



















Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
-------------------------------
TIỂU LUẬN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH
THẮNG LỢI TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC ( 1954-1975 ) HỌ VÀ TÊN :
LÊ HỒNG NGỌC MÃ SINH VIÊN : 2156090039 LỚP
: BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ CLC
Hà Nội, tháng 1 năm 2022 0
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài ……………………………………………………………2 NỘI DUNG
I.TÌNH HÌNH XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC KHI CÓ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1.1 Tình hình xã hội trước khi Đảng ra đời……………………………………..3
1.2 Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời………………4
II. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ YẾU TỐ TẤT YẾU
2.1 Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước………………………..4
2.2 Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam………………..………………………..5
2.3 Ý nghĩa lịch sử………………………………………………………………… 7
III. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC ( 1954 - 1975 )
3.1 Bối cảnh lịch sử……………………………………………………………….8
3.2 Chiến lược của Đảng
3.2.1 Khôi phục kinh tế miền Bắc và giữ gìn lực lượng ở miền Nam………….9
3.2.2 Xây dựng bảo vệ miền Bắc, đánh thắng ba chiến lược chiến tranh của đế
quốc Mỹ ………………………………………………………………………….11
3.2.3 Chiến tranh đặc biệt (1961-1965) ………………………………………..13
3.2.3 Chiến tranh cục bộ (1965-1968)……………………………………………15
3.2.4 Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân…………………………………16
3.3 Chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ và chủ trương
chuyển hướng chiến lược của Đảng………………………………. …
. …………19
3.4 Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ……………………………………….20
VI. HIỆP ĐỊNH PARI ĐƯỢC KÝ KẾT………………………………………..21
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….22
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….. … . ….. 23 1
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954– 1975) đó một cuộc chiến tranh vô
cùng khóc khốc liệt, ác liệt nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của
dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta đã trải qua bao năm đấu tranh thì ta cũng
đã giành được chiến thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông ta
đã thu về làm một. Chiến công đó chính là một biểu tượng sáng ngời của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế
giới như một chiến công vĩ đại, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế và
có tính thời đại sâu sắc. Chính thắng lợi đó đã đánh dấu một bước ngoặc
mới trong quá trình mở đường cho dân tộc Việt Nam bước vào thời kì
mới- kỉ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, đi lên xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại những kì tích vĩ đại của Cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, thống nhất đất nước, càng làm chúng
ta thấy rõ vai trò to lớn của Đảng được thể hiện ở mọi mặt : công tác lãnh
đạo, chỉ đạo trong cuộc kháng chiến chống Mỹ “quyết tâm đánh Mỹ và
thắng Mỹ” . Đó cũng là lí do em chọn đề tài tiểu luận : Sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( 1954-1975 ). 2
I.TÌNH HÌNH XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC KHI CÓ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1.1 Tình hình xã hội trước khi Đảng ra đời.
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế
độ thống trị vô cùng tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên nước ta.
Về chính trị, chúng lập ra chế độ thống trị tàn bạo, thi hành những chính sách cai trị
chuyên chế, biến những giai cấp tư sản mại bản, địa chủ phong kiến thành tay sai
đắc lực để có thể thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố dã man, tàn bạo, chia rẽ dân
tộc ta,... Tạo nên sự xấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng
của chế độ thuộc địa. Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta
mất hết quyền tự do, độc lập,mọi phong tào yêu nước đều bị đàn áp dã man, mọi
phong trào tiến bộ từ bên ngoài sẽ đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, khai thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản Pháp, sức lao động
của nhân còn bị bóc lột “tới tận xương tuỷ” khiến đời sống của nhân dân ta bần cùng
hóa, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra những thứ thuế
vô lý, vô nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến, làm cho kinh tế bị què
quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, kéo đến hậu quả nghiêm trọng.
Về văn hoá - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hóa nô
dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tối tăm, lạc hậu, chậm phát
triển, dốt nát, phải chấp nhận phục tùng, lệ thuộc.
Dưới sự tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ cấu kết
với thực dân để tăng cường bóc lột nhân dân ta. Tuy nhiên, chính trong lúc này nội
bộ địa chủ Việt Nam có sự phân hoá rõ rệt. Một bộ phận có lòng yêu nước, căm ghét
chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và ở những
độ khác nhau. Giai cấp nông dân chính là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt
Nam , bị thực dân và phong kiến áp bức một cách nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn
khổ của giai cấp nông dân đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và tay sai, tăng
thêm ý chí cách mạng đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền tự do. Giai cấp công
nhân ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa phần xuất
thân từ nông dân, có quan hệ chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị áp bức. Giai cấp tư
sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa chèn ép. Tầng lớp tiểu tư sản Việt
Nam gồm học sinh, trí thức, …. đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô
sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, có khả năng tiếp thu những
tư tưởng tiến bộ từ nước ngoài truyền vào. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt
Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác
nhau, đều bị áp bức, bóc lột. Từ đó, trong xã hội , ngoài những mâu thuẫn cơ bản
giữa nhân dân, chủ yếu là nông nhân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh
những mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và càng ngày càng gay gắt với đời sống 3
của nhân dân. Đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp.
Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến đặt ra
hai yêu cầu lớn : Phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc lập cho dân
tộc, tự do cho nhân dân. Xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ, chủ yếu
là lấy lại ruộng đất cho nhân dân. Trong đó, chống đế quốc vẫn là nhiệm vụ hàng đầu.
Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong
kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với
đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt
ra, cần được giải quyết.
1.2 Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời.
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước đầy gian khổ, thì dân tộc ta đã
sớm hình thành lòng yêu nước nồng nàn với tinh thần anh hùng kiên cường, bất
khuất. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên để đấu
tranh chống lại quân xâm lược. Chúng ta có thể thấy từ năm 1858 đến trước năm
1930, hàng trăm các cuộc khởi nghĩa, những phong trào chống Pháp đã nổ ra theo
rất nhiều khuynh hướng khác nhau , như cuộc khởi nghĩa của Trương Công , Thủ
Khoa Huân, hay như phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du , Đông Kinh,..
hay các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám ,.. lãnh đạo. Điểm
chung đây đều là những cuộc đấu tranh đứng lên vì nhân dân, vì độc lập vô cùng anh
dũng thế nhưng dập tắt, thất bại.
Nguyên do chính dẫn tới sự thất bại chung của những phong trào là do những người
đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đều chưa tìm được hướng đi đúng đắn
cho con đường cứu nước, điều đó cũng phản ánh đúng tư tưởng, sự phát triển của xã
hội lúc bấy giờ. Cách mạng cứu nước của ta đã thực sự rơi vào khủng hoảng, bế tắc.
Việc cấp thiết lúc bấy giờ chính là tìm ra một con đường cứu nước đúng đắn, phù
hợp với thực tiễn đấu tranh để có thể giải phóng dân tộc, lấy lại tự do.
II. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ YẾU TỐ TẤT YẾU
2.1 Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Giữa lúc tình hình cách mạng Việt Nam đang lâm vào con đường khủng hoảng khi
tìm ra con đường để cứu nước. Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890, quê ở làng
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ, có tên là Nguyễn Tất Thành,
lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, cảnh lầm than của nhân dân, Nguyễn Tất Thành
sớm có ý chí đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng dân tộc.
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành ( Nguyễn Ái Quốc ) rời đất nước bắt đầu ra đi
tìm đường cứu nước, học hỏi các tư tưởng tiên tiến của các nước khác rồi quay về giúp đồng bào ta. 4
Trên con đường tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua rất nhiều bước
ngoặt lớn.Người đã nhận ra được những hạn chế của những nhà yêu nước đương
thời. Không những vậy, Người còn tìm ra những hạn chế của cách mạng dân chủ tư
sản là những cuộc cách mạng không giải phóng được công nông và quần chúng lao
động. Nguyễn Tất Thành đã đi qua rất nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động vừa học
tập, cùng với đó là nghiên cứu những lý luận, rút ra những kinh nghiệm từ các cuộc
cách mạng tư sản Mỹ ( năm 1776 ) và Cách mạng tư sản Pháp ( năm 1789 ).
Tiếp theo đó, đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc Tế
Cộng Sản. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là sự kiện chính trị lớn
nhất của thế kỷ XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản. Chính thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với những người cách mạng Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc vô cùng ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó và kính phục V.I. Lênin
và đã tham gia nhiều cuộc ủng hộ nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đã giải đáp những vấn đề mà
Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc, nhận ra rõ lập trường của V.I.Lênin và Quốc tế thứ
ba khắc hẳn lời tuyên bố suông của Quốc tế thứ hai. Người đã tán thành Quốc tế thứ
ba, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản.
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với
tư cách đại biểu Đông Dương, người bỏ phiếu tán thành thành lập Đảng Cộng sản
Pháp và trở thành người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Trở thành người cộng sản , Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin về nước. Quá trình đó cũng là quá trình Người từng bước vạch ra đường lối
chiến lược cho con đường Cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản
Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc,
đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường
Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách
mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời
của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
2.2 Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc trước tiên đã thúc đẩy phong trào công
nhân và phong trào nông dân lên cao. 5
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, đội ngũ công nhân Việt Nam có khoảng mười
vạn người. Các cuộc đấu tranh chống bọn chủ của công nhân Việt Nam được diễn
ra với nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ việc phá giao kèo, bỏ việc bãi công. Họ
biết liên kết công nhân nhiều xí nghiệp cùng đấu tranh và liên hệ với công nhân Pháp
và công nhân Trung Quốc. Đã có rất nhiều cuộc đấu tranh như : tháng 8-1925 cuộc
bãi công tiêu biểu của hơn 1.000 công nhân binh xưởng Ba Sơn ( Sài Gòn ) do Tôn
Đức Thắng lãnh đạo đã giành thắng lợi, trong hai năm 1926-1927, có 17 cuộc đấu
tranh của công nhân trong cả nước. Tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân Nhà
máy sợi Nam Định ( tháng 7-1926 ), đồn điền Cam Tiên ( tháng 12 - 1926 ), năm
1928 có cuộc bãi công nổ ra tại mỏ than Mạo Khê, Nhà máy đá Laruy ( Larue ),....
Các cuộc đấu tranh đã thể hiện rõ tinh thần đoàn kết giai cấp, ý thức tổ chức của các
công nhân. Chính báo chí của thực dân Pháp cũng đã thừa nhận : “ Từ đây, hành
động tập thể của những người lao động đã thay thế cho những âm mưu của các hội kín”
Những phong trào nông dân đã đã phát triển khá mạnh ở nhiều trong cả nước. Năm
1927, nông dân làng Ninh Thạnh Lợi ( Rạch Giá) đấu tranh chống thực dân và địa
chủ đã chiếm đất đến đổ máu. Các nông dân thuộc các tỉnh Hà Nam, Nam Định ,
Ninh Bình,... cũng đã đứng lên đấu tranh chống lại bọn địa chủ cướp đất, bãi sa bồi,..
Cả hai phong trào công nhân và nông dân đều đã hỗ trợ, tương trợ lẫn nhau.Để đáp
ứng đòi hỏi từ thực tiễn cách mạng, ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện 3 tổ chức Cộng
sản : Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ và
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở Trung kỳ. Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản diễn
ra trong vòng nửa cuối năm 1929 là bước tiến nhảy vọt của phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử
Việt Nam. Tuy nhiên, ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi
sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động.
Trong bối cảnh đó, nhận thấy sự cần thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản duy
nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam, ngày 23-12-1929,
Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm đến Trung Quốc. Người triệu tập đại biểu của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại bán đảo Cửu Long
(Hương Cảng) để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Báo cáo gửi Quốc tế
cộng sản ngày 18-2-1930 của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị diễn ra vào ngày 6-1, các
đại biểu trở về An Nam ngày 8-2-1930.
Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo
luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung
đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị
đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi 6
đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp
bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.
Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng có giá trị
như cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày
3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm Ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì
mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung
cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức
thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng
sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Đáp ứng đòi hỏi của phong trào cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc chủ động
triệu tập các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng bàn việc hợp nhất.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng
của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam
đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào
cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, phong trào yêu nước và phong trào công nhân ở
Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn
của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm
nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
2.3 Ý nghĩa lịch sử
Việc hợp nhất đã quy tụ ba tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất ở
Việt Nam theo một đường lối chính trị đúng đắn, đã dẫn đến sự thống nhất về tư
tưởng và cả hành động của phong trào cách mạng cả nước, tạo nên một truyền thống
về sự đoàn kết của Đảng và dân tộc từ đó về sau. 7
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chính là một bước ngoặt to lớn trong Cách mạng
lịch sử của dân tộc ra, chấm dứt cuộc khủng hoảng trên con đường tìm đường cứu
nước, Đảng sẽ chính là cơ sở dẫn đến những thắng lợi oanh liệt và là một bước nhảy
vọt trong lịch sử dân tộc vào những năm sau.
Vị lãnh tụ vĩ đại - Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã viết về sự kiện Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời : “ Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành
và đủ sức lãnh đạo cách mạng” .
III. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC ( 1954 - 1975 )
3.1 Bối cảnh lịch sử
Trong lúc nhân dân ta bước vào thời kỳ mới giữa lúc phong trào cách mạng trên thế
giới tiếp tục dâng cao. Sự lớn mạnh của các nước Liên Xô, sự hình thành hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới và thắng lợi mới của phong trào độc lập dân tộc ở
Inđônêxia, Ấn Độ, Ai Cập, Cuba,.... và với xu thế hào bình, trung lập đã làm lung
lay tận gốc chủ nghĩa thực dân cũ và bước đầu đã gây khủng hoảng cho chủ nghĩa thực dân mới.
Những khó khăn trong thời kỳ mới xuất phát từ âm mưu bá chủ thế giới của Mỹ
bằng chiến lược ngăn cản sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và đánh phá phong trào
giải phóng dân tộc. Trong chiến lược đó, Việt Nam trở thành đối tượng xâm lược trọng điểm của Mỹ.
Đặc trưng chủ yếu của thời kỳ mới ở nước ta là chế độ của của thực dân Pháp chấm
dứt trên toàn bộ bán đảo Đông Dương, nhưng chế độ thực dân mới của Mỹ lại thay
Pháp thống trị miền Nam của Việt Nam, uy hiếp Campuchia và khống chế Lào; miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong khi bấy giờ miền
Nam lại trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ.
Ngày 8-8-1954, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ do Tổng thống Aixenhao chủ trì đã
ra Quyết định NCS 5429/2 với nội dung cơ bản : Pháp phải nhanh chóng rút quân
khỏi miền Nam Việt Nam và phải ủng hộ Ngô Đình Diệm; Mỹ trực tiếp viện trợ cho
ngụy quyền Sài Gòn không qua Pháp ; loại bỏ Bảo Đại, những tay sai lâu đời của Pháp.
Ngày 7-7-1954, ở miền Nam, một nội các bù nhìn tay sau Mỹ được thành lập do
Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng. Ngày 17-7-1955,
Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử. Ngày 23-2 - 0 1955, Diệm tổ chức
“trưng cầu dân ý” phế truất vua Bảo Đại và lên làm Tổng thống.
Hệ thống cố vấn Mỹ không những ở Phủ Tổng thống, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Nha
sát cảnh, các bộ của nguỵ quyền Sài Gòn mà ở các đơn vị quân đội nguỵ và các địa phương khác. 8
Sau khi gạt Pháp ra khỏi guồng máy cai trị và đã độc chiếm miền Nam, Mỹ - nguỵ
tập trung mũi đàn áp cách mạng. Chúng liên tiếp mở những cuộc hành quân càn
quét, các chiến dịch “tố cộng” với khẩu hiệu “ đạp lên oán thù, thà giết lầm còn hơn
bỏ sót” hay “ dĩ Đảng trị Đảng, dĩ dân trị dân”. Cuối năm 1955, hàng trăm ngàn cán
bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước đều bị giết hại.
Mỹ tin chắc rằng với bộ máy chính quyền của ngụy và đội quân nguỵ có nhãn hiệu
độc lập hơn hẳn nguỵ quyền và nguỵ quân thời Pháp, chúng nghĩ sẽ thắng được cách
mạng Việt Nam. Nhưng thực tế chúng đã đánh giá thấp dân ta, nhất là khi Việt Nam
có Đảng Mác - Lênin lãnh đạo, Mỹ đánh giá quá cao chính sách thực dân mới và tiềm lực của Mỹ.
Giờ đây đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới đang là vấn đề chính của nước ta. Kẻ
thù của chúng ta giờ đây không còn là thực dân Pháp bại trận và suy yếu, mà là đế
quốc Mỹ, chúng có tiềm lực về kinh tế và lực lượng quốc phòng mạnh hơn các đế quốc khác.
Lực lượng cách mạng ở miền Nam tạm thời ở thế giữ gìn lực lượng. Sau khi quân
đội ra rút đi các tổ chức cách mạng ở miền Nam phát rút vào hoạt động bí mật, hoạt động không hợp pháp.
Còn miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng do Nhân dân làm chủ đi theo xu thế tất yếu
là quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trước mắt, miền Bắc phải hàn gắn xong những
vết thương nặng nề của chiến tranh. Cách mạng đã chuyển giai đoạn, nhưng Đảng
lãnh đạo cách mạng chưa kịp chuyển biến về nhận thức, về đường lối tổ chức.
Những thuận lợi mới và những căn bản đã đảm bảo cho cách mạng nước ta nhất định
thắng lợi. Còn những khó khan mới sẽ đòi nước ta phải cố gắng vượt qua thời kỳ gian khổ lâu dài.
Trách nhiệm lịch sử đặt lên vai Đảng Lao động Việt Nam, đội tiên phong cách
mạng của Nhân dân Việt Nam, là phải tìm ra đáp số cho bài toán về con đường
giải phóng miền Nam và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
trong điều kiện Mỹ đã thay Pháp thống trị miền Nam.
3.2 Chiến lược của Đảng
3.2.1 Khôi phục kinh tế miền Bắc và giữ gìn lực lượng ở miền Nam.
Trước hết, đường lối chính trị, quân sự và phương hướng tiến hành chiến tranh cách
mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình các mặt, nhất là tình
hình trong nước và bối cảnh quốc tế, Đảng ta đã vạch ra đường lối tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Đảng cũng sớm khẳng định: vì giải phóng miền Nam, phải bảo vệ và
xây dựng miền Bắc, và để bảo vệ, xây dựng miền Bắc, phải đánh thắng giặc Mỹ ở
miền Nam; hai nhiệm vụ đó kết hợp chặt chẽ với nhau trên phạm vi chiến lược, nhằm 9
một mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, thực hiện thống nhất nước nhà. Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc
đáo của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Theo đó, cùng với
xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, giữ vai trò là hậu phương lớn cho
tiền tuyến lớn, Đảng ta hết sức coi trọng việc xây dựng, phát triển lực lượng và trực
tiếp lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh cách mạng miền Nam.
Trong Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II từ ngày 15-
17/7/1954 tại Việt Bắc dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị đã xem
xét và đánh giá tình hình mới và vạch ra chiến lược của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đọc bản báo cáo quan trọng mạng tên Tình hình mới và nhiệm vụ mới.Báo cáo
nhận định : sau chiến thắng lớn ở Điện Biên Phủ , thế ta ngày càng mạnh, thế địch
ngày càng yếu nhưng thế mạnh và thế yếu ấy là tương đối. Đế quốc Mỹ âm mưu kéo
dài chiến tranh Đông Dương , phá hoại hiệp định G ơn i
evơ, tìm cách hất cẳng Pháp
để độc chiếm Việt Nam, Campuchia và Lào, biến nhân dân ba nước thành nước nô lệ của Mỹ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng “ … cho nên mọi việc của ta đều nhằm
chống đế quốc Mỹ. Bất kỳ người nào nước nào không thân Mỹ đều có thể làm mặt
trận thống nhất ( tạm thời ) với ta”
Trong bản báo cáo đã nêu rõ, nếu muốn lập lại hòa bình, chấm dứt chiến chiến tranh,
phải điều chỉnh khu vực, nghĩa là quân đội địch phải tập trung vào một vùng để rút
dần, còn dân ta phải tập trung vào một vùng để xây dựng, tạo điều kiện đi lên thống nhất.
Cùng với đó, bản báo cáo đã nhận định: Tranh lấy hòa bình không phải là chuyện
dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức tạp.
Ba nhiệm vụ chính được nêu ra trong bản báo cáo :
“1- Tranh thủ củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ toàn quốc
2- Tăng cường lực lượng quân đội nhân dân, xây dựng một quân đội nhân dân mạnh
mẽ và thích hợp với yêu cầu của tình thế mới
3- Tiếp tục thực hiện người cày có ruộng; ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị điều
kiện kiến thiết nước nhà”
Chủ yếu công tác trước mắt làm cho toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhận rõ tính
chất, nội dung tình hình và nhiệm vụ mới.
Bản báo cáo Để hoàn thành nhiệm vụ và đẩy mạnh công tác trước mắt đã được trình
bày và hội nghị đã thảo luận và hoàn toàn nhất trí với sự chuyển hướng mới do Chủ
tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh nêu ra.
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra Lời kêu gọi đồng bào và cán bộ chiến sĩ cả nước.
Ngày 5-9-1954, Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết cụ thể
hóa và bổ sung thêm nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu. Đặc điểm quan trọng nhất 10
trong tình hình mới là miền Nam, Bắc tạm thời chia thành hai vùng. Cuộc đấu tranh
của nhân dân miền Nam phải chuyển sang từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính
trị. Cùng ngày thì Bộ chính trị ra bản chỉ thị riêng cho Đảng bộ miền Nam. Chỉ thị
vạch ra ba nhiệm vụ chính trước mắt :
“1- Đấu tranh đòi đối phương thi hành đúng Hiệp định.
2- Chuyển hướng công tác cho thích hợp điều kiện mới, nắm vững phương châm,
chính sách mới, sắp xếp cán bộ, bố trí lực lượng, vừa phải che giấu lực lượng vừa
lợi dụng các khả năng công khai, hợp pháp.
3- Tập trung mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình, thống nhất, đấu tranh đánh
đổ chính quyền Ngô Đình Diệm thân Mỹ, lập ra chính quyền tán thành hòa bình
thống nhất, độc lập, dân chủ cải thiện dân sinh, tăng cường vận động ngụy quân, ngụy quyền.”
Về sự lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam, chỉ thị vạch rõ tổ chức đảng phải bí mật,
gọn nhẹ, vững chắc, trong sạch, chống gian tế chui vào.
Tiếp theo về việc xây dựng miền Bắc, tháng 9-1954, Nghị quyết Bộ chính trị đã vạch
rõ trong thời kỳ tiếp quản không phải tiến hành cải tạo xã hội mà là ổn định xã hội,
ổn định vật giá, ổn định thị thường, những hoạt động của thành phố và nông thôn sẽ
trở lại bình thường sau đó mới cải cách những bước cần thiết một cách thận trọng
nhất. Nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi
kinh tế, then chốt là phục hồi nền sản xuất nông nghiệp, giao thông vận tải. Tăng
cường mở rộng hoạt động quốc tế dựa trên nguyên tác bình đẳng, hai bên đều có lợi,
tôn trọng lãnh thổ, chủ quyền của nhau; tập hợp mũi nhọn để có thể chống đế quốc
Mỹ, mở rộng các mối quan hệ với các nước Đông Nam Á, nước Pháp, ngoài ra cần
phải củng cố tình hữu nghị giữa các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Hội nghị lần thứ bảy ( tháng 3- 1955) và lần thứ 8 ( tháng 8-1955) đều đã chỉ ra và
nhận định rõ : muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai cần củng cố nền hào bình, thực
hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ, điều cốt yếu phải ra sức củng cố miền
Bắc , miền Băc dần tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị Bộ chính trị tháng 6 – 1956 bổ sung thêm : Hình thức đấu tranh trong toàn
quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, nhưng không có nghĩa là không dùng cũ trang
tự vệ trong hoàn cảnh nhất định. Từ năm 1956-1957, hàng chục đơn vị vũ trang ra
đời ở Nam Bộ, nhiều đội trừ gian được thành lập ở Liên khu V.
3.2.2 Xây dựng bảo vệ miền Bắc, đánh thắng ba chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ
Với đường lối chiến lược đúng đắn, sáng tạo đó và trên cơ sở thực tiễn của cách
mạng miền Nam, Đảng ta đã kịp thời định ra đường lối lãnh đạo phù hợp với từng
giai đoạn cách mạng, đảm bảo cho cuộc chiến đấu của toàn quân và toàn dân ta trên
khắp hai miền giành thắng lợi ngày càng to lớn và toàn diện. Đó chính là việc thực
hiện Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 (khóa II) và Nghị quyết Đại 11
hội lần thứ III (năm 1960) của Đảng, cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn
lực lượng sang thế tiến công. Kết quả là ta đã làm thất bại chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt” của Mỹ. Nghị quyết Trung ương lần thứ 14 (khóa III) đã chỉ đạo thành
công cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, làm phá sản chiến lược
"Chiến tranh cục bộ" của chúng. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng năm 1973 đã chỉ đạo cuộc phản công chiến lược giành thắng lợi. Đặc biệt, Hội
nghị Bộ Chính trị, tháng 10-1974 và đầu năm 1975 đã kịp thời đánh giá đúng so sánh
lực lượng giữa địch và ta, vạch rõ sự xuất hiện của thời cơ lịch sử, thông qua kế
hoạch và hạ quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thực hiện quyết
tâm đó, quân và dân ta đã thực hành Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 toàn thắng.
Trong không khí sục sôi căm thù và trước xu thế vùng dậy của quần chúng, tháng 1-
1959 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã họp Hội nghị lần thứ 15 đây là
kết quả của quá trình tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm đúc kết kinh nghiệm cách
mạng miền Nam 1954 đến năm 1958. Hội nghị đồng thời đã theo dõi những diễn
biến mới nhất của tình hình thế giới như Cách mạng dân chủ tư sản Irắc ( năm 1958),
Cách mạng Cuba ( 1959), Hội nghị đã chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt
Nam: Một là mâu thuẫn giữa mộ bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa
chủ phong kiến và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị ở miền Nam và mooyj bên
là toàn thể dân tộc Việt Nam bao gồm nhân dân hai miền Nam, Bắc; Hai là mâu
thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa với con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc.
Tuy là chính chất khác nhau , nhưng hai mâu thuẫn cơ bản đó có mối quan hệ biện
chứng và tác động lẫn nhau.
Căn cứ vào đó Hội nghị đã nhất trí đề ra nhiệm vụ Cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới là : tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành cách mạng
dân chủ trong cả nước, ra sức củng cố miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội, xây dựng một Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh.
Còn về cách mạng miền Nam : Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc để người dân có
ruộng cày; nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, để kiên quyết đấu tranh chống
quân xâm lược và gây chiến, đánh đổ ách thống trị của Ngô Đình Diệm, tay sai xủa
đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam.
Về phía Đảng ta cần nghiên cứu và chủ động sử dụng khuynh hướng hòa bình, trung
lập đang nảy nở trong tư sản dân tộc và trí thức ở lớp trên , coi trọng công tác binh
vận, triệt để lợi dụng mâu thuẫn của chế độ Mỹ- Diệm, thêm bạn bớt thù.
Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam, Nghị quyết đã chỉ rõ : Sự tồn tại và trưởng
thành của Đảng bộ miền Nam dưới chế độ độc tài phát xít là một yếu tố quyết định
thắng lợi của phong trào cách mạng miền Nam. 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói : Không phải một lúc ta đánh đổ được ngay chế
độ Mỹ- Diệm. Vì vậy, cần đánh lui địch từng bước, tranh từng thắng lợi về phía
mình, chuẩn bị lực lượng khi thời cơ đến.
Nghị quyết 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến
lên, xoay chuyển tình hình, dẫn đến “Đồng Khởi” oanh liệt toàn miền Nam năm 1960.
Hội nghị lần thứ 16 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II tháng 4-1959 đã
thảo luận và thông qua hai nghị quyết quan trọng : Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa
nông nghiệp và Nghị quyết về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản doanh nghiệp.
Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng từ ngày 5 đến ngày 10-9-1060
đã thảo luận và nhất trí với Báo cáo chính trị và các báo cáo khác của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Sự nhất trí này đã được thể hiện trong việc thông qua Nghị quyết
của Đại hội về đường lối và nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua điều
lệ sửa đổi và Lời kêu gọi của Đại Hội. Sự đoàn kết nhất trí của Đại hội là hạt nhân
đoàn kết nhân dân cả nước, là nguồn sức mạnh dẫn đến phong trào cách mạng ở hai
miền Nam, Bắc. Hạn chế của Đại hội III là chưa có dự kiến về chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa.
Với thắng lợi của công cuộc củng cố miền Bắc và phong trào “Đồng Khởi” ở miền
Nam, cách mạng Việt Nam đứng trước tình thế mới đầy triển vọng. Phong trào đấu
tranh đòi dân sinh , dân chủ hào, hòa bình, và tiến bộ xã hội của công nhân và nhân
dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa là một dòng thác nữa đánh thẳng vào chính
sách phản động gây chiến của đế quốc Mỹ. Thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân
dân ta ở miền Nam từ phong trào Đồng Khởi (1959 - 1960) và qua giai đoạn đấu
tranh với các chiến lược chiến tranh của Mỹ đã khẳng định tính đúng đắn của phương
thức kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; thực hiện phương châm “hai
chân, ba mũi, ba vùng”; kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đấu tranh chính trị, đấu
tranh quân sự, binh vận và đấu tranh ngoại giao. Sự kết hợp và thống nhất giữa các
mặt đấu tranh đã nhân sức mạnh của dân tộc ta lên gấp bội, tạo ra thế chủ động chiến
lược để triển khai thế trận “thiên la địa võng” của chiến tranh nhân dân, làm cho Mỹ
và đồng minh của chúng luôn ở trong vòng vây của cách mạng, bị chia rẽ, cô lập, bị
tiến công ở mọi nơi, bất cứ lúc nào, dẫn đến mất lòng tin vào mục tiêu của cuộc
chiến tranh, đi dần tới thất bại.
3.2.3 Chiến tranh đặc biệt (1961-1965)
Khi đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh kiểu mới”, Đảng và Bác Hồ
đã chỉ đạo việc tăng cường giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang bằng ba
mũi giáp công chính trị, quân sự và binh vận trên cả ba vùng chiến lược là rừng núi,
nông thôn đồng bằng và đô thị. Đi sâu phân tích những thế mạnh, yếu của kẻ thù,
Đảng ta nhận định: “Thời kỳ tạm ổn định của chế độ Mỹ - Diệm đã qua và thời kỳ 13
khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu.Đầu năm 1961, Tổng thống
Mỹ G.Kennơđi buộc phải điều chỉnh chiến lược từ “trả đũa ồ ạt” sang “phản ứng
linh hoạt” với ba chiến tranh : chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, chiến tranh tổng lực.
Tháng 1-1-1961, Bộ Chính trị chủ trương chuyển từ khởi nghĩa sang chiến tranh cách mạn .
g Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Trung ương
Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ. Ngày 3 -
1 1-1961, Bộ Chính trị ra Chỉ thị
về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam, nhấn
mạnh phải tăng cường đấu tranh vũ trang song song đó là đấu tranh chính trị. Với
nhiệm vụ trước mắt là xây dựng lực lượng về cả chính trị và quân sự. Th áng 2-1961,
Bộ chính trị ra quyết định về Nghị quyết vệ nhiệm vụ quân sự, cần phải kiềm chế
Mỹ và thắng Mỹ ở miền Nam, sẵn sàng đối phó với âm mưu và hành động mở rộng
chiến tranh. Ngoài ra phải củng cố quốc phòng trên miền Bắc, xây dựng lực lượng ở miền Nam. … ,
Quán triệt chỉ thị và nghị quyết của Bộ chính trị, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ
nhất (tháng 10-1961) đã nhất trí khẳng định sự cần thiết chặt chẽ kết hợp giữa hai
hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Cùng với đó thực hiện chỉ đạo kế hoạch 5 năm (1961-1965) hay tên gọi chính thức
là "Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân (1961-1965)" để đẩy lên
xây dựng miền Bắc. Nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch nhà nước 5 năm 1961-1965 là
"phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực
hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội”. Từ năm 1961 đến năm 1965 đã kết nạp 30 vạn đảng viên, tổ chức
đảng ở các cấp được củng cố. Đ
ến cuối năm 1964, kế hoạch năm năm lần thứ nhất
đã giành được những thắng lợi quan trọng. Miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc cho cả nước.
Cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị thất
bại, Mỹ buộc phải chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. “ Chiến
tranh đặc biệt” là một cuộc chiến tranh thâm độc và nguy hiểm, gây nhiều khó khăn
cho cuộc chiến đấu của Nhân dân ta. Tuy nhiên, ra đời trong thế bị động, “ chiến
tranh đặc biệt” không những không phát huy được tác dụng mà cong từng bị bẻ gãy
trước cao trào nổi dậy và tiến công, giữ vững quyền làm chủ của Nhân dân ta ở miền
Nam. Mục tiêu chính của “chiến tranh đặc biệt
” của Mỹ ở miền Nam là dập tắt phong
trào “Đồng Khởi”, bình định miền năm 18 tháng với lực lượng quân ngụy do Mỹ trang bị v
à cố vấn Mỹ chỉ huy, ngăn chặn chi viện ở miền Bắc, cô lập miền Bắc, khi
cần sẽ ném bom ở miền Bắc. Thế nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã
đấu tranh kiên cường chống trả các hành động chiến tranh của kẻ địch. Đảng bộ miền
Nam được kiện toàn với hệ thống , tập trung từ Trung ương Cục đến các chi bộ. Mặt
trận giải phóng làm thêm chức năng của chính quyền cách mạng. Ngày 15-2-1961, 14
các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng
miền Nam Việt Nam. 50% đảng viên toàn Đảng bộ miền Nam đã được điều động là
nòng cốt xây dựng bộ đội tập trung. Phối hợp với đấu tranh chính trị và binh vận,
lực lượng vũ trang đẩy mạnh hoạt động tiêu hao, tiêu diệt địch, dẩy lùi nhiều cuộc
càng quét của quân ngụy, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành và giữ quyền làm chủ.
Các Đảng bộ lãnh đạo đã thực hiện từng bước cải cách ruộng đất, chia thêm cho dân
4 vạn hécta đất canh tác.
Từ thực tiễn của cuộc kháng chiến, ngày 6-12-1962, Bộ Chính trị họp ta phải và có
khả năng kiềm chế và chiến thắng kẻ địch, tiến hành một cuộc chiến tranh toàn dân
và trường kỳ, trước mắt là làm thất bại kế hoạch tiến công cảu địch trong năm 1963.
Sang năm 1963, cuộc kháng chiến ở m ề
i n Nam đã giành được nhiều thắng lợi lớn.
Với tinh thần sẵn sàng chiến đấu, được chuẩn bị tốt về mọi mặt, các đơn vị bộ đội,
hải quân, phòng không và lực lượng vũ trang đã nổ súng kịp thời, anh dũng tiến công
đợt tiến công của của địch, bắn rơi 8 máy bay hiện đại của địc , h bắn bị thương mổ
số chiếc khác, bắt sống một giặc lái. Chiến thắng ngày 5-8-1964 đã chứng tỏ quân
ta có khả năng đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ. “
Cuộc “Chiến tranh đặc biệt” mà chúng đang thí nghiệm ở miền Nam
Việt Nam đã thất bại, thì chúng cũng sẽ thất bại ở bất kỳ nơi nào khác.”
3.2.3 Chiến tranh cục bộ (1965-1968)
Vào đầu năm 1965, Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân chiến
đấu Mỹ vào Nam và ném bom vào miền Bắc, mục tiêu của Mỹ là tiêu diệt chủ lực
quân giải phóng, bình định miền Nam, buộc phía Việt Nam phải ngồi đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Ch
ính quyền Giônxơn chủ trương đưa quân Mỹ vào nhanh và rút
ra nhanh, nghĩa là muốn giành thắng lợi trong một thời gian ngắn.
Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III tháng 3- 1965 đã
chuyển hướng hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, tiếp tục sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, đánh bại cuộc
chiến tranh phá hoại không quân, hải quân Mỹ, phát huy tối đa vai trò hậu phương
với miền Nam, cùng việc làm tròn nghĩa vụ quốc tế với cách mạng hai nước Lào,
Campuchia. Trong hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III
tháng 12-1965 kết luận : Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân
đội viễn chinh, lực lượng so sánh giữa địch và ta không thay đổi lớn, nhưng cuộc
chiến tranh trở nên gay go hơn Nhân dân ta đã có những cơ sở chắc chắn để giữ vững
thế chủ động trên chiến trường.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III có
tầm quan trọng vô cùng trong việc đánh bại “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Trước mùa khô 1965-1966, Bộ Chính trị chỉ thị cho quân và dân ta ở miền Nam ra
sức chuẩn bị thế trận và lực lượng, quyết phải giữ thế chủ động tiến công, dùng hình 15
thức phản công để chiên đấu với quân Mỹ và quân ngụy, phải làm thất bại các mục tiêu cơ bản của chúng.
Trung ương Cục, các Khu ủy và Quân khu ủy, các cấp Đảng ủy địa phương miền
Nam khẩn trương mở các cuộc hội nghị bàn về biện pháp, hướng chỉ đạo, cho mọi
mặt để có thể chủ động đối phó với địch.
Qua hai cuộc phản công chiến lược của quân viễn chinh Mỹ đều nhận lấy thấy bại
dưới tay nhân dân Việt Nam, đã tạo ra cục diện mới trên chiến trường miền Nam.
Tiếp đến cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của Mỹ là
một bộ phận hữu cơ của chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Máy bay, tàu chiến Mỹ
đánh phá ác liệt hầu hết các vị trí quân sự quan trọng thả mìn phong tỏa các cửa biển,
lạch sông nhằm ngăn chặn sự tiếp tế của miền Bắc. Chiến tranh diễn ra ngày càng
ác liệt nhưng nhân dân miền Bắc cũng như nhân dân cả nước đều không hề nao núng.
17-7 - 1966 chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước: “chiến tranh
có thể kéo dài năm năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và
một số thành phố, xí nghiệp có thể sợ bị tàn phá, xong nhân dân Việt Nam quyết
không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”
Ngay từ đầu và trong suốt quá trình chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất quân và
dân miền Bắc đã đánh trả quyết liệt. Đảng và nhà nước đã phát động và tổ chức
phong trào toàn dân làm công tác giao thông vận tải trong đó lực lượng giao thông,
vận tải chuyên nghiệp là nòng cốt và bộ binh công binh hậu cần vận tải ,phòng không là lực lượng xung kích
Tháng 1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III quyết
định mở trận đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ hơn nữa sự đồng tình, ủng hộ và
giúp đỡ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ, khoét sâu mâu thuẫn trong
nội bộ địch, cô lập cao thái độ hiếu thắng trong giới cầm quyền Mỹ, hỗ trợ cho đấu
tranh chính trị và quân sự của quân và dân ta.
3.2.4 Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân .
Mỹ đã tiến hành chiến tranh cục bộ với mọi thủ đoạn và biện pháp, song âm mưu
giành thắng lợi quyết định ở miền Nam Việt Nam trong hai năm của Mỹ đã bị phá
vỡ.Thất bại ở Việt Nam đã làm cho tình hình nước Mỹ trở nên không ổn định. Về
phía ta, qua hai năm đương đầu với chiến tranh cục bộ, quân dân miền Nam đã phát
huy mạnh mẽ chiến lược tiến công, từng bước bị gãy hai gọng kìm “tìm- diệt” và
“bình định”,làm thất bại mục tiêu quân sự, chính trị Mỹ-ngụy
Miền Bắc càng chứng cho tính bền vững của một hậu phương cùng một lúc làm hai
nhiệm vụ là xây dựng và bảo vệ miền Bắc và chi viện cho miền Nam. Về đối ngoại
sự nghiệp chính nghĩa và đường lối đối ngoại đúng đắn của ta đã tranh thủ được sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ ngày càng rộng rãi của nhân dân và chính phủ nhiều
nước, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa mặc dù còn nhiều điều bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc. 16
Ngay sau khi đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ - ngụy, từ
tháng 5- 1967 bộ chính trị và các cơ quan chỉ đạo chiến lược đã có nhiều cuộc họp
bàn về chủ trương chiến lược Đông Xuân 1967 - 1968. Vì vậy Hội nghị Bộ Chính
trị Trung ương đảng (12- 1967) đã quyết định một phương thức tiến công nhầm tạo
nên chuyển biến trong cục diện. Đó là cách tổng công kích - tổng khởi nghĩa vào tất
cả các đồ thị riêng lũy của Mỹ -ngụy trên miền Nam
Tháng 1- 1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III thông
qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967, Hội nghị nhận định: điểm cơ bản của
tình hình vẫn là đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua,
thế bị động và khó khăn: xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ cần
chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước. Hội nghị hạ quyết tâm chiến
lược chuyển sang chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sau một thời
kỳ mới một thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định để thực hiện
được quyết tâm đó phải động viên những nỗ lực lớn nhất từ Đảng, toàn dân ở cả
nước và hai miền, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành
thắng lợi quyết định. Hướng tiến công được xác định gồm đòn đánh tiêu diệt của bộ
đội chủ lực ở chiến. trường rừng núi và đòn công kích quân sự kết hợp với nổi dậy
của quần chúng đang sắp cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy ở các đô thị quan trọng trên toàn miền Nam.
Mục tiêu chiến lược là đập tan ý chí xâm lược của Mỹ , buộc mỹ phải chịu thua ở
miền Nam, chấm dứt mọi chiến tranh đối với miền Bắc.
Trung tuần tháng 1- 1968, liên quân Lào- Việt mở Chiến dịch Nậm Bạc và lực lượng
vũ trang bất ngờ tiến công vào cứ điểm Khe Sanh. Đêm 29 rạng sáng ngày 30 và
đêm ngày 30 rạng ngày 13- 1-1968( tức giao thừa và mồng một Tết), cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân nổ ra trên khắp chiến trường với hướng chính là các
đô thị, trung tâm quân sự, chính trị của Mỹ- ngụy.
Trong gần hai tháng, cuộc Tổng tiến công đã có nhiều thành tựu lớn : đánh vào 4
trong 6 thành phố lớn, 37 trong 40 thị xã , hàng trăm thị trấn, đánh vào mục tiêu
trọng yếu : Tòa Đại Sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Dinh Độc Lập,…. 17
( Xe tăng Quân Giải phóng tiến vào dinh Độc Lập, Sài Gòn, ngày 30-4-1975. Ảnh tư liệu )
Bị tấn công bất ngờ thoạt đầu chúng lúng túng nhưng ngay sau đó chúng điều động
máy bay, vũ khí hạng nặng để phản công. Thế nhưng đêm 31-3-1968, Tổng Thống
Mỹ Giônxơn đã tuyên bố đơn phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom
miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, sẵn sàng cử đại diện sang đàm phán, thực
hiện chính sách “ phi Mỹ hóa”, tổng thống Giônxơn cũng không đứng ra tranh cử
nữa. Như vậy, quân Mỹ đã ngầm thừa nhận sự thất bại của mình. Đến ngày 31-10-
1968, Mỹ đã tuyên bố ngừng ném bom, bắn phá trên đất nước Việt Nam, chấp nhạn
họp hội nghị Paris để giải quyết chiến tranh.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là một trong những chiến công
vang dội nhất suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam,
góp phần khẳng định sự đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước độc lập, tự chủ,
đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đồng thời là thắng lợi tiêu biểu đánh dấu nghệ thuật
quân sự dân tộc phát triển lên tầm cao mới, mang tính độc đáo, sáng tạo, khoa học
với tư tưởng nhân văn sâu sắc. 18
3.3 Chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ và chủ trương
chuyển hướng chiến lược của Đảng.
Sau thất bại nặng nề trước chiến lước “ chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam,
nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nặng nề từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Trước tình
hình thúc ép đó Níchxơn đã vận dụng học thuyết Níchxơn vào cuộc chiến tranh Việt
Nam, đề ra chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh” một sự điều chỉnh chủ trương
nhưng thực chất lại là “ dùng người Việt để giết người Việt” với âm mưu duy trì
kiểu thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. “ Việt Nam hóa chiến tranh” là một chiến
lược hết sức thâm sâu và nguy hiểm của đế quốc Mỹ. Mục tiêu cơ bản của chiến
lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Níchxơn là rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam
Việt Nam mà vẫn giữ được chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu. Để đạt được
mục tiêu chiến lược đó, Níchxơn đã sử dụng tối đa về quân sự của nước Mỹ kết hợp
với những thủ đoạn chính trị và ngoại giao rất xảo quyệt hòng giành lại thế mạnh,
hòng cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Với tình hình đó, Đảng ta cũng ra sức củng cố tinh thần quyết tâm chống Mỹ của
nhân dân ta, ngày 1-1-11969 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong bức thư chúc mừng
năm mới: “Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào,…”
Tiếp theo Chỉ thị gửi Đảng bộ miền Nam tháng 11-1968, Nghị quyết Bộ chính trị
tháng 4 -1969 đã động viên quân và dân ta tiếp tục đẩy mạnh công kích, tổng khởi
nghĩa để đánh bại chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh” và âm mưu kết thúc chiến
tranh trên thế mạnh của Mỹ.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 18 và 21 sau này cũng đã vạch rõ, ta chưa đánh
giá được hết ý đồ thâm hiểm và khả năng của địch cũng như tình hình khó khan trên
chiến trường cho nên ta cần chuyển hướng tiến công về nông thôn phá tan âm mưu của địch.
Để thực hiện chủ trương đó, miền Bắc cũng đưa một khối lượng người và vũ khí để
tăng sức chiến đấu cho miền Nam anh dung mở ra hai cuộc tiến công vào mùa xuân và mùa hè năm 1969.
Từ đêm 22 rạng ngày 23-2-1969, quân và dân miền Nam đồng loạt mở đợt tiến công
vào hơn 400 mục tiêu của địch ở 36 thành phố, thị xã, hơn 100 quận lỵ, thị trấn, 35
sở chỉ huy, 38 sân bay, 17 khu hậu cần lớn. Đây là đòn phủ đầu đối với tập đoàn
Níchxơn vừa lên cầm quyền ở Mỹ. ở miền Đông Nam Bộ có một số trận đánh tiêu
diệt các cụm tiểu đoàn hoặc nhiều đại đội địch ở Bến Tranh, Trà Cao, Lộc Ninh, Dầu
Tiếng. Đặc biệt các lực lượng đặc công đánh gần 300 trận, trong đó có 90 trận đánh
vào các sở chỉ huy, sân bay, kho tàng của địch, giết và làm bị thương 2 vạn tên, có
nhiều sĩ quan và nhân viên kỹ thuật Mỹ, phá huỷ 250 máy bay, 150 khẩu pháo và
hàng trăm triệu lít xăng dầu. Trong 30 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân và dân
miền Nam đã tiêu diệt hàng vạn tên Mỹ, ngụy và chư hầu, phá huỷ hàng nghìn máy
bay, xe tăng và pháo lớn, thiêu cháy hàng chục kho bom đạn, xăng dầu. 19