-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Soạn văn 6: Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích | Ngữ văn 6 | Kết nối tri thức
Truyện cổ tích đã rất quen thuộc và gần gũi với mỗi người. Vì vậy, chúng tôi sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 6: Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích, nằm trong chương trình môn Ngữ Văn.
Nội dung của tài liệu sẽ bao gồm dàn ý và 30 bài văn mẫu lớp 6. Hãy cùng theo dõi ngay sau đây.
Bài 7: Thế giới cổ tích (KNTT) 46 tài liệu
Ngữ Văn 6 1.7 K tài liệu
Soạn văn 6: Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích | Ngữ văn 6 | Kết nối tri thức
Truyện cổ tích đã rất quen thuộc và gần gũi với mỗi người. Vì vậy, chúng tôi sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 6: Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích, nằm trong chương trình môn Ngữ Văn.
Nội dung của tài liệu sẽ bao gồm dàn ý và 30 bài văn mẫu lớp 6. Hãy cùng theo dõi ngay sau đây.
Chủ đề: Bài 7: Thế giới cổ tích (KNTT) 46 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 6 1.7 K tài liệu
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Ngữ Văn 6
Preview text:
Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích
Dàn ý đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích 1. Mở bài
Đóng vai nhân vật để tự giới thiệu sơ lược về mình và câu chuyện định kể. 2. Thân bài:
Kể lại diễn biến câu chuyện
- Xuất thân của các nhân vật.
- Hoàn cảnh diễn ra câu chuyện. - Diễn biến chính: ⚫ Sự việc 1: … ⚫ Sự việc 2: … ⚫ Sự việc 3: ... 3. Kết bài
Kết thúc câu chuyện và nêu bài học được rút ra từ câu chuyện.
Đóng vai nhân vật kể lại truyện cổ tích Thạch Sanh
Đóng vai nhân vật - Thạch Sanh Bài văn mẫu số 1
Tôi là Thạch Sanh. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, tôi sống lủi thủi một mình trong túp lều
cũ dựng dưới gốc đa. Cả gia tài của tôi chỉ có một lưỡi búa để hàng ngày lên rừng đốn củi kiếm ăn.
Một hôm, có người hàng rượu tên là Lý Thông đi qua chỗ tôi, nghỉ ở gốc đa. Lý
Thông thấy tôi gánh củi về liền lân la gợi chuyện và nói kết nghĩa anh em với tôi.
Tôi cảm động lắm, vui vẻ nhận lời. Lý Thông là anh còn tôi là em. Tôi từ giã gốc
đa, đến sống chung với mẹ con Lý Thông.
Đi kiếm củi về, tôi thấy mâm cơm có rất nhiều thức ăn ngon. Chưa hiểu nhà có
việc gì thì anh Lý Thông nói với tôi:
- Đêm nay, đến phiên anh canh miếu thờ, ngặt vì dở cất mẻ rượu, em chịu khó thay anh, đến sáng thì về.
Tôi không nghĩ ngợi gì, vui vẻ nhận lời. Đêm hôm ấy, khi tôi đang mơ màng nửa
ngủ nửa thức thì một con trăn tinh hiện ra. Nó nhe răng, giơ vuốt định vồ lấy tôi.
Tôi giơ cao búa đánh vào con chằn tinh. Tôi xả xác nó làm hai mảnh. Trăn tinh
hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ và để lại bên mình một bộ cung bằng vàng.
Tôi chặt đầu quái vật và nhặt bộ cung tên bằng vàng rồi xách đầu quái vật về nhà.
Tôi gọi cửa mãi anh Lý Thông mới ra mở cửa. Không hiểu sao mẹ con anh Lý
Thông cứ van lạy tôi rối rít.
Khi vào nhà, tôi kể đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, anh Lý Thông nói với tôi: -
Con trăn ấy là của vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó, tất không khỏi bị tội chết. Thôi,
bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn đi ngay đi. Có chuyện gì để anh ở nhà lo liệu.
Tôi không nghi ngờ gì liền trở về túp lều dưới gốc đa ngày nào. Tôi lại sống bằng nghề kiếm củi.
Một hôm, tôi đang ngồi dưới gốc đa thì trông thấy một con đại bàng quắp một
người con gái. Tôi liền lấy cung tên vàng ra bắn con đại bàng. Mũi tên trúng vào
cánh làm nó bị thương. Nhưng nó vẫn cố bay về hang trong núi. Theo vết máu, tôi
tìm được chỗ ở của con đại bàng.
Nghe có lễ hội đông vui, tôi liền tìm đến xem. Nào ngờ, ở đó, tôi gặp anh Lý
Thông. Anh ấy đã kể cho tôi nghe việc tìm công chúa. Tôi thật thà kể cho anh nghe
về việc tôi bắn đại bàng và biết được chỗ ở của nó. Anh Lý Thông liền nhờ tôi dẫn đến chỗ đại bàng.
Tôi xin được xuống hang cứu công chúa. Quân sĩ lấy dây buộc ngang lưng tôi rồi
dòng xuống hang. Xuống tới đáy hang, tôi thấy đại bàng hiện nguyên hình là một
con yêu tinh ở trên núi. Tuy bị thương nặng nhưng con quái vật vẫn rất hung dữ.
Nó giơ vuốt và lao vào tôi. Tôi dùng cung tên vàng bắn mù hai mắt nó. Tôi chặt
đứt vuốt sắc, bổ vỡ đầu con quái vật. Tôi lấy dây buộc ngang người công chúa và
ra hiệu cho quân sĩ của Lý Thông kéo lên.
Tôi chờ quân sĩ thả dây xuống kéo tôi lên, nào ngờ cửa hang đã bị lấp lại. Lúc đó,
tôi mới biết là Lý Thông hại tôi. Tôi tìm cách lên. Đi đến cuối hang, tôi thấy một
chàng trai khôi ngô tuấn tú bị nhốt trong cũi sắt. Tôi dùng cung tên vàng bắn tan
cũi sắt và cứu chàng ra. Chàng trai cho biết mình là thái tử con vua Thủy Tề.
Thái tử thoát nạn, cám ơn tôi và mời tôi xuống thủy phủ chơi. Vua Thủy Tề vui
mừng được gặp lại con. Biết tôi là người cứu con trai mình, vua Thủy Tề cảm ơn
tôi và biếu tôi rất nhiều vàng bạc châu báu. Tôi không lấy vàng bạc châu báu mà
chỉ xin một cây đàn, rồi tôi trở về gốc đa.
Một hôm, tôi bị quân lính của nhà vua tới và bắt giam tôi vào ngục. Lúc đó, tôi
mới biết của cải của nhà vua bị mất trộm và được giấu ở gốc đa nơi tôi ở. Tôi bị
bắt vì nhà vua cho là chính tôi đã ăn trộm. Lúc đó tôi mới nghĩ là chính chằn tinh
và đại bàng bị giết đã báo thù tôi.
Trong ngục tối, tôi đem đàn vua Thủy Tề cho ra gảy. Không ngờ tiếng đàn của tôi
vẳng đến hoàng cung. Nàng công chúa được tôi cứu đòi vua cha cho được gặp
người đánh đàn. Nhà vua cho đưa tôi đến. Trước mặt mọi người, tôi kể hết đầu
đuôi câu chuyện của mình, từ chuyện kết bạn với Lý Thông, đến chuyện chém
chằn tinh, giết đại bàng, cứu công chúa và cuối cùng bị bắt oan vào ngục thất.
Cho đến lúc này tôi mới biết chằn tinh không phải vua nuôi mà Lý Thông đã nham
hiểm lừa tôi đi chết thay cho hắn. Và lúc này, tôi cũng mới biết, nàng công chúa đã
bị câm sau khi được tôi cứu khỏi hang. Nàng chỉ vui cười trở lại khi nghe tiếng đàn của tôi.
Nhà vua cho bắt mẹ con Lý Thông giam lại và giao cho tôi xét xử. Nhà vua gả
công chúa cho tôi. Lễ cưới tưng bừng nhất kinh kì. Hoàng tử các nước chư hầu
trước kia bị công chúa từ hôn lấy làm tức giận, họ hội binh lính của mười tám nước
sang đánh. Tôi xin nhà vua đừng động binh.
Tôi lấy đàn thần ra gảy. Quân mười tám nước bủn rủn chân tay không còn nghĩ gì
đến chuyện đánh nhau nữa. Cuối cùng, tất cả đều phải xin hàng.
Tôi sai dọn một bữa cơm thết đãi những kẻ thua trận. Tôi cho dọn ra một niêu cơm
nhỏ. Cả mấy vạn tướng lính thấy niêu cơm như vậy liền bĩu môi cười. Tôi liền hứa
sẽ trọng thưởng cho người ăn hết niêu cơm. Quân mười tám nước ăn mãi không
hết. Cơm trong niêu hết lại đầy. Tất cả cúi đầu lạy tạ vợ chồng tôi rồi kéo quân về nước.
Vì không có con trai nối ngôi, nhà vua đã nhường ngôi cho tôi. Từ đó, tôi làm một
ông vua tốt và dân chúng có cuộc sống no ấm, yên bình. Bài văn mẫu số 2
Tên của tôi là Thạch Sanh. Sau đây, tôi sẽ kể lại câu chuyện về cuộc đời của mình.
Khi tôi vừa mới ra đời thì cha mất. Ít lâu sau, mẹ cũng qua đời. Tôi trở thành đứa
trẻ mồ côi. Cả gia tài của tôi chỉ có chiếc rìu của cha tôi để lại. Khi tôi lớn thì có
một vị thiên thần dạy cho tôi đủ các môn võ nghệ và mọi phép thần thông.
Một người hàng rượu tên là Lí Thông đi qua chỗ tôi. Anh ta gợi chuyện và nói kết
nghĩa anh em với tôi. Mồ côi cha mẹ nên khi Lí Thông nói muốn kết nghĩa anh em
với tôi, tôi vui vẻ nhận lời. Tôi đến nhà ở với Lí Thông và mẹ của anh ta.
Lần nọ, tôi thấy mâm cơm có rất nhiều thức ăn ngon. Chưa hiểu nhà có việc gì thì
anh Lí Thông nói với tôi:
- Đêm nay, đến phiên anh canh miếu thờ, ngặt vì dở cất mẻ rượu, em chịu khó thay anh, đến sáng thì về.
Tôi chẳng nghi ngờ mà nhận lời. Đến nửa đêm, tôi đang lim dim mắt thì một con
chằn tinh hiện ra. Nó nhe răng, giơ vuốt định vồ lấy tôi. Tôi nhanh tay vớ lấy búa
đánh lại. Chằn tinh hóa phép, thoắt biến, thoắt hiện. Tôi không nao núng, dùng
nhiều võ thuật đánh con quái vật. Cuối cùng, tôi giết được chằn tinh. Chằn tinh
hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ. Nó chết để lại bên mình bộ cung tên
bằng vàng. Tôi chặt đầu quái vật và nhặt bộ cung tên bằng vàng rồi xách đầu quái
vật về nhà. Tôi gọi cửa mãi anh Lí Thông mới ra mở cửa. Không hiểu sao mẹ con
anh Lí Thông cứ van lạy tôi rối rít.
Khi vào nhà, tôi kể đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, anh Lí Thông nói với tôi:
- Con trăn ấy là của vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó, tất không khỏi bị tội chết.
Thôi, bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn đi ngay đi. Có chuyện gì để anh ở nhà lo liệu.
Tôi tin rồi trở về túp lều dưới gốc đa ngày nào. Tôi lại sống bằng nghề kiếm củi.
Có hôm, tôi đang ngồi dưới gốc đa thì nghe tiếng la hét trên cao. Ngước nhìn, tôi
giật mình vì thấy một con đại bàng khổng lồ đang quắp một cô gái. Không do dự,
tôi rút tên bắn vào cánh con đại bàng. Nó không chết, chỉ bị thương thôi. Lần theo
dấu máu. tôi đến tận hang đại bàng trú ngụ. Tôi định xuống hang cứu cô gái nhưng
hang quá sâu. Nghĩ rằng, con đại bàng cần phải trị thương, chưa làm gì được cô gái
nên tôi trở về nhà, nhờ Lí Thông giúp đỡ.
Tôi nghe dân làng nói Lí Thông đang làm quan, hắn mở hội mười ngày ngay gần
làng. Hôm đó là ngày cuối cùng. Tôi đến hội, gặp hắn, tôi kể hết mọi chuyện. Lí
Thông mừng quýnh lên, hắn nói cho tôi biết, cô gái bị đại bàng quắp chính là công
chúa. Tôi đề nghị được đi cứu công chúa cùng hắn.
Đến nơi, hắn và bọn lính sợ chết nên không dám xuống. Tôi liến bào hắn ở trên,
giữ dây thừng để tôi trèo xuống hang. Cứu được công chúa lên, Lí Thông cho
người lấp cửa hang lại. Biết mình bị lừa, tôi liền tìm cách khác. Khi đi sâu vào
trong hang, tôi vô tình cứu được con trai của vua thủy tề. Sau đó được vị vua này
ban cho cây đàn thần. Tôi mang theo đàn thần trở về túp lều của mình.
Nhưng tôi bị vu oan là mang tội ăn cắp. Ở trong ngục, tôi lấy cây đàn ra đánh thì
được nhà vua cho vào diện kiến. Tôi nói rõ sự tình cho vua nghe. Lí Thông bị
trừng trị. Còn tôi được lấy công chúa. Bài văn mẫu số 3
Tôi tên Thạch Sanh. Tôi vốn là con trai của Ngọc Hoàng, được phái xuống trần
làm con trong một gia đình người nông dân hiền lành. Từ lúc mới sinh ra, cha tôi
đã qua đời. Vài năm sau, mẹ tôi cũng mất. Kể từ đó, tôi sống một mình dưới gốc
đa. Tài sản lớn nhất của tôi là lưỡi rìu mà cha để lại. Tôi còn được thiên thần dạy
cho đủ loại võ nghệ cao cường.
Một hôm, tôi đang ngồi dưới gốc đa thì có người đến hỏi. Anh ta xưng là Lí Thông,
làm nghề bán rượu. Anh ta còn đề nghị kết nghĩa huynh đệ với tôi. Mồ côi cha mẹ,
lại thiếu thốn tình thương từ nhỏ, tôi liền đồng ý ngay. Tôi dọn đến nhà sống cùng
với mẹ con Lí Thông. Hằng ngày, tôi lên rừng kiếm củi, còn Lí Thông đi bán rượu.
Tôi thường tự nguyện làm giúp việc nhà.
Bỗng lần nọ, tôi đi kiếm củi trở về thì thấy trong nhà đã bày sẵn rượu thịt. Hai anh
em tôi vừa ăn, vừa trò chuyện. Anh Lí Thông nói với tôi:
- Đêm nay đến lượt anh đi canh miếu thờ, nhưng còn mẻ rượu chưa xong. Vậy em
chịu khó đi thay cho anh một đêm, đến sáng lại về.
Tôi nghe vậy liền đồng ý. Đêm đó, tôi đang nằm lim dim ngủ. Bỗng nhiên, một
con chằn tinh lao đến định ăn thịt tôi. Tôi cầm lấy rìu đánh nhau với con quái vật.
Chẳng bao lâu, lưỡi rìu của tôi đã xé xác con chằn tinh làm đôi. Con quái vật hiện
nguyên hình là một con trăn khổng lồ. Tôi chặt đầu con quái vật đem về.
Khi về đến nhà, tôi gọi anh Lí Thông. Nhưng chẳng có ai ra mở cửa. Tôi chỉ nghe
thấy tiếng mẹ con anh Lí Thông van xin tha mạng. Tôi lấy làm lạ, liền nói:
- Anh Lí Thông ơi, em là Thạch Sanh đây. Mau mở cửa cho em!
Lúc này, Lí Thông liền ra mở cửa. Tôi kể lại rõ mọi sự tình. Sau đó, anh ta nói với tôi:
- Đó là con vật nuôi của vua, giết nó là mang tội. Nhân lúc trời còn chưa sáng, em
hãy trốn đi. Mọi việc để anh giải quyết.
Tôi từ biệt Lí Thông rồi trốn về gốc đa cũ. Một hôm, tôi đang ngồi dưới gốc đa thì
nhìn thấy con đại bàng rất to đang quắp một cô gái. Tôi liền lấy cung tên bắn nó bị
thương, rồi lần theo vết máu thì tìm ra hang của đại bàng.
Mấy ngày sau, dân làng mở hội rất đông vui. Tôi đến xem thì tình cờ gặp được Lí
Thông. Anh ta kể cho tôi nghe việc đang tìm đại bàng để cứu công chúa. Tôi đã kể
lại mọi việc cho Lí Thông nghe. Đến hang, tôi xin xuống trước. Tôi đánh nhau với
đại bàng, cứu được công chúa. Nhưng Lí Thông đã ra lệnh cho quân sĩ vần đá lớn
lấp kín cửa hang lại, rồi kéo nhau về.
Tôi nhận ra mình đã bị Lí Thông lừa, đành đi khắp hang để tìm lối ra. Đến cuối
hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Tôi lấy dùng cung tên bắn tan cũi
sắt cứu chàng trai. Hỏi ra mới biết chàng là con trai của vua Thủy tề. Sau đó, tôi
được mời xuống Thủy cung chơi. Trước khi trở về, vua Thủy Tề còn tặng cho tôi
một một cây đàn thần.
Về đến nơi, chưa rõ sự tình ra sao, tôi đã bị đám lính canh bắt vào ngục với tội ăn
cắp rồi bị bắt giam vào ngục. Ở trong ngục, tôi lấy cây đàn được vua Thủy Tề tặng
ra đánh. Có lẽ nhà vua nghe được tiếng đàn nên đã cho người giải tôi đến. Lí
Thông cũng có mặt. Tôi đem hết mọi chuyện xảy ra kể cho vua nghe. Nhà vua giao
Lí Thông cho tôi trừng trị và hứa sẽ gả công chúa cho tôi. Nể tình xưa, tôi tha cho
Lí Thông được trở về quê cũ.
Lễ cưới được tổ chức linh đình thì hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công
chúa từ hôn đem quân sang đánh. Tôi đem đàn ra gảy, tiếng đàn của tôi vừa cất lên
đã khiến quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Tôi sai người nấu cơm
thiết đãi binh sĩ. Thấy niêu cơm bé xíu, họ tỏ ý coi thường. Nhưng họ cứ ăn mãi
vẫn không hết niêu cơm, mới phục rồi kéo nhau về nước. Sau này, nhà vua không
có con trai nên đã truyền ngôi cho tôi.
Đóng vai nhân vật - Lí Thông Bài văn mẫu số 1
Tôi là Lý Thông, một người chuyên bán rượu. Trong một lần đi bán rượu ở xã Cao
Bình, ngồi nghỉ chân tại một quán nước gần gốc đa, tôi thấy một người vác về một
đống củi to. Tôi nghĩ bụng đây chắc chắn là một người có sức khỏe phi thường,
liền lấn lá làm quen. Cậu ta tên là Thạch Sanh, từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, của cải
chẳng có gì ngoài chiếc búa cha để lại. Tôi biết tên này thật thà, dễ lợi dụng nên đã
quyết định kết nghĩa anh em với Thạch Sanh, rồi bảo cậu ta về ở cùng với mình và mẹ già.
Từ ngày có Thạch Sanh, mẹ con tôi đỡ vất vả đi nhiều. Bấy giờ, trong vùng có một
con chằn tinh rất hung ác, phép thuật vô song, thường xuyên bắt người ăn thịt. Để
yên ổn, dân làng tình nguyện nộp người cho nó để nó ăn thịt, không quấy phá dân
làng nữa. Lần đó, đến lượt tôi, tôi bèn nghĩ ra cách là nhờ Thạch Sanh đi thay mình.
Tối đó, tôi mời Thạch Sanh ăn uống no say, rồi cất lời nhờ cậy đi trông miếu thay.
Thạch Sanh không nghĩ ngợi nhiều liền nhận lời ngay. Tôi và mẹ vui mừng lắm.
Đêm hôm đó, tôi đang ngủ say thì bỗng có tiếng gọi của Thạch Sanh. Mẹ con tôi
nghĩ Thạch Sanh về đòi mạng, van xin khẩn thiết. Thạch Sanh mới kể lại chuyện
giết chằn tinh, bây giờ mẹ con tôi mới an tâm. Tôi còn nghĩ ra một kế lừa Thạch
Sanh rằng đó là con vật nhà vua nuôi, không giết được và bảo Thạch Sanh về lại
gốc đa cũ đi. Thạch Sạch tin lời ngay. Sau khi lừa được Thạch Sanh, tôi liền mang
đầu chằn tinh lên quan lĩnh thưởng. Tôi được vua khen ngợi và phong làm đô đốc.
Năm đó, nhà vua có một người con gái đến tuổi lấy chồng nhưng chưa chọn được
ai thích hợp. Vua cha bèn nghĩ ra cách ném cầu kén rể, ai bắt được cầu sẽ được làm
phò mã. Nhưng khi công chúa vừa lên lầu chuẩn bị ném cầu thì bị một con đại
bàng cắp đi mất. Tôi được vua cha giao cho nhiệm vụ đi tìm công chúa. Tình cờ,
tôi gặp được Thạch Sanh. Tôi kể cho cậu ta nghe về việc đang đi tìm công chúa.
Thạch Sanh nói rằng mình biết hang của đại bàng và đề nghị được đi cùng. Cậu ta
dẫn tôi cùng quân lính đến hang của đại bàng. Tôi buộc dây vào thắt lưng hắn, dặn
rằng khi vào cứu được công chúa thì hãy lấy dây để kéo công chua lên, sau đó sẽ
thả dây xuống để cứu em. Khi Thạch Sanh cứu được công chúa, tôi sai người lấp cửa hang lại.
Từ lúc công chúa về cung không nói không rằng, nhà vua rất lo lắng. Tôi đã mời
rất nhiều nhà sư, đạo gia về để lễ tế nhưng không có tác dụng. Một hôm, trong từ
trong tù phát ra một tiếng đàn của ai đó. Bỗng công chúa cất tiếng nói và muốn gặp
người đánh đàn. Vua liền truyền người đánh đàn vào cung. Thì ra lại chính là
Thạch Sanh. Cậu ta kể rõ sự tình cho nhà vua. Nghe xong, vua rất tức giận, sai
người trừng phạt tôi. Nhưng Thạch Sanh nể tình nghĩa năm xưa nên đã tha mạng cho tôi. Bài văn mẫu số 2
Tôi là Lí Thông, làm nghề bán rượu. Một lần nọ, trên đường đi bán rượu về thì tôi
thấy có một anh chàng trông rất cao to, khoẻ mạnh vô cùng. Tôi liền đến hỏi chuyện làm quen.
Tên của anh ta là Thạch Sanh. Tính tình hiền lành, thật thà. Tôi liền đề nghị được
kết nghĩa anh em. Thạch Sanh thì vốn thiếu thốn tình cảm từ nhỏ, nên nghe tôi mở
lời, cậu ta đồng ý ngày. Thạch Sanh bảo:
- Anh không chê em nghèo khó mà kết nghĩa anh em, em vui lắm, em hứa sẽ nghe
anh và giúp đỡ anh thật nhiều.
Nói rồi hai chúng tôi lên đường về nhà. Từ ngày có Thạch Sanh, tôi và mẹ đỡ vất
vả hẳn ra, những việc nặng nhọc. Mẹ con tôi vui mừng ra mặt. Lúc bấy giờ, trong
làng tôi có một con chằn tinh rất lớn. Mỗi năm dân làng phải nộp cho nó một mạng
người, nếu không nó sẽ quấy phá, không để làng yên ổn. Năm đó đến lượt nhà tôi,
không muốn giao mạng mình cho chằn tinh, tôi đành âm mưu nhờ Thạch Sanh đi
giúp. Tối hôm đó, sau khi cả nhà ăn uống no say, tôi liền bảo cậu ta:
- Tối này anh có mẻ rượu lớn, phải đem cất không thể ra trông miếu được, em bằng
lòng đi thay anh được không?
Nghe vậy, Thạch Sanh chẳng chút nghi ngờ gì mà vui vẻ nhận lời tôi. Tôi và mẹ
vui mừng, cuối cùng cũng thoát được nạn lớn này. Vậy mà đương lúc nửa đêm, khi
hai mẹ con đang ngủ thì tôi nghe tiếng Thạch Sanh gọi:
- Anh Thông ơi, em về rồi này, anh ra mở cửa cho em với.
Tôi tưởng là hồn Thạch Sanh về đòi báo thù mình nên sợ hãi vô cùng. Bèn ra bàn
thờ khóc lóc, van xin tổ tiên, rồi sau đó ra một cửa. Nhưng thật ngạc nhiên, tôi lại
nghe tiếc Thạch Sanh gọi. Tôi liền ra mở cửa thì thấy cậu ta đang cầm cái đầu to
tướng của chằn tinh. Nghe Thạch Sanh kể lại câu chuyện giết chằn tình tôi mới
hoàn hồn, vừa khâm phục nhưng cũng không muốn Thạch Sanh giành phần thưởng vua ban, bèn bảo:
- Đây là vật nuôi của vua, sao em lại giết nó. Bây giờ nếu vừa biết chắc chắn bị tội
tày đình rồi. Em phải nhanh chóng trốn đi, còn mọi việc ở đây hãy để anh xử lý.
Thạch Sanh nghe vậy, liền tin ngay, gói ghém quần áo rồi trở về gốc đa cũ. Còn tôi,
sáng hôm sau liền mang đầu chằn tinh lên triều đình nhận thưởng, nhà vua bày tỏ
sự hài lòng và khen ngợi rồi phong tôi làm Đô Đốc tại triều đình.
Nhà vua có một người con gái đã đến tuổi lấy chồng. Hoàng tử nhiều nước đến cầu
hôn nhưng nàng không ưng ý. Nhà vua mở hội ném cầu kén rể. Những năm thành
trong cả nước đến dự lễ, người nào bắt được cầu sẽ làm rể nhà vua. Nhưng trong
buổi lễ, khi công chúa chuẩn bị lên ném cầu thì bị một con đại bàng bay ngang qua,
sà xuống cắp đi mất. Nhà vua lo lắng, tức tốc sai tôi đi tìm công chúa, nếu tìm
được, hứa sẽ gả và truyền ngôi cho.
Tôi rối trí vô cùng, vì chẳng biết tìm công chúa ở đâu. Nghĩ đến năm xưa, lúc mình
đường cùng thì Thạch Sanh là người giúp mình lập công, tôi bèn tìm cách để gặp
lại anh ta. Tôi mở một hội lớn, Thách Sanh cũng tới hội để xem. Tôi kể câu chuyện
công chúa bị đại bàng bắt cho cậu ta nghe, cậu ấy bèn nói:
- Hôm qua, khi em đang ngồi chẻ củi dưới gốc đa, ngước mặt lên lầu mồ hôi thì
thấy con đại bàng cắp một cô gái. Em dùng tên bắn trúng, vết thương có lẽ không
quá sâu nên nó vẫn cố bay đi. Lần theo vết máu, em thấy được hang động của nó.
Tôi mừng rỡ, bèn đem theo quân bảo hắn dẫn đi. Tới hang, Thạch Sanh mang theo
cung tên, tình nguyện xuống hạng để cứu đại bàng. Tôi buộc dây vào lưng rồi
Thạch Sanh để cậu ta theo dây đi xuống. Khi công chúa được cứu lên, tôi đã cùng
công chúa trở về, để mặc Thạch Sanh dưới hang động.
Từ lúc công chúa về, người chẳng nói chẳng cười, ai làm gì cũng mặc. Cả nhà vua
và tôi đều tìm mọi cách, mời thầy ý giỏi nhất về để chữa trị những không khỏi.
Một hôm, trong ngục tù có tiếng đàn thánh thót vàng lên khiến cả hoàng cũng như
bừng tỉnh. Nàng công chúa nghe được tiếng đàn ấy thì vui cười trong hạnh phúc,
bảo vừa cha cho gọi người đánh đàn vào cùng. Điều bất ngờ là người đánh đàn ấy
chính là Thạch Sanh, trước mặt quần thần trong triều, tôi hổ thẹn vô cùng khi bị
Thạch Sanh vạch mặt, tố cáo những tội lỗi bấy lâu của tôi. Sau khi nghe mọi
chuyện, nhà vua đã gả con gái cho Thạch Sanh và để cậu ta quyết định hình phạt
cho hai mẹ con tôi. Thạch Sanh đã bao dung thứ tha cho gia đình tôi, nhưng trên
đường trở về, mẹ con tôi bị sét đánh, biến thành bọ hung.
Giờ đây, khi sống trong hình dạng của một con bọ hung, tôi mới đau khổ đến cùng
cực. Đó là cái giá mà tôi phải trả cho sự ác độc và tham lam của mình. Tôi chỉ
khuyên các bạn rằng, đừng sống như tôi, điều tốt đẹp nhất trên đời là hãy sống thật lương thiện. Bài văn mẫu số 3
Tôi tên là Lí Thông, vốn làm nghề bán rượu. Một lần nọ, tôi đi ngang qua gốc đa,
thì nhìn thấy một chàng trai đang gánh bó củi lớn về. Thấy anh ta có sức khỏe, tôi
mới lân la gợi chuyện, biết được anh chàng tên là Thạch Sanh, tứ cố vô thân. Tôi
liền đề nghị kết nghĩa anh em. Thạch Sanh liền đồng ý, rồi dọn về ở cùng mẹ con
tôi. Từ ngày có Thạch Sanh về sống cùng, giúp đỡ nhiều việc nặng nhọc, nên mẹ
con tôi sống sung sướng hơn.
Bấy giờ, trong vùng có một con chằn tinh hung dữ, nó bắt dân làng mỗi năm phải
nộp cho một mạng người. Năm ấy đến lượt nhà tôi phải nộp mạng. Tôi sợ lắm,
nghĩ cách để lừa Thạch Sanh đi thay. Đến khi Thạch Sanh về nhà, tôi bèn dọn một
mâm rượu thịt mời ăn, rồi bảo:
- Đêm nay đến lượt anh đi canh miếu thờ, ngặt nỗi anh còn mẻ rượu chưa cất xong,
vậy em chịu khó đi thay cho anh một đêm, đến sáng lại về.
Thạch Sanh chẳng có chút nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Còn tôi thì sung sướng vì
đã thoát được kiếp nạn. Nửa đêm hôm ấy, tôi đang nằm ngủ thì nghe có tiếng gõ
cửa. Nghĩ là oan hồn Thạch Sanh về đòi mạng, mẹ con tôi liền van xin khẩn thiết. Thạch Sanh liền nói:
- Anh Lí Thông ơi, em là Thạch Sanh đây!
Nghe vậy, tôi mới bĩnh tĩnh lại. Tôi liền ra mở cửa thì đúng là Thạch Sanh. Hắn kể
lại mọi chuyện cho tôi. Tôi liền bảo với Thạch Sanh:
- Đó là con vật nuôi của vua, giết nó là mang tội. Thôi bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi.
Thạch Sanh không mảy may nghi ngờ, liền trốn đi. Tôi nhân cơ hội đó đem đầu
con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn ban thưởng cho tôi, còn phong cho làm Quận công.
Lại nói khi đó, công chúa đã đến tuổi lấy chồng. Trong ngày kén rể, công chúa bị
một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Nhà vua lo lắng sai tôi đi tìm công chúa, hứa
sẽ gả công chúa cho. Nhiều ngày qua mà vẫn không có tin tức. Tôi liền truyền cho
dân mở hội hát xướng mười ngày để nghe ngóng tin tức. Trong lễ hội, tôi gặp lại
Thạch Sanh. Tôi kể cho hắn nghe về việc đang đi tìm công chúa.
Thạch Sanh kể cho tôi nghe về hang của đại bàng, rồi đề nghị được đi cùng. Tôi
đồng ý ngay. Đến hang Thạch Sanh xin xuống trước. Chàng đánh nhau với đại
bàng, thì cứu được công chúa. Nhưng tôi đã ra lệnh cho quân sĩ vần đá lớn lấp kín
cửa hang lại, rồi kéo nhau về.
Nhưng từ khi trở về, công chúa sau khi cứu thoát, trở về cũng thì bỗng không nói,
không cười. Ngự y trong triều đều phải bó tay. Nhà vua đành phải cho hoãn đám
cưới lại. Một hôm, tôi đang ngồi trong phủ thì được nhà vua gọi đến yết kiến. Đến
khi vào cung, tôi nhìn thấy Thạch Sanh. Hắn ta đang kể lại cho nhà vua nghe mọi
chuyện. Vua tức giận lắm, ra lệnh cho Thạch Sanh toàn quyền xử tội tôi. Nể tình
xưa, Thạch Sanh tha cho chúng tôi được trở về quê cũ.
Nhưng trên đường về quê, mẹ con tôi bị sét đánh trúng, hóa kiếp thành bọ hung.
Bởi vậy mà giờ đây, tôi cảm thấy vô cùng hối hận về lỗi lầm của mình.
Đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích Cây khế
Đóng vai nhân vật - Người em Bài văn mẫu số 1
Sau khi cha mẹ mất, tôi và anh trai sống cùng nhau. Chúng tôi chăm chỉ làm lụng
nên cũng đủ ăn. Từ ngày có vợ, anh của tôi đâm ra lười biếng. Vợ chồng tôi phải
làm lụng vất vả mới có của ăn của để.
Một hôm, anh trai gọi tôi đến bàn bạc chuyện chia gia tài. Vì là phận em, tôi xin
được nghe theo lời anh. Tôi nhận được một túp lều nhỏ, ở trước cửa có một cây
khế. Dù khó khăn, nhưng tôi và vợ vẫn sống hạnh phúc, êm đềm. Hằng ngày, tôi
và vợ vẫn thay nhau chăm sóc cây khế. Đến mùa, những chùm quả chín lúc lỉu trên
cây. Tôi và vợ bàn nhau hái khế ra chợ bán. Sáng hôm đó, tôi ra vườn cây để hái
khế thì nghe thấy trên ngọn cây có tiếng rung mạnh như có người. Tôi gọi vợ ra
xem, thì nhìn thấy một con chim lớn đang ăn khế chín. Tôi lấy làm lạ lắm, chưa
bao giờ thấy một con chim nào to như vậy. Tôi liền bảo vợ cứ đợi cho chim ăn
xong mới ra hái. Suốt một tháng trời, hằng ngày chim cứ đến ăn vào lúc sáng sớm.
Vợ tôi xót ruột. Một hôm thấy chim đang ăn khế, liền chạy ra nói:
- Ông chim ơi, ông ăn như thế thì nhà cháu còn khế đâu mà bán! Cả nhà cháu chỉ nhờ vào cây khế thôi! Chim nói:
- Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng!
Nghĩ đây chắc hẳn là chim thần, tôi bảo vợ làm theo lời chim nói. Sáng sớm hôm
sau, chim thần bay đến. Tôi xách túi ra, chim nằm rạp xuống đất cho tôi trèo lên.
Tôi ngồi trên lưng chim mà lòng có chút lo lắng. Chim bay qua bao nhiêu là miền,
hết đồng ruộng đến rừng xanh, hết rừng xanh đến biển cả. Ra tới giữa biển, chim rẽ
vào một cái đảo, rồi đáp xuống cửa một cái hang.
Chim ra hiệu cho tôi bước vào. Ngay từ cửa đã có rất nhiều thứ đá trong như thủy
tinh và hổ phách đủ thứ màu. Tôi thấy hang sâu và rộng nên không dám vào, chỉ
dám nhặt ít vàng, kim cương ở ngoài rồi ra ngoài. Tôi bảo chim thần bay về. Chim
lại cất cánh đưa tôi về nhà. Từ đó, cuộc sống của gia đình tôi trở nên khá giả hơn
trước. Chúng tôi còn giúp đỡ được rất nhiều người dân nghèo khổ.
Một hôm, anh trai của tôi đến chơi. Tôi đoán biết anh nghe được chuyện nên đến
hỏi thăm. Nghe anh hỏi chuyện, tôi liền kể cho anh nghe. Anh liền thương lượng
để đổi tài sản của mình lấy túp lều và cây khế. Thầy anh nài nỉ mãi, tôi cũng ưng thuận.
Kể từ đó, anh trai và chị dâu của tôi dọn đến ở trong túp lều. Tôi nghe người trong
làng kể lại. Hằng ngày, họ chỉ ngồi ăn rồi chờ chim đến. Một buổi sáng nọ, khi
thấy luồng gió mạnh nổi lên, và ngọn cây khế rung chuyển. Họ biết là chim thần đến liền nói:
- Chim thần ơi, cả nhà tôi trông vào cây khế, bây giờ chim ăn thì tôi lấy gì mà sống?
Chim thần cũng nói y như với tôi:
- Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng!
Anh trai và chị dâu của tôi cứ bàn qua tính lại. Rồi cuối cùng họ quyết định may
cái túi to gấp ba lần, như một cái tay nải lớn. Sáng hôm sau, chim thần đến đưa anh
tôi ra hòn đảo. Nhìn thấy vàng bạc, kim cương, anh trai tôi cố nhặt cho đầy túi.
Không chỉ vậy, anh ta còn cho cả vào túi quần, túi ào. Trên đường về, vì quá nặng
lại gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Anh trai tôi bị sóng cuốn trôi, bao nhiêu
của cải mất hết. Còn chim thần chỉ bị ướt lông, ướt cánh nên lại vùng lên trời bay
đi. May có người dân đánh cá ngang qua mới cứu được. Anh trai tôi trở về, kể rõ
sự tình cho tôi nghe và tỏ ra rất hối hận. Bài văn mẫu số 2
Gia đình tôi vốn làm nghề nông. Vì chăm chỉ làm lụng nên bố mẹ tôi cũng có chút
của ăn của để. Khi họ mất, tôi và anh trai cùng cũng chăm chỉ làm lụng. Đến khi
lấy vợ, anh trai tôi bỗng trở nên lười biếng. Một hôm, anh gọi tôi đến chia gia sản.
Tôi được một túp lều, trước cửa có một cây khế. Tôi chấp nhận mà không hề kêu ca, than phiền gì.
Quanh năm, vợ chồng tôi vẫn chăm chỉ làm ăn, chăm sóc cho cây khế. Đến mùa,
khế chín. Tôi bàn với vợ đem khế ra chợ bán. Sáng hôm sau, tôi ra vườn hái khế thì
nhìn thấy trên cây khế có một con chim to đang ăn khế. Lòng tôi đau như cắt. Tôi
chạy đến dưới gốc cây và nói:
- Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?
Chim bỗng ngừng ăn và cất tiếng trả lời:
- Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi và đựng.
Nói rồi chim bay đi. Hai vợ chồng tôi bàn nhau may một chiếc túi ba gang. Sáng
hôm sau, chim đến từ sớm và đưa tôi ra một hòn đảo nhỏ giữa biển, đáp xuống một
cửa hang. Có rất nhiều vàng bạc, châu báu. Tôi nhặt đầy túi rồi ra hiệu cho chim
qua về. Từ đó, gia đình tôi có cuộc sống sung túc hơn. Tôi và vợ còn giúp đỡ cả
những người dân nghèo khổ.
Tiếng lành đồn xa, câu chuyện lan đến tai người anh trai tôi. Một hôm, anh đến nhà
tôi rất sớm. Anh thương lượng với tôi muốn đổi toàn bộ gia sản với túp lều và cây
khế. Cả gia đình anh chuyển về túp lều cũ của tôi. Ngày nào anh cũng ra dưới gốc
khế chờ chim thần đến. Mùa khế chín, chim cũng trở về ăn khế. Vừa thấy chim,
anh tôi đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết và đòi chim phải trả vàng.
Chim cũng hứa sáng mai sẽ đưa anh tôi ra đảo vàng và dặn may túi ba gang. Sáng
hôm sau, chim thần cũng đưa anh tôi tới hòn đảo nọ. Anh tôi mang theo hẳn chiếc
túi mười gang, rồi cố gắng nhét đầy vàng bạc. Trên đường trở về nhà, chim gặp gió
lớn đâm bổ xuống biển. Anh trai tôi bị sóng đánh ra xa, trôi hết của cải. May có
người dân đi qua cứu được. Khi trở về, anh trai tôi rất ân hận, liền quyết tâm thay đổi. Bài văn mẫu số 3
Tôi là người em trong truyện cổ tích “Cây khế”. Sau đây, tôi sẽ kể lại câu chuyện
về cuộc đời của hai anh em tôi.
Cha mẹ mất sớm nên tôi và anh trai sống cùng nhau. Hai anh em làm lụng vất vả,
nên cũng đủ ăn. Từ khi lấy vợ, anh tôi trở nên lười biếng. Còn vợ chồng tôi vẫn
chăm chỉ làm ăn, tích góp. Một ngày nọ, anh tôi gọi tôi đến nhà để bàn chuyện chia
gia sản. Là phận em, tôi nghe theo mọi sự sắp xếp của anh. Tôi được chia cho một
căn nhà nhỏ, trước nhà có một cây khế.
Hằng ngày, vợ chồng tôi vẫn chăm bón cho cây khế. Đến mùa quả chín, tôi bảo vợ
sẽ hái khế đem đi bán. Sáng hôm đó, tôi ra vườn, toan trèo lên cây, thì nghe thấy
một tiếng rung lắc mạnh. Tôi liền vào nhà gọi vợ cùng ra xem. Thì ra có một con
chim lớn đang ăn khế. Hai vợ chồng đợi cho chim ăn xong mới ra hái. Suốt một
tháng trời, chim cứ đến ăn khế. Lo lắng bao công chăm sóc đổ bể, vợ tôi liền chạy ra bảo với chim:
- Thưa ngài chim thần, ngài ăn như thế thì nhà con còn khế đâu mà bán! Chim nói:
- Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng!
Tôi và vợ bàn nhau làm theo lời chim. Sáng sớm hôm sau, chim bay đến thật. Khi
tôi xách túi ra, chim còn nằm rạp xuống đất cho tôi trèo lên.
Chim bay qua bao nhiêu là miền, hết đồng ruộng đến rừng xanh, hết rừng xanh đến
biển cả. Ra tới giữa biển, chim rẽ vào một cái đảo toàn đá trắng, đá xanh, đá đỏ, đã
ngũ sắc. Chim bay vòng quanh đảo, rồi hạ xuống một cái hang. Chim ra hiệu cho
tôi vào hang. Tôi làm theo thì ngay từ cửa đã có rất nhiều thứ đá trong như thủy
tinh và hổ phách đủ thứ màu. Bên trong hang vừa sâu vừa tối, tôi chỉ dám nhặt ít
vàng, kim cương ở ngoài rồi ra ngoài. Tôi ra hiệu cho chim bay về. Từ đó, cuộc
sống của gia đình tôi khá giả hơn trước. Tôi và vợ còn giúp đỡ những người nghèo khó trong làng.
Tiếng lành đồn xa. Một hôm, anh tôi đến chơi. Tôi nghe anh hỏi chuyện, nên cũng
thật thà kể lại. Sau đó, anh tôi liền đề nghị đổi tài sản của mình lấy ngôi nhà và cây
khế. Nghĩ mình là phận em, nên tôi cũng bằng lòng.
Kể từ khi dọn đến sống, vợ chồng anh tôi chỉ ăn và ngồi chờ chim thần tới. Một
buổi sáng nọ, họ thấy luồng gió mạnh nổi lên, và ngọn cây khế rung chuyển. Họ liền nói:
- Cả nhà tôi trông vào cây khế, bây giờ chim ăn thì tôi lấy gì mà sống?
Chim thần cũng nói y như với vợ chồng tôi. Nhưng vợ chồng anh trai tôi đã may
hẳn chiếc túi mười gang. Sáng hôm sau, chim thần đến đưa anh tôi ra hòn đảo. Anh
tôi không chỉ lấy đầy tay nải, mà còn nhét cả vào túi quần túi áo. Trên đường về, vì
quá nặng lại gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Anh tôi bị sóng cuốn đi, của cải mất hết.
Đóng vai nhân vật - Người anh
Đoạn văn mẫu số 1
Cha mẹ mất sớm, tôi sống cùng với em trai. Hai anh em tôi chăm chỉ làm ăn. Rồi
tôi và em trai cũng đến tuổi lấy vợ. Từ đó, tình cảm giữa hai chúng tôi không còn mặn mà như xưa nữa.
Hai vợ chồng tôi tính đến chuyện ở riêng cho hai vợ chồng người em. Tôi bàn với
vợ, lấy tài sản và chia cho em trai căn nhà tranh lụp xụp trước nhà có một cây khế.
Tuy vậy, hai vợ chồng cậu em không phàn nàn một lời, vẫn chịu khó làm ăn. Cho
đến một hôm nghe người ta nói chuyện hiện nay vợ chồng người em đã rất giàu có
thì tôi lấy làm tò mò liền sang gặp gỡ hỏi thăm. Em trai tôi thật thà nên đã kể lại mọi chuyện cho tôi nghe.
Hằng ngày, vợ chồng nó vẫn chăm sóc cho cây khế. Đến mùa, cây khế ra hoa kết
trái và thu hoạch, em tôi mang ra chợ bán. Bỗng một hôm, có con chim lạ bay đến
ăn khế của em. Nó ăn rất nhiều khế trên cây, ăn những quả thơm ngon nhất, cứ như
thế suốt gần tháng trời.
Em tôi liền nói với chim, thì nó trả lời thế này:
- Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Vợ chồng nó làm theo lời chim. Sáng hôm sau, như đã hẹn chim bay đến đưa em
tôi đi lấy vàng. Đặt chân lên đảo, có biết bao thứ đá quý, bạc vàng. Nhưng đứa em
dại dột của tôi chỉ lấy một ít vàng và kim cương rồi ra về. Từ đấy, cuộc sống của nó trở nên khá giả.
Biết rõ câu chuyện, tôi bàn mưu cùng vợ, gạ đổi hết tài sản của mình để lấy túp lều
tranh và cây khế. Thế là từ đó, tôi chỉ có một việc là trông mong chim lạ bay đến
ăn khế. Lâu dần, con chim cũng xuất hiện. Không thể kiên nhẫn đợi lâu hơn nữa,
khi chim thần vừa ăn được vài quả tôi đã chạy ra hỏi như những gì em tôi đã nói.
Và tôi cũng được chim lạ trả lời y hệt. Chỉ chờ có thế, vợ chồng tôi hí hửng, vội
vàng may túi. Nhưng không phải túi ba gang như cậu em ngốc nghếch, tôi may hẳn một túi sáu gang.
Sáng hôm sau, chim thần cũng bay đến đưa tôi đến đảo vàng. Vừa đặt chân lên đảo
tôi đã hoa mắt trước bao nhiêu vàng và đá quý. Càng vào sâu bên trong, tôi càng
choáng ngợp. Quên hết mọi mệt nhọc, tôi ra sức nhét thật nhiều vàng vào cái túi
sáu gang đã chuẩn bị. Dường như thấy vẫn chưa đủ, tôi còn cố nhét thêm vào ông
tay áo và ống quần, rồi buộc chặt lại. Chim thần đợi tôi lâu quá nên thúc giục ra về.
Nằm trên lưng chim, tôi vui mừng, tưởng tượng về cuộc sống giàu sang sắp tới của
mình. Đang mơ màng sung sướng, bỗng một cơn gió thổi mạnh. Thì ra chim thần
đã bay tới biển. Rồi bỗng nhiên, chim thần đâm bổ xuống biển. Sóng cuốn hết tất
cả vàng bạc tôi vừa lấy được. Tôi kêu cứu, nhưng chim thần đã bay lên trời. Tôi
vùng vẫy giữa nước biển mênh mông, hối hận vì lòng tham của mình.
Đoạn văn mẫu số 2
Sau khi cha mẹ mất, tôi sống cùng em trai. Hai anh em tôi chăm chỉ làm ăn cũng
có của để. Đến khi trưởng thành, tôi và em trai cũng phải lấy vợ.
Một hôm, tôi và vợ bàn tính cho vợ chồng cậu em ra ở riêng. Sau đó, tôi gọi cậu
em đến, rồi nói sẽ chia cho cậu túp lều tranh mà cha đã để lại. Cậu em vui vẻ đồng ý.
Ít lâu sau, tôi nghe dân làng đồn rằng em trai của mình bỗng nhiên trở nên giàu có.
Tôi tò mò lắm, liền sang chơi để hỏi chuyện. Đến nơi, tôi choáng ngợp trước căn
nhà rộng lớn với hàng chục người ở. Tôi hỏi chuyện, thì nghe cậu em kể lại tất cả.
Hằng ngày, em tôi vẫn thường xuyên chăm bón cho cây khế. Đến mùa, cây khế ra
hoa kết trái và thu hoạch, em tôi mang ra chợ bán. Một sáng nọ, khi em tôi ra vườn
cây để hái khế thì nghe thấy trên ngọn cây có tiếng rung mạnh như có người. Thì ra,
một con chim lớn đang ăn khế. Suốt một tháng trời, chim cứ đến ăn vào lúc sáng
sớm. Em dâu tôi liền nói với chim:
- Ông chim ơi, ông ăn như thế thì nhà cháu còn khế đâu mà bán! Cả nhà cháu chỉ nhờ vào cây khế thôi! Chim nghe xong thì đáp:
- Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng.
Hai vợ chồng em tôi làm theo lời chim. Sáng sớm hôm sau, chim thần bay đến.
Chim bay qua bao nhiêu là miền, hết đồng ruộng đến rừng xanh, hết rừng xanh đến
biển cả. Ra tới giữa biển, chim rẽ vào một cái đảo, rồi đáp xuống cửa một cái hang
có nhiều vàng bạc, kim cương.
Nghe xong câu chuyện, tôi gạ em trai đổi hết tài sản của mình để lấy túp lều tranh
và cây khế. Kể từ đó, vợ chồng tôi dọn đến ở trong túp lều. Một buổi sáng nọ, khi
thấy luồng gió mạnh nổi lên, và ngọn cây khế rung chuyển. Tôi biết là chim thần
đến liền nói với chim:
- Chim thần ơi, cả nhà tôi trông vào cây khế, bây giờ chim ăn thì tôi lấy gì mà sống?
Chim thần cũng y những lời em trai tôi kể:
- Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng!
Tôi bảo vợ may cái túi to gấp ba lần. Sáng hôm sau, chim thần đến đưa tôi đến hòn
đảo, rồi đáp xuống cửa hang. Đúng như lời của em tôi, trong hang có biết bao
nhiêu là vàng bạc, kim cương. Tôi ra sức nhặt cho đầy túi. Trên đường về, chim
thần bay đến biển thì gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Tôi bị sóng cuốn trôi,
bao nhiêu của cải mất hết. Còn chim thần chỉ bị ướt lông, ướt cánh nên lại vùng lên
trời bay đi. Tôi gọi mãi không thấy chim thần quay lại. Một mình lênh đênh giữa
biển, tôi hối hận vô cùng vì lòng tham đã hại mình.
Đoạn văn mẫu số 3
Cha mẹ mất sớm, tôi và em trai nương tựa vào nhau mà sống. Chúng tôi làm lụng
chăm chỉ cũng đủ ăn. Đến tuổi, hai anh em cũng có gia đình riêng. Từ đó, tôi và
em trai không còn thân thiết như xưa.
Ít lâu sau, tôi bàn với vợ tính đến chuyện chia gia tài. Tôi chia cho em trai một căn
nhà tranh lụp xụp, trước nhà có một cây khế. Cậu em không một lời oán trách mà
vẫn chăm chỉ làm ăn. Một hôm, tôi nghe người ta nói chuyện vợ chồng người em
bỗng trở nên giàu có, cất được căn nhà lớn lại còn giúp đỡ người nghèo khó trong
làng. Tôi tò mò lắm, liền đến dò hỏi. Em trai tôi thật thà nên đã kể lại mọi chuyện cho tôi nghe.
Biết chuyện, tôi gạ đổi căn nhà tranh và cây khế. Thế là từ đó, vợ chồng tôi chỉ
nằm chờ chim lạ bay đến ăn khế. Một ngày nọ, con chim xuất hiện. Không thể kiên
nhẫn đợi lâu hơn nữa, khi chim thần vừa ăn được vài quả tôi đã chạy nói:
- Chim thần ơi, cả nhà tôi trông vào cây khế, bây giờ chim ăn thì tôi lấy gì mà sống? Chim liền đáp:
- Ăn một quả trả cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng.
Vợ chồng tôi nghe xong hí hửng lắm. Tôi bàn với vợ may hẳn một túi to gấp ba lần.
Sáng hôm sau, chim thần đến để đưa tôi ra đảo. Vừa đặt chân lên đảo, tôi vô cùng
sung sướng khi nhìn thấy vàng bạc châu báu. Tôi ra sức nhét thật nhiều vào túi.
Dường như thấy vẫn chưa đủ, tôi còn cố nhét thêm vào ông tay áo và ống quần, rồi buộc chặt lại.
Phải đến lúc chim thần thúc giục, tôi mới chịu ra về. Khi bay đến biển, gió lớn
khiến chim thần đâm bổ xuống biển. Bao nhiêu của cải trôi đi hết. Tôi kêu cứu
nhưng chim thần đã bay lên trời.
Đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích Sọ Dừa
Đóng vai nhân vật - Sọ Dừa Bài văn mẫu số 1
Tôi là Sọ Dừa. Khi mẹ sinh ra, tôi không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc
như quả dừa. Bà buồn quá, định vứt nó đi thì tôi đã nói với bà:
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.
Vì thương tôi nên mẹ đã để tôi lại nuôi, đặt cho cái tên là Sọ Dừa. Lớn lên, tôi vẫn
như lúc nhỏ, lăn lông lốc trong nhà. Mẹ liền nói với tôi:
- Con nhà người ta báy tám tuổi đã đi ở chăn bò, còn mày chẳng được tích sự gì. Tôi liền bảo với mẹ:
- Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe vậy, mẹ tôi liền đến hỏi phú ông. Từ đó tôi đến ở nhà phú ông. Ngày ngày,
tôi lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà, đàn bò béo tốt hẳn ra.
Tôi thấy phú ông mừng ra mặt
Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau
đem cơm cho tôi. Hai cô chị độc ác nên thường hắt hủi tôi. Chỉ có cô út hiền lành, đối xử với với tôi.
Một hôm, tôi biến thành người, ngồi thổi sáo trên lưng trâu thì tiếng động, biết có
người nên tôi liền hóa thành Sọ Dừa nằm đấy. Có thức ăn nào ngon đều giấu đem cho tôi.
Cuối mùa ở, tôi liền về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà lão sửng sốt
lắm, nhưng thấy tôi năn nỉ mãi nên cũng sang hỏi phú ông.
Mẹ tôi về nói rằng phú ông yêu cầu phải sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm
lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mới đồng ý gả con gái. Tôi nói với
mẹ rằng mình sẽ sắm đủ lễ vậy. Đến ngày hẹn, mẹ tôi vô cùng ngạc nhiên khi
trong nhà bỗng có đủ những lễ vật mà phú ông yêu cầu. Không chỉ vậy, còn có
chục giai nhân khiêng sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông liền hỏi ba cô con gái
xem có ai đồng ý, thì chỉ có cô út.
Trong ngày cưới, tôi cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập.
Lúc rước dâu, tôi biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú sang đón cô út về làm
vợ. Hai vợ chồng tôi sống hạnh phúc. Tôi ngày đêm miệt mài đèn sách và thi đỗ
trạng nguyên. Chẳng bao lâu, nhà vua truyền chiếu sai tôi đi sứ. Trước khi đi, tôi
đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn các
thứ ấy bên mình để có lúc cần dùng đến.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, tôi nghe thấy tiếng con gà trống gáy vang ba lần:
- Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Tôi hạ lệnh cho thuyền vào xem, thì gặp lại vợ mình. Vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc.
Tôi đưa vợ về nhà, mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong
nhà không cho ai biết. Hai người chị của vợ tôi tranh nhau kể chuyện nàng gặp
phải rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc lắm. Tôi không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra.
Nhìn thấy em mình đã trở về bình an, họ xấu hổ bỏ về. Bài văn mẫu số 2
Tôi là Sọ Dừa. Mẹ thấy tôi không chân, tròn như một quả dừa. Bà buồn bã, toan
vứt đi thì tôi bảo với mẹ:
- Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!
Thương tôi, bà giữ lại nuôi. Đến khi lớn, tôi xin mẹ cho đi chăn bò ở nhà phú ông.
Tôi chăm bò rất giỏi, con nào con nấy đều no căng bụng. Phú ông lấy làm hài lòng lắm.
Đến vụ mùa, tôi tớ ra đồng làm việc cả. Phú ông sai ba cô con gái đem cơm ra
đồng cho tôi. Hai cô chị kiêu căng, thường tỏ ra khinh thường tôi. Chỉ có mình cô
Út là đối đãi với tôi tử tế.
Cuối mùa ở, tôi xin mẹ đến nhà phú ông hỏi cưới vợ cho mình. Mẹ tôi liền mang
buồng cau đến nói chuyện với phú ông.
Đến khi về nhà, mẹ nói với tôi về lễ vật mà phú ông yêu cầu: một chĩnh vàng cốm,
mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm. Tôi nghe xong, liền động
viên mẹ hãy cứ yên tâm.
Đúng ngày hẹn, khi thấy trong nhà có đầy đủ lễ, mẹ tôi vô cùng ngạc nhiên. Vào
ngày rước dâu, tôi được trở làm lại người. Thật ra, tôi vốn là tiên ở trên trời. Do tôi
vi phạm thiên quy nên Ngọc Hoàng phạt đầu thai xuống hạ giới, biến thành hình
dáng xấu xí. Nay nhận được tình yêu thương của cô út nên được hóa giải. Khi tôi
bước ra, mọi người trong nhà vô cùng ngạc nhiên. Mẹ tôi thì vui mừng vì con mình có được hạnh phúc.
Tôi và vợ sống với nhau rất hạnh phúc. Nhờ có sự động viên của vợ, tôi học hành
chăm chỉ. Tôi đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trước khi chia tay, tôi đưa
cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải luôn mang trong
người phòng khi cần dùng đến.
Sau nhiều ngày đi sứ, tôi trở về quê hương. Trên đường đi, thuyền của tôi có ngang
qua một hòn đảo thì nghe thấy tiếng kêu:
- Ò ó o… Phải thuyền quan trạng, rước cô tôi về.
Tôi cho thuyền vào xem. Hai vợ chồng tôi gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Tôi nghe
vợ kể lại chuyện bị hai cô chị hại. Tôi liền đưa vợ về nhà nhưng không cho ai biết,
rồi mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh
nhau kể chuyện vợ tôi gặp rủi ro ra vẻ thương tiếc lắm. Đến khi hết tiệc, tôi mới
đưa vợ ra. Hai cô chị vô cùng xấu hổ, bỏ đi biệt xứ. Bài văn mẫu số 3
Tên của tôi là Sọ Dừa. Khi mới sinh ra đã có ngoại hình khác thường: không chân,
không tay, tròn như một quả dừa. Mẹ thấy vậy, toan vứt tôi đi.
Tôi thấy buồn bã, nhưng vẫn nói với mẹ:
- Mẹ ơi, con là người đây. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!
Nghe vậy, bà thấy thương nên giữ tôi lại nuôi. Đến khi lớn, tôi nghe mẹ than phiền
rằng mình chẳng giúp được việc. Thế là tôi bảo mẹ đến xin phú ông cho tôi chăn
bò thuê. Tôi chăm bò rất giỏi, con nào con nấy đều no căng bụng. Phú ông lấy làm hài lòng lắm.
Mùa vụ đến, tôi tớ ra đồng làm việc cả. Phú ông liền sai ba cô con gái đem cơm ra
đồng cho tôi. Hai cô chị kiêu căng, thường tỏ vẻ khinh thường. Chỉ có mình cô Út
là tốt bụng, đối đãi với tôi rất lịch sự và tử tế.
Đến cuối mùa ở, tôi xin mẹ đến nhà phú ông hỏi vợ. Mẹ tôi ngạc nhiên lắm, nhưng
cũng chiều ý tôi, sắm buồng cau với ít lễ vật đến nói chuyện với phú ông.
Khi về nhà, mẹ nói với tôi rằng phú ông yêu cầu phải chuẩn bị lễ vật mới đồng ý
gả vợ cho. Lễ vật gồm có một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn
béo, mười vò rượu tăm. Tôi nghe xong, liền động viên mẹ hãy cứ yên tâm.
Đến ngày hẹn, mẹ tôi ngạc nhiên vì trong nhà có bao nhiêu là sính lễ. Lại có cả
chục giai nhân khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Thế rồi, phú ông gọi ba cô con gái
ra hỏi chuyện, chỉ có cô út là bằng lòng.
Tôi vốn là tiên ở trên trời. Do tôi vi phạm thiên quy nên Ngọc Hoàng phạt đầu thai
xuống hạ giới, biến thành hình dáng xấu xí. Nay nhận được tình yêu thương của cô
út nên được hóa giải. Đến ngày cưới, tôi được trở lại làm người. Khi tôi bước ra,
mọi người trong nhà vô cùng ngạc nhiên. Còn mẹ tôi thì vui mừng vì con có được hạnh phúc.
Vợ chồng tôi sống với nhau rất hạnh phúc. Được vợ động viên, tôi đem ngày đèn
sách. Khoa thi năm đó, tôi đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trước khi chia
tay, tôi đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải luôn
mang trong người phòng khi cần dùng đến.
Sau nhiều ngày, tôi trở về quê hương. Trên đường đi, thuyền của tôi có ngang qua
một hòn đảo. Tôi nghe thấy tiếng gà trống gáy:
- Ò ó o… Phải thuyền quan trạng, rước cô tôi về.
Tôi thấy lạ lắm, liền cho thuyền vào xem. Hai vợ chồng gặp nhau, vui mừng khôn
xiết. Vợ tôi kể lại rõ mọi sự tình. Tôi bí mật đưa vợ về nhà. Sau đó, tôi rồi cho mở
tiệc mừng. Hai cô chị cũng đến dự. Họ tranh nhau kể chuyện vợ tôi gặp rủi ro ra vẻ
thương tiếc lắm. Đến khi hết tiệc, tôi mới đưa vợ ra. Hai cô chị vô cùng xấu hổ, bỏ
đi biệt xứ lúc này mới xấu hổ, trốn đi.
Đóng vai nhân vật - Người mẹ Bài văn mẫu số 1
Một hôm, trời nắng to. Tôi đi vào rừng hái củi cho chủ, nhưng khát nước quá mà
không tìm thấy suối. Thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, tôi bưng lên uống.
Không ngờ, về nhà thì mang thai. Tôi sinh ra một đứa trẻ không chân, không tay,
tròn như một quả dừa. Tôi buồn lắm, toan vứt đi đứa con bảo:
- Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Nghĩ lại, thấy thương con, tôi đành để con lại nuôi và đặt tên cho nó là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn không khác lúc nhỏ, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm
được tích sự gì. Tôi cứ than phiền:
- Con nhà người ta bảy, tám tuổi đã đi chăn bò, chăn trâu. Họ giúp bố mẹ được
nhiều việc. Còn mày thì chẳng làm được việc gì cả.
Nghe lời tôi nói như vậy, Sọ Dừa nói:
- Gì chứ chăn bò thì con chăn cũng được. Mẹ cứ nói với phú ông cho con ở chăn bò.
Nghe con nói như vậy, tôi liền đến hỏi phú ông. Phú ông đồng ý. Sọ Dừa chăn bò
rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Phú ông mừng lắm. Đến mùa, tôi tớ trong
nhà ra đồng hết nên ba cô con gái phải thay phiên nhau đi đưa cơm cho Sọ Dừa.
Nghe Sọ Dừa kể lại thì hai cô chị rất ác nghiệt, kiêu căng luôn hắt hủi nó. Còn cô
út rất hiền lành, tính hay thương người nên đối đãi với nó rất tử tế. Có của ngon vật
lạ cô út thường giấu đem cho Sọ Dừa.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi cuối năm ấy, Sọ Dừa giục tôi đến hỏi con gái nhà phú
ông làm vợ. Tôi nghĩ một người ở như Sọ Dừa làm sao sánh được với con gái nhà
phú ông nhưng vì thương con nên cũng nghe theo. Tôi sắm một buồng cau rồi đến
nhà phú ông thưa chuyện. Thấy tôi đặt vấn đề hỏi con gái phú ông cho Sọ Dừa.
Ông ta cười mỉa và nói vẻ thách thức:
- Ừ, được! Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa
đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Nghe ông ta nói vậy tôi bàng hoàng và nghĩ rằng chẳng bao giờ có đủ các thứ đó.
Về nhà tôi nói với Sọ Dừa và khuyên nó đừng bao giờ nghĩ đến việc lấy vợ nữa.
Không ngờ Sọ Dừa nói với tôi một cách quả quyết:
- Mẹ đừng lo con sẽ lo đủ các thứ đó.
Đúng hẹn, tự nhiên tôi thấy trong nhà có bao nhiêu đồ sính lễ, lại có cả chục gia
nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Lúc đó tôi nghĩ rằng Sọ
Dừa không phải là người trần. Phú ông nhìn thấy lễ vật, hoa cả mắt, lúng túng nói với tôi:
- Để ta hỏi con gái ta xem, có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa.
Lão gọi ba đứa con gái ra rồi lần lượt hỏi. Hai cô chị bĩu môi chê bai. Còn cô út cúi
mặt xuống, tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành phải nhận lễ và gả cô con gái cho Sọ Dừa.
Lúc gần rước dâu, tôi chẳng thấy Sọ Dừa đâu mà chỉ thấy một chàng trai khôi ngô
tuấn tú cùng cô út của phú ông từ phòng cô dâu đi ra. Mọi người đều sửng sốt,
mừng rỡ. Hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Thấy cô út là đứa con
dâu hiền lại hiếu thảo nên tôi cũng mừng thầm.
Ngày ngày Sọ Dừa thì mải mê đèn sách chờ khoa thi, còn cô út thì se tơ dệt vải.
Ngày thi đã đến Sọ Dừa đã đỗ Trạng nguyên không bao lâu nhà vua ban chiếu
quan trạng đi sứ. Hai vợ chồng Sọ Dừa chia tay nhau nhưng vô cùng quyến luyến,
khiến tôi không khỏi động lòng. Trước khi lên đường Sọ Dừa còn gọi vợ vào nhà và dặn dò kĩ lắm.
Một hôm hai cô chị đến xin phép tôi cho cô út đi chơi. Nghĩ bụng con dâu phải xa
chồng nên buồn bực, tôi liền đồng ý cho cô út đi chơi cùng cho khuây khoả. Thế
rồi từ hôm đó, chẳng thấy cô út về, tôi lo lắng chạy sang nhà hỏi phú ông thì hai cô
chị kể rằng: Khi chèo thuyền ra biển cô út đã sảy chân ngã xuống biển chết. Nghe
tin đó tôi vô cùng đau lòng, thương xót cho cô con dâu hiền lành xấu số. Hết hạn đi
sứ Sọ Dừa đã trở về, tôi không ngờ nó lại cùng đi với vợ nữa. Nghe con kể lại, tôi mới biết rõ sự tình. Bài văn mẫu số 2
Một hôm, tôi vào rừng hái củi cho nhà chủ. Khi trở về thì thấy khát nước nhưng
mà tìm thấy suối. Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy
nước mưa, tôi bưng lên uống.
Về nhà, tôi cảm thấy trong người khác lạ. Tìm thầy lang đến mới biết mình mang
thai. Ít lâu sau, Tôi sinh ra một đứa trẻ không chân, không tay, tròn như một quả
dừa. Tôi buồn lắm, toan vứt đi thì đứa con bảo:
- Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Thương con, tôi đành để con lại nuôi và đặt tên cho nó là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa
vẫn không khác lúc nhỏ, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được tích sự gì. Tôi
buồn phiền, rồi than thở:
- Con nhà người ta bảy, tám tuổi đã đi chăn bò, chăn trâu. Họ giúp bố mẹ được
nhiều việc. Còn mày thì chẳng làm được việc gì cả.
Sọ Dừa nghe vậy liền nói với tôi:
- Gì chứ chăn bò thì con chăn cũng được. Mẹ cứ nói với phú ông cho con ở chăn bò.
Tôi nghe con nói vậy thì đến nhà hỏi phú ông. Mấy hôm sau, Sọ Dừa đến chăn bò
cho phú ông. Thằng bé chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Phú ông
mừng lắm. Đến mùa, tôi tớ trong nhà ra đồng hết nên ba cô con gái phải thay phiên
nhau đi đưa cơm cho Sọ Dừa. Nghe Sọ Dừa kể lại thì hai cô chị rất ác nghiệt, kiêu
căng luôn hắt hủi nó. Còn cô út rất hiền lành, tính hay thương người nên đối đãi với nó rất tử tế.
Cuối mùa, Sọ Dừa giục tôi đến hỏi con gái nhà phú ông làm vợ. Tôi thương con
nên cũng sắm một buồng cau rồi đến nhà phú ông thưa chuyện. Thấy tôi đặt vấn đề
hỏi con gái phú ông cho Sọ Dừa. Ông ta cười mỉa và nói vẻ thách thức:
- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào,
mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Tôi nghe vậy thì lo lắng trở về nói với Sọ Dừa. Tưởng thằng bé sẽ bỏ ý định, ngờ
đâu Sọ Dừa nói với tôi một cách quả quyết:
- Mẹ đừng lo con sẽ lo đủ các thứ đó.
Đến ngày hẹn, tôi ngạc nhiên lắm vì trong nhà có bao nhiêu đồ sính lễ, lại có cả
chục gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Lúc đó tôi nghĩ
rằng Sọ Dừa không phải là người trần. Phú ông nhìn thấy lễ vật, hoa cả mắt, lúng túng nói với tôi:
- Để ta hỏi con gái ta xem, có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa.
Ông ta gọi ba cô con gái ra hỏi chuyện. Hai cô chị bĩu môi chê bai. Còn cô út cúi
mặt xuống, tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành phải nhận lễ và gả cô con gái cho Sọ Dừa.
Đến ngày rước dâu, tôi chẳng thấy Sọ Dừa đâu mà chỉ thấy một chàng trai khôi
ngô tuấn tú cùng cô út của phú ông từ phòng cô dâu đi ra. Mọi người đều sửng sốt,
mừng rỡ. Hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Tôi thấy vậy cũng mừng cho con.
Sọ Dừa chăm chỉ đèn sách rồi thi đỗ. Ít lâu sau, nhà vua cử thằng bé đi sứ. Một
hôm hai cô chị đến xin phép tôi cho cô út đi chơi. Tôi thấy con dâu ở nhà buồn bực,
cùng đồng ý. Thế rồi từ hôm đó, chẳng thấy cô út về, tôi lo lắng chạy sang nhà hỏi
phú ông thì hai cô chị kể rằng: Khi chèo thuyền ra biển cô út đã sảy chân ngã
xuống biển chết. Nghe tin đó tôi vô cùng đau lòng, thương xót cho cô con dâu hiền
lành xấu số. Đến ngày Sọ Dừa đã trở về, tôi không ngờ nó lại cùng đi với vợ nữa.
Tôi như không còn tin vào mắt mình nữa. Và Sọ Dừa là người đã cứu con dâu thoát nạn. Bài văn mẫu số 3
Vợ chồng tôi đã có tuổi nhưng vẫn chưa có con. Một hôm, trời nắng to, tôi đi vào
rừng hái củi cho chủ, khát nước quá mà không tìm thấy suối. Thấy cái sọ dừa bên
gốc cây to đựng đầy nước mưa, tôi bưng lên uống. Không ngờ tôi đã có mang.
Chẳng bao lâu, chồng tôi mất. Tôi sinh ra một đứa trẻ không chân, không tay, tròn
như một quả dừa. Tôi buồn lắm, toan vứt đi thì đứa con bảo:
- Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Nghĩ lại, thấy thương con, tôi đành để con lại nuôi và đặt tên cho nó là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn không khác lúc nhỏ, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm
được tích sự gì. Tôi cứ than phiền:
- Con nhà người ta bảy, tám tuổi đã đi chăn bò, chăn trâu, phụ giúp bố mẹ được
nhiều việc. Còn mày thì chẳng làm được việc gì cả.
Nghe lời tôi nói như vậy, Sọ Dừa cũng nói luôn:
- Gì chứ chăn bò thì con chăn cũng được. Mẹ cứ nói với phú ông cho con ở chăn bò.
Nghe con nói như vậy, tôi liền đến hỏi phú ông. Phú ông có vẻ không đồng ý, ông
ta nghĩ: Cả đàn bò giao cho thằng bé không ra người không ra ngợm ấy, chăn dắt
làm sao? Nhưng hắn lại nghĩ: Nuôi nó thì được cái ít tốn cơm, công xá chẳng được
là bao, hơn nuôi đứa khác nhiều. Thôi cứ thử xem!
Thế là Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Nó chăn bò rất giỏi. Hằng ngày, Sọ Dừa lăn
theo đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn theo đàn bò vào chuồng. Ngày nắng cũng như
ngày mưa, đàn bò con nào con nấy bụng no căng. Phú ông mừng lắm. Tôi cũng
mừng thầm trong bụng và nghĩ rằng có lẽ con tôi có phép thần kỳ nào đó.
Ngày mùa năm ấy, nhà Phú ông bận rộn lắm, tôi tớ ra đồng hết nên ba cô con gái
phải thay phiên nhau đi đưa cơm cho Sọ Dừa. Nghe Sọ Dừa kể lại thì hai cô chị rất
ác nghiệt, kiêu căng luôn hắt hủi nó. Còn cô út rất hiền lành, tính hay thương người
nên đối đãi với nó rất tử tế. Có của ngon vật lạ cô út thường giấu đem cho Sọ Dừa.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi cuối năm ấy, Sọ Dừa giục tôi, đến hỏi con gái nhà phú
ông làm vợ. Tôi nghĩ một người ở như Sọ Dừa làm sao sánh được với con gái nhà
Phú Ông nhưng không dám nói với con. Tôi chỉ khuyên nó nhà mình nghèo nên
chưa có tiền để lấy vợ con cứ chăm chỉ làm ăn rồi tính sau. Sọ Dừa không nghe cứ
khăng khăng năn nỉ bằng được nên tôi đành kiếm buồng cau đến nhà phú ông.
Thấy tôi đặt vấn đề hỏi con gái phú ông cho Sọ Dừa. Ông ta cười mỉa và nói vẻ thách thức:
- Ừ, được! Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa
đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Nghe ông ta nói vậy tôi bàng hoàng và nghĩ rằng chẳng bao giờ có đủ các thứ đó.
Về nhà tôi nói với Sọ Dừa và khuyên nó đừng bao giờ nghĩ đến việc lấy vợ nữa.
Không ngờ Sọ Dừa nói với tôi một cách quả quyết: “Mẹ đừng lo con sẽ lo đủ các
thứ đó”. Đúng hẹn, tự nhiên tôi thấy trong nhà có bao nhiêu đồ sính lễ, lại có cả
chục gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Lúc đó tôi nghĩ
rằng Sọ Dừa không phải là người trần. Phú ông nhìn thấy lễ vật, hoa cả mắt, lúng túng nói với tôi:
- Để ta hỏi con gái ta xem, có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa không.
Lão gọi ba đứa con gái ra rồi lần lượt hỏi. Hai cô chị bĩu môi chê bai. Còn cô út cúi
mặt xuống, tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành phải nhận lễ và gả cô con gái cho Sọ Dừa.
Ngày cưới đã định nhưng tôi chưa chuẩn bị được gì cho con trai. Thấy tôi lo lắng Sọ Dừa bảo tôi:
- Mẹ đừng lo việc cưới xin con sẽ lo tươm tất.
Ngày cưới đã đến, tôi vô cùng ngạc nhiên thấy trong nhà được trang hoàng lộng
lẫy, cỗ bàn linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc gần rước dâu, tôi
chẳng thấy Sọ Dừa đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng cô út của phú
ông từ phòng cô dâu đi ra. Mọi người đều sửng sốt, mừng rỡ. Hai vợ chồng Sọ
Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Thấy cô út là đứa con dâu hiền lại hiếu thảo nên tôi cũng mừng thầm.
Cuộc sống hàng ngày của gia đình tôi thật êm đềm trôi đi. Ngày ngày Sọ Dừa thì
mải mê đèn sách chờ khoa thi, còn cô út thì se tơ dệt vải. Ngày thi đã đến Sọ Dừa
đã đỗ Trạng nguyên. Chẳng bao lâu nhà vua ban chiếu quan trọng đi xứ. Hai vợ
chồng Sọ Dừa chia tay nhau nhưng vô cùng quyến luyến, khiến tôi không khỏi
động lòng. Trước khi lên đường Sọ Dừa còn gọi vợ vào nhà và dặn dò kĩ lắm.
Một hôm hai cô chị đến xin phép tôi cho cô út đi chơi, thấy con dâu mới xa chồng
buồn, nên tôi liền đồng ý cho cô út đi chơi cùng cho khuây khoả. Thế rồi từ hôm
đó, chẳng thấy cô út về, tôi lo lắng chạy sang nhà hỏi Phú Ông thì hai cô chị kể
rằng: Khi chèo thuyền ra biển cô út đã sảy chân ngã xuống biển chết. Nghe tin đó
tôi vô cùng đau lòng, thương xót cho cô con dâu hiền lành xấu số. Hết hạn đi sứ Sọ
Dừa đã trở về, tôi không ngờ nó lại cùng đi với vợ nữa. Tôi như không còn tin vào
mắt mình nữa. Và Sọ Dừa là người đã cứu con dâu thoát nạn. Thế rồi cô út đã kể
lại chuyện bị hai cô chị hại. Tôi vô cùng sung sướng khi cả gia đình sum họp. Sọ
Dừa là đứa con ngoan lại hiếu thảo nên mỗi khi đi xa về nó mua đủ các thứ quà.
Lần này xa nhà lâu ngày lại lập được chiến công trong việc đi sứ. Sọ Dừa bảo tôi là
mở tiệc ăn mừng, để mời bà con làng xóm. Thế rồi nó giấu vợ ở trong buồng
không cho ra mắt. Cỗ tiệc vui vẻ tưng bừng, làng xóm đến ăn mừng hết lòng khen
ngợi con trai tôi đã thành đạt. Hai cô chị của nhà Phú Ông cũng đến dự tiệc. Khi
gặp Sọ Dừa, tôi thấy hai cô thi nhau kể chuyện cô em rủi ro rồi khóc nức nở ra
chiều thương tiếc. Nghe thế Sọ Dừa không nói gì. Tiệc xong Sọ Dừa cho gọi vợ ra.
Tôi thấy hai cô chị xấu hổ đã lẻn ra về và từ đó bỏ đi biệt xứ.
Đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích Vua chích chòe
Đóng vai nhân vật - Công chúa Bài văn mẫu số 1
Tôi vốn là công chúa độc nhất của vua cha. Vốn xinh đẹp, lại được nuông chiều từ
nhỏ nên tôi khá kiêu. Khi đến tuổi gả chồng, rất nhiều người đến cầu hôn nhưng
đều bị tôi từ chối. Thậm chí tôi còn chế giễu, nhạo báng họ. Một lần nọ, vua cha
cho mời các chàng trai ở khắp các nước xa gần tới mở tiệc linh đình để chọn phò
mã. Rất nhiều người đến, họ đứng theo ngôi thứ, đứng trên cùng là vua các nước
rồi các công tước, các ông hoàng, các bá tước, các nam tước, cuối cùng là những
người dòng dõi quý tộc.
Tôi được vua cha dẫn đi xem mắt từng người. Nhưng chẳng có ai là tôi cảm thấy
vừa ý: người thì quá mập; người quá mảnh khảnh; người thì lại lùn; người thì mặt
mày xanh xao… Cuối cùng, tôi nhìn thấy một người có cằm hơi cong như mỏ chim
chích chòe, tôi nói anh ta chẳng khác gì chim chích choè có mỏ. Từ đó, tôi nghe
đồn anh ta được mọi người gọi là Vua chích chòe.
Thấy tôi chê bai và giễu cợt tất cả mọi người xung quanh, vua cha nổi cơn thịnh nộ
và ban truyền, nếu có người ăn mày nào đi qua cung vua, vua sẽ gả tôi cho người ấy.
Mấy hôm sau có một người hát rong đi qua, đứng ngây dưới cửa sổ cất tiếng hát,
mong sẽ được ban thưởng cho vài xu. Nghe thấy vậy nhà vua ban truyền:
- Hãy cho tên hát rong vào đây!
Người hát rong đi vào cung vua, hát cho vua và tôi nghe, rồi đưa tay xin tiền thưởng. Nhà vua bảo:
- Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.
Tôi sợ hãi, van xin nhưng vua cha vẫn kiên quyết:
- Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.
Lời van xin chẳng làm lay chuyển vua cha. Linh mục được mời ngay tới để làm
hôn lễ của tôi lấy người hát rong. Hôn lễ cử hành xong, vua cha nói với tôi:
- Theo tục lệ, vợ một người hát rong không được ở lâu lại trong cung vua, giờ thì
con phải theo chồng ra khỏi cung.
Tôi buồn bã đi theo người chồng của mình. Tới một khu rừng lớn, tôi hỏi:
- Rừng đẹp này của ai? Anh ta nói:
- Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng.
Tôi tiếc nuối thốt lên:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Một lúc sau tới một thảo nguyên, tôi lại hỏi:
- Thảo nguyên xanh đẹp của ai?
- Thảo nguyên của Vua chích choè.
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Rồi chúng tôi tới một thành phố lớn, tôi lại hỏi:
- Thành phố mỹ lệ này của ai?
- Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.
- Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe. Chồng tôi liền nói:
- Tôi không hài lòng một chút nào, tại sao nàng lại cứ luôn luôn mong có người
chồng khác, thế tôi không xứng đáng hay sao?
Tôi không nói được gì nữa, mà chỉ lặng lẽ đi theo sau. Tới một túp lều, tôi lại hỏi:
- Trời ơi, nhà ai mà nhỏ, thảm thương thế này? Chồng tôi đáp: - Nhà của chúng ta đó!
Tôi cúi người bước vào trong, rồi hỏi:
- Người hầu của anh đâu? Anh ta trả lời:
- Người hầu nào? Muốn làm gì thì tự mình làm lấy. Giờ em hãy nhóm bếp nấu ăn đi, anh mệt lắm rồi.
Nhưng tôi nào có biết nhóm bếp và nấu ăn, chồng tôi đành phải nhúng tay vào làm
công việc mới xong. Sau bữa ăn, tôi mệt mỏi ngủ thiếp đi. Ngày hôm sau, tôi bị
chồng đánh thức dậy để làm việc nhà. Cứ như vậy mấy ngày thì lương ăn dự trữ
hết. Người hát rong bảo tôi:
- Mình ạ, chỉ ngồi ăn không kiếm được thêm gì cả cứ như thế này mãi chắc không
được lâu, hay là em đan sọt bán.
Anh ta vào rừng lấy tre nứa về, tôi phải chẻ lạt đan sọt. Nhưng bàn tay của tôi bị
cạnh sắc của tre nứa cửa rỉ máu. Chồng nói với tôi:
- Thế thì không được, có lẽ dệt vải hợp với em hơn.
Tôi ngồi tập quay sợi, nhưng rồi những ngón tay lại bị sợi cứa chảy máu. Chồng tôi nói:
- Em chẳng thể làm được việc gì, sống với em thật khổ. Giờ thì chắc ta phải xoay
ra đi buôn nồi và bát đĩa. Em ngồi ở chợ và bán hàng.
Tôi nghe vậy, thì nghĩ bụng:
- Nếu như dân nước mình họ tới đây mua bán, nhìn thấy mình họ sẽ cười nhạo mình mất.
Nhưng tôi vẫn phải làm theo lời chồng mình. Lúc đầu, khách đến mua khá đông,
họ trả tiền hàng mà không hề mặc cả, thậm chí có người trả tiền nhưng không lấy
hàng. Cuộc sống của vợ chồng tôi khá sung túc. Một lần nọ, tôi đang ngồi coi hàng
thì có một anh chàng hiệp sĩ từ xa phi ngựa lao thẳng vào chợ làm cho đống hàng
sành sứ của tôi đổ vỡ hết cả ra thành hàng nghìn mảnh lớn nhỏ ngổn ngang ở chợ.
Tôi sợ hãi, ngồi ôm mặt khóc:
- Trời, khổ thân tôi thế này, còn mặt mũi nào mà nhìn chồng nữa?
Về nhà, tôi kể cho chồng nghe chuyện chẳng may ấy. Nghe xong chuyện, chồng
tôi trách móc, rồi nói rằng đã hỏi được công việc phụ bếp trong cung cho tôi. Một
hôm, trong cung vua tổ chức hôn lễ cho hoàng tử con đầu lòng của nhà vua, tò mò
tôi cũng len vào đứng trước cửa ngõ vào. Khi đèn lần lượt được thắp sáng, cảnh
đẹp lộng lẫy trong cung vua mới hiện lên hết. Tôi thấy vậy mà buồn tủi thay cho số
phận của mình, tôi hối hận chỉ vì tính kiêu căng, ngông cuồng đã khiến mình trở
nên như hôm nay. Bỗng nhiên hoàng tử bước vào, lụa là châu báu đầy người, cổ
đeo dây chuyền vàng. Hoàng tử nhìn thấy tôi, bước tới tỏ ý muốn tôi nhảy cùng. Tôi sợ hãi lùi lại.
Tôi nhận ra đó là Vua chích chòe, liền giật tay lại nhưng chẳng ăn thua gì cả, vẫn
bị người kéo vào tới giữa phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất,
súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà. Khách khứa và những người đứng đó thấy
cảnh tượng ấy đều bật cười và chêm pha những lời nhạo báng. Tôi vô cùng xấu hổ,
giật mạnh một cái khỏi tay Vua chích choè, lao thẳng ra phía cửa để chạy trốn,
nhưng mới tới được cầu thang lại bị một người đàn ông lôi lại, khi định thần lại
được, nàng thấy người đó lại chính là Vua chích choè:
- Em đừng có sợ hãi, người hát rong sống chung với em trong căn lều lụp xụp
chính là anh. Chính anh cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của
em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em.
Tôi nghe xong liền bật khóc:
- Em đã làm những điều sai trái, không xứng đáng là vợ của anh.
Nhưng chàng đã nói với tôi:
- Em đừng buồn nữa, những ngày cay đắng đã qua, giờ chúng ta hãy làm đám cưới.
Tôi nghe theo lời Vua chích chòe, vào thay quần áo. Toàn thể triều đình đều có mặt để chúc mừng. Bài văn mẫu số 2
Tôi là một công chúa xinh đẹp nhưng tính tính kiêu ngạo. Một hôm, vua cha cho
mời các chàng trai ở khắp các nước xa gần tới mở tiệc linh đình để chọn phò mã.
Rất nhiều người đến tham dự.
Tôi đến xem mắt từng người nhưng chẳng có ai là vừa ý. Thậm chí tôi còn chê bai,
chế giễu họ. Trong số đó, có một người có chiếc cằm hơi cong như mỏ chim chích
chòe, tôi nói anh ta chẳng khác gì chim chích choè có mỏ. Từ đó, tôi nghe đồn anh
ta được mọi người gọi là Vua chích chòe.
Vua cha thấy vậy, tức giận lắm, liền truyền rằng nếu có người ăn mày nào đi qua
cung vua, vua sẽ gả tôi cho người ấy. Tôi nghe vậy thì sợ hãi vô cùng, van xin
nhưng chẳng có tác dụng. Mấy hôm sau, một người hát rong đi qua, đứng ngây
dưới cửa sổ cất tiếng hát, mong sẽ được ban thưởng cho vài xu. Vua cha cho gọi hắn vào:
- Hãy cho tên hát rong vào đây!
Người hát rong đi nọ vào cung vua, hát cho vua và tôi nghe, rồi đưa tay xin tiền thưởng. Nhà vua bảo:
- Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.
Tôi lại van xin nhưng vua cha vẫn cương quyết:
- Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.
Linh mục được mời ngay tới để làm hôn lễ của tôi lấy người hát rong. Hôn lễ cử
hành xong, tôi phải theo chồng rời khỏi cung điện.
Trên đường đi, tôi nhìn thấy một khu rừng lớn:
- Rừng đẹp này của ai? Chồng tôi nói:
- Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng.
Tôi tiếc nuối thốt lên:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Một lúc sau tới một thảo nguyên, tôi lại hỏi:
- Thảo nguyên này của ai? Anh ta nói:
- Thảo nguyên của Vua chích choè.
Tôi tiếc nuối thốt lên:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Rồi chúng tôi tới một thành phố lớn, tôi lại hỏi: - Thành phố này của ai?
- Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.
Lúc này, tôi ân hận vô cùng, liền bật khóc:
- Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe.
Chồng tôi tỏ vẻ tức giận, nói:
- Tôi thật không hài lòng khi nghe nàng nói vậy, chẳng lẽ tôi không xứng với nàng sao?
Tôi không nói gì mà chỉ lặng lẽ đi theo sau, tới một túp lều, tôi liền hỏi: - Nhà ai thế này?
Chồng tôi thản nhiên nói: - Nhà của chúng ta đó!
Tôi cúi người bước vào trong, rồi hỏi: - Vậy người hầu đâu? Anh ta đáp:
- Làm gì có người hầu, chúng ta phải tự làm mọi người.
Nói xong, anh ta yêu cầu tôi đi nhóm bếp và nấu ăn. Nhưng tôi nào có biết nhóm
bếp và nấu ăn. Cuối cùng, anh ta vẫn phải tự làm mọi việc.
Hôm sau, anh ta thức tôi dậy, rồi nói:
- Chúng ta không thể ngồi không, phải làm gì để kiếm sống. Hay là em đan sọt để bán?
Tôi chỉ có thể nghe theo. Chồng tôi vào rừng lấy tre nứa về, tôi phải chẻ lạt đan sọt.
Nhưng từ lớn đến bé tôi có làm việc này bao giờ?
- Hay là em dệt vải - Chồng tôi lại gợi ý.
Tôi cũng nghe theo, nhưng tôi cũng chẳng làm được.
- Em chẳng làm được việc gì. Giờ thì chắc ta phải xoay ra đi buôn nồi và bát đĩa.
Em ngồi ở chợ và bán hàng.
Tôi nghe lời chồng, ra chợ bán hàng. Lúc đầu, khách đến mua khá đông, họ trả tiền
hàng mà không hề mặc cả, thậm chí có người trả tiền nhưng không lấy hàng. Một
hôm, tôi đang ngồi bán hàng như mọi khi thì có một anh chàng hiệp sĩ từ xa phi
ngựa lao thẳng vào chợ làm cho đống hàng sành sứ của tôi đổ vỡ. Tôi sợ hãi ngồi
khóc lóc, rồi về kể cho chồng nghe. Chồng tôi trách móc, rồi nói rằng đã hỏi được
công việc phụ bếp trong cung cho tôi.
Một lần, trong cung tổ chức hôn lễ cho nhà vua. Tôi lén vào xem, khung cảnh
hoàng cung làm tôi nhớ lại cuộc sống trước đây. Tôi cảm thấy buồn tủi và ân hận.
Bỗng nhiên nhà vua bước vào, lụa là châu báu đầy người, cổ đeo dây chuyền vàng.
Nhà vua nhìn thấy tôi, bước tới tỏ ý muốn tôi nhảy cùng. Tôi sợ hãi lùi lại.
Tôi nhận ra Vua chích chòe, tìm cách chạy nhưng không được. Tôi bị kéo vào giữa
phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra
khắp nền nhà. Khách khứa xung quanh cười cợt khiến tôi vô cùng xấu hổ. Tôi
nhanh chóng chạy ra ngoài. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy một tiếng nói quen thuộc:
- Đừng sợ, anh chính là người hát rong sống cùng em đây. Anh cũng là kỵ sĩ cho
ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em.
Tôi nghe xong liền bật khóc:
- Em đã làm nhiều điều sai, em không xứng đáng là vợ anh.
Nhưng chàng đã nói với tôi:
- Em đừng tự trách mình nữa, mọi khổ cực đã qua, giờ chúng ta hãy sống hạnh phúc cùng nhau.
Tôi nghe theo lời Vua chích chòe. Ngày hôm đó, hoàng cung mở tiệc linh đình.
Toàn thể triều đình đều có mặt để chúc mừng cho chúng tôi. Bài văn mẫu số 3
Ta là một công chúa, sống trong cung điện với nhiều người hầu hạ. Vua cha chỉ có
một đứa con là ta nên rất cưng chiều. Bởi vậy, ta luôn tỏ ra kiêu ngạo.
Nhiều hoàng tử ở các vương quốc láng giềng đến cầu hôn. Nhưng ta đều từ chối.
Một lần, nhà vua mở tiệc kén rể, cho mời các chàng trai từ xa gần tới tham dự. Họ
đứng theo ngôi thứ, đứng trên cùng là vua các nước rồi các công tước, các ông
hoàng, các bá tước, các nam tước, cuối cùng là những người dòng dõi quý tộc.
Ta theo vua cha đi xem mắt từng người. Người nào cũng bị ta chê bai: người thì
quá mập; người quá mảnh khảnh; người thì lại lùn; người thì mặt mày xanh xao…
Người cuối cùng khiến ta đặc biệt ấn tượng. Hắn có cằm hơi cong như mỏ chim
chích chòe, ta liền nói anh ta trông giống như chim chích choè có mỏ.
Tất cả khách mời đều bị ta chế giễu, chê bai. Điều này khiến vua cha vô cùng tức
giận, liền nói rằng nếu có người ăn mày nào đi qua hoàng cung, sẽ gả ta cho người ấy.
Mấy hôm sau, một người hát rong đi ngang qua hoàng cung, đứng ngây dưới cửa
sổ cất tiếng hát. Hắn được vua cha gọi vào cung. Ta cảm thấy lo lắng lắm.
Vua cha yêu cầu hắn hát. Hát xong, hắn liền xin một ít tiền thưởng. Nhưng vua cha nói rằng:
- Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.
Nghe vậy, ta liền nài nỉ van xin, nhưng vua cha vẫn cương quyết:
- Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.
Thế rồi, linh mục được mời ngay tới để làm hôn lễ của ta lấy người hát rong. Hôn
lễ cử hành xong, vua cha nói với ta:
- Theo tục lệ, vợ một người hát rong không được ở lâu lại trong cung vua, giờ thì
con phải theo chồng ra khỏi cung.
Ta đành chấp nhận, đi theo người chồng của mình. Tới một khu rừng lớn, ta hỏi:
- Rừng đẹp này của ai? Người hát rong nói:
- Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng. Ta than rằng:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra nên lấy Vua chích chòe.
Một lúc sau tới một thảo nguyên, ta lại hỏi:
- Thảo nguyên xanh đẹp của ai?
- Thảo nguyên của Vua chích choè.
- Tôi thật đáng thương, đáng ra nên đồng ý lấy Vua chích chòe.
Đi mãi thì tới một thành phố lớn, ta lại hỏi:
- Thành phố mỹ lệ này của ai?
- Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.
- Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe.
Chồng tôi tỏ vẻ không hài lòng. Cả hai im lặng bước đi cho tới khi về nhà. Đó là
một túp lều rách nát. Ta than phiền:
- Trời ơi, nhà ai mà nhỏ, thảm thương thế này? Chồng ta đáp: - Nhà của chúng ta đó!
Ta cúi người bước vào trong, rồi hỏi:
- Người hầu của anh đâu? Anh ta trả lời:
- Người hầu nào? Muốn làm gì thì tự mình làm lấy. Giờ em hãy nhóm bếp nấu ăn đi, anh mệt lắm rồi.
Từ nhỏ đến lớn, bất kể là việc gì, ta đều có người phục vụ. Nào có biết nấu nướng.
Người hát rong thấy vậy đành phải nhúng tay vào làm công việc mới xong. Sau
bữa ăn, ta mệt mỏi ngủ thiếp đi. Hôm sau, ta bị anh ta đánh thức dậy để làm việc
nhà. Cứ như vậy mấy ngày thì lương ăn dự trữ hết. Người hát rong liền bảo:
- Mình ạ, chỉ ngồi ăn không kiếm được thêm gì cả cứ như thế này mãi chắc không
được lâu, hay là em đan sọt bán.
Anh ta vào rừng lấy tre nứa về, còn ta phải chẻ lạt đan sọt. Đôi bàn tay mềm mại bị
cạnh sắc của tre nứa cửa rỉ máu. Chồng ta nói:
- Thế thì không được, có lẽ dệt vải hợp với em hơn.
Ta lại ngồi tập quay sợi, nhưng rồi những ngón tay lại bị sợi cứa chảy máu. Chồng ta nói:
- Em chẳng thể làm được việc gì, sống với em thật khổ. Giờ thì chắc ta phải xoay
ra đi buôn nồi và bát đĩa. Em ngồi ở chợ và bán hàng.
Ta nghe vậy, thì nghĩ bụng:
- Nếu như dân nước mình họ tới đây mua bán, nhìn thấy mình họ sẽ cười nhạo mình mất.
Dù vậy, ta vẫn phải nghe theo lời chồng của mình. Lúc đầu, khách đến mua khá
đông, họ trả tiền hàng mà không hề mặc cả, thậm chí có người trả tiền nhưng
không lấy hàng. Cuộc sống của chúng ta khá sung túc. Một lần nọ, ta đang ngồi coi
hàng thì có một chàng hiệp sĩ từ xa phi ngựa lao thẳng vào chợ làm cho đống hàng
sành sứ của ta đổ vỡ hết cả ra thành hàng nghìn mảnh lớn nhỏ ngổn ngang ở chợ.
Ta lo lắng lắm, không biết làm sao nên chỉ ngồi ôm mặt khóc.
Về nhà, ta kể cho chồng nghe chuyện chẳng may ấy. Nghe xong chuyện, anh ta
trách móc. Mấy hôm sau, anh ta về nhà rồi nói rằng đã hỏi được công việc phụ bếp
trong cung cho ta. Công việc cũng không nặng nhọc nên ta có thể làm được. Một
hôm, trong cung tổ chức chức hôn lễ cho nhà vua. Đã lâu rồi ta mới được nhìn thấy
cung điện nguy nga như vậy. Ta buồn bã và hối hận vô cùng. Bỗng nhiên nhà vua
bước vào, lụa là châu báu đầy người, cổ đeo dây chuyền vàng. Nhà vua nhìn thấy
ta, bước tới tỏ ý muốn ta nhảy cùng. Ta sợ hãi lùi lại, rồi chạy ra ngoài.
Thì ra, người đó chính là Vua chích chòe từng bị ta chế giễu. Ta vội vàng giật tay
lại nhưng chẳng ăn thua, vẫn bị người kéo vào tới giữa phòng làm dây buộc nồi đứt,
hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà. Khách khứa và
những người đứng đó thấy cảnh tượng ấy đều bật cười và chêm pha những lời nhạo
báng. Ta xấu hổ vô cùng, lao thẳng ra phía cửa để chạy trốn, nhưng mới tới được
cầu thang lại bị một người đàn ông lôi lại. Ta nghe thấy người đó nói:
- Em đừng có sợ hãi, người hát rong sống chung với em trong căn lều lụp xụp
chính là anh. Chính anh cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của
em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em.
Nghe xong, ta liền bật khóc:
- Em đã làm những điều sai trái, không xứng đáng là vợ của anh.
Nhưng chàng đã nói với ta
- Em đừng buồn nữa, những ngày cay đắng đã qua, giờ chúng ta hãy làm đám cưới.
Ta nghe theo lời Vua chích chòe, vào thay quần áo. Toàn thể triều đình đều có mặt để chúc mừng.
Đóng vai nhân vật - Vua chích chòe Bài văn mẫu số 1
Tại một vương quốc có một cô công chúa xinh đẹp tuyệt trần, nhưng tính tình lại
kiêu ngạo. Một lần, nhà vua cho mời các chàng trai ở khắp các nước xa gần tới mở
tiệc linh đình để chọn phò mã. Các vị khách đứng theo thứ bậc, trên cùng là vua
các nước rồi các công tước, các ông hoàng, các bá tước, các nam tước, cuối cùng là
những người dòng dõi quý tộc. Ta vốn là quốc vương nước láng giềng nên cũng được mời tới.
Công chúa được dẫn đi xem mắt. Người nào nàng cũng tìm ra điểm để giễu cợt họ.
Đến lượt ta, nàng liền chế giễu ta có cái cằm chẳng khác gì chim chích choè có mỏ.
Từ đó trở đi, mọi người bắt đầu gọi ta là Vua chích choè. Sau khi bị nàng châm
chọc, ta cảm thấy rất tức giận, và quyết định sẽ trị thói kiêu căng của nàng.
Nghe tin vua cha của nàng nổi cơn thịnh nộ và ban truyền, nếu có người ăn mày
nào đi qua hoàng cung, ông sẽ gả công chúa cho người đấy. Ta liền cải trang thành
một người hát rong, đi đến trước hoàng cung và cất tiếng hát. Một lúc sau, nhà vua
cho gọi ta vào, hát cho vua và công chúa nghe. Xong, nhà vua bảo với ta:
- Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.
Ta thấy công chúa van xin, nhưng vẫn không thể lay chuyển được nhà vua. Ông nói:
- Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.
Một vị linh mục được mời ngay tới để làm hôn lễ của công chúa và ta. Hôn lễ cử
hành xong, vua cha nói với công chúa:
- Theo tục lệ, vợ một người hát rong không được ở lâu lại trong cung vua, giờ thì
con phải theo chồng ra khỏi cung.
Công chúa dù rất buồn bã, nhưng vẫn phải đi theo ta. Tới một khu rừng lớn, công chúa liền hỏi:
- Rừng đẹp này của ai? Ta trả lời:
- Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng.
Công chúa tiếc nuối thốt lên:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Một lúc sau tới một thảo nguyên, nàng lại hỏi:
- Thảo nguyên xanh đẹp của ai? Ta đáp:
- Thảo nguyên của Vua chích choè. Công chúa lại than thở:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Rồi họ tới một thành phố lớn, công chúa hỏi tiếp:
- Thành phố mỹ lệ này của ai? Ta đáp:
- Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.
Nàng bật khóc, than rằng:
- Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe. Ta nói:
- Tôi không hài lòng một chút nào, tại sao nàng lại cứ luôn luôn mong có người
chồng khác, thế tôi không xứng đáng hay sao?
Công chúa không nói được gì nữa, mà chỉ lặng lẽ đi theo sau. Tới một túp lều, nàng hỏi ta:
- Trời ơi, nhà ai mà nhỏ, thảm thương thế này? Ta liền trả lời: - Nhà của chúng ta đó!
Nàng phải cúi người xuống mới bước vào trong được, rồi hỏi:
- Người hầu của anh đâu? Ta nói với nàng:
- Người hầu nào? Muốn làm gì thì tự mình làm lấy. Giờ em hãy nhóm bếp nấu ăn đi, anh mệt lắm rồi.
Ta biết ngay rằng công chúa nào có biết nhóm bếp và nấu ăn, cuối cùng phải tự
nhúng tay vào làm công việc mới xong. Sau bữa ăn, hai vợ chồng ta mệt mỏi ngủ
thiếp đi. Ngày hôm sau, ta liền đánh thức dậy làm việc nhà. Cứ như vậy mấy ngày
thì lương ăn dự trữ hết. Ta nói với công chúa:
- Mình ạ, chỉ ngồi ăn không kiếm được thêm gì cả cứ như thế này mãi chắc không
được lâu, hay là em đan sọt bán.
Sau đó, ta vào rừng lấy tre nứa về, còn công chúa phải chẻ lạt đan sọt. Nhưng bàn
tay của nàng bị cạnh sắc của tre nứa cửa rỉ máu. Ta thấy vậy, dù rất đau lòng,
nhưng vẫn nói với nàng:
- Thế thì không được, có lẽ dệt vải hợp với em hơn.
Nàng ngồi tập quay sợi, nhưng rồi những ngón tay lại bị sợi cứa chảy máu. Ta lại bảo với công chúa:
- Em chẳng thể làm được việc gì, sống với em thật khổ. Giờ thì chắc ta phải xoay
ra đi buôn nồi và bát đĩa. Em ngồi ở chợ và bán hàng.
Công chúa không mấy vui vẻ, nhưng vẫn phải đồng ý. Lúc đầu, công việc diễn ra
khá suôn sẻ. Nhưng một hôm, nàng chạy về khóc lóc kể cho ra nghe chuyện nồi
niêu, bát đĩa đã bị vỡ hết. Nghe xong chuyện, ta liền trách móc nàng:
- Đời thuở nhà ai bán sành sứ mà lại ngồi ngay đầu chợ chỗ người ta qua lại, khóc
làm chi nữa. Anh thấy em chẳng làm gì cho đến đầu đến cuối. Lúc nãy, anh có đến
cung vua hỏi xem nhà bếp có cần người phụ không, họ hứa sẽ nhận em vào làm và nuôi cơm.
Công chúa giờ đây đã là một chị phụ đầu bếp. Nàng đã bớt đi thói kiêu ngạo, và
chịu khó làm ăn. Ta quyết định sẽ nói rõ mọi chuyện với nàng. Ta cho tổ chức tiệc
linh đình. Khi nhìn thấy công chúa, ta bước tới tỏ ý muốn nàng nhảy cùng. Nàng
liền giật tay lại tỏ ý từ chối, nhưng chẳng ăn thua gì cả, vẫn bị ta kéo vào tới giữa
phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra
khắp nền nhà. Khách khứa và những người đứng đó thấy cảnh tượng ấy đều bật
cười và chêm pha những lời nhạo báng. Công chúa vô cùng xấu hổ, giật mạnh một
cái khỏi tay ta, rồi lao thẳng ra phía cửa để chạy trốn. Ta chạy theo và nói với công chúa:
- Em đừng có sợ hãi, người hát rong sống chung với em trong căn lều lụp xụp
chính là anh. Chính anh cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của
em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em. Nàng nói:
- Em đã làm những điều sai trái, không xứng đáng là vợ của anh. Ta liền an ủi nàng:
- Em đừng buồn nữa, những ngày cay đắng đã qua, giờ chúng ta hãy làm đám cưới.
Công chúa nghe theo lời ta, vào thay quần áo. Toàn thể triều đình đều có mặt để chúc mừng. Bài văn mẫu số 2
Ở một vương quốc nọ, có nàng công chúa xinh đẹp tuyệt trần. Một hôm, nhà vua
cho mời các chàng trai ở khắp các nước xa gần tới mở tiệc linh đình để chọn phò
mã. Ta là vua của nước láng giềng nên cũng được mời đến tham dự.
Công chúa đến xem mắt từng người nhưng chẳng có ai là vừa ý. Thậm chí nàng
còn chê bai, chế giễu họ. Khi nàng nhìn thấy ta, liền so sánh ta chẳng khác gì chim
chích choè có mỏ. Từ đó, mọi người gọi ta là Vua chích chòe.
Nhà vua thấy vậy, tức giận lắm, liền truyền rằng nếu có người ăn mày nào đi qua
cung vua, vua sẽ gả công chúa cho người ấy. Ta quyết định sẽ giả làm người hát
rong, để trừng trị thói kiêu ngạo của công chúa. Khi đến hoàng cung, ta được nhà vua gọi vào, và bảo:
- Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.
Công chúa van xin nhưng vua cha vẫn cương quyết:
- Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.
Linh mục được mời ngay tới để làm hôn lễ của công chúa và ta. Hôn lễ cử hành
xong, nàng phải theo ta rời khỏi cung điện.
Trên đường đi, công chúa nhìn thấy một khu rừng lớn:
- Rừng đẹp này của ai? Ta nói với nàng:
- Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng.
Công chúa tiếc nuối thốt lên:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Một lúc sau tới một thảo nguyên, nàng lại hỏi:
- Thảo nguyên này của ai? Ta nói:
- Thảo nguyên của Vua chích choè.
Nàng công chúa tiếc nuối thốt lên:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Rồi tới một thành phố lớn, công chúa lại hỏi: - Thành phố này của ai?
- Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.
Lúc này, nàng ân hận vô cùng, liền bật khóc:
- Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe. Ta tỏ ý không hài lòng:
- Tôi thật không hài lòng khi nghe nàng nói vậy, chẳng lẽ tôi không xứng với nàng sao?
Công chúa không nói gì mà chỉ lặng lẽ đi theo sau, tới một túp lều, nàng liền hỏi: - Nhà ai thế này? Ta thản nhiên nói: - Nhà của chúng ta đó!
Nàng phải cúi người mới bước được vào trong, rồi hỏi: - Vậy người hầu đâu? Ta nói với công chúa:
- Làm gì có người hầu, chúng ta phải tự làm mọi người.
Sau đó, ta yêu cầu công chúa đi nhóm bếp và nấu ăn. Nhưng nàng nào có biết
nhóm bếp và nấu ăn. Đó là điều ta đã biết trước. Cuối cùng, ta vẫn phải tự làm mọi việc.
Hôm sau, ta đánh thức công chúa dậy, rồi nói:
- Chúng ta không thể ngồi không, phải làm gì để kiếm sống. Hay là em đan sọt để bán?
Nàng chỉ có thể nghe theo. Ta vào rừng lấy tre nứa về, công chúa phải chẻ lạt đan
sọt. Nhưng ngón tay của nàng lại bị cạnh của tre nứa làm chảy máu. Ta đành nói với nàng: - Hay là em dệt vải?
Công chúa cũng nghe theo, nhưng những ngón tay mềm mại của nàng lại bị sợi
cứa, máu chảy rơi xuống nền nhà. Ta tỏ ý chán nản:
- Em chẳng làm được việc gì. Giờ thì chắc ta phải xoay ra đi buôn nồi và bát đĩa.
Em ngồi ở chợ và bán hàng.
Công chúa đành phải nghe lời ta, ra chợ bán hàng. Công việc ban đầu khá thuận lợi.
Nhưng một hôm, công chúa chạy về khóc lóc, kể rằng đồ đạc đã bị một người kị sĩ
cưỡi ngựa làm vỡ hết. Nghe xong ta liền trách móc, rồi nói rằng đã tìm được một
chân phụ bếp cho nàng ở trong cung điện của ta. Tất nhiên là nàng vẫn chưa biết
thân phận thật của chồng mình, mà chỉ ngoan ngoãn vào cung làm việc.
Ngày hôm đó, hoàng cung tổ chức hôn lễ. Nàng nhận ra ta chính là Vua chích chòe.
Nhưng ta đã kể rõ cho nàng mọi chuyện. Cuối cùng, hôn lễ của ta và công chúa đã
được tổ chức trong sự chúc phúc của mọi người. Bài văn mẫu số 3
Ta là vua của một vương quốc. Một lần, ta được mời đến dự tiệc tại nước láng
giềng. Nhà vua ở đây có một cô công chúa xinh đẹp tuyệt trần, nhưng tính tình lại
kiêu ngạo. Các vị khách đến tham dự đứng theo thứ bậc, trên cùng là vua các nước
rồi các công tước, các ông hoàng, các bá tước, các nam tước, cuối cùng là những
người dòng dõi quý tộc.
Khi công chúa được dẫn đi xem mắt từng người. Nhưng người nào, nàng cũng chê
bai, đặt cho họ những biệt danh kì lạ. Đến lượt ta, nàng liền chế giễu ta có cái cằm
chẳng khác gì chim chích choè có mỏ. Từ đó trở đi, mọi người bắt đầu gọi ta là
Vua chích choè. Sau khi bị công chúa chế giễu, ta cảm thấy rất tức giận, quyết định
sẽ trị thói kiêu căng của nàng.
Nghe tin vua cha của nàng tuyên bố nếu có người ăn mày nào đi qua hoàng cung,
ông sẽ gả công chúa cho người đấy. Ta liền cải trang thành một người hát rong, đi
đến trước hoàng cung và cất tiếng hát. Nhà vua liền cho gọi ta vào hát. Xong xuôi, nhà vua bảo với ta:
- Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.
Dù công chúa đã van xin, nhưng vẫn không thể lay chuyển được đức vua. Ông nói:
- Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.
Ngay lúc đó, một vị linh mục được mời ngay tới để làm lễ cho ta và công chúa.
Hôn lễ cử hành xong, vua cha nói với công chúa:
- Theo tục lệ, vợ một người hát rong không được ở lâu lại trong cung vua, giờ thì
con phải theo chồng ra khỏi cung.
Công chúa phải theo ta ra khỏi hoàng cung. Trên đường đi, tình cờ ngang qua một
khu rừng lớn, công chúa hỏi ta:
- Rừng đẹp này của ai? Ta trả lời:
- Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng.
Công chúa tỏ vẻ tiếc nuối:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Một lúc sau tới một thảo nguyên, nàng lại hỏi:
- Thảo nguyên xanh đẹp của ai? Ta liền đáp:
- Thảo nguyên của Vua chích choè. Công chúa lại than thở:
- Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Rồi họ tới một thành phố lớn, công chúa hỏi tiếp:
- Thành phố mỹ lệ này của ai? Ta trả lời nàng:
- Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.
Nàng bật khóc, than rằng:
- Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe.
Ta tỏ vẻ không hài lòng, nói với công chúa:
- Tại sao nàng lại cứ luôn luôn mong có người chồng khác, thế tôi không xứng đáng hay sao?
Công chúa chỉ biết im lặng. Khi về tới nhà của ta, nàng liền kêu lên:
- Trời ơi, nhà ai mà nhỏ, thảm thương thế này? Ta liền trả lời: - Nhà của chúng ta đó!
Công chúa bước vào nhà, xem xét xung quanh rồi hỏi:
- Người hầu của anh đâu? Ta nói với nàng:
- Người hầu nào? Muốn làm gì thì tự mình làm lấy. Giờ em hãy nhóm bếp nấu ăn đi, anh mệt lắm rồi.
Nhưng công chúa nào có biết nhóm bếp và nấu ăn, cuối cùng ta đành phải tự nhúng
tay vào làm công việc mới xong. Sau bữa ăn, hai vợ chồng ta mệt mỏi ngủ thiếp đi.
Cứ như vậy, ngày qua ngày, chẳng mấy ngày thì lương ăn dự trữ hết. Ta liề nói với công chúa:
- Mình ạ, chỉ ngồi ăn không kiếm được thêm gì cả cứ như thế này mãi chắc không
được lâu, hay là em đan sọt bán.
Ta vào rừng lấy tre nứa về, còn công chúa phải chẻ lạt đan sọt. Nhưng bàn tay của
nàng bị cạnh sắc của tre nứa cửa rỉ máu. Ta thấy vậy, dù rất đau lòng, nhưng vẫn nói với nàng:
- Thế thì không được, có lẽ dệt vải hợp với em hơn.
Nàng ngồi tập quay sợi, nhưng rồi những ngón tay lại bị sợi cứa chảy máu. Ta lại bảo với công chúa:
- Em chẳng thể làm được việc gì, sống với em thật khổ. Giờ thì chắc ta phải xoay
ra đi buôn nồi và bát đĩa. Em ngồi ở chợ và bán hàng.
Mấy ngày đầu, công việc diễn ra khá suôn sẻ. Số tiền bán hàng đủ để chúng ta
sống qua ngày. Nhưng rồi đến một hôm, nàng chạy về nhà, khóc lóc kể lại chuyện
rằng nồi niêu, bát đĩa đã bị người ta va vào vỡ hết. Nghe xong chuyện, ta liền trách móc nàng:
- Đời thuở nhà ai bán sành sứ mà lại ngồi ngay đầu chợ chỗ người ta qua lại. Thôi,
em nín đi. Lúc này, anh có đến cung vua hỏi xem nhà bếp có cần người phụ không,
họ hứa sẽ nhận em vào làm và nuôi cơm.
Kể từ đó, công chúa trở thành phụ bếp trong cung. Giờ đây, nàng đã không còn
kiêu căng như trước. Ta quyết định sẽ nói rõ mọi chuyện với nàng. Ta cho tổ chức
tiệc linh đình. Khi nhìn thấy công chúa, ta bước tới tỏ ý muốn nàng nhảy cùng. Có
lẽ, nàng đã nhận ra ta là Vua chích chòe, người đã bị nàng chế giễu. Vì vậy, nàng
liền giật tay lại, tỏ ý từ chối. Nhưng ta vẫn lại kéo nàng tới giữa phòng làm dây
buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà.
Khách khứa và những người đứng đó thấy cảnh tượng ấy đều bật cười và chêm pha
những lời nhạo báng. Công chúa vô cùng xấu hổ, giật mạnh một cái khỏi tay ta, rồi
lao thẳng ra phía cửa để chạy trốn. Ta chạy theo và nói với công chúa:
- Em đừng sợ hãi, anh chính là người hát rong, chồng của em đây. Cũng chính anh
cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của em. Tất cả những việc đó
chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em.
Lúc này, có vẻ nàng đã nhận ra ta. Nàng nói:
- Em… em không xứng đáng làm vợ của anh. Ta nói:
- Em đừng buồn nữa, em đã nhận ra lỗi lầm và sửa chữa. Từ giờ, chúng ta sẽ sống hạnh phúc cùng nhau.
Công chúa ngại ngùng, theo ta vào trong. Người hầu giúp nàng thay quần áo. Hôn
lễ được tổ chức trong sự chúc phúc của mọi người.
Đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích Em bé thông minh
Đóng vai nhân vật - Em bé Bài văn mẫu số 1
Một buổi trưa nọ, tôi và cha đang phải cày ruộng. Bất chợt, tôi thấy một người đàn
ông ăn mặc sang trọng cưỡi ngựa đến, có lẽ là quan của nhà vua, ông bèn hỏi cha tôi:
- Này ông kia, trâu này một ngày cày được bao nhiêu đường?
Cha tôi nghe xong thì ngớ người. Tôi nghĩ bụng, ai đời lại đi hỏi câu kì lạ như vậy,
chắc chắn là muốn trêu người khác rồi, tôi liền hỏi lại:
- Vậy xin quan trả lời con ngựa kia một ngày đi được bao nhiêu bước,thì tôi sẽ nói
cho quan biết con trâu đi được bao nhiêu đường?
Quan lúng túng không biết trả lời, rồi quan bỗng hỏi tên hai cha con, tôi cũng
không nghĩ nhiều mà khai báo.
Mấy tuần sau, làng tôi nhận được chiếu vua, vua ban cho làng ba thúng gạo nếp và
ba con trâu đực, năm sau làng phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, thiếu
con nào thì sẽ bị phạt. Mọi người đều biết chuyến này lành ít dữ nhiều, được vua
quan tâm thì tốt nhưng ai lại làm được trâu đực đẻ con? Cái khó ló cái khôn, tôi
chợt nảy ra một kế. Tôi nói với cha:
- Cha cứ bảo cả làng lấy hai con trâu và hai thúng gạo mà ăn, còn lại thì bán đi để
hai cha con ta lên kinh thành.
Cha và mọi người lúc đầu còn lo lắng nhưng nghe tôi trấn an, còn làm giấy cam
đoan với làng thì yên tâm hơn.
Lên đến kinh vua, nhân lúc lính canh không để ý, tôi lẻn vào sân rồng khóc ầm lên
làm nhà vua đang chầu triều phải dừng lại, điệu tôi vào trong. Vua hỏi:
- Thằng bé kia, tại sao lại đến đây mà khóc?
Tôi mới ấm ức phân bua:
- Mẹ con chết sớm mà cha không chịu đẻ em bé cho con chơi, con buồn lắm. Kính
vua ra lệnh bắt cha con phải đẻ em bé cho con…
Cả triều đình cười rộ lên, vua tủm tỉm giải thích:
- Cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ con được?
Tôi nhanh nhảu đáp lại:
- Vậy sao vua lại bắt làng con làm trâu đực đẻ con? Vua nhớ ra, cười nói:
- Cái đấy là thử, làng ngươi phải biết thịt trâu mà ăn chứ!
- Làng chúng con nhận được trâu và gạo liền biết đó là lộc vua ban đã làm cỗ ăn mừng rồi.
Hôm sau, tôi và cha đang ăn cơm, bỗng có người của vua mang một con chim sẻ
bắt tôi phải dọn ba mâm cỗ, tôi biết ngài là vua lại thử mình liền đưa cho anh lính
cây kim nhờ vua rèn thành một con dao để xẻ thịt chim. Cha con tôi được ban thưởng hậu hĩnh.
Một hôm, tôi đang ở nhà chơi với bạn, có sứ thần mang một cái vỏ ốc rất dài bị
rỗng hai đầu, ông nhờ tôi dùng sợi chỉ mảnh xuyên qua vỏ ốc. Tôi liền hát:
“Tang tính tang! Tính tình tang!
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang…”
Mãi về sau khi đã thành trạng nguyên, tôi mới hiểu được, sự nhanh trí lần đó của
mình đã cứu nước khỏi giặc ngoại xâm. Bài văn mẫu số 2
Hôm nay, ta được một ngày nghỉ ngơi, không phải lo bàn việc nước với vua, thế
nên, ta muốn kể cho các ngươi nghe câu chuyện của ta. Đó là câu chuyện mà nhân
dân thường gọi là “ Em bé thông minh” đã giúp đất nước tránh được họa xâm lăng
bằng sự thông minh, tài trí của mình.
Ngày xưa, nhà vua lệnh cho một viên quan đi dò la khắp cả nước xem nước ta có
người tài nào hay không. Viên quan nhận lệnh bèn đi khắp cả nước, đi đến đâu
viên quan cũng đặt ra những câu hỏi oái oăm để thử thách mọi người với mong
muốn giúp vua tìm người tài. Nhưng dù đã tốn rất nhiều công sức nhưng viên quan
vẫn chưa tìm được người nào thật sự tài giỏi.
Một hôm, ta cùng cha đang làm đồng, cha ta đánh trâu cày, còn ta đập đất thì viên
quan nọ nhìn thấy, liền hỏi cha ta:
- Này ông lão, trâu của ông một ngày cày được mấy đường?
Trước câu hỏi bất ngờ, cha ta không biết phải trả lời thế nào. Ta liền đáp lại viên quan:
- Tôi hỏi ông câu này trước nhé. Nếu ông trả lời được ngựa của ông một ngày đi
được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu nhà tôi một ngày cày được mấy đường.
Bị ta hỏi vặn lại, viên quan vô cùng sửng sốt không biết đáp sao cho ổn. Chợt mắt
ông lóe lên đầy phấn khởi, ông hỏi rõ họ tên, quê quán của cha con ta rồi nhanh
chóng lên ngựa trở về kinh thành.
Ít lâu sau, làng ta được nhà vua ban cho ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, lệnh
cho làng ta phải nuôi ba con trâu sao cho chúng đẻ được chín con trâu khác và hẹn
năm sau phải nộp đủ số lượng, nếu không cả làng sẽ phải chịu tội.
Người dân làng tôi khi biết tin, ai cũng lấy làm lo sợ, sửng sốt, không biết làm sao
cho ổn. Bao nhiêu cuộc họp làng, ý kiến được đưa ra nhưng vẫn không tìm được
cách giải quyết ổn thỏa. Ai cũng cho đây là một tai họa. Mấy ngày sau thì chuyện
đến tai tôi. Biết là nhà vua muốn thử mình, tôi liền bảo với cha:
- Chẳng mấy khi được nhà vua ban lộc, cha cứ bảo dân làng làm thịt hai con trâu,
đồ hai thúng gạo nếp để cả làng đánh chén một bữa cho thỏa thích. Còn một con
trâu và một thúng gạo, ta xin làng làm phí cho cha con ta trẩy kinh lo liệu việc này.
Cha tôi mới đầu nghe cũng còn ngần ngại, nhưng trước sự tự tin, quyết tâm của tôi,
cha tôi, cha tôi đành ra thưa chuyện với dân làng. Mọi người nghe xong cũng thấy
hoang mang, bắt hai cha con tôi làm giấy cam đoan, rồi mới dám mổ trâu ăn thịt.
Mấy ngày sau, hai cha con tôi khăn gói lên đường vào kinh. Khi đến cổng hoàng
cung, tôi bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì nhân lúc lính canh không để ý, tôi
liền lẻn vào sân rồng, khóc um lên. Vua quan trong triều nghe thấy, liền ra hỏi:
- Thằng bé kia là ai? Sao lại đến đây mà khóc?
Tôi liền giả vờ mếu máo:
- Tâu bệ hạ, mẹ con mất sớm, vậy mà cha con không chịu đẻ em bé để con có bạn
chơi cùng. Vì thế con mới khóc. Mong bệ hạ hãy hạ lệnh để cha con đẻ con cho con được nhờ.
Vua nghe thế liền bật cười:
- Thằng bé này hay nhỉ. Ngươi muốn có em thì phải kiếm vợ mới cho cha mày,
chứ cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ con được.
Tôi nghe vua nói thế, liền đáp:
- Vậy sao vua lại lệnh cho làng con nuôi ba con trâu đực để đẻ ra chín con trâu con.
Giống đực thì làm sao mà đẻ được.
Nhà vua nghe vậy, biết là bị lừa, liền tươi tỉnh đáp:
- Ta thử nhà ngươi đấy mà. Thế làng ngươi không biết đường mà mổ trâu đánh chén với nhau à?
- Tâu, làng con biết là lộc vua ban, nên đã làm thịt, nấu cơm đánh chén với nhau rồi ạ.
Vua cùng các triều thần đều gật gù khen ta thông minh. Nhưng nhà vua vẫn tiếp
tục thử ta. Hôm sau, khi hai cha con ta đang dùng bữa tại công quán thì vua sai một
viên quan mang đến một con chim sẻ, lệnh cho ta phải làm ra được ba mâm cỗ. Ta
liền đưa cho viên quan một cây kim và bảo:
- Xin ông về tâu với vua, rèn cho tôi cây kim này thành một con dao bén để tôi làm thịt chim.
Vua nghe xong mới tâm phục khẩu phục, gọi cha con ta ra ban thưởng rất hậu.
Bấy giờ, có nước láng giềng lúc nào cũng lăm le xâm lược đất nước ta. Họ cử viên
viên sứ giả sang thăm dò xem nước ta có nhân tài nào không. Viên sứ giả đến
mang theo một con ốc vặn dài, rỗng hai đầu và một sợi chỉ mảnh, đố các quan
trong triều làm thế nào để xâu được sợi chỉ qua ruột ốc. Các quan làm đủ mọi cách:
người thì dùng miệng hút, người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu. Nhưng tất
cả đều vô hiệu. Vua bèn mời sứ giả ở lại cùng nghỉ ngơi vài ngày, kéo dài thời gian
cho người đi hỏi ý kiến ta. Viên quan đến gặp ta đúng lúc ta đang chơi đùa cùng lũ
trẻ sau nhà. Nghe chuyện, ta liền hát một câu:
“Tang tính tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang! Tính tình tang!”
Sau đó ta bảo với quan viên:
- Không cần ta phải vào cung đâu, ông cứ làm theo những gì ta vừa bảo là được.
Viên quan mừng rỡ quay về bẩm báo lên nhà vua. Vua cho người làm theo lời cậu
bé. Quả nhiên con kiến đã mang sợi chỉ xuyên qua vỏ ốc trước cặp mắt thán phục
của sứ giả láng giềng. Sau đó, nhà vua liền gọi hai cha con ta vào cung, phong làm
trạng nguyên, còn sai người xây dinh thự ngay trong hoàng cung cho ta ở để tiện hỏi han.
Giờ đây, ta đã trở thành một thân cận bên nhà vua. Có vấn đề gì liên quan đến đất
nước, vua đều bàn bạc cùng ta để đưa ra quyết định đúng đắn. Nhờ trí thông minh
của mình, ta đã đẩy lùi được khát vọng xâm lăng của nước láng giềng. Hi vọng với
trí thông minh của mình, ta sẽ cống hiến cho thêm được nhiều điều cho đất nước, cho nhân dân.
Đóng vai nhân vật - Người cha Bài văn mẫu số 1
Tôi là một người nông dân hiền lành. Vợ mất sớm, một mình nuôi con. Hai cha
con sống cùng nhau bình yên ở một ngôi làng nọ. Một hôm, cha con tôi đang cày
bừa cho vụ mùa mới thì thấy có một viên quan từ đâu tới. Khi đến gần, viên quan
ấy mới cất tiếng hỏi:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Tôi lúng túng, chưa biết trả lời sao thì thằng bé đã nhanh miệng hỏi lại:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được
mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe hỏi lại như thế thì lộ ra vẻ sửng sốt. Một thời gian sau, nhà vua sai
ban cho làng tôi ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao
cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Nhận lệnh vua, cả làng đều lo lắng. Khi trở về nhà, thằng bé liền nói với tôi:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai trâu và đồ hai
thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một
thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo việc đó.
Tôi tỏ ý nghi ngờ, nói với thằng bé:
- Lệnh vua ban như thế, sao dân làng dám cãi lại. Con đừng nghĩ như vậy mà rồi gặp họa.
Thằng bé vẫn kiên quyết, nói đã nghĩ ra cách rồi. Hôm sau, tôi dậy sớm, đi ra đình
để nói với dân làng. Cả làng nghe nói ban đầu vô cùng ngờ vực, bắt cha con tôi
phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Còn tôi và thằng bé khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, thằng bé bảo
tôi đứng ở ngoài, còn nó thì lẻn vào sân rồng khóc um lên. Tôi lấy làm lo lắng lắm,
nhưng chỉ biết đứng chờ bên ngoài. Sau khi ra ngoài, nghe thằng bé kể lại tôi mới
rõ mọi chuyện. Sau khi vào trong, nhà vua đã hỏi thằng bé:
- Thằng bé kia, ngươi có việc gì oan ức, sao phải tới đây mà khóc làm ầm ĩ cả hoàng cũng vậy? Nó bình tĩnh trả lời:
- Tâu đức vua con đá mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi
với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua phán:
- Muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố, chứ bố ngươi là giống đực, làm sao mà đẻ được! Nó nói tiếp:
- Thế sao vua lại bắt làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho
đẻ thành chín con để nộp lên vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ! Vua cười bảo:
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à? Thằng bé hớn hở đáp:
- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của
đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Nhà vua tỏ ra hài lòng lắm, liền ban thưởng cho thằng bé, rồi cho người đưa hai
cha con tôi về quán trọ. Hôm sau, hai cha con tôi đang ngồi ăn ở quán trọ. Bỗng có
sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ
thức ăn. Nhanh chóng suy nghĩ, thằng bé liền bảo tôi lấy cho mình một cái kim
may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
- Phiền ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con tôi vào, ban thưởng rất hậu. Bấy giờ, có nước
láng giềng lúc nào cũng lăm le xâm lược đất nước ta. Họ cử viên viên sứ giả sang
thăm dò xem nước ta có nhân tài nào không. Viên sứ giả đến mang theo một con
ốc vặn dài, rỗng hai đầu và một sợi chỉ mảnh, đố các quan trong triều làm thế nào
để xâu được sợi chỉ qua ruột ốc. Các quan làm đủ mọi cách: người thì dùng miệng
hút, người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Vua
bèn mời sứ giả ở lại cùng nghỉ ngơi vài ngày, kéo dài thời gian cho người đi hỏi ý
kiến con trai tôi. Lúc đó, tôi đang cặm cụi trong bếp. Còn thằng bé thì đang chơi
ngoài sân cùng lũ bạn. Nghe chuyện, nó chỉ liền hát một câu:
“Tang tính tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang! Tính tình tang!”
Viên quan hiểu ra, mừng rỡ quay về bẩm báo lên nhà vua. Sau đó, nhà vua liền cho
người đến đón hai cha con tôi vào cung. Thằng bé được phong làm trạng nguyên,
còn sai người xây dinh thự ngay trong hoàng cung để tiện hỏi thăm. Bài văn mẫu số 2
Tôi là một người nông dân nghèo. Vợ tôi mất sớm, tôi vất vả nuôi con khôn lớn..
Hai cha con cùng nhau làm việc, nương tựa nhau mà sống. Cậu con trai tuy con
nhỏ, nhưng rất thông minh và nhanh nhẹn, thường giúp đỡ tôi nhiều việc.
Hôm ấy, tôi cùng con trai dậy từ sớm ra đồng làm cày kẻo trời trở trưa nắng nóng.
Hai cha con đang cày ruộng thì bỗng có một người mang áo vải đỏ, đội mũ quan,
cưỡi trên mình con ngựa đầy oai phong tới gần chỗ chúng tôi. Ông ta hý ngựa dừng lại rồi nói:
- Này ông kia, ông có thể cho ta biết trâu của ông một ngày cày được mấy đường không?
Tôi chưa kịp nói gì, thì thằng bé đã nhanh nhảu nói:
- Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông
biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Vị quan nghe xong, khuôn mặt tỏ vẻ sửng sốt lắm. Rồi ông ấy từ biệt chúng tôi,
thẳng đường mà phi ngựa.
Mấy hôm sau, làng tôi nhận được chiếu lệnh trên triều đình ban xuống. Nhà vua
ban cho làng ba thúng gạo nếp cùng ba con trâu đực với yêu cầu phải nuôi để cho
ba con trâu đực ấy đẻ thành chín con. Nếu đến năm sau mà làng không giao nộp
theo đúng yêu cầu thì phải chịu tội. Mọi người trong làng lấy làm hoang mang, lo
lắng. Tôi về nhà kể cho cậu con trai. Nghe xong, thằng bé liền bảo tôi:
- Đấy là lộc vua ban cho làng ta. Cha nói với làng, mình xin một trâu và một thúng
gạo làm phí đi đường lên kinh lo việc.
Nhận thấy ý nghĩ của con có phần nhẹ dạ, tôi mắng:
- Việc vua giao chưa xong còn ăn với uống. Thịt trâu rồi lấy gì mà lo liệu. Mày dại
vừa thôi kẻo có ngày bay đầu đó con ạ. Thằng bé quả quyết:
- Con đã tính toán cả rồi, cha cứ yên tâm tin con để con lo liệu, rồi mọi chuyện đâu cũng vào đấy thôi.
Dù hơi phân vân lời cậu con trai nhưng tôi vẫn đem chuyện ra trình bày trước làng.
Khi nghe xong câu chuyện, cả làng lấy làm ngờ vực, còn bắt hai cha con tôi viết giấy cam đoan với làng.
Sau mấy hôm, tôi cùng con trai lên đường đến kinh. Phí đi đường vừa hết cũng là
lúc tới kinh đô. Thằng bé bảo tôi chờ ở ngoài. Còn nó thì khóc um sùm, nhà vua
bực tức sai lính ra điệu hai cha con tôi vào và hỏi. Tôi đứng ngoài, lo lắng lắm.
Nhưng đến khi nó trở ra lại không làm sao, lại còn được vua ban thưởng. Trên
đường về, nghe thằng bé kể lại mới rõ sự tình. Khi thằng bé vào cung, nhà vua liền hỏi:
- Thằng bé kia, ngươi có việc gì oan ức, sao phải tới đây mà khóc làm ầm ĩ cả hoàng cũng vậy?
Khi nghe vua hỏi, con tôi bèn trả lời:
- Tâu đức vua, con vốn mất mẹ từ nhỏ, muốn có em bé để chơi với con nhưng cha
không chịu đẻ cho con. Thỉnh cầu đức vua minh xét giúp con.
Vua nhìn con tôi, rồi bảo:
- Nhà ngươi muốn có em thì bảo cha lấy vợ mới. Chứ cha ngươi là đàn ông, làm sao để con được?
Nghe vua nói thế, thằng bé mới nhanh trí trả lời:
- Thế tại sao vua lại ra lệnh cho làng con phải nuôi trâu đực để đẻ thành chín con?
Giống đực thì làm sao đẻ được ạ?
Đức vua bật cười bảo:
- Là ta thử thế thôi, dân làng không biết làm cỗ mà ăn hả? Thằng bé hớn hở đáp:
- Thưa ngài, làng con biết đó là lộc của ngài cho nên đã mổ trâu, đúc xôi làm tiệc với nhau rồi ạ!
Khi đó ai ai cũng gật đầu, hớn hở ra mặt.
Cha con tôi sau đó được nhà vua mời ở lại nghỉ ngơi mấy hôm, đặng khi nào khoẻ
lại rồi về. Trưa hôm sau, khi hai cha con tôi đang ăn cơm thì có một người đến, tự
xưng là sứ giả của nhà vua. Ngài ấy mang tới một con chim sẻ và yêu cầu chúng
tại phải dọn thành ba cỗ thức ăn, đó là lệnh vua ban. Nghe xong tôi hoảng hốt, con
chim nhỏ thế kia làm một cỗ cũng không đủ, huống gì làm ba, thỉnh cầu ngài báo
lại vừa về sự vụ. Chưa kịp lấy lại tinh thần, con tôi nhanh nhảu:
- Cha đưa cho con cái kim may ra đây. Rồi nó bảo:
- Ông về tâu với đức vua rằng hãy rèn chiếc kim này thành một con dao để xẻ thịt
chim. Sứ nghe vậy liền về tâu lại với vua. Hôm sau, vua ban thưởng rất hậu hĩnh cho hai cha con tôi.
Chúng tôi trở về quê nhà, cuộc sống có phần sung túc hơn. Cũng năm ấy, nước
láng giềng lăm le xâm chiếm bờ cõi. Nước ta vốn nổi tiếng có nhân tài, anh kiệt,
chúng muốn xem nhân tài nước ta thế nào bèn bảo sứ giả đưa sang một một con ốc
vặn dài, hai đầu bị rỗng, đố làm sao dùng một sợi chỉ xuyên qua ruột ốc. Khi đưa
ra câu đố, các thần và nhà vua tìm mọi cách cũng không trả lời được câu hỏi đầy
oái oăm. Cuối cùng, đành mời sứ thần ở lại để tìm hỏi ý kiến con trai tôi, xem có
minh kiến gì giúp đất nước.
Lúc đó, tôi đang lúi húi với nồi cơm trong bếp, thằng bé chơi bi sau nhà cùng lũ trẻ
con hàng xóm. Khi nghe quan trình bày câu đố của người sứ giả kia, con cất lên lời hát mà rằng:
“Tang tính tang, tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang…”
Nghe xong, viên quan tức tốc trở về hoàng cung. Mấy hôm sau, nhà vua cho người
đến phong con trai tôi làm trạng nguyên, rồi đón hai cha cha con vào cung. Tôi rất
lấy làm tự hào về con trai của mình. Bài văn mẫu số 3
Tôi làm nghề nông. Vợ mất sớm, tôi gà trống nuôi con. Thằng bé còn nhỏ nhưng
nổi tiếng là thông minh.
Một hôm, hai cha con đang cày bừa thì thấy có một viên quan từ đâu tới. Khi đến
gần, viên quan ấy mới cất tiếng hỏi:
- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Tôi chưa biết trả lời sao thì thằng bé đã nhanh miệng hỏi lại:
- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được
mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe xong tỏ vẻ thích thú, còn hỏi tên tuổi cha con tôi rồi đi ngay.
Bấy giờ, vua sai ban cho làng tôi ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh
phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp
đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Dân làng đều tỏ ra lo lắng. Tôi trở về nhà thì thấy con trai chạy lại bảo:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng làm thịt hai trâu và đồ hai
thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một
thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh lo việc đó. Tôi nói với thằng bé:
- Lệnh vua ban như thế, sao dân làng dám cãi lại. Con đừng nghĩ như vậy mà rồi gặp họa.
Thằng bé vẫn kiên quyết, nói đã nghĩ ra cách rồi. Tôi đành đến nói với dân
làng. Cả làng tỏ ra ngờ vực, bắt cha con tôi phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Hai cha con khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, thằng bé bảo tôi đứng
ở ngoài, còn nó thì lẻn vào sân rồng khóc um lên. Tôi lấy làm lo lắng lắm, nhưng
chỉ biết đứng chờ bên ngoài. Khi ra ngoài, thằng bé mới kể lại cho tôi rõ đầu đuôi
sự việc. Nhà vua đã hỏi thằng bé:
- Thằng bé kia, ngươi có việc gì oan ức, sao phải tới đây mà khóc làm ầm ĩ cả hoàng cũng vậy? Nó bình tĩnh trả lời:
- Tâu đức vua con đá mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi
với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua phán:
- Muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố, chứ bố ngươi là giống đực, làm sao mà đẻ được! Nó nói tiếp:
- Thế sao vua lại bắt làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho
đẻ thành chín con để nộp lên vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ! Vua cười bảo:
- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à? Thằng bé hớn hở đáp:
- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của
đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua tỏ ra hài lòng lắm, liền ban thưởng cho thằng bé, rồi cho người đưa hai cha
con tôi về quán trọ. Hôm sau, hai cha con tôi đang ngồi ăn ở quán trọ. Bỗng có sứ
nhà vua mang tới cho một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức
ăn. Nhanh chóng suy nghĩ, thằng bé liền bảo tôi lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
- Phiền ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Vua cho gọi hai cha con tôi vào, ban thưởng rất hậu. Bấy giờ, nước láng giềng lúc
nào cũng lăm le xâm lược đất nước ta. Họ cử viên viên sứ giả sang thăm dò xem
nước ta có nhân tài nào không. Viên sứ giả đến mang theo một con ốc vặn dài,
rỗng hai đầu và một sợi chỉ mảnh, đố các quan trong triều làm thế nào để xâu được
sợi chỉ qua ruột ốc. Các quan làm đủ mọi cách: người thì dùng miệng hút, người
bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Vua bèn mời sứ
giả ở lại cùng nghỉ ngơi vài ngày, kéo dài thời gian cho người đi hỏi ý kiến con trai
tôi. Lúc đó, tôi đang cặm cụi trong bếp. Còn thằng bé thì đang chơi ngoài sân cùng
lũ bạn. Nghe chuyện, nó chỉ liền hát một câu:
“Tang tính tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang! Tính tình tang!”
Viên quan hiểu ra, mừng rỡ quay về bẩm báo lên nhà vua. Nhà vua liền cho người
đến đón hai cha con tôi vào cung. Thằng bé được phong làm trạng nguyên, còn sai
người xây dinh thự ngay trong hoàng cung để tiện hỏi thăm. Tôi lấy làm mát lòng mát dạ lắm!