Soạn triết ôn thi cuối kì gồm câu hỏi, câu trả lời - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Câu 1: Trình bày nội dung khái niệm của triết học và nguyên nhân cơbản của triết học.Khái niệm:-Trung Quốc: Triết học là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự hiểu biếtsâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC (THAM KHẢO)
Câu 1: Trình bày nội dung khái niệm của triết học và nguyên nhân cơ
bản của triết học. Khái niệm:
-Trung Quốc: Triết học là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là sự hiểu biết
sâu sắc của con người, đi đến đạo lý của sự vật.
- Ấn Độ: Triết học là Darshana: sự chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con
đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến lẽ phải.
- Phương Tây (Hy Lạp cổ đại): Triết học có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp,
chuyển sang tiếng LaTinh là Philosophia.
=> Ta có thể thấy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học. Như vậy,
có thể khái quát rằng: Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế
giới và vị trí của con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận
động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Và khi triết học Mác ra đời đã xác định, đối tượng nghiên cứu là tiếp tục giải
quyết mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường
duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nguyên nhân ra đời của Triết học:
Điều kiện kinh tế xã hội
+ Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
điều kiện cách mạng công nghiệp
+ Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử - nhân tố chính trị xã hội quan trọng
+ Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản- cơ sở chủ yếu và trực tiếp
Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên
+ Nguồn gốc lý luận: các Mac và Ang ghen đã kế thừa những thành tựu giá
trị tư tưởng nhân loại. Trực tiếp nhất là từ triết học cổ điển Đức, CNXH không
tưởng Pháp và kinh tế chính trị học Anh
+ Tiền đề khoa học tự nhiên:
Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng
Học thuyết tiến hoá Đac – Uyn. Học thuyết tế bào.
—> sự phát triển của KHTN cuối thế kỉ 18-đầu19
Nhân tố chủ quan trong sự hình thành Triết học Mac:
+ Xây dựng hệ thống lí luận để cung cấp cho giai cấp công nhân một công
cụ sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới
+ Xuất thân từ tầng lớp trên nhưng C.Mác và Ăngghen đều tích cực tham gia hoạt động thực tiễn
+ Hiểu sâu sắc cuộc sống khốn khổ của giai cấp công nhân trong nền sản
xuất TBCN nên đã đứng trên lợi ích của giai cấp công nhân 1
Câu 2: Thế giới quan và các thành phần cơ bản cấu thành thế giới quan.
Vì sao nói triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan ?
Khái niệm: Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, quan niệm của con
người về thế giới, về cuộc sống và vai trò của con người đối với thế giới.
Các thành phần cơ bản cấu thành thế giới quan:
Thế giới quan có kết cấu phức tạp. Đó là sự thống nhất giữa tri thức và niềm tin, lý trí và tình cảm.
+ Tri thức là sự hiểu biết của con người về một lĩnh vực nhất định của thế
giới, là kết quả của quá trình nhận thức thế giới, là sự phản ánh thế giới khách quan
vào trong đầu óc của con người. Tri thức có nhiều loại khác nhau: Tri thức về tự
nhiên, về xã hội, về con người. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế
giới quan, nhưng tự bản thân nó tri thức chưa phải là thế giới quan. Tri thức chỉ gia
nhập vào thế giới quan khi nó kết họp với các yếu tố lý trí, tình cảm, chuyển thành
niềm tin của con người. Chỉ khi biến thành niềm tin, tri thức mới trở nên sâu sắc và
bền vững, và mới trở thành cơ sở cho hoạt động của con người.
+ Trong thế giới quan còn có sự thống nhất giữa lý trí, trí tuệ và tình cảm. Lý
trí, trí tuệ là sự thống nhất giữa tri thức và niềm tin. Thế giới quan thể hiện trình độ
tương đổi cao của lý trí, trí tuệ. Nhưng lý trí đó không tách rời tình cảm. Tình cảm
là một hình thức phản ánh đặc biệt mối quan hệ giữa con người với thế giới và
giữa con người với nhau, thể hiện thái độ của con người về những tác động của thế
giới xung quanh đối với bản thân. Tình cảm củng cố thêm lý trí, làm cho lý trí có
chiều sâu và có sức mạnh.
* Các hình thức của thế giới quan:
- Thế giới quan huyền thoại là thế giới quan có nội dung kết hợp một cách tự
nhiên (không tự giác) giữa thực và ảo. Thế giới quan huyền thoại đặc trưng nhận
thức về thế giới, đánh giá giá trị của xã hội, được thể hiện thông qua các chuyện
thần thoại của công xã nguyên thủy. Thế giới quan huyền thoại chứa đựng sự kết
hợp một cách tự nhiên giữa thực và ảo, giữa người và thần.
- Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh
của lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người, được thể hiện thông
qua hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái các lực lượng siêu nhiên. Sự ra đời
của thế giới quan tôn giáo có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn
gốc xã hội do sự bất lực của con người trước những lực lượng xã hội gây ra nhiều
tai họa cho con người làm nảy sinh ra tín ngưỡng tôn giáo với những ước mơ, khát
vọng vào cuộc sống sau khi đã chết. Nguồn gốc về mặt nhận thức, do tuyệt đối hóa
vai trò của ý thức, tách ý thức ra khỏi con người, mặt khác còn do sự bất lực của
con người trước các hiện tượng tự nhiên dẫn đến thần thánh hóa các hiện tượng
tựnhiên, hình thành biểu tượng và tình cảm, niềm tin và lý tưởng tôn giáo. Sự hình
thành và phát triển của thế giới quan tôn giáo đều gắn liền với với quá trình hình
thành và phát triển của tôn giáo.
- Thế giới quan triết học là hệ thống những quan điểm có tính khái quát về
thế giới về vai trò của con người đối với thế giới thông qua hệ thống các khái niệm,
phạm trù, qui luật. Quá trình hình thành và phát triển của thế giới quan triết học
gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của triết học. 2
Như vậy, thế giới quan không phải là tri thức, niềm tin, tình cảm đơn lẻ, mà
là sự tổng hợp toàn bộ hiểu biết và kinh nghiệm sống của con người. Thế giới quan
là một hiện tượng xã hội phức tạp.
Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan vì :
- Bản thân triết học là thế giới quan (thế giới quan triết học)
- Trong mối quan hệ với các thế giới quan khác thì thế giới quan triết học
đóng vai trò cốt lõi, ảnh hưởng, chi phối, định hướng cho các thế giới quan khác.
Câu 3: Phân tích nội dung Vấn đề cơ bản của triết học ?
Vấn đề cơ bản của Triết học bao gồm 2 nội dung:
A) Nội dung thứ nhất, chỉ ra mối quan hệ giữa vật chất với ý thức: cái
nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
- Khái niệm vật chất: Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng
ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Khái niệm ý thức: ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của
con người thông qua lao động và ngôn ngữ.
- Mối liên hệ giữa vật chất và ý thức:
+ Vật chất là cái có trước, nó quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất: bộ não, cơ quan phản ánh thế giới
xung quanh, sự tác động của thế giới xung quanh vào bộ não người tạo thành nguồn gốc tự nhiên.
Lao động và ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) trong hoạt động thực tiễn cũng
với nguồn gốc tự nhiên, quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.
+ Sự tác động trở lại của ý thức:
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý thức lại có tính độc lập
tương đối của nó. Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức với vật chất là sự phản ánh tinh
thần,phản ánh sáng tạo và chủ động, vì vậy nó tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Dựa trên ý thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương
hướng, xác định phương pháp, dùng ý chí thực hiện mục tiêu ấy. Vì thế ý thức tác
động đến nhận thức thông qua 2 hướng chủ yếu.
Tóm lại, vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều, qua lại và tác động lẫn
nhau, trong đó vật chất quyết định ý thức, song ý thức thì không hoàn toàn thụ
động mà tác động trở lại thực tiễn thông qua những hoạt động nhận thức của con người.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức chính là mối quan hệ biện chứng.
Ví dụ về vật chất quyết định ý thức:
1.Trong ca dao tục ngữ “có thực mới vực được đạo” có nghĩa là vật chất có
quyết định nhiều tới ý thức của con người. Bộ não con người sẽ phản ánh những
hiện thực của cuộc sống một cách cụ thể. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
con người sẽ biết những hành động, cư xử đúng mực.
2.Giáo dục chính trị và tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chất,
như khi đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng. 3
Ví dụ về ý thức quyết định vật chất:
1. Khi ý thức được việc cây xanh là "lá phổi của Trái Đất" thì
con người đã ra sức trồng trọt, chăm sóc để có một môi trường sống lành mạnh, tốt đẹp hơn
2. Tiết kiệm, sử dụng tiền bạc đúng mức lâu ngà- Khái niệm vật chất: Vật
chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác.
B) Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
1) Khái niệm thế nào là nhận thức?
Nhận thức (tiếng Anh: cognition) là hành động hay quá trình tiếp thu kiến
thức và những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm
các quy trình như là tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng, sự lí
luận, sự tính toán, việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và
việc sử dụng ngôn ngữ.
Triết học Mác - Lênin cho rằng nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ óc con người, là quá trình tạo thành tri thức về thế giới khách
quan trong bộ óc con người.
2. Quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức
Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người,
độc lập đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người – Hiện thực khách quan
là đối tượng của nhận thức.
Hai là, công nhận cảm giác, tri thức, ý thức nói chung là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan; thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về
nguyên tắc không có cái gì là không thể biết. Dứt khoát là không có và không thể
có đối tượng nào mà con người không thể biết được, chỉ có những cái hiện nay con
người chưa biết, nhưng trong tương lai với sự phát triển của khoa học và thực tiễn,
con người sẽ biết được. Với khẳng định trên đây, lý luận nhận thức macxít khẳng
định sức mạnh của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Ba là, là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức
diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản
chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
Bốn là, cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn
còn là mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức.
Nhận thức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng, năng động sáng
tạo thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử – xã hội.
3.Chủ thể và khách thể nhận thức
Nhận thức là quá trình xảy ra do sự tương tác giữa chủ thể và khách thể nhận
thức Chủ thể nhận thức: Theo nghĩa rộng đó là xã hội, là loài người nói chung. Hay 4
cụ thể hơn đó là những nhóm người như các giai cấp, dân tộc, tập thể, các nhà bác
học.v.v.. Nhưng không phải con người bất kỳ nào cũng là chủ thể nhận thức, con
người chỉ trở thành chủ thể nhận thức khi tham gia vào các hoạt động xã hội nhằm
biến đổi và nhận thức khách thể. Do vậy, con người (cá nhân, nhóm người, giai
cấp, dân tộc hoặc cả nhân loại) là chủ thể tích cực, sáng tạo của nhận thức.
Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí,
phẩm chất đạo đức… đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ
khác nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức.
Còn khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực mà nhận thức
hướng tới nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận
thức. Do vậy, khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn toàn với hiện thực khách
quan, phạm vi của khách thể nhận thức được mở rộng đến đâu là tuỳ theo sự phát
triển của nhận thức, của khoa học.
Trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chủ thể nhận
thức và khách thể nhận thức quan hệ gắn bó với nhau, trong đó khách thể đóng vai
trò quyết định chủ thể. Chính sự tác động của khách thể lên chủ thể đã tạo nên hình
ảnh nhận thức về khách thể. Song chủ thể phản ánh khách thể như một quá trình
sáng tạo, trong đó chủ thể ngày càng nắm bắt được bản chất, quy luật của khách thể.
Cả chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức đều mang tính lịch sử – xã hội.
4.Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a. Thực tiễn là cơ sở, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức
Ph. Ăngghen khẳng định: “… chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ
không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ
yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển
song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng
thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận
thức ở con người được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con
người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính
quy luật để cho con người nhận thức chúng. Ban đầu con người thu nhận những tài
liệu cảm tính, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu
tượng hoá… để phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận. Như vậy, thực tiễn cung
cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián
tiếp đối vơi người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh
nghiệm hay lý luận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Trong quá trình hoạt
động thực tiễn biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình,
phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày
càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm
phong phú và sâu sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra nhu cầu,
nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi
phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự 5
ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng cần
thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.
b. Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Nhận thức phải quay về phục vụ thực tiễn. Kết quả nhận thức phải hướng
dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận
dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp đòi hỏi lý luận phải đi sâu
nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu đó. Chẳng hạn, đó là những vấn đề về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về công nghiệp hoá,
hiện đại hóa; về kinh tế thị trường; về đổi mới hệ thống chính trị, về thời đại ngày nay…
Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề do thực tiễn đặt ra trên đây, lý luận sẽ có
được vai trò quan trọng, góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
c. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách
quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực
tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý…”. Tất nhiên,
nhận thức khoa học còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lôgíc. Nhưng tiêu
chuẩn lôgíc không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng
phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng; tiêu
chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối.
Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan
để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
Nhưng tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng
nguyên một chỗ mà biến đổi và phát triển; thực tiễn là một quá trình và được thực
hiện bởi con người không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. Tiêu chuẩn thực tiễn
không cho phép biến những tri thức của con người thành những chân lý tuyệt đích cuối cùng.
Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt
được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn
tiếp theo, tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn.
Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta tránh
khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ
quan, chủ nghĩa tương đối.
Sự phân tích trên đây về vai trò thực tiễn đối với nhận thức, đối với lý luận
đòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc
nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn,
phải “coi trọng tổng kết thực tiễn Việt Nam”. Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với
thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh
chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu. 6
4. Biện chứng của quá trình nhận thức
Nhận thức của con người là một quá trình trong đó có nhiều giai đoạn, trình
độ, vòng khâu và hình thức khác nhau; chúng có nội dung cũng như vai trò khác
nhau đối với việc nhận thức sự vật.
a. Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những giai đoạn khác nhau của
cùng một quá trình nhận thức thống nhất.
b. Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động)
Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Nó được thể hiện dưới 3 hình
thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của
mọi hiểu biết của con người. Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính
bên ngoài của sự vật vào các giác quan của con người. Sự vật hoặc hiện tượng trực
tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên cảm giác (chẳng hạn như
cảm giác về màu sắc, mùi vị, âm thanh, nhiệt độ…). Cảm giác là kết quả của sự tác
động vật chất của sự vật vào các giác quan con người, là sự chuyển hoá năng lượng
kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Cảm giác, theo Lênin, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan.
Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác; nó đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn
về sự vật. Tri giác nảy sinh trên cơ sở các cảm giác, là sự kết hợp của các cảm giác.
So với cảm giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức cảm tính, nó đem lại
cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Sự tiếp xúc trực
tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn tượng, những hình ảnh
về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu sắc đến mức có thể
hiện lên trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không ở trước mắt. Đó chính
là những biểu tượng. Trong biểu tượng chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất
của sự vật do cảm giác, tri giác đem lại trước đó. Biểu tượng thường hiện ra khi có
những tác nhân tác động, kích thích đến trí nhớ con người. Hình thức cao nhất của
biểu tượng là sự tưởng tượng; sự tưởng tượng đã mang tính chủ động, sáng tạo.
Tưởng tượng có vai trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật.
Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm
tính, song đã bắt đầu mang tính chất khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng
như là hình thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên
nhận thức lý tính. Trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận
thức sẽ phát triển lên một giai đoạn cao hơn, đó là nhận thức lý tính.
c. Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng)
Là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận thức, nó nảy
sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính. Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức
của con người sẽ rất hạn chế, bởi vì con người không thể bằng cảm giác mà hiểu
được những cái như tốc độ ánh sáng, giá trị của hàng hoá, quan hệ giai cấp, hình
thái kinh tế – xã hội, v.v.. Muốn hiểu được những cái đó phải nhờ đến sức mạnh của tư duy trừu tượng. 7
Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách
quan. Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy.
Tư duy có tính năng động sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ
bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật, do đó phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn.
Muốn tư duy, con người phải sử dụng các phương pháp như so sánh, phân
tích và tổng hợp, khái niệm hoá và trừu tượng hoá, v.v.. Nhận thức lý tính, hay tư
duy trừu tượng, được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán và suy lý.
Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên
hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, các hiện tượng nào
đó, chẳng hạn, các khái niệm “cái nhà”, “con người”, “giai cấp”, v.v…
Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học. Khái niệm là
những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là những phương tiện để con
người tích luỹ thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau.
Khái niệm có tính chất khách quan bởi chúng phản ánh những mối liên hệ,
những thuộc tính khách quan của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vì vậy, khi
vận dụng khái niệm phải chú ý đến tính khách quan của nó. Nếu áp dụng khái niệm
một cách chủ quan, tuỳ tiện sẽ rơi vào chiết trung và ngụy biện. V.I.Lênin chỉ rõ:
“Những khái niệm của con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng,
trong sự tách rời của chúng, nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình,
trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc”.
Nội hàm của khái niệm không phải là bất biến, bởi vì hiện thực khách quan
luôn vận đông và phát triển cho nên khái niệm phản ánh hiện thực đó không thể bất
biến mà cũng phải vận động, phát triển theo, liên hệ chuyển hoá lẫn nhau, mềm
dẻo, linh hoạt, năng động. Vì vậy, cần phải chú ý đến tính biện chứng, sự mềm dẻo
của các khái niệm khi vận dụng chúng. Phải mài sắc, gọt giũa các khái niệm đã có,
thay thế khái niệm cũ bằng khái niệm mới để phản ánh hiện thực mới, phù hợp với thực tiễn mới.
Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để
khẳng định hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực
khách quan. Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên
hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên, phán đoán
không phải là tổng số giản đơn của những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện
chứng trong đó các khái niệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo
những quy tắc văn phạm nhất định.
Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một
hoặc nhiều phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận. Nói cách
khác, suy lý là quá trình đi đến một phán đoán mới từ những phán đoán tiền đề.
Câu 4: Nội dung Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ
nghĩa duy vật trong lịch sử triết học ?
Khái niệm: Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện
chứng về xã hội của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp 8
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên
cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại, nhờ đó hoàn thiện và phát triển những
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật; hoàn
thiện thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm phát hiện ra những quy luật chung nhất của
sự vận động phát triển của lịch sử, là nguyên nhân dẫn đến sự thay thế các hình
thái kinh tế - xã hội thấp đến trình độ cao hơn, vận động theo hình xoáy ốc và đỉnh
cao của nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh. - Nội dung cơ bản:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế-xã hội, theo đó, trong các quan
hệ xã hội, các quan hệ sản xuất là cơ sở hiện thực của mỗi xã hội nhất định, cấu
trúc hạ tầng, trên đó xây dựng lên kiến trúc thượng tầng: chính trị, pháp luật và
các hình thái ý thức xã hội khác, với những thiết chế của chúng. Mỗi hệ thống
quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định, phụ thuộc vào tính chất và trình độ
phát triển của các lực lượng sản xuất.
Các lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển không ngừng, đến một
giai đoạn nhất định sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời và
đòi hỏi phải thay đổi các quan hệ sản xuất ấy bằng những quan hệ sản xuất mới,
tiến bộ hơn. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi ấy được thực hiện bằng cách mạng xã hội.
Một khi cơ sở hạ tầng đã thay đổi, thì toàn bộ cấu trúc thượng tầng
sớm muộn cũng thay đổi theo. Hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng
một hình thái kinh tế - xã hội mới tiến bộ hơn. Như vậy, lịch sử loài người là
lịch sử thay thế của những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. -
Các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật
Cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật để
được hình thành và phát triển vói ba hình thức cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật
chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. 1.
Chủ nghĩa duy vật chất phác: -
Gồm 2 trường phái: trường phái Phật giáo Ấn Độ và trường
phái Âm dương gia ở Trung Quốc. -
Chủ nghĩa duy vật chất phác:
+ Là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật.
+ Lý giải toàn bộ sự hình thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể.
+ Hạn chế: Mang nặng tính trực quan, cảm tính, chất phác.
+ Ưu điểm: Cơ bản là đúng vì đã lấy tự nhiên để giải thích tự nhiên,
không vênh vào Thần linh, Thượng đế, thế lực siêu nhiên.
VD: Quan niệm của Thales , Democrit ,Heraclit
- Thales cho rằng mọi cái đều bắt đầu từ nước, nước là khởi nguồn của mọi vật (bản nguyên). 9
- Hay cao hơn là Democrit , nếu đất, nước, lửa, không khí tương tác nhau, ở
chúng có cái gì đó chung làm nền, là đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại: thuyết nguyên tử luận.
- Hecralit cho rằng: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông” 2.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình: -
Là hình thức thứ hai của chủ nghĩa duy vật. -
Ở thời kì này triết học gắn liền với khoa học tự nhiên, các nhà
triết học cũng là các nhà khoa học tự nhiên. -
Thể hiện rõ nét vào thế kỉ XVII-XVIII ở các nước Tây âu. -
Chủ nghĩa duy vật siêu hình:
+ Ưu điểm: Góp phần đẩy lùi thế giới quan duy tâm và tôn giáo.
+ Hạn chế: Chưa phản ứng đúng hiện thực trong mỗi liên hệ phổ biến và sự phát triển
+ Thế giới là cỗ máy khổng lồ
+ Xem xét sự vật hoàn toàn cô lập.
+ Xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh tại cố định.
+ Tìm nguồn gốc của sự vận động và phát triển ở bên ngoài sự vật.
+ Quá trình phát triển chỉ thay đổi về chất lượng.
VD: Quan niệm của C Mác, V Lê-nin
-V Lê-nin cho rằng: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” - C.Mác cho rằng:
+ “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.”
+ “Lịch sử lặp lại, ban đầu là bi kịch, sau là hài kịch” 3.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: -
Là hình thức thứ ba trong chủ nghĩa duy vật. -
Ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của
các chủ nghĩa duy vật trước đó. -
Đó là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Vật chất: -
Các hiện tượng vật chất có quá trình phát sinh phát triển chuyển hóa. -
Tồn tại bên ngoài ý thức, độc lập với ý thức. -
Ý thức là sự phản ánh vật chất trong bộ não con người
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng phát triển khoa học làm thay
đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học đem lại thế giới quan và
phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển VD:
+ Gioocđano Bruno cho rằng: “ Mọi vật đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ nằm
trong tất thảy mọi vật “
+ Galileo Galilei cho rằng: “Dù sao Trái Đất vẫn quay” 10
Chủ nghĩa Duy vật triệt để trong giải quyết Tự nhiên – Xã hội trong nhận thức.
Câu 5: Nội dung Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của chủ
nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học ?
Khái niệm: Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học khẳng định rằng
mọi thứ đều tồn tại bên trong tâm thức và thuộc về tâm thức. Là một nền tảng của
ngành vũ trụ học , hay một cách tiếp cập tới hiểu biết về sự tồn tại, chủ nghĩa duy
tâm thường được đặt đối lập với chủ nghĩa duy vật, cả hai đều thuộc lớp bản thể
học nhất nguyên chứ không phải nhị nguyên hay đa nguyên. Vật chất có trước
tinh thần, Tinh thần quyết định vật chất,Chủ nghĩa duy tâm là thế giới quan của
giai cấp thống trị và lực lượng phản động, có mối quan hệ mật thiết với tôn giáo,
Chống lại chủ nghĩa duy vật, khoa học tự nhiên -
1. Về phương diện nhận thức luận
Sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét phiến diện, tuyệt
đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức
mang tính biện chứng của con người. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thô
lỗ, giản đơn, siêu hình, thì chủ nghĩa duy tâm triết học chỉ là một sự ngu xuẩn. Trái
lại, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thì chủ nghĩa duy tâm triết
học là một sự phát triển (một sự thổi phồng, bơm to) phiến diện, thái quá,… của
một trong những đặc trưng, những mặt, khía cạnh của nhận thức thành cái tuyệt
đối, tách rời khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa, “phát triển một cách trừu tượng” (C.Mác). -
2. Về nguồn gốc xã hội
Sự tách rời lao động trí óc với lao động chân tay và địa vị thống trị của lao
động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra quan niệm về
vai trò quyết định của nhân tố tinh thần. Các giai cấp thống trị và những lực lượng
xã hội phản động ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho
những quan điểm chính trị - xã hội của mình.
VD: Khi ta đói ta suy nghĩ là sẽ mua cơm để ăn rồi mới mua cơm, khi đó ta
suy nghĩ rồi mới dẫn đến hành động.
Có 2 hình thức: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác, ý thức của con
người là cái có trước cái quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tưởng ở
bên ngoài. Các sự vật, hiện tượng chỉ là “ Phức hợp của những cảm giác”
VD: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” đề cao cái tình cảm tâm lí bên
trong con người mà phủ nhận cái hiện thực khách quan bên ngoài. Nghĩa là khi
người buồn thì mặc nhiên qui định cảnh bên ngoài cũng buồn.
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng , ý thức, ý niệm là cái có
trước thế giới vật chất. Cái thực thể tinh thần tồn tại một cách “khách quan”,
không phụ thuộc vào con người và loài người, nó quyết định sự tồn tại của tự
nhiên, xã hội và tư duy con người. Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội đều là hiện thân của ý niệm. 11
VD: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tánh” con cái được cha mẹ sinh ra nhưng
không thể nào qui định tính cách của con được mà là 'trời' qui định là do một thế
lực tối cao nào đó qui định.
Câu 6: Phân tích Thuyết khả tri, bất khả tri và hoài nghi luận? -
Thuyết khả tri ( thuyết có thể biết) bao gồm hầu hết các nhà
triết học duy vật và các nhà triết học duy tâm. Thuyết này khẳng định khả
năng nhận thức của con người. Những người theo thuyết này cho rằng con
người có thể hiểu được bản chất của sự vật. Tuy nhiên nếu các nhà triết học
duy vật cho rằng nhận thức sự phản ánh thế giới vật chất , nắm bắt các qui
luật, bản chất vật chất của thế giới , thì các nhà triết học duy tâm lại coi nhận
thức thế giới chỉ là sự tự nhận thức của cái tinh thần và chính nó.
VD: Con người có thể hiểu
+ Sóng là sự xáo trộn của một trường trong đó một thuộc tính vật lý dao
động liên tục tại mỗi điểm hoặc truyền từ một điểm đến các điểm lân cận khác,
hoặc dường như di chuyển trong không gian.
+ Cầu vồng bản chất là sự tán sắc ánh sáng Mặt trời khi khúc xạ và phản xạ qua các giọt nước mưa -
Thuyết hoài nghi luận: là thuyết mà khi giải quyết mặt thứ hai
trong vấn đề cơ bản của triết học, các nhà triết học cho rằng con người chỉ
có thể nhận thức được hiện tượng bên ngoài của sự vật chứ không nhận thức
được bản chất bên trong của sự vật
+ Hoài nghi luận xuất hiện từ thời Cổ đại (từ chữ Hy Lạp skeptikos và
skiptomai có nghĩa là tôi thẩm tra) mà đại biểu là Pirôn (nhà triết học Hy Lạp cổ
đại). Họ là những người đã luận nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc
xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt tới chân lý khách quan.
+ Hoài nghi luận thời Phục hưng lại có tác dụng quan trọng trong cuộc đấy
tranh chống hệ tư tưởng Trung cổ và uy tín của Giáo hội thời trung cổ vì nó thừa
nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo. -
Thuyết bất khả tri (agnosticism): là quan điểm triết học cho
rằng tính đúng hay sai của một số tuyên bố nhất định - đặc biệt là các tuyên
bố thần học về sự tồn tại của Chúa Trời hay các vị thần - là chưa biết và
không thể biết được hay không mạch lạc. Một số người theo thuyết bất khả
tri suy diễn từ đó rằng các tuyên bố đó không liên quan đến ý nghĩa của cuộc sống.
+Thuật ngữ “bất khả tri” (agnosticism) được đưa ra năm 1869 bởi Thomas
Henry Huxley (1825-1895), một nhà tự nhiên học người Anh, người đã lấy
cảm hứng từ các tư tưởng của David Hume và Emmanuel Kant. Thuật ngữ này còn
được dùng để miêu tả những người chưa bị thuyết phục hay cố tình chưa đưa ra
quan điểm về sự tồn tại của các vị thần thánh cũng như các vấn đề tôn giáo khác.
+ Thuyết bất khả tri, khi tập trung vào những gì có thể biết, là một luận điểm
nhận thức luận về bản chất và giới hạn của kiến thức con người; trong khi thuyết
vô thần và thuyết hữu thần là các quan điểm bản thể học (một nhánh của siêu hình 12
học nghiên cứu về các loại thực thể tồn tại). Không nên lẫn lộn thuyết bất khả tri
với một cách nhìn đối lập với học thuyết về sự ngộ đạo và thuyết ngộ đạo - đây là
các khái niệm tôn giáo nói chung không liên quan đến thuyết bất khả tri.
+ Những người theo thuyết bất khả tri có thể tuyên bố rằng không thể có tri
thức tinh thần “tuyệt đối” hay “chắc chắn” hay “nói cách khác” rằng tuy những sự
chắc chắn đó là có thể có nhưng cá nhân họ không có tri thức đó. Trong cả hai
trường hợp, thuyết bất khả tri bao hàm một hình thức của chủ nghĩa hoài nghi đối
với các khẳng định tôn giáo. Điều này khác với sự phi tín ngưỡng (irreligion) đơn
giản của những người không suy nghĩ về chủ đề này.
+ Thuyết bất khả tri khác với thuyết vô thần mạnh (còn gọi là “vô thần tích
cực” hay “vô thần giáo điều”) VD:
- Con người không thể biết sự vật, hiện tượng nào đó có tồn tại không nếu
không dùng giác quan cảm nhận hoặc đo đạc thông tin về vật, hiện tượng đó.
- Con người thậm chí có thể nhận những giác quan bị tác động bởi bên thứ
ba (một vật, hiện tượng nào đó) sao cho con người không thể tìm thấy (tìm thấy ở
đây là một dạng của một biểu hiện hay một hiện tượng trong triết học hiện đại) một
nguyên tố mà ngành khoa học đang cần để lý giải thế giới chẳng hạn.
- Những khám phá lớn về vật lý thường được con người đo đạc qua những
cỗ máy tinh vi, tuy nhiên, việc nhìn qua 1 màn hình để nói hiện tượng gì tồn tại
hoặc không là một lỗ hổng dễ nhận thấy, và tất nhiên ảnh hưởng đến cả ngành khoa học.
Câu 7: Nội dung phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng? a.
Nội dung phép biện chứng:
- Trong chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những
mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự
vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện
chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ quan là
sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con người.
- Theo Ph.Ăngghen: "Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn
bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ
là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên...".
- Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế
giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các
nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy, phép
biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu
hình - phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái cô lập và bất biến. b.
Các hình thức cơ bản của phép biện chứng:
- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại.
- Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức. 13
- Phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác-Lênin.
Câu 8 : Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời triết học Mác - Lênin ?
Chủ nghĩa Mác ra đời, phát triển trên cơ sở ba điều kiện, tiền đề cơ bản sau đây:
– Điều kiện kinh tế – xã hội
Cho đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập và đã đạt được
sự phát triển mạnh mẽ của nó ở các nước Tây Âu, đặc biệt là tại các nước Anh,
Pháp. Sự phát triển đó, một mặt đã tạo ra được những thành tựu to lớn về nhiều
mặt kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của nó là đã tự tạo ra những mâu thuẫn
không thể giải quyết được trong phạm vi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trung tâm của
những mâu thuẫn đó được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn gay gắt giữa hai
giai cấp: giai cấp tư sản (chủ sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội) và giai cấp vô sản
(giai cấp công nhân làm thuê). Mâu thuẫn đó được bộc lộ thành những cuộc đấu
tranh ngày càng phát triển của giai cấp công nhân tại nhiều nước tư bản, đặc biệt là
những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân làm thuê tại các nước Anh, Pháp và
Đức. Sự phát triển của các cuộc đấu tranh đó làm phát sinh nhu cầu cần có một lý
luận cách mạng và khoa học của nó. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác là nhằm đáp ứng
nhu cầu này. Đồng thời chính thực tiễn phát triển của nó lại là một trong những
điều kiện thực tiễn cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác. – Tiền đề lý luận
Chủ nghĩa Mác ra đời không chỉ xuất phát từ nhu cầu khách quan của lịch sử
mà còn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của nhân loại, trong đó
trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa
xã hội không tưởng ở các nước Pháp và Anh.
+ Với Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của Ph. Hêghen và L.
Phoiơbắc đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp
luận triết học của chủ nghĩa Mác.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã kế thừa những nội dung cơ bản trong
phép biện chứng của Hêghen, chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Đồng thời, các ông
cũng khắc phục những hạn chế cơ bản của hai học thuyết ấy; đó là thế giới quan
duy tâm trong triết học Hêghen và phương pháp siêu hình trong triết học của
Phoiơbắc. Trên cơ sở đó các ông đã sáng lập ra một thế giới quan triết học mới là:
chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật. Nhờ thế giới quan mới
này các ông đã vận dụng nó vào việc nghiên cứu một cách khoa học những quy
luật chung nhất của sự phát triển xã hội, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật ra
đời, phát triển, suy tàn của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
+ Với Kinh tế chính trị cổ điển Anh, đặc biệt là với các học thuyết của những
đại biểu lớn của nó (A. Xmít và Đ. Ricácđô), c. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa
những quan điểm hợp lý khoa học của những học thuyết này. Đó là: quan điểm duy
vật trong nghiên cứu lĩnh vực khoa học kinh tế chính trị và học thuyết giá trị về lao
động. Đồng thời các ông cũng phê phán và khắc phục tính chất chưa triệt để trong
học thuyết giá trị về lao động và phương pháp siêu hình trong nghiên cứu của các 14
nhà kinh tế học cổ điển Anh. Trên cơ sở đó các ông đã xây dựng thành công học
thuyết về giá trị lao động và học thuyết giá trị thặng dư.
+ Với Chủ nghĩa xã hội không tưởng ở nước Anh và Pháp, đặc biệt là với
những đại biểu lớn của nó là H. Xanh Ximông, S. Phuriê và R. Ôoen, c. Mác và
Ph. Ăngghen đã kế thừa những tư tưởng nhân đạo và những sự phê phán hợp lý
của các nhà tư tưởng này đối với những hạn chế của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời,
các ông cũng khắc phục và vượt qua những hạn chế trong học thuyết của họ. Đó là
tính chất không tưởng trong các học thuyết ấy. Từ đó các ông xây dựng nên một lý
luận mói – lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội.
– Tiền đề khoa học tự nhiên
Cho đến những năm giữa thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những bước
phát triển mới, đem lại một số quan niệm mới mẻ về giới tự nhiên so với trước đó.
Tiêu biểu cho những quan niệm mới này là: khẳng định tính chất bảo toàn năng
lượng trong quá trình biến đổi của vật chất trong giới tự nhiên; khẳng định tính
thống nhất về cơ sở vật chất của mọi sự sống là tế bào; khẳng định tính tất yếu
khách quan của quá trình phát triển các loài sinh vật trên trái đất. Những quan niệm
mới này đóng vai trò là những bằng chứng xác thực (ở tầm khoa học) của các quan
điểm duy vật biện chứng về giới tự nhiên.
Câu 9 : Phân tích nội dung Vật chất và phương thức tồn tại của vật chất
theo quan điểm triết học Mác - Lênin ?
Để hiểu rõ về quan điểm của tríêt học Mac-Lênin về vật chất thì chúng ta
phải tìm hiểuvề những quan điểm về vật chất trước Mac
+ Thời kỳ cổ đại thì các nhà triết học đã đồng nhất vật chất với dạng vật chất
cụ thể, nhưTalet đã cho rằng vật chất là nước… Quan điểm này chỉ mang tính chất
trực quan, cảmtính. Nó chỉ có tác dụng chống lại CNDT và tôn giáo
+ Thời kỳ cận đại thế kỷ XVII-XVIII: thời kỳ này thì các nhà triết học đã
đồng nhất vậtchất với thiọc tính của vật chất, như Niutơn đã cho rằng khối lượng là
vật chất… Quanđiểm này mang tính chất siêu hình, máy móc.
+ Quan điểm của triết học Mac-Lênin về vật chất: Lênin cho rằng vật chất là
một phạmtrù triết học dùng để chỉ thực tại khác quan được đem lại cho con người
trong cảm giác,được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác.Sau đây chúng ta sẽ phân tích nội dung quan điểm của triết học Mac-Lênin về vật chất:
+ Trước hết vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức của con
người và khôngphụ thuộc vào ý thức. Đây chính là nội dung quan trọng nhất của
quan điểm về vật chất.Không phải là khi con người ý thức được một cái gì đó thì
nó là vật chất mà vật chất làcái đã tồn tại một cách khách quan, như là trước khi
các nhà vật lý tìm ra các tia phóng xạthì chúng đã tồn tại rồi,…
+ Thứ hai là con người có thể cảm giác được sự tồn tại khách quan của vật
chất. Nếu cáigì đó mà con người không thể cảm giác được thì nó không phải là vật
chất, vật chất nóluôn tồn tại trước ý thức của con người nhưng con người luôn có
thể cảm giác được nó. + Thứ ba là ý thức của con người chỉ là sự phản ánh thế giới
hiện thực. Những điều kiệnvật chất cụ thể, hoàn cảnh cụ thể mà nó quyết định tới
việc hình thành lên ý thức của conngười.Trên đây chúng ta đã phân tích những nội 15
dung của quan điểm triết học Mac-Lênin về vậtchất, tiếp sau chúng ta sẽ phân tích
ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm đó:
+ Nó đã giải quyết triệt để hai mặt trong một vấn đề cơ bản của triết học theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Khắc phục hạn chế sai lầm của CNDV trước Mác về phạm trù vật chất:
bác bỏ phủnhận quan điểm của CNDT và tôn giáo về vấn đề này.
+ Nó tạo cơ sở cho các nhà triết học duy vật biện chứng xây dựng quan điểm
vật chấttrong lĩnh vực đời sống xã hội.
Phương thức tồn tại của vật chất là vận động (phân tích)
Các hình thức vận động: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa
học, vận động sinh học, vận động xã hội (Phấn tích thêm)
Câu 10: Phân tích Nguồn gốc của ý thức ? NGUỒN GỐC Ý THỨC
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc người và có sự cải biến và sáng tạo.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là sự xuất hiện con người và hình
thành bộ óc của con người có khả năng phản ánh hiện thực khách quan.
- Bộ óc người (não bộ): là vật chất có cấu trúc đặc biệt phát triển, rất tinh vi và
phức tạp gồm 14 – 15 tỷ tế bào thần kinh. Sự phân khu của não bộ và hệ thống dây
thần kinh liên hệ với các giác quan để thu nhận và xử lý thông tin từ thế giới khách
quan vào não bộ, hình thành những phản xạ không điều kiện và có điều kiện.
Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi dạng vật chất, được biểu hiện trong sự
liên hệ tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Có các dạng phản
ánh: vật lý, sinh học, ý thức…
Ví dụ: Khi ngắm nhìn một bức tranh thì các hình ảnh trong bức tranh sẽ
được phản ánh vào não thông qua giác quan. Não bộ sẽ thu nhận và phân tích (màu
sắc, đường nét, nội dung…) để con người đưa ra đánh giá về bức tranh đó Nguồn
gốc xã hội của ý thức cũng có 2 yếu tố đó là: lao động và ngôn ngữ.
- Lao động là hoạt động có mục đích sáng tạo của con người, sử dụng công
cụ sản xuất tác động vào các đối tượng của tự nhiên để sản xuất ra của cải vật chất
nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội.
+ Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, bắt chúng
bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành
những hiện tượng nhất định và các hiện tượng ấy tác động vào óc người hình thành
dần những tri thức về tự nhiên và xã hội.
+ Nhờ lao động mà các bộ phận của cơ thể, các giác quan, khí quan của con
người được hoàn thiện trong quá trình phản ánh thế giới xung quanh.
+ Lao động góp phần cải tạo chế độ dinh dưỡng, làm cho bộ não và hệ thần kinh phát triển.
Ví dụ: khi chúng ta làm việc chúng vận động, suy nghĩ giúp cho cơ thể khỏe
mạnh và nâng cao tư duy của bản thân.
Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách
quan của con người làm biến đổi thế giới đó. Nên nguồn gốc cơ bản của ý thức, tư 16
tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người trong quá trình lao
động. Nhưng bản thân quá trình lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể, tính xã
hội. Vì vậy xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm lao động và trao đổi tư tưởng
tình cảm. Chính nhu cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.
- Ngôn ngữ bao gồm tiếng nói và chữ viết tồn tại dưới dạng các khái niệm,
ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn ngữ là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là “cái vỏ vật chất của tư duy”. Nếu
không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ vừa là
phương tiện giao tiếp trong xã hội, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát
hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực
tiễn, trao đổi thông tin và tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tóm lại: Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động và thực tiễn xã hội. Ýthức phản ánh hiện thực khách
quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
Câu 11: Phân tích Bản chất của ý thức ? BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC
Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Như vậy bản chất của nó được thể hiện qua 4 khía cạnh sau:
1. Ý thức là sự phản ánh, cái phản ánh, còn vật chất là cái được phản ánh:
- Cái được phản ánh (tức vật chất) tồn tại khách quan, bên ngoài và độc lập
với cái phản ánh (tức ý thức). Ý thức là hình ảnh tinh thần của sự khách quan. Vì
vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời ý thức với vật chất.
- Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng lại thuộc phạm vi chủ
quan, không có tính vật chất. Nó là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật
chất có tồn tại cảm tính.
2. Ý thức là sự phản ánh có tính chủ động, năng động, sáng tạo.
Tuy thuộc phạm vi chủ quan nhưng ý thức không phải là bản sao thụ động,
giản đơn, máy móc của sự vật. Tức là, không phải cứ sự vật tác động như thế nào
thì ý thức sẽ chép lại, chụp lại y nguyên như thế.
Con người là một thực thể xã hội năng động, sáng tạo
Trong quá trình lao động để cải tạo thế giới quan, con người tác động vào sự
vật một cách có định hướng, chọn lọc tùy theo nhu cầu của mình. Chính vì thế ý
thức của con người là sự phản ánh năng động, sáng tạo, có định hướng, chọn lọc về hiện thực khách quan.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú
Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể
tưởng tượng ra cái không có trong thực tế. Nó có thể tiên đoán, dự báo tương lai
một cách tương đối chính xác, hoặc có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại.
Thậm chí, một số người còn có khả năng tiên tri, ngoại cảm, thấu thị,...
VD: Vào thời kỳ đồ đá, con người muốn sưởi ấm là làm chín thức ăn nên đã tạo ra lửa,... 17
tôn trọng sự thật. Đồng thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai
trò năng động của các nhân tố tinh thần,tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt
động của con người đạt hiệu quả cao. Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn
mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn
cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.
Câu 13. Khái niệm Biện chứng, phân biệt giữa biện chứng khách quan
và biện chứng chủ quan ? a. Khái niệm:
- Trong chũ nghĩa Mác — Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những
mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự
vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy. b. Phân biệt:
- Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất (các mối liên
hệ, sự vận động và phát triển diễn ra ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức).
- Biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đời sống ý
thức của con người. Đây là biện chứng của quá trình nhận thức, của ý thức.
Câu 14: Nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến, ý nghĩa phương pháp luận ?
- Mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn
nhau giữa sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, yếu tố của mỗi sự vật, hiện
tượng trong thế giới là môí liên hệ phổ biến. + Tính khách quan:
Liên hệ lá cái vốn có của sự vật hiện tượng, không phụ thuộc
vào ý muốn chủ quan của con người, là điều kiện tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng.
Con người nhận thức và vận dụng các mối liên hệ giữa sự vật hiện tượng.
- Tính đa dạng, phong phú:
Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng đa dạng, phong phú.
Phân loại các mối quan hệ căn cứ vào vị trí, vai trò hoặc phạm
vi tác dụng và tính chất phức tạp của nó. - Tính phổ biến:
Không có bất cứ sự vật hiện tượng nào tồn tại tuyệt đối biệt lập.
Một tồn tại là một hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với các hệ thống
khác, tương tác và biến đổi lẫn nhau
Câu 15: Nội dung nguyên lý sự phát triển, ý nghĩa phương pháp luận ?
I. Nội dung nguyên lí sự phát triển.
1/ Khái niệm về sự phát triển
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học
dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến 20