Sử 11 Cánh Diều bài 13: Việt Nam và biển Đông

Sử 11 Cánh Diều bài 13: Việt Nam và biển Đông được biên soạn dưới dạng file PDF giúp các em học sinh tham khảo, ôn tập đầy đủ các kiến thức, chuẩn bị thật tốt cho kì thi sắp tới. Mời bạn học đón xem!

Thông tin:
10 trang 9 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Sử 11 Cánh Diều bài 13: Việt Nam và biển Đông

Sử 11 Cánh Diều bài 13: Việt Nam và biển Đông được biên soạn dưới dạng file PDF giúp các em học sinh tham khảo, ôn tập đầy đủ các kiến thức, chuẩn bị thật tốt cho kì thi sắp tới. Mời bạn học đón xem!

131 66 lượt tải Tải xuống
Sử 11 Cánh Diều bài 13: Việt Nam biển Đông
1. Mở đầu trang 83 Lịch Sử 11
Vậy Biển Đông tầm quan trọng chiến lược như thế nào đối với Việt Nam? Quá
trình xác lập chủ quyền, quản liên tục cuộc đấu tranh bảo vệ, thực thi chủ
quyền, các quyền lợi ích hợp pháp của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa
quần đảo Trường Sa diễn ra như thế nào? Chủ trương của Việt Nam trong việc giải
quyết các tranh chấp Biển Đông gì?
Lời giải:
- Biển Đông đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc
trong lịch sử, hiện tại tương lai:
+ Biển Đông tuyến phòng thủ phía đông của đất nước. Hệ thống các đảo quần
đảo trên của Việt Nam trên Biển Đông hợp thành tuyến phòng thủ bảo vệ vùng trời,
vùng biển đất liền.
+ Vị trí địa tài nguyên của Biển Đông tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh
tế biển đa dạng với các ngành mũi nhọn như: thương mại biển, khai thác nuôi
trồng thuỷ sản, khai thác khoáng sản, giao thông hàng hải, sửa chữa đóng tàu,
du lịch...
- Việt Nam quốc gia đầu tiên khai phá, xác lập quyền quản liên tục đối với
quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa. Từ thế kỉ XVII đến nay, nhà nước Việt
Nam đã liên tục tiến hành các cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ thực thi chủ quyền,
các quyền lợi ích hợp pháp của Việt Nam hai quần đảo này.
- Đối với các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam chủ trương giải quyết
tranh chấp thông qua biện pháp hòa bình với tinh thần hiểu biết tôn trọng lẫn
nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế.
2. Câu hỏi trang 84 Lịch Sử 11
Trình bày tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam về quốc phòng, an ninh.
Lời giải:
- Biển Đông tầm quan trọng đặc biệt đối với Việt Nam về an ninh - quốc phòng:
+ Việt Nam giáp với Biển Đông ba phía: đông, nam tây nam, đường bờ biển
dài khoảng 3260 km, khoảng 4000 hòn đảo lớn nhỏ nằm gần bờ xa bờ, trong
đó quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa hợp thành hệ thống đảo để bảo
vệ vùng trời, vùng biển đất liền. Các đảo quần đảo của Việt Nam trên Biển
Đông còn cửa ngõ, tuyến phòng thủ bảo vệ đất liền từ xa.
+ Bên cạnh đó, nằm trên tuyến giao thông biển huyết mạch địa bàn chiến lược
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Biển Đông giữ vai trò bảo vệ an ninh hàng
hải, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.
+ Trong tiến trình lịch sử, Biển Đông con đường giao thương giữa các khu vực
trong cả nước giữa Việt Nam với thị trường khu vực quốc tế. Biển Đông cũng
con đường giúp Việt Nam giao lưu hội nhập với các nền văn hoá khác.
=> Biển Đông tạo ra nhiều hội nhưng cũng đặt Việt Nam trước những thách thức
trong việc bảo vệ quốc phòng, an ninh, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong bối
cảnh hội nhập toàn cầu hoá.
3. Câu hỏi trang 85 Lịch Sử 11
Đọc thông tin quan sát Hình 2, nêu tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông đối
với Việt Nam trong phát triển các ngành kinh tế trọng điểm.
Lời giải:
vùng biển vị trí chiến lược quan trọng, tài nguyên phong phú, Biển Đông góp
phần quan trọng vào việc phát triển các ngành kinh tế trọng điểm của Việt Nam như:
giao thông hàng hải, công nghiệp khai khoáng, khai thác tài nguyên sinh vật biển,
nuôi trồng thuỷ sản, du lịch.....
- Về giao thông hàng hải:
+ Hệ thống các cảng biển nước sâu cảng trung bình được xây dựng dọc bờ Biển
Đông điều kiện thuận lợi cho Việt Nam phát triển thương mại hàng hải.
+ Việt Nam những cảng lớn giữ vai trò đầu mối vận chuyển hàng hoá trong
nước quốc tế, như: cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng, cảng Sài Gòn,...
- Về công nghiệp khai khoáng:
+ Dầu khí thềm lục địa Việt Nam trữ lượng lớn với các bể trầm tích, như: Cửu
Long, Nam Côn Sơn,... điều kiện khai thác khá thuận lợi.
+ Vùng biển Việt Nam còn chứa dựng tiềm năng lớn về quặng sa khoáng như: titan,
thiếc, vàng, sắt, thạch cao, cát đen,... những nguồn tài nguyên quý giá.
- Về khai thác tài nguyên sinh vật biển, Biển Đông vùng biển đa dạng về sinh
học, riêng trữ lượng biển trên các vùng biển của Việt Nam ước tính khoảng 3 - 4
triệu tấn, khả năng khai thác 1,4 - 1,6 triệu tấn.
- Về du lịch:
+ Cảnh quan Biển Đông đa dạng với nhiều vũng, vịnh, bãi cát trắng, hang động....
+ Các bán đảo đảo lớn nhỏ liên kết với nhau tạo thành quần thể du lịch như: vịnh
Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh), bãi biển Non Nước (thành phố Đà Nẵng), đảo Phú Quốc
(tỉnh Kiên Giang), phù hợp để phát triển đa dạng nhiều loại hình du lịch.
4. Câu hỏi trang 87 Lịch Sử 11
Dựa vào thông tin hình ảnh, trình bày quá trình xác lập chủ quyền quản liên
tục của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa.
Lời giải:
Các liệu lịch sử của Việt Nam thế giới đều cho thấy Việt Nam quốc gia đầu
tiên khai phá, xác lập chủ quyền quản liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa
quần đảo Trường Sa.
Quá trình khai phá, xác lập chủ quyền quản Việt Nam đối với quần đảo Hoàng
Sa quần đảo Trường Sa thể chia thành những giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Giai đoạn từ thế kỉ XVII đến trước năm 1884:
+ Vào thế kỉ XVII, chúa Nguyễn cho lập Đội Hoàng Sa đến khai thác sản vật, thực thi
chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa. Đến đầu thế kỉ XVIII,
bên cạnh Đội Hoàng Sa trấn giữ các quần đảo Biển Đông, chúa Nguyễn Phúc
Chu còn lập ra Đội Bắc Hải (dưới sự kiêm quản của Đội Hoàng Sa). Đội Bắc Hải
nhiệm vụ khai thác sản vật, kiểm tra, kiểm soát, thực thi chủ quyền của Việt Nam
khu vực Bắc Hải, đảo Côn Lôn các đảo Tiên.
+ Hoạt động của các hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải tiếp tục được duy trì dưới thời Tây
Sơn. Năm 1786, chính quyền Tây Sơn đã ra quyết định sai phái Hội Đức hầu, cai
đội Hoàng Sa chỉ huy 4 chiếc thuyền câu, vượt biển ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ như
cũ. Ngoài ra, chính quyền Tây Sơn còn thành lập các đội Quế Hương, Đại Mạo, Hải
Ba với nhiệm vụ thực thi chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
+ Dưới triều Nguyễn, các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đã được tái lập (1803) đặt trong
tổ chức chung của các đội Trường Đà, nhiệm vụ bảo vệ, quản khai thác sản
vật các khu vực biển đảo. Thời vua Minh Mạng (1820 - 1841), hoạt động xác lập
chủ quyền quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa đã diễn ra với các hình
thức biện pháp như: kiểm tra, kiểm soát, khai thác sản vật biển, tổ chức thu thuế
cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền,...
- Giai đoạn từ năm 1884 đến năm 1954:
+ Từ năm 1884 đến năm 1945, chính quyền thuộc địa Pháp đại diện quyền lợi của
Việt Nam trong quan hệ đối ngoại, luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa, thông qua một số hoạt động như:
dựng cột mốc chủ quyền, xây dựng hải đăng, trạm khí tượng, trạm tuyến điện
thực hiện nhiều cuộc khảo sát khoa học,…
+ Sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), Chính phủ Pháp tiếp tục thực hiện quyền
quản đối với quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa. Theo Hiệp định Ê-ly-dê
ngày 8/3/1949, Pháp bắt đầu quá trình chuyển giao quyền kiểm soát hai quần đảo
này cho Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu.
- Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975:
+ Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo thoả thuận của Hiệp định Giơnevơ năm
1954, quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa được đặt dưới sự quản của
chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
+ Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam
quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa thông qua việc: ban hành các văn bản
hành chính nhà nước; cử quân đồn trú, dựng bia chủ quyền, treo cờ trên các đảo
chính…
+ Trong giai đoạn này, về mặt hành chính, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng
Nam quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Tuy Phước (tỉnh Rịa - Vũng Tàu ngày
nay).
- Giai đoạn từ năm 1975 đến nay:
+ Tháng 4/1975, lực lượng hải quân Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phối hợp
cùng lực lượng đặc công Quân khu 5 tiến hành giải phóng quần đảo Trường Sa.
+ Sau Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
(từ năm 1976 Nhà nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam) thực hiện quyền
quản hành chính đấu tranh về pháp lí, ngoại giao để khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa.
5. Câu hỏi trang 88 Lịch Sử 11
Đọc thông tin quan sát các hình 5, 6, trình bày những nét chính về cuộc đấu tranh
bảo vệ thực thi chủ quyền, các quyền lợi ích hợp pháp của Việt Nam Biển
Đông.
Lời giải:
- Từ thế kỉ XVII đến nay, nhà nước Việt Nam đã liên tục tiến hành các cuộc đấu
tranh nhằm bảo vệ thực thi chủ quyền, các quyền lợi ích hợp pháp của Việt
Nam Biển Đông. Các cuộc đấu tranh diễn ra với những hình thức như trang tự
vệ, đàm phán ngoại giao, bảo vệ hỗ trợ ngư dân bám biển.....
- Nhà nước Việt Nam cũng đã ban hành các chính sách, biện pháp hành động cụ
thể nhằm bảo vệ thực thi chủ quyền Biển Đông như:
+ Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, đưa Việt Nam trở thành
quốc gia biển phát triển mạnh;
+ Xây dựng lực lượng quản lí, bảo vệ biển, đảo về mọi mặt.
+ Thực hiện công tác đối ngoại quốc phòng, đẩy mạnh tuyên truyền về chủ quyền
biển đảo,...
6. Câu hỏi trang 89 Lịch Sử 11
Đọc thông tin quan sát Bảng 1, Hình 7, cho biết chủ trương của Việt Nam trong
việc giải quyết các tranh chấp Biển Đông.
Lời giải:
- Trong bối cảnh toàn cầu hoá, xu thế liên kết hội nhập quốc tế sâu rộng đang
diễn ra, trên sở truyền thống yêu chuộng hoà bình của nhân dân Việt Nam, Nhà
nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam đã thực hiện chủ trương nhất quán trong
việc hợp tác giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng biện pháp hoà
bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
- Một số biện pháp thực hiện chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp
hoà bình của Việt Nam, là:
+ Ban hành các văn bản pháp luật khẳng định chủ quyền, như: Hiến pháp năm
2013; Luật biển Việt Nam năm 2012; Luật Dân quân tự vệ năm 2019,…
+ Tham gia Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS);
+ Thúc đẩy thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các biển Biển Đông
(DOC).
7. Luyện tập 1 trang 89 Lịch Sử 11
Chứng minh: “Việt Nam Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền quản liên tục
đối với quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa trong lịch sử”.
Lời giải:
Các liệu lịch sử của Việt Nam thế giới đều cho thấy Việt Nam quốc gia đầu
tiên khai phá, xác lập chủ quyền quản liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa
quần đảo Trường Sa.
Quá trình khai phá, xác lập chủ quyền quản Việt Nam đối với quần đảo Hoàng
Sa quần đảo Trường Sa thể chia thành những giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Giai đoạn từ thế kỉ XVII đến trước năm 1884:
+ Vào thế kỉ XVII, chúa Nguyễn cho lập Đội Hoàng Sa đến khai thác sản vật, thực thi
chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa. Đến đầu thế kỉ XVIII,
bên cạnh Đội Hoàng Sa trấn giữ các quần đảo Biển Đông, chúa Nguyễn Phúc
Chu còn lập ra Đội Bắc Hải (dưới sự kiêm quản của Đội Hoàng Sa).
+ Hoạt động của các hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải tiếp tục được duy trì dưới thời Tây
Sơn. Năm 1786, chính quyền Tây Sơn đã ra quyết định sai phái Hội Đức hầu, cai
đội Hoàng Sa chỉ huy 4 chiếc thuyền câu, vượt biển ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ như
cũ. Ngoài ra, chính quyền Tây Sơn còn thành lập các đội Quế Hương, Đại Mạo, Hải
Ba với nhiệm vụ thực thi chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
+ Dưới triều Nguyễn, các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đã được tái lập (1803) đặt trong
tổ chức chung của các đội Trường Đà, nhiệm vụ bảo vệ, quản khai thác sản
vật các khu vực biển đảo. Thời vua Minh Mạng (1820 - 1841), hoạt động xác lập
chủ quyền quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa đã diễn ra với các hình
thức biện pháp như: kiểm tra, kiểm soát, khai thác sản vật biển, tổ chức thu thuế
cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền,...
- Giai đoạn từ năm 1884 đến năm 1954:
+ Từ năm 1884 đến năm 1945, chính quyền thuộc địa Pháp đại diện quyền lợi của
Việt Nam trong quan hệ đối ngoại, luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa, thông qua một số hoạt động như:
dựng cột mốc chủ quyền, xây dựng hải đăng, trạm khí tượng, trạm tuyến điện
thực hiện nhiều cuộc khảo sát khoa học,…
+ Sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), Chính phủ Pháp tiếp tục thực hiện quyền
quản đối với quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa. Theo Hiệp định Ê-ly-dê
ngày 8/3/1949, Pháp bắt đầu quá trình chuyển giao quyền kiểm soát hai quần đảo
này cho Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu.
- Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975:
+ Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo thoả thuận của Hiệp định Giơnevơ năm
1954, quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa được đặt dưới sự quản của
chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
+ Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam
quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa thông qua việc: ban hành các văn bản
hành chính nhà nước; cử quân đồn trú, dựng bia chủ quyền, treo cờ trên các đảo
chính…
+ Trong giai đoạn này, về mặt hành chính, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng
Nam quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Tuy Phước (tỉnh Rịa - Vũng Tàu ngày
nay).
- Giai đoạn từ năm 1975 đến nay:
+ Tháng 4/1975, lực lượng hải quân Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phối hợp
cùng lực lượng đặc công Quân khu 5 tiến hành giải phóng quần đảo Trường Sa.
+ Sau Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
(từ năm 1976 Nhà nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam) thực hiện quyền
quản hành chính đấu tranh về pháp lí, ngoại giao để khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa.
8. Vận dụng 1 trang 89 Lịch Sử 11
Viết một thư gửi các chiến đang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt
Nam nhân dịp năm mới.
Lời giải:
(*) Bức thư tham khảo
Nội, ngày......tháng......năm.....
Các anh chiến hải quân Trường Sa kính mến!
Nhân dịp đầu xuân năm mới, từ thành phố Nội, em Nguyễn Phúc An viết thư
này nhằm gửi đến các anh những tình cảm chân thành tự sâu trái tim mỗi học sinh
chúng em đặc biệt gửi đến các anh những lời chúc sức khỏe, may mắn, bình
an….
Theo em được biết, hiện nay các anh rất vất vả căng thẳng đối với việc bảo vệ
vùng biển đảo Tổ Quốc. Giữa chốn ngút ngàn trùng khơi, quanh năm chập chùng
sóng vỗ ấy, em biết các anh phải đương đầu với nhiều thử thách, khó khăn: sự khắc
nghiệt khí hậu, sự thiếu thốn về vật chất - tinh thần, sự đơn buồn giữa đêm
khuya thanh vắng…. rất nhiều rất nhiều, lẽ đó em rất cảm phục, ngưỡng mộ sự
hi sinh thầm lặng của các anh - những người con ưu của Tổ quốc. Với sự cảm
phục đó, từ nơi hậu phương đất liền của thế hệ trẻ chúng em đã tổ chức rất nhiều
hoạt động thiết thực để góp phần sức lực cùng các anh bảo vệ chủ quyền biển đảo
quê hương, như: “Vì Trường Sa thân yêu”, “Góp đá xây Trường Sa”, “Đồng hành
cùng ngư dân trẻ ra khơi”, “Tuổi trẻ hướng về biển, đảo của Tổ quốc”…
Các anh kính mến!
nơi đầu sóng ngọn gió ấy, bốn bề vây quanh nước, các anh buồn không?
Sau một ngày vất vả, gian lao với những nhiệm vụ thì khi màn đêm buông xuống,
các anh lẽ rất nhớ nhà, nhớ người mẹ từng ngày mong con, nhớ người vợ với
nỗi nhớ chồng không nguôi, nhớ con thơ từng ngày đợi cha,… Nhưng em thật khâm
phục khi các anh đã kiên cường vượt qua tất cả những điều đó sứ mạng thiêng
liêng Tổ quốc đã giao phó. Các anh đã hãy yên tâm về hậu phương này,
đây mọi người luôn cố gắng sống làm việc thật tốt để các anh vững tâm thực
hiện nhiệm vụ, mọi người đất liền luôn hướng về vùng đất Anh hùng - nơi các anh
đang công tác sự bình yên của Tổ quốc. bây giờ, em thật thấm thía những lời
thơ của nhà thơ Chế Lan Viên đó ắt hẳn cũng nỗi lòng của các anh:
“Ôi Tổ Quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…
Cuối cùng em đại diện cho những bạn học sinh nơi đất liền gửi tới các anh ngàn lời
yêu thương, mong các anh luôn thật khỏe mạnh để giữ vững tay súng bảo vệ, vùng
trời Tổ Quốc chúc các anh hoàn thành tốt nhiệm vụ!
9. Vận dụng 2 trang 89 Lịch Sử 11
Nêu những việc làm một công dân thể đóng góp cho cuộc đấu tranh bảo vệ
chủ quyền, các quyền lợi ích hợp pháp của Việt Nam Biển Đông.
Lời giải:
(*) Tham khảo:
- Những việc công dân thể làm để góp phần bảo vệ chủ quyền, các quyền
lợi ích hợp pháp của Việt Nam Biển Đông:
+ Chủ động tìm hiểu các liệu lịch sử, pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế,… để
nhận thức đúng đắn về vấn đề: chủ quyền, các quyền lợi ích hợp pháp của
Việt Nam trên Biển Đông.
+ Quan tâm đến đời sống chính trị - hội của địa phương, đất nước.
+ Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, đặc
biệt các chủ trương, chính sách liên quan đến vấn đề chủ quyền biển, đảo; đồng
thời vận động mọi người xung quanh cùng thực hiện đúng các quy định của pháp
luật.
+ Phê phán, đấu tranh với những hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam;
những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc;
+ Tích cực tham gia, hưởng ứng các phong trào bảo vệ chủ quyền biển đảo, dụ
như: “Vì Trường Sa thân yêu”, “Góp đá xây Trường Sa”, “Đồng hành cùng ngư dân
trẻ ra khơi”, “Tuổi trẻ hướng về biển, đảo của Tổ quốc”…
-------------------------------
| 1/10

Preview text:

Sử 11 Cánh Diều bài 13: Việt Nam và biển Đông
1. Mở đầu trang 83 Lịch Sử 11
Vậy Biển Đông có tầm quan trọng chiến lược như thế nào đối với Việt Nam? Quá
trình xác lập chủ quyền, quản lí liên tục và cuộc đấu tranh bảo vệ, thực thi chủ
quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa diễn ra như thế nào? Chủ trương của Việt Nam trong việc giải
quyết các tranh chấp ở Biển Đông là gì? Lời giải:
- Biển Đông đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong lịch sử, hiện tại và tương lai:
+ Biển Đông là tuyến phòng thủ phía đông của đất nước. Hệ thống các đảo và quần
đảo trên của Việt Nam trên Biển Đông hợp thành tuyến phòng thủ bảo vệ vùng trời,
vùng biển và đất liền.
+ Vị trí địa lí và tài nguyên của Biển Đông tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh
tế biển đa dạng với các ngành mũi nhọn như: thương mại biển, khai thác và nuôi
trồng thuỷ sản, khai thác khoáng sản, giao thông hàng hải, sửa chữa và đóng tàu, du lịch...
- Việt Nam là quốc gia đầu tiên khai phá, xác lập quyền và quản lí liên tục đối với
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Từ thế kỉ XVII đến nay, nhà nước Việt
Nam đã liên tục tiến hành các cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ và thực thi chủ quyền,
các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở hai quần đảo này.
- Đối với các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam chủ trương giải quyết
tranh chấp thông qua biện pháp hòa bình với tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn
nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế.
2. Câu hỏi trang 84 Lịch Sử 11
Trình bày tầm quan trọng của Biển Đông đối với Việt Nam về quốc phòng, an ninh. Lời giải:
- Biển Đông có tầm quan trọng đặc biệt đối với Việt Nam về an ninh - quốc phòng:
+ Việt Nam giáp với Biển Đông ở ba phía: đông, nam và tây nam, có đường bờ biển
dài khoảng 3260 km, có khoảng 4000 hòn đảo lớn nhỏ nằm gần bờ và xa bờ, trong
đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa hợp thành hệ thống đảo để bảo
vệ vùng trời, vùng biển và đất liền. Các đảo và quần đảo của Việt Nam trên Biển
Đông còn là cửa ngõ, tuyến phòng thủ bảo vệ đất liền từ xa.
+ Bên cạnh đó, nằm trên tuyến giao thông biển huyết mạch và là địa bàn chiến lược
ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Biển Đông giữ vai trò bảo vệ an ninh hàng
hải, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.
+ Trong tiến trình lịch sử, Biển Đông là con đường giao thương giữa các khu vực
trong cả nước và giữa Việt Nam với thị trường khu vực và quốc tế. Biển Đông cũng
là con đường giúp Việt Nam giao lưu và hội nhập với các nền văn hoá khác.
=> Biển Đông tạo ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt Việt Nam trước những thách thức
trong việc bảo vệ quốc phòng, an ninh, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong bối
cảnh hội nhập và toàn cầu hoá.
3. Câu hỏi trang 85 Lịch Sử 11
Đọc thông tin và quan sát Hình 2, nêu tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông đối
với Việt Nam trong phát triển các ngành kinh tế trọng điểm. Lời giải:
♦ Là vùng biển có vị trí chiến lược quan trọng, tài nguyên phong phú, Biển Đông góp
phần quan trọng vào việc phát triển các ngành kinh tế trọng điểm của Việt Nam như:
giao thông hàng hải, công nghiệp khai khoáng, khai thác tài nguyên sinh vật biển,
nuôi trồng thuỷ sản, du lịch.....
- Về giao thông hàng hải:
+ Hệ thống các cảng biển nước sâu và cảng trung bình được xây dựng dọc bờ Biển
Đông là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam phát triển thương mại hàng hải.
+ Ở Việt Nam có những cảng lớn giữ vai trò đầu mối vận chuyển hàng hoá trong
nước và quốc tế, như: cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng, cảng Sài Gòn,...
- Về công nghiệp khai khoáng:
+ Dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam có trữ lượng lớn với các bể trầm tích, như: Cửu
Long, Nam Côn Sơn,... và có điều kiện khai thác khá thuận lợi.
+ Vùng biển Việt Nam còn chứa dựng tiềm năng lớn về quặng sa khoáng như: titan,
thiếc, vàng, sắt, thạch cao, cát đen,... là những nguồn tài nguyên quý giá.
- Về khai thác tài nguyên sinh vật biển, Biển Đông là vùng biển đa dạng về sinh
học, riêng trữ lượng cá biển trên các vùng biển của Việt Nam ước tính khoảng 3 - 4
triệu tấn, khả năng khai thác 1,4 - 1,6 triệu tấn.
- Về du lịch:
+ Cảnh quan ở Biển Đông đa dạng với nhiều vũng, vịnh, bãi cát trắng, hang động....
+ Các bán đảo và đảo lớn nhỏ liên kết với nhau tạo thành quần thể du lịch như: vịnh
Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh), bãi biển Non Nước (thành phố Đà Nẵng), đảo Phú Quốc
(tỉnh Kiên Giang), phù hợp để phát triển đa dạng nhiều loại hình du lịch.
4. Câu hỏi trang 87 Lịch Sử 11
Dựa vào thông tin và hình ảnh, trình bày quá trình xác lập chủ quyền và quản lí liên
tục của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Lời giải:
♦ Các tư liệu lịch sử của Việt Nam và thế giới đều cho thấy Việt Nam là quốc gia đầu
tiên khai phá, xác lập chủ quyền và quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
♦ Quá trình khai phá, xác lập chủ quyền và quản lí Việt Nam đối với quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa có thể chia thành những giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Giai đoạn từ thế kỉ XVII đến trước năm 1884:
+ Vào thế kỉ XVII, chúa Nguyễn cho lập Đội Hoàng Sa đến khai thác sản vật, thực thi
chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Đến đầu thế kỉ XVIII,
bên cạnh Đội Hoàng Sa trấn giữ các quần đảo ở Biển Đông, chúa Nguyễn Phúc
Chu còn lập ra Đội Bắc Hải (dưới sự kiêm quản của Đội Hoàng Sa). Đội Bắc Hải có
nhiệm vụ khai thác sản vật, kiểm tra, kiểm soát, thực thi chủ quyền của Việt Nam ở
khu vực Bắc Hải, đảo Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên.
+ Hoạt động của các hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải tiếp tục được duy trì dưới thời Tây
Sơn. Năm 1786, chính quyền Tây Sơn đã ra quyết định sai phái Hội Đức hầu, cai
đội Hoàng Sa chỉ huy 4 chiếc thuyền câu, vượt biển ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ như
cũ. Ngoài ra, chính quyền Tây Sơn còn thành lập các đội Quế Hương, Đại Mạo, Hải
Ba với nhiệm vụ thực thi chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
+ Dưới triều Nguyễn, các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đã được tái lập (1803) và đặt trong
tổ chức chung của các đội Trường Đà, có nhiệm vụ bảo vệ, quản lí và khai thác sản
vật ở các khu vực biển đảo. Thời vua Minh Mạng (1820 - 1841), hoạt động xác lập
chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã diễn ra với các hình
thức và biện pháp như: kiểm tra, kiểm soát, khai thác sản vật biển, tổ chức thu thuế
và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền,...
- Giai đoạn từ năm 1884 đến năm 1954:
+ Từ năm 1884 đến năm 1945, chính quyền thuộc địa Pháp đại diện quyền lợi của
Việt Nam trong quan hệ đối ngoại, luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, thông qua một số hoạt động như:
dựng cột mốc chủ quyền, xây dựng hải đăng, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện và
thực hiện nhiều cuộc khảo sát khoa học,…
+ Sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), Chính phủ Pháp tiếp tục thực hiện quyền
quản lí đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Theo Hiệp định Ê-ly-dê
ngày 8/3/1949, Pháp bắt đầu quá trình chuyển giao quyền kiểm soát hai quần đảo
này cho Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu.
- Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975:
+ Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo thoả thuận của Hiệp định Giơnevơ năm
1954, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được đặt dưới sự quản lí của
chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
+ Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam ở
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thông qua việc: ban hành các văn bản
hành chính nhà nước; cử quân đồn trú, dựng bia chủ quyền, treo cờ trên các đảo chính…
+ Trong giai đoạn này, về mặt hành chính, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng
Nam và quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Tuy Phước (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay).
- Giai đoạn từ năm 1975 đến nay:
+ Tháng 4/1975, lực lượng hải quân Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phối hợp
cùng lực lượng đặc công Quân khu 5 tiến hành giải phóng quần đảo Trường Sa.
+ Sau Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
(từ năm 1976 là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) thực hiện quyền
quản lí hành chính và đấu tranh về pháp lí, ngoại giao để khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
5. Câu hỏi trang 88 Lịch Sử 11
Đọc thông tin và quan sát các hình 5, 6, trình bày những nét chính về cuộc đấu tranh
bảo vệ và thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông. Lời giải:
- Từ thế kỉ XVII đến nay, nhà nước Việt Nam đã liên tục tiến hành các cuộc đấu
tranh nhằm bảo vệ và thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt
Nam ở Biển Đông. Các cuộc đấu tranh diễn ra với những hình thức như vũ trang tự
vệ, đàm phán ngoại giao, bảo vệ và hỗ trợ ngư dân bám biển.....
- Nhà nước Việt Nam cũng đã ban hành các chính sách, biện pháp và hành động cụ
thể nhằm bảo vệ và thực thi chủ quyền ở Biển Đông như:
+ Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, đưa Việt Nam trở thành
quốc gia biển phát triển mạnh;
+ Xây dựng lực lượng quản lí, bảo vệ biển, đảo về mọi mặt.
+ Thực hiện công tác đối ngoại quốc phòng, đẩy mạnh tuyên truyền về chủ quyền biển đảo,...
6. Câu hỏi trang 89 Lịch Sử 11
Đọc thông tin và quan sát Bảng 1, Hình 7, cho biết chủ trương của Việt Nam trong
việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Lời giải:
- Trong bối cảnh toàn cầu hoá, xu thế liên kết và hội nhập quốc tế sâu rộng đang
diễn ra, trên cơ sở truyền thống yêu chuộng hoà bình của nhân dân Việt Nam, Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thực hiện chủ trương nhất quán trong
việc hợp tác giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng biện pháp hoà
bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.
- Một số biện pháp thực hiện chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp
hoà bình của Việt Nam, là:
+ Ban hành các văn bản pháp luật khẳng định chủ quyền, như: Hiến pháp năm
2013; Luật biển Việt Nam năm 2012; Luật Dân quân tự vệ năm 2019,…
+ Tham gia Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS);
+ Thúc đẩy và thực hiện đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các biển ở Biển Đông (DOC).
7. Luyện tập 1 trang 89 Lịch Sử 11
Chứng minh: “Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và quản lí liên tục
đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trong lịch sử”. Lời giải:
♦ Các tư liệu lịch sử của Việt Nam và thế giới đều cho thấy Việt Nam là quốc gia đầu
tiên khai phá, xác lập chủ quyền và quản lí liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
♦ Quá trình khai phá, xác lập chủ quyền và quản lí Việt Nam đối với quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa có thể chia thành những giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Giai đoạn từ thế kỉ XVII đến trước năm 1884:
+ Vào thế kỉ XVII, chúa Nguyễn cho lập Đội Hoàng Sa đến khai thác sản vật, thực thi
chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Đến đầu thế kỉ XVIII,
bên cạnh Đội Hoàng Sa trấn giữ các quần đảo ở Biển Đông, chúa Nguyễn Phúc
Chu còn lập ra Đội Bắc Hải (dưới sự kiêm quản của Đội Hoàng Sa).
+ Hoạt động của các hải đội Hoàng Sa, Bắc Hải tiếp tục được duy trì dưới thời Tây
Sơn. Năm 1786, chính quyền Tây Sơn đã ra quyết định sai phái Hội Đức hầu, cai
đội Hoàng Sa chỉ huy 4 chiếc thuyền câu, vượt biển ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ như
cũ. Ngoài ra, chính quyền Tây Sơn còn thành lập các đội Quế Hương, Đại Mạo, Hải
Ba với nhiệm vụ thực thi chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
+ Dưới triều Nguyễn, các đội Hoàng Sa, Bắc Hải đã được tái lập (1803) và đặt trong
tổ chức chung của các đội Trường Đà, có nhiệm vụ bảo vệ, quản lí và khai thác sản
vật ở các khu vực biển đảo. Thời vua Minh Mạng (1820 - 1841), hoạt động xác lập
chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đã diễn ra với các hình
thức và biện pháp như: kiểm tra, kiểm soát, khai thác sản vật biển, tổ chức thu thuế
và cứu hộ tàu bị nạn, khảo sát đo vẽ bản đồ, dựng miếu thờ, lập bia chủ quyền,...
- Giai đoạn từ năm 1884 đến năm 1954:
+ Từ năm 1884 đến năm 1945, chính quyền thuộc địa Pháp đại diện quyền lợi của
Việt Nam trong quan hệ đối ngoại, luôn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, thông qua một số hoạt động như:
dựng cột mốc chủ quyền, xây dựng hải đăng, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện và
thực hiện nhiều cuộc khảo sát khoa học,…
+ Sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), Chính phủ Pháp tiếp tục thực hiện quyền
quản lí đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Theo Hiệp định Ê-ly-dê
ngày 8/3/1949, Pháp bắt đầu quá trình chuyển giao quyền kiểm soát hai quần đảo
này cho Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu.
- Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975:
+ Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo thoả thuận của Hiệp định Giơnevơ năm
1954, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa được đặt dưới sự quản lí của
chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
+ Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam ở
quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thông qua việc: ban hành các văn bản
hành chính nhà nước; cử quân đồn trú, dựng bia chủ quyền, treo cờ trên các đảo chính…
+ Trong giai đoạn này, về mặt hành chính, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng
Nam và quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Tuy Phước (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay).
- Giai đoạn từ năm 1975 đến nay:
+ Tháng 4/1975, lực lượng hải quân Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phối hợp
cùng lực lượng đặc công Quân khu 5 tiến hành giải phóng quần đảo Trường Sa.
+ Sau Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
(từ năm 1976 là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) thực hiện quyền
quản lí hành chính và đấu tranh về pháp lí, ngoại giao để khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
8. Vận dụng 1 trang 89 Lịch Sử 11
Viết một lá thư gửi các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam nhân dịp năm mới. Lời giải:
(*) Bức thư tham khảo
Hà Nội, ngày......tháng......năm.....
Các anh chiến sĩ hải quân Trường Sa kính mến!
Nhân dịp đầu xuân năm mới, từ thành phố Hà Nội, em là Nguyễn Phúc An viết thư
này nhằm gửi đến các anh những tình cảm chân thành tự sâu trái tim mỗi học sinh
chúng em và đặc biệt là gửi đến các anh những lời chúc sức khỏe, may mắn, bình an….
Theo em được biết, hiện nay các anh rất vất vả và căng thẳng đối với việc bảo vệ
vùng biển đảo Tổ Quốc. Giữa chốn ngút ngàn trùng khơi, quanh năm chập chùng
sóng vỗ ấy, em biết các anh phải đương đầu với nhiều thử thách, khó khăn: sự khắc
nghiệt khí hậu, sự thiếu thốn về vật chất - tinh thần, sự cô đơn buồn bã giữa đêm
khuya thanh vắng…. rất nhiều và rất nhiều, vì lẽ đó em rất cảm phục, ngưỡng mộ sự
hi sinh thầm lặng của các anh - những người con ưu tú của Tổ quốc. Với sự cảm
phục đó, từ nơi hậu phương đất liền của thế hệ trẻ chúng em đã tổ chức rất nhiều
hoạt động thiết thực để góp phần sức lực cùng các anh bảo vệ chủ quyền biển đảo
quê hương, như: “Vì Trường Sa thân yêu”, “Góp đá xây Trường Sa”, “Đồng hành
cùng ngư dân trẻ ra khơi”, “Tuổi trẻ hướng về biển, đảo của Tổ quốc”… Các anh kính mến!
Ở nơi đầu sóng ngọn gió ấy, bốn bề vây quanh là nước, các anh có buồn không?
Sau một ngày vất vả, gian lao với những nhiệm vụ thì khi màn đêm buông xuống,
các anh có lẽ rất nhớ nhà, nhớ người mẹ từng ngày mong con, nhớ người vợ với
nỗi nhớ chồng không nguôi, nhớ con thơ từng ngày đợi cha,… Nhưng em thật khâm
phục khi các anh đã kiên cường vượt qua tất cả những điều đó vì sứ mạng thiêng
liêng mà Tổ quốc đã giao phó. Các anh đã hãy yên tâm về hậu phương này, vì ở
đây mọi người luôn cố gắng sống và làm việc thật tốt để các anh vững tâm thực
hiện nhiệm vụ, mọi người ở đất liền luôn hướng về vùng đất Anh hùng - nơi các anh
đang công tác vì sự bình yên của Tổ quốc. Và bây giờ, em thật thấm thía những lời
thơ của nhà thơ Chế Lan Viên và đó ắt hẳn cũng là nỗi lòng của các anh:
“Ôi Tổ Quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…
Cuối cùng em đại diện cho những bạn học sinh nơi đất liền gửi tới các anh ngàn lời
yêu thương, mong các anh luôn thật khỏe mạnh để giữ vững tay súng bảo vệ, vùng
trời Tổ Quốc … chúc các anh hoàn thành tốt nhiệm vụ!
9. Vận dụng 2 trang 89 Lịch Sử 11
Nêu những việc làm mà một công dân có thể đóng góp cho cuộc đấu tranh bảo vệ
chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông. Lời giải: (*) Tham khảo:
- Những việc mà công dân có thể làm để góp phần bảo vệ chủ quyền, các quyền và
lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở Biển Đông:
+ Chủ động tìm hiểu các tư liệu lịch sử, pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế,… để
có nhận thức đúng đắn về vấn đề: chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của
Việt Nam trên Biển Đông.
+ Quan tâm đến đời sống chính trị - xã hội của địa phương, đất nước.
+ Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, đặc
biệt là các chủ trương, chính sách liên quan đến vấn đề chủ quyền biển, đảo; đồng
thời vận động mọi người xung quanh cùng thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
+ Phê phán, đấu tranh với những hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo Việt Nam;
những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc;
+ Tích cực tham gia, hưởng ứng các phong trào bảo vệ chủ quyền biển đảo, ví dụ
như: “Vì Trường Sa thân yêu”, “Góp đá xây Trường Sa”, “Đồng hành cùng ngư dân
trẻ ra khơi”, “Tuổi trẻ hướng về biển, đảo của Tổ quốc”…
-------------------------------