
tự vùng lên để giải thoát cho chính mình.
Hai chi tiết, hai cái kết trong Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt khác nhau nhưng ta thấy
được những tâm tư, những tình cảm, những giá trị nhân đạo cả Kim Lân
Hoài đều hướng tới. Đó lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc trước những số
phận đau khổ bị đày đọa bởi đói nghèo, bởi giai cấp thống trị. Để từ đó hướng họ tới
một tương lai tươi sáng hơn khi họ vùng lên dưới ánh sáng cách mạng.
| 1/5

Preview text:

Phân tích bài viết tham khảo:
1. Nêu cơ sở của việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm:
Viết về cùng đề tài, tiêu biểu cho những cách tiếp cận hiện thực chiến tranh của văn
học trong một giai đoạn cụ thể.
2. Nêu mục đích của việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm
Sự thống nhất trong cảm hứng của hai nhà thơ, đồng thời thể hiện được những
phong cách, dấu ấn riêng của hai nhà thơ
3. Trình bày luận điểm khái quát về nét chung của hai tác phẩm.
Đều viết vào thời gian kháng chiến chống Mỹ.
4. Trình bày những thông tin cần thiết về từng tác phẩm được so sánh: xuất xứ, bối
cảnh câu chuyện, cốt truyện, nhân vật,…
- Xuất xứ: Mảnh trăng cuối rừng thuộc tập Những vùng trời khác nhau của Nguyễn
Minh Châu; truyện Những đứa con trong gia đình thuộc Truyện và kí của Nguyễn Thi.
- Bối cảnh: hai truyện đều viết trong bối cảnh chống đế quốc Mỹ
- Cốt truyện: Mảnh trăng cuối rừng kể về câu chuyện tình yêu trong thời chiến còn
Những đứa con trong gia đình kể về câu chuyện tình cảm gia đình.
5. Thông tin khái quát về Mảnh trăng cuối rừng.
Mảnh trăng cuối rừng thuộc tập Những vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu;
viết trong bối cảnh chống đế quốc Mỹ; Mảnh trăng cuối rừng kể về câu chuyện tình yêu trong thời chiến.
6. Thông tin khái quát về Những đứa con trong gia đình.
Truyện Những đứa con trong gia đình thuộc Truyện và kí của Nguyễn Thi; viết trong
bối cảnh chống đế quốc Mỹ; Những đứa con trong gia đình kể về câu chuyện tình cảm gia đình.
7. Phân tích cụ thể điểm tương đồng giữa hai tác phẩm: tính chất của sự miêu tả và cảm hứng sáng tác.
Đều gắng làm sáng tỏ chủ nghĩa anh hùng lên đời sống tinh thần của nhân dân trong thời chiến.
8. Phân tích nét riêng trong cách viết của từng tác phẩm - một vấn đề quan trọng
cho thấy sự đa dạng của văn xuôi cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975.
Phong cách thời đại chi phối cách viết của tác giả, nhưng mỗi người đều gửi gắm
trong đó những quan niệm, suy tư riêng.
9. Kết luận chung về giá trị của các tác phẩm và gợi mở cách nhìn nhận phù hợp về
văn học của một gia đoạn đã qua.
Thời điểm đó, những tác phẩm đều mang những dấu ấn thời đại vô cùng rõ nét.
Câu 1 trang 32 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Cơ sở của việc lựa chọn so sánh hai tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng và Những đứa con trong gia đình là gì? Trả lời:
Cơ sở: Viết về cùng đề tài, tiêu biểu cho những cách tiếp cận hiện thực chiến tranh
của văn học trong một giai đoạn cụ thể.
Câu 2 trang 32 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Tác giả bài viết đã xác định mục đích so sánh hai tác phẩm như thế nào? Trả lời:
Mục đích: Sự thống nhất trong cảm hứng của hai nhà thơ, đồng thời thể hiện được
những phong cách, dấu ấn riêng của hai nhà thơ.
Câu 3 trang 32 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Các phương diện cơ bản nào của hai tác phẩm đã được đưa ra so sánh? Trả lời:
Các phương diện: xuất xứ, bối cảnh câu chuyện, cốt truyện, nhân vật,…
Câu 4 trang 32 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Đánh giá nào về đặc điểm, giá trị của từng tác phẩm được nảy sinh trên cơ sở so sánh? Trả lời:
Những tác phẩm đều mang những dấu ấn thời đại vô cùng rõ nét.
* Thực hành viết theo các bước
So sánh hai đoạn kết truyện “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ”
Tô Hoài và Kim Lân đều là một trong những tác giả tiêu biểu của văn xuôi thời kỳ
kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm của họ đều lấy cảm hứng từ cuộc sống hiện
thực của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng tám. Hai tác phẩm “Vợ
Nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” tuy phản ánh số phận của hai người nông dân khác
nhau nhưng đều mang một kết thúc mở. Nơi mà niềm hy sinh về cuộc sống mới tự
do và hạnh phúc của họ được gửi gắm. Kết truyện không chỉ là những tình tiết khép
lại câu chuyện mà còn là nơi mà các nhà văn thể hiện những quan niệm, tư tưởng
và mở ra những con đường cho nhân vật của mình. Nếu kết thúc truyện Chí Phèo là
sự giải thoát cho một kiếp người bị tha hóa bởi xã hội thì cái kết của "Vợ nhặt" và
"Vợ chồng A Phủ" lại được nhà văn Kim Lân, Tô Hoài mở ra bằng một hướng đi mới
cho những số phận đau khổ cho những con người trong hai tác phẩm đó.
Hai tác phẩm "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" là hai tác phẩm tiêu biểu cho sự
nghiệp sáng tác của hai tác giả. Nếu như Kim Lân viết về tình cảnh thê thảm, tang
thương của những người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 thì Tô Hoài lại
viết về cuộc sống tủi nhục, tối tăm của những người nông dân nghèo vùng núi Tây
Bắc. Tuy khác nhau về chủ đề và cách thức thể hiện nhưng cả hai tác phẩm đều có
những nét tương đồng, cả hai truyện ngắn đều viết về cuộc sống và số phận của
những người nông dân nghèo; đều thể hiện sự đồng cảm, trân trọng của nhà văn
với số phận và vẻ đẹp của các nhân vật, điều này được thể hiện rõ nét qua phần kết của hai tác phẩm.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân được viết năm 1954 về cuộc sống của
những người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói khủng khiếp năm
1945. Nhân vật chính của câu chuyện là Tràng - một người đàn ông nghèo khổ, xấu
xí sống trong xóm Ngụ Cư. Trước sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của mọi người, Tràng
bất ngờ có vợ ngay khi nạn đói đang hoành hành dữ dội nhất. Truyện kết thúc trong
chi tiết bữa cơm thảm hại ngày đói của gia đình Tràng: "có độc một lùm rau chuối
thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo" và tiếng tiếng trống thúc thuế dồn dập. Trong
đầu Tràng hiện lên hình ảnh những dòng người "ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.
Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm".
Kết thúc của Vợ nhặt được Kim Lân lấy cơ sở từ chính hiện thực cuộc sống của đất
nước ta lúc bấy giờ. Bởi sau nạn đói năm 1945, cả đất nước ta đang chuẩn bị cho
cuộc tổng khởi nghĩa giành lấy chính quyền và tiên phong chính là phong trào đi phá
kho thóc Nhật để chia cho dân nghèo. Những người nông dân cả đời chân lấm tay
bùn, họ ít học, ít hiểu, thế những cái đói khát cùng cực đã giúp họ nhận rõ kẻ thù
của mình, đó chính là thực dân Pháp và Phát xít Nhật. Trong khi thực dân Pháp thực
hiện chính sách vơ vét của cải thì bọn phát xít Nhật lại bắt dân ta "nhổ cỏ trồng đay",
đây cũng chính là nguyên nhân chính gây ra thảm họa nạn đói khủng khiếp 1945
cho dân tộc Việt Nam. Sống trong đói khát, trong cái chết rình rập nên những người
nông dân đã ý thức được và tìm cách đấu tranh giành lấy sự sống. Và họ đến với
cách mạng như một điều tất yếu, một lẽ đương nhiên. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim
Lân không thể hiện rõ ràng rằng Tràng có đi theo "lá cờ đỏ" ấy không, nó chỉ mở ra
một hướng liên tưởng cho người đọc. Thế nhưng phải chăng qua cái "kết thúc mở"
ấy, nhà văn Kim Lân muốn cho người đọc hiểu rằng cuộc đời của các nhân vật trong
câu chuyện của mình rồi sẽ thay đổi nếu như họ bắt gặp được ánh sáng Cách
mạng? Cuộc đời của Tràng mở ra bằng ánh chiều tà chập choạng với những cảnh
"đói sầm vì đói khát", thế nhưng khi kết thúc lại là ánh bình minh của người mới với
hình ảnh của "lá cờ đỏ" kia. Tuy là một kết thúc mở nhưng nó đã gieo vào lòng
chúng ta niềm tin mãnh liệt vào sự đổi đổi của Tràng, của gia đình Tràng, của hàng
ngàn người dân nghèo khác.
Với "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài lại dẫn người đọc đến với cuộc sống của những
người nông dân nghèo vùng Tây Bắc. Nhân vật chính trong truyện là Mị và A Phủ.
Nếu như Mị là cô "con dâu gạt nợ" nhà thống lý Pá Tra, phải sống kiếp "con trâu,
con ngựa", bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần thì A Phủ trở thành người ở không
công cho nhà thống lí chỉ vì đánh nhau với con quan. Hai con người đau khổ ấy gặp
nhau, cảm thông, thấu hiểu cho nhau từ những giọt nước mắt và họ đã quyết định
giải thoát cho nhau khỏi thân phận nô lệ.
Truyện kết thúc ở chi tiết Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ và vụt chạy theo A Phủ để
giải phóng chính mình. Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở về với cuộc sống lầm lũi,
cam chịu như trước kia. Trong một lần "thổi lửa hơ tay", Mị đã bắt gặp "một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ. Chính dòng
nước mắt ấy đã làm cho Mị bừng tình, nhận thức được quyền sống của mỗi con
người, nhận thức được sự độc ác của giai cấp thống trị. Vậy nên Mị đã "rút con dao
nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây" cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ và thả A Phủ chạy thoát.
Thế nhưng chỉ vài phút "đứng lặng trong bóng tối", Mị cũng "vụt chạy ra" theo A Phủ.
Và rồi hai con người khốn khổ ấy "lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi". Sau
này, hai người trở thành vợ chồng và dưới ánh sáng của cách mạng, họ cùng nhau
chiến đấu bảo vệ quê hương.
Cái kết của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã cho chúng ta thấy được sự đồng cảm
sâu sắc giữa những con người khốn khổ, cho ta thấy được sức sống tiềm tàng của
họ, nhận thực sâu sắc của họ về quyền sống, quyền được tự do và hạnh phúc cùng
với đó là tinh thần đấu tranh với bọn địa chủ phong kiến. Nếu như trước đây, Mị
sống "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", sống vô cảm, vô hồn thì giọt nước mắt
của A Phủ đã đánh thức trong tâm hồn Mị ý thức về sự sống. Hành động cắt đứt dây
trói giải thoát cho A Phủ của Mị cũng là sự giải thoát cho chính bản thân mình. Giọt
nước mắt ấy đã đánh thức khao khát sống tự do, hạnh phúc của cô. Và rồi hai con
người đau khổ của đất Hồng Ngài đã dẫn nhau "lẳng lặng" "lao chạy xuống dốc núi"
trốn thoát khỏi những hủ tục phong kiến, những sự thống trị tàn bạo và dã man, đó
là sự tự ý thức của họ về quyền sống, tự do của một con người.
Tuy hai nhà văn Kim Lân và Tô Hoài viết về hai đề tài khác nhau nhưng cách kết
thúc trong hai truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt" lại có những điểm tương
đồng. Đầu tiên đó là hai cái kết đều mở ra một tương lai mới tươi sáng và tự do cho
người nông dân nghèo khổ. Cả hai nhà văn đều hướng những nhân vật của mình
đến với ánh sáng của cách mạng với hy vọng chắc chắn rằng cách mạng sẽ giúp họ
đổi đời. Tuy có nhiều điểm giống nhau nhưng Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ cũng có
những điểm khác biệt rất rõ ràng. Nếu như Vợ nhặt là hình ảnh của những người
nông dân phải sống trong đói nghèo, trong cái chết rình rập, họ thấy được tội ác của
bọn phát xít thực dân để từ đó hình ảnh "lá cờ đỏ" cùng đoàn người đi "phá kho thóc
Nhật" in đậm trong tâm trí họ, cho họ thấy được con đường thoát khỏi đói nghèo thì
Vợ chồng A Phủ lại cho ta thấy sức sống tiềm tàng của những người nông dân, họ
tự vùng lên để giải thoát cho chính mình.
Hai chi tiết, hai cái kết trong Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt là khác nhau nhưng ta thấy rõ
được những tâm tư, những tình cảm, những giá trị nhân đạo mà cả Kim Lân và Tô
Hoài đều hướng tới. Đó là lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc trước những số
phận đau khổ bị đày đọa bởi đói nghèo, bởi giai cấp thống trị. Để từ đó hướng họ tới
một tương lai tươi sáng hơn khi họ vùng lên dưới ánh sáng cách mạng.