0
HC VI N BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUY N
KHOA L CH S NG C NG S N VI T NAM ĐẢ
-------------------------------
TIU LU N
MÔN: L CH S NG C NG S N VI T NAM ĐẢ
S O C NG LÀ NHÂN T QUY NH LÃNH ĐẠ ỦA ĐẢ ẾT ĐỊ
TH NG L I TRONG KHÁNG CHIN C CHNG M C ỨU NƯỚ
( 1954-1975 )
Hà N ội, tháng 1 năm 2022
H VÀ TÊN
:
LÊ H NG NG C
MÃ SINH VIÊN
:
2156090039
LP
:
BÁO M N T CLC ẠNG ĐIỆ
1
MC L C
M ĐẦU
Tính t t y u c ế ủa đề ……………………………………………………………2 tài
NI DUNG
I.TÌNH HÌNH XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC KHI CÓ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM RA ĐỜI
1.1 Tình hình xã hội trước khi Đảng ra đời……………………………………..3
1.2 Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời………………4
II. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ YẾU TỐ TẤT YẾU
2.1 Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước………………………..4
2.2 Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam………………..………………………..5
2.3 Ý nghĩa lịch sử………………………………………………………………… 7
III. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC ( 1954 - 1975 )
3.1 Bối cảnh lịch sử……………………………………………………………….8
3.2 Chiến lược của Đảng
3.2.1 Khôi phục kinh tế miền Bắc và giữ gìn lực lượng ở miền Nam………….9
3.2.2 Xây d ng b o v n B ng ba chi c chi n tranh c mi ắc, đánh thắ ến lượ ế ủa đế
quc M ………………………………………………………………………….11
3.2.3 Chiến tranh đặc bit (1961-1965) ………………………………………..13
3.2.3 Chi n tranh c c b (1965-1968)ế ……………………………………………15
3.2.4 Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân…………………………………16
3.3 Chi t Nam hóa chi c M chến lược Việ ến tranh” của đế qu trương
chuyển hướng chiến lược của Đảng……………………………… …………….. 19
3.4 Cu c ti n công chi ế ến lược năm 1972 ……………………………………….20
VI. HIỆP ĐỊNH PARI ĐƯỢC KÝ KT………………………………………..21
KT LUN……………………………………………………………………….22
TÀI LI U THAM KH O……………………………………………… ……..... 23
2
LI M U ĐẦ
Cuc kháng chi n ch ng M (1954 t cu c chi n tranh ế 1975) đó mộ ế
cùng khóc kh c li t, ác li t nh t trong l ch s ng gi c ngo i xâm c ch a
dân t c Vi t Nam. i qua Nhân dân ta đã trả bao năm đấu tranh thì ta cũng
đã ành đượgi c chiến thng, gii phóng hoàn toàn min Nam, non sông ta
đã thu về làm m t. Chi ến công đó chính là mộ ểu tượt bi ng sáng ngi ca
ch nghĩa anh hùng cách mng và trí tu ch s con người và đi vào lị thế
giới như một chi t s ến công vĩ đại, m kin có tm quan tr c t ng qu ế
có tính th i i sâu s c. Chính th ng l u m c ngo đạ ợi đó đã đánh dấ ột bướ c
mi trong qtrình m đường cho dân t c Vi c vào th ệt Nam bướ i
mi- k nguyên c nước hòa bình, th i chng nhất, đi lên hộ nghĩa.
Nhìn l i nh a Cách m ng Vi t Nam trong s ững tích vĩ đại c nghip
đấu tranh giành độc lp cho dân t c, th ng nh ất đất nước, càng làm chúng
ta th y rõ vai trò to l n c ủa Đảng được th hin mi m t : công tác lãnh
đạ đạ ế o, ch o trong cuc kháng chi n chng M quyết tâm đánh Mỹ
th ng M tài tiỹ” . Đó cũng do em chọn đ u lu n : S lãnh đạo ca
Đảng nhân t quy nh th ng l trong kháng chi n ch ng M cết đị i ế u
nước ( 1954-1975 ).
3
I.TÌNH HÌNH XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC KHI CÓ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM RA ĐỜI
1.1 Tình hình xã hội trước khi Đảng ra đời.
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế
độ thống trị vô cùng tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên nước ta.
Về chính trị, chúng lập ra chế độ thống trị tàn bạo, thi hành những chính sách cai trị
chuyên chế, biến những giai cấp sản mại bản, địa chủ phong kiến thành tay sai
đắc lực để có thể thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố dã man, tàn bạo, chia rẽ dân
tộc ta,... Tạo nên sự xấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng
của chế độ thuộc địa. Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta
mất hết quyền tự do, độc lập,mọi phong tào yêu nước đều bị đàn áp man, mọi
phong trào tiến bộ từ bên ngoài sẽ đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, khai thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản Pháp, sức lao động
của nhân còn bị bóc lột “tới tận xương tuỷ” khiến đời sống của nhân dân ta bần cùng
hóa, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra những thứ thuế
lý, nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến, làm cho kinh tế bị què
quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, kéo đến hậu quả nghiêm trọng.
Về văn hoá xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hóa nô -
dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tối tăm, lạc hậu, chậm phát
triển, dốt nát, phải chấp nhận phục tùng, lệ thuộc.
Dưới stác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ cấu kết
với thực dân để tăng cường bóc lột nhân dân ta. Tuy nhiên, chính trong lúc này nội
bộ địa chủ Việt Nam có sự phân hoá rõ rệt. Một bộ phận lòng yêu nước, căm ghét
chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và những
độ khác nhau. Giai cấp nông dân chính là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt
Nam , bị thực dân và phong kiến áp bức một cách nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn
khổ của giai cấp nông dân đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc tay sai, tăng
thêm ý chí cách mạng đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền tự do. Giai cấp công
nhân ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa phần xuất
thân từ nông dân, có quan hệ chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị áp bức. Giai cấp tư
sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa chèn ép. Tầng lớp tiểu tư sản Việt
Nam gồm học sinh, trí thức, …. đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô
sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, có khả năng tiếp thu những
tư tưởng tiến bộ từ nước ngoài truyền vào. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt
Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước những mức độ khác
nhau, đều bị áp bức, bóc lột. Từ đó, trong hội , ngoài những mâu thuẫn bản
giữa nhân dân, chủ yếu là nông nhân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh
những mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và càng ngày càng gay gắt với đời sống
4
của nhân dân. Đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp.
Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến đặt ra
hai yêu cầu lớn : Phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc lập cho dân
tộc, tự do cho nhân dân. Xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ, chủ yếu
lấy lại ruộng đất cho nhân dân. Trong đó, chống đế quốc vẫn nhiệm vụ hàng
đầu.
Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong
kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với
đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt
ra, cần được giải quyết.
1.2 Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời.
Trong quá trình đấu tranh dựng nước giữ nước đầy gian khổ, thì dân tộc ta đã
sớm hình thành lòng yêu nước nồng nàn với tinh thần anh hùng kiên cường, bất
khuất. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên để đấu
tranh chống lại quân xâm lược. Chúng ta thể thấy từ năm 1858 đến trước năm
1930, hàng trăm các cuộc khởi nghĩa, những phong trào chống Pháp đã nổ ra theo
rất nhiều khuynh hướng khác nhau , như cuộc khởi nghĩa của Trương Công , Thủ
Khoa Huân, hay như phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du , Đông Kinh,..
hay các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám ,.. lãnh đạo. Điểm
chung đây đều là những cuộc đấu tranh đứng lên vì nhân dân, độc lập vô cùng anh
dũng thế nhưng dập tắt, thất bại.
Nguyên do chính dẫn tới sự thất bại chung của những phong trào là do những người
đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đều chưa tìm được hướng đi đúng đắn
cho con đường cứu nước, điều đó cũng phản ánh đúng tư tưởng, sự phát triển của xã
hội lúc bấy giờ. Cách mạng cứu nước của ta đã thực sự rơi vào khủng hoảng, bế tắc.
Việc cấp thiết lúc bấy giờ chính tìm ra một con đường cứu nước đúng đắn, phù
hợp với thực tiễn đấu tranh để có thể giải phóng dân tộc, lấy lại tự do.
II. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ YẾU TỐ TẤT YẾU
2.1 Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Giữa lúc tình hình cách mạng Việt Nam đang lâm vào con đường khủng hoảng khi
tìm ra con đường đcứu nước. Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 1890, quê làng -5-
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ, tên Nguyễn Tất Thành,
lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, cảnh lầm than của nhân dân, Nguyễn Tất Thành
sớm có ý chí đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng dân tộc.
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành ( Nguyễn Ái Quốc ) rời đất nước bắt đầu ra đi
tìm đường cứu nước, học hỏi các tưởng tiên tiến của các nước khác rồi quay về
giúp đồng bào ta.
5
Trên con đường tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua rất nhiều bước
ngoặt lớn.Người đã nhận ra được những hạn chế của những nhà yêu nước đương
thời. Không những vậy, Người còn tìm ra những hạn chế của cách mạng dân chủ tư
sản là những cuộc cách mạng không giải phóng được công nông và quần chúng lao
động. Nguyễn Tất Thành đã đi qua rất nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động vừa học
tập, cùng với đó là nghiên cứu những lý luận, rút ra những kinh nghiệm từ các cuộc
cách mạng tư sản Mỹ ( năm 1776 ) và Cách mạng tư sản Pháp ( năm 1789 ).
Tiếp theo đó, đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc Tế
Cộng Sản. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là sự kiện chính trị lớn
nhất của thế kỷ XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản. Chính thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với những người cách mạng Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc cùng ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó và kính phục V.I. Lênin
và đã tham gia nhiều cuộc ủng hộ nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đã giải đáp những vấn đề
Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc, nhận ra lập trường của V.I.Lênin và Quốc tế thứ
ba khắc hẳn lời tuyên bố suông của Quốc tế thứ hai. Người đã tán thành Quốc tế thứ
ba, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản.
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với
cách đại biểu Đông Dương, người bỏ phiếu tán thành thành lập Đảng Cộng sản
Pháp và trở thành người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Trở thành người cộng sản , Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin về nước. Quá trình đó cũng là quá trình Người từng bước vạch ra đường lối
chiến lược cho con đường Cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1921 1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản -
Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá
chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. -
Người tập trung chuẩn bị về tổ chức cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc,
đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường
Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách
mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời
của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
2.2 Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc trước tiên đã thúc đẩy phong trào công
nhân và phong trào nông dân lên cao.
6
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, đội ngũ công nhân Việt Nam có khoảng mười
vạn người. Các cuộc đấu tranh chống bọn chủ của công nhân Việt Nam được diễn
ra với nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ việc phá giao kèo, bỏ việc bãi công. Họ
biết liên kết công nhân nhiều nghiệp cùng đấu tranh liên hệ với công nhân Pháp
và công nhân Trung Quốc. Đã có rất nhiều cuộc đấu tranh như : tháng 8 1925 cuộc -
bãi công tiêu biểu của hơn 1.000 công nhân binh xưởng Ba Sơn ( Sài Gòn ) do Tôn
Đức Thắng lãnh đạo đã giành thắng lợi, trong hai năm 1926 1927, có 17 cuộc đấu -
tranh của công nhân trong cả nước. Tiêu biểu cuộc bãi công của công nhân Nhà
máy sợi Nam Định ( tháng 7 1926 ), đồn điền Cam Tiên ( tháng 12 1926 ), năm - -
1928 có cuộc bãi công nổ ra tại mỏ than Mạo Khê, Nhà máy đá Laruy ( Larue ),....
Các cuộc đấu tranh đã thể hiện rõ tinh thần đoàn kết giai cấp, ý thức tổ chức của các
công nhân. Chính báo chí của thực dân Pháp ng đã thừa nhận : Từ đây, hành
động tập thể của những người lao động đã thay thế cho những âm mưu của các hội
kín”
Những phong trào nông dân đã đã phát triển khá mạnh ở nhiều trong cả nước. Năm
1927, nông dân làng Ninh Thạnh Lợi ( Rạch Giá) đấu tranh chống thực dân và địa
chủ đã chiếm đất đến đổ máu. Các nông dân thuộc các tỉnh Nam, Nam Định ,
Ninh Bình,... cũng đã đứng lên đấu tranh chống lại bọn địa chủ cướp đất, bãi sa bồi,..
Cả hai phong trào công nhân và nông dân đều đã hỗ trợ, tương trợ lẫn nhau.Để đáp
ứng đòi hỏi từ thực tiễn cách mạng, ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện 3 tổ chức Cộng
sản : Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ và
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở Trung kỳ. Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản diễn
ra trong vòng nửa cuối năm 1929 là bước tiến nhảy vọt của phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử
Việt Nam. Tuy nhiên, ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi
sự phân tán về lực lượng tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng hành động.
Trong bối cảnh đó, nhận thấy sự cần thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản duy
nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản Việt Nam, ngày 23-12-1929,
Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm đến Trung Quốc. Người triệu tập đại biểu của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại bán đảo Cửu Long
(Hương Cảng) để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Báo cáo gửi Quốc tế
cộng sản ngày 18 1930 của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị diễn ra vào ngày 6-2- -1, các
đại biểu trở về An Nam ngày 8-2-1930.
Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo
luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung
đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị
đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản Đảng Cộng sản Việt Nam gửi
7
đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh tất cả đồng bào bị áp
bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.
Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng sách lược vắn tắt của Đảng giá trị
như cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày
3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm Ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì
mới cho cách mạng Việt Nam thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ -
nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung
cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức
thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng
sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Đáp ứng đòi hỏi của phong trào cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc chủ động
triệu tập các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng
bàn việc hợp nhất.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng
của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam
đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào
cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp,
của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, phong trào yêu nước và phong trào công nhân ở
Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo
cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn
của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm
nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
2.3 Ý nghĩa lịch sử
Việc hợp nhất đã quy tụ ba tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất ở
Việt Nam theo một đường lối chính trị đúng đắn, đã dẫn đến sự thống nhất về
tưởng và cả hành động của phong trào cách mạng cả nước, tạo nên một truyền thống
về sự đoàn kết của Đảng và dân tộc từ đó về sau.
8
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chính một bước ngoặt to lớn trong Cách mạng
lịch sử của dân tộc ra, chấm dứt cuộc khủng hoảng trên con đường tìm đường cứu
nước, Đảng sẽ chính là cơ sở dẫn đến những thắng lợi oanh liệt và là một bước nhảy
vọt trong lịch sử dân tộc vào những năm sau.
Vị lãnh tụ đại Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã viết về sự kiện Đảng Cộng sản -
Việt Nam ra đời : Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành
và đủ sức lãnh đạo cách mạng” .
III. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC ( 1954 - 1975 )
3.1 Bối cảnh lịch sử
Trong lúc nhân dân ta bước vào thời kỳ mới giữa lúc phong trào cách mạng trên thế
giới tiếp tục dâng cao. Sự lớn mạnh của các nước Liên Xô, sự hình thành hệ thống
hội chủ nghĩa thế giới thắng lợi mới của phong trào độc lập dân tộc
Inđônêxia, Ấn Độ, Ai Cập, Cuba,.... với xu thế hào bình, trung lập đã làm lung
lay tận gốc chủ nghĩa thực dân và bước đầu đã gây khủng hoảng cho chủ nghĩa
thực dân mới.
Những khó khăn trong thời kỳ mới xuất phát từ âm mưu chủ thế giới của Mỹ
bằng chiến lược ngăn cản sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và đánh phá phong trào
giải phóng dân tộc. Trong chiến lược đó, Việt Nam trở thành đối tượng xâm lược
trọng điểm của Mỹ.
Đặc trưng chủ yếu của thời kỳ mới ở nước ta là chế độ của của thực dân Pháp chấm
dứt trên toàn bộ bán đảo Đông Dương, nhưng chế độ thực dân mới của Mỹ lại thay
Pháp thống trị miền Nam của Việt Nam, uy hiếp Campuchia khống chế Lào; miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong khi bấy giờ miền
Nam lại trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ.
Ngày 8-8-1954, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ do Tổng thống Aixenhao chủ trì đã
ra Quyết định NCS 5429/2 với nội dung cơ bản : Pháp phải nhanh chóng rút quân
khỏi miền Nam Việt Nam và phải ủng hộ Ngô Đình Diệm; Mỹ trực tiếp viện trợ cho
ngụy quyền Sài Gòn không qua Pháp ; loại bỏ Bảo Đại, những tay sai lâu đời của
Pháp.
Ngày 7-7-1954, miền Nam, một nội các nhìn tay sau Mỹ được thành lập do
Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng. Ngày 17-7-1955,
Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử. Ngày 23 1955, Diệm tổ chức - -20
“trưng cầu dân ý” phế truất vua Bảo Đại và lên làm Tổng thống.
Hệ thống cố vấn Mỹ không những ở Phủ Tổng thống, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Nha
sát cảnh, các bộ của nguỵ quyền Sài Gòn mà ở các đơn vị quân đội nguỵ và các địa
phương khác.
9
Sau khi gạt Pháp ra khỏi guồng máy cai trị và đã độc chiếm miền Nam, Mỹ nguỵ -
tập trung mũi đàn áp cách mạng. Chúng liên tiếp mở những cuộc hành quân càn
quét, các chiến dịch “tố cộng” với khẩu hiệu “ đạp lên oán thù, thà giết lầm còn hơn
bỏ sót” hay “ Đảng trị Đảng, dĩ dân trị dân”. Cuối năm 1955, hàng trăm ngàn cán
bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước đều bị giết hại.
Mỹ tin chắc rằng với bộ máy chính quyền của ngụy và đội quân nguỵ có nhãn hiệu
độc lập hơn hẳn nguỵ quyền nguỵ quân thời Pháp, chúng nghĩ sthắng được cách
mạng Việt Nam. Nhưng thực tế chúng đã đánh giá thấp dân ta, nhất là khi Việt Nam
Đảng Mác Lênin lãnh đạo, Mỹ đánh giá quá cao chính sách thực dân mới và -
tiềm lực của Mỹ.
Giờ đây đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới đang vấn đề chính của nước ta. Kẻ
thù của chúng ta giờ đây không còn là thực dân Pháp bại trận và suy yếu, mà đế
quốc Mỹ, chúng tiềm lực về kinh tế và l lượng quốc phòng mạnh hơn các đế ực
quốc khác.
Lực lượng cách mạng miền Nam tạm thời thế giữ gìn lực lượng. Sau khi quân
đội ra rút đi các tổ chức cách mạng ở miền Nam phát rút vào hoạt động bí mật, hoạt
động không hợp pháp.
Còn miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng do Nhân dân làm chủ đi theo xu thế tất yếu
là quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trước mắt, miền Bắc phải hàn gắn xong những
vết thương nặng nề của chiến tranh. Cách mạng đã chuyển giai đoạn, nhưng Đảng
lãnh đạo cách mạng chưa kịp chuyển biến về nhận thức, về đường lối tổ chức.
Những thuận lợi mới và những căn bản đã đảm bảo cho cách mạng nước ta nhất định
thắng lợi. Còn những khó khan mới sẽ đòi nước ta phải cố gắng vượt qua thời kỳ
gian khổ lâu dài.
Trách nhiệm lịch sử đặt lên vai Đảng Lao động Việt Nam, đội tiên phong cách
mạng của Nhân dân Việt Nam, phải tìm ra đáp số cho bài toán về con đường
giải phóng miền Nam và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
trong điều kiện Mỹ đã thay Pháp thống trị miền Nam.
3.2 Chiến lược của Đảng
3.2.1 Khôi phục kinh tế miền Bắc và giữ gìn lực lượng ở miền Nam.
Trước hết, ng l i chính tr , quân s đườ phương hướng ti n hành chi n tranh cách ế ế
mạng đúng đắn, sáng t o c ủa Đảng nhân t quy ết định th ng l i cu c kháng chi ến
chng M , c ứu nưc. t, nh t là tình Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình các m
hình trong nướ ế, Đảng ta đã vạch ra đườ ến hành đồc bi cnh quc t ng li ti ng
thi hai chi c cách m ng: cách m ng dân t c dân ch nhân dân n Nam, ến lượ mi
cách mng xã h i ch nghĩa ở min Bắc; giương cao ngọn c độc lp dân t c và ch
nghĩa xã hội. Đảng cũng sớ ẳng địm kh nh: vì gii phóng min Nam, phi bo v
xây d ng mi n B b o v , xây d ng mi n B c, ph ng gi c M ắc, và để ải đánh thắ
min Nam; hai nhi m v đó kết h p ch t ch v i nhau trên ph m vi chi ến lược, nhm
10
mt m c tiêu chung hoàn thành cách m ng dân t c dân ch nhân dân trong c
nước, th c hi n th ng nh m l n nh ất nước nhà. Đây đặc điể ất cũng là nét đc
đáo của cách m ng Vi t Nam trong th i k ng Mch , cứu nước. Theo đó, cùng vi
xây d ng mi n B c xã h i ch ng m nh, gi vai trò là h n cho nghĩa vữ ậu phương lớ
ti ến tuy n l ng ta h t s c coi trớn, Đả ế ng vi c xây d ng, phát tri n l ực lượng và trc
tiếp lãnh đạo, ch u tranh cách m ng mi n Nam. đạo đấ
Trong -Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II từ ngày 15
17/7/1954 tại Việt Bắc dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị đã xem
xét và đánh giá tình hình mới và vạch ra chiến lược của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đọc bản báo cáo quan trọng mạng tên nh hình mới và nhiệm vụ mới.Báo cáo
nhận định : sau chiến thắng lớn Điện Biên Phủ , thế ta ngày càng mạnh, thế địch
ngày càng yếu nhưng thế mạnh và thế yếu ấy là tương đối. Đế quốc Mỹ âm mưu kéo
dài chiến tranh Đông Dương , phá hoại hiệp định ơnevơ, tìm cách hất cẳng Pháp Gi
để độc chiếm Việt Nam, Campuchia và Lào, biến nhân dân ba nước thành nước
lệ của Mỹ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng cho nên mọi việc của ta đều nhằm
chống đế quốc Mỹ Bất kỳ người nào nước nào không thân Mỹ đều có thể làm mặt .
trận thống nhất ( tạm thời ) với ta”
Trong bản báo cáo đã nêu rõ, nếu muốn lập lại hòa bình, chấm dứt chiến chiến tranh,
phải điều chỉnh khu vực, nghĩa là quân đội địch phải tập trung vào một vùng để rút
dần, còn dân ta phải tập trung vào một vùng để xây dựng, tạo điều kiện đi lên thống
nhất.
Cùng với đó, bản báo cáo đã nhận định lấy hòa bình không phải chuyện : Tranh
dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức tạp.
Ba nhiệm vụ chính được nêu ra trong bản báo cáo :
“1- Tranh thủ củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ
toàn quốc
2- Tăng cường lực lượng quân đội nhân dân, xây dựng một quân đội nhân dân mạnh
mẽ và thích hợp với yêu cầu của tình thế mới
3- Tiếp tục thực hiện người cày ruộng; ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bđiều
kiện kiến thiết nước nhà”
Chủ yếu công tác trước mắt làm cho toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhận tính
chất, nội dung tình hình và nhiệm vụ mới.
Bản báo cáo Để hoàn thành nhiệm vụ và đẩy mạnh công tác trước mắt đã được trình
bày và hội nghị đã thảo luận và hoàn toàn nhất trí với sự chuyển hướng mới do Ch
tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh nêu ra.
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra Lời kêu gọi đồng bào và cán b
chiến sĩ cả nước.
Ngày 5-9-1954, Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết cụ thể
hóa bổ sung thêm nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu. Đặc điểm quan trọng nhất
11
trong tình hình mới là miền Nam, Bắc tạm thời chia thành hai vùng. uộc đấu tranh C
của nhân dân miền Nam phải chuyển sang từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính
trị. Cùng ngày thì Bộ chính trị ra bản chỉ thị riêng cho Đảng bộ miền Nam. ỉ thị Ch
vạch ra ba nhiệm vụ chính trước mắt :
“1- Đấu tranh đòi đối phương thi hành đúng Hiệp định.
2- Chuyển hướng công tác cho thích hợp điều kiện mới, nắm vững phương châm,
chính sách mới, sắp xếp cán bộ, bố trí lực lượng, vừa phải che giấu lực lượng vừa
lợi dụng các khả năng công khai, hợp pháp.
3- Tập trung mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình, thống nhất, đấu tranh đánh
đổ chính quyền Ngô Đình Diệm thân Mỹ, lập ra chính quyền tán thành hòa bình
thống nhất, độc lập, dân chủ cải thiện dân sinh, tăng cường vận động ngụy quân,
ngụy quyền.”
Về sự lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam, chỉ thị vạch tổ chức đảng phải mật,
gọn nhẹ, vững chắc, trong sạch, chống gian tế chui vào.
Tiếp theo về việc xây dựng miền Bắc, tháng 9-1954, Nghị quyết Bộ chính trị đã vạch
rõ trong thời kỳ tiếp quản không phải tiến hành cải tạo xã hội mà là ổn định xã hội,
ổn định vật giá, ổn định thị thường, những hoạt động của thành phố và nông thôn sẽ
trở lại bình thường sau đó mới cải cách những bước cần thiết một cách thận trọng
nhất. Nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi
kinh tế, then chốt phục hồi nền sản xuất nông nghiệp, giao thông vận tải. Tăng
cường mở rộng hoạt động quốc tế dựa trên nguyên tác bình đẳng, hai bên đều có lợi,
tôn trọng lãnh thổ, chủ quyền của nhau; tập hợp mũi nhọn để có thể chống đế quốc
Mỹ, mở rộng các mối quan hệ với các nước Đông Nam Á, nước Pháp, ngoài ra cần
phải củng cố tình hữu nghị giữa các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Hội nghị lần thứ bảy ( tháng 3 1955) và lần thứ 8 ( tháng 8 đều đã chỉ ra và - -1955)
nhận định : muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai cần củng cố nền hào bình, thực
hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ, điều cốt yếu phải ra sức củng cố miền
Bắc , miền Băc dần tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị Bộ chính trị tháng 6 – 1956 bổ sung thêm : Hình thức đấu tranh trong toàn
quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, nhưng không có nghĩa là không dùng cũ trang
tự vệ trong hoàn cảnh nhất định. năm 1956 , hàng chục đơn vị trang ra T -1957
đời ở Nam Bộ, nhiều đội trừ gian được thành lập ở Liên khu V.
3.2.2 Xây d ng b o v n B ng ba chi n tranh c mi ắc, đánh thắ ến lược chiế ủa đế
quc M
Với đườ ến lược đúng đ ạo đó trên sng li chi n, sáng t thc ti a cách n c
mng mi p th ng l o phù hền Nam, Đảng ta đã kị ời định ra đườ ối lãnh đạ p vi tng
giai đoạn cách mạng, đảm bo cho cu c chi ến đấu ca toàn quân và toàn dân ta trên
khp hai mi n giành th ng l i ngày càng to l n và toàn di c th ện. Đó chính là việ c
hin Ngh quy t Ban Ch ế ấp hành Trung ương lần th 15 (khóa II) và Ngh quyết Đại
12
hi l n th ng, cách m ng mi n Nam chuy n t III (năm 1960) của Đả thế gi gìn
lực lượng sang thế tiến công. K t qu t b i chi n tranh ế ta đã làm thấ ến lược “Chiế
đặ đạc bi a Mệt” củ . Ngh quy n thết Trung ương lầ 14 (khóa III) đã chỉ o thành
công cu c T ng ti n công n i d y T t M u Thân 1968, làm phá s n chi ế ế ến lược
"Chiến tranh c c b " c a chúng. H i ngh l n th 21 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng năm 1973 đã chỉ đạo cu c ph n công chi ến lược giành th ng l ợi. Đặc bi t, H i
ngh B Chính tr , tháng 10- 1974 đầu năm 1975 đã kịp thời đánh giá đúng so sánh
lực lượ ữa địng gi ch ta, vch s xut hi n c a th ch s , thông qua k ời l ế
hoch và h t tâm chi quyế ến lược gi i phóng hoàn toàn mi n Nam. Th c hi n quy ết
tâm đó, quân và dân ta đã thực hành T ng ti n công và n i d ế ậy mùa Xuân năm 1975
toàn th ng.
Trong không khí sục sôi căm thù và trước xu th vùng d y c a qu n chúng, tháng 1- ế
1959 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã họ 15 đây p Hi ngh ln th
kết qu c a quá trình tìm tòi, nghiên c u, th nghi t kinh nghi m cách m đúc kế
m Hng mi n Nam 1954 đến năm 1958. i ngh đồng th ng diời đã theo dõi nhữ n
biến m i nh t ca tình hình th ế giới như Cách mng dân ch tư sản Irc ( năm 1958),
Cách m ng Cuba ( 1959), H i ngh hai mâu thu n c a h i Vi đã chỉ ẫn cơ bả t
Nam: M t mâu thu n gi a m bên ch c, giai c nghĩa đế quốc xâm lượ ấp địa
ch phong ki n và bế ọn tư sản m i b n quan liêu ng tr th min Nam và mooyj bên
toàn th dân t c Vi t Nam bao g m nhân dân hai mi n Nam, B c; Hai mâu
thun giữa con đườngh i ch nghĩa với con đường tư bản ch nghĩa min Bc.
Tuy là chính ch i quan hất khác nhau , nhưng hai mâu thuẫn cơ bản đó có mố bin
chng và tác động ln nhau.
Căn cứ vào đó H đã nhấ i ngh t trí đề ra nhim v Cách mng Vit Nam trong giai
đoạn m i : tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh gi v ng hòa bình,
thc hi n th ng nh t nước nhà trên cơ sở độc l p và dân ch , hoàn thành cách m ng
dân ch trong c nước, ra s c c ng c min Bắc và đưa miền Bc tiến lên ch nghĩa
xã h i, xây d ng m t Vit Nam hòa bình, th ng nh ất, độc lp và giàu mnh.
Còn v cách m ng mi n Nam : Nhi m v n là gi i phóng mi n Nam i ách bả kh
thng tr đế quc phong ki n, hoàn thành cách m ng dân t c ế để người dân
rung cày; nhim v trước m t toàn dân kiên quy u tranh cht là đoàn kế , để ết đ ng
quân xâm lược và gây chi ách th ng tr c m, tay sai xến, đánh đổ ủa Ngô Đình Diệ a
đế quc M, thành l p m t chính quy liên hi p dân t c dân ch n Nam. n mi
V phía Đảng ta c n nghiên c u và ch động s d ụng khuynh hướng hòa bình, trung
lập đang nảy n trong tư sản dân t c và trí th l p trên , coi tr ng công tác binh c
vn, tri l i d ng mâu thu n c a ch M - m, thêm b n b t thù. ệt để ế độ Di
Vai trò lãnh đạ ủa Đảo c ng b min Nam, Ngh quy ết đã chỉ rõ : S t n t i và trưởng
thành c ng b n Nam i ch c tài phát xít là m t y u t quyủa Đả mi dướ ế độ độ ế ết định
th ng l i ca phong trào cách m ng mi n Nam.
13
Ch t ch H ng nói : Không ph i m c ngay ch Chí Minh đã t ột lúc ta đánh đ đư ế
độ M- Dim. v y, c ch t c, tranh tần đánh lui đị ừng bướ ng th ng l i v phía
mình, chu n b l ng khi th n. ực lượ ời cơ đế
Ngh quyết 15 có ý nghĩa lịch s to l n, đã mở đường cho cách m ng mi n Nam ti ến
lên, xoay chuy n tình hình, d ng Kh toàn mi n Nam ẫn đến “Đồ ởi” oanh liệt năm
1960.
Hi ngh l n th 16 c a Ban Ch ng khóa II tháng 4- ấp hành Trung ương Đ 1959 đã
tho lu n và thông qua hai ngh quy t quan tr ng : Ngh ế quyết v v h p tác hóa ấn đề
nông nghi p Ngh quy v c i t n doanh ết v ấn đề ạo công thương nghiệp b
nghip.
Trong đại hội đại bi u toàn qu c l n th III c ủa Đảng t ngày 5 đến ngày 10-9-1060
đã thảo lun nh t trí v i Báo cáo chính tr các báo cáo khác c a Ban Ch p hành
Trung ương Đảng. S nhất trí này đã đưc th n trong vi c thông qua Ngh quy hi ết
của Đại h i v đường l i và nhi m v c ủa Đảng trong giai đoạn mi, thông qua điều
l s i và L i kêu g i c i H i. S t nh t trí c i h h t nhân ửa đổ ủa Đạ đoàn kế ủa Đạ i
đoàn kết nhân dân c c, là ngu nướ n s c m nh dn đến phong trào cách m ng hai
min Nam, Bc. Hn ch cế ủa Đại hội III là chưa d kiến v chặng đường đầu tiên
ca th i k quá độ đi lên chủ nghĩa.
Vi thng l i c a công cu c c ng c min B c ng Kh phong trào “Đồ ởi” ở min
Nam, cách m ng Vi c tình th m y tri n v ệt Nam đứng trướ ế ới đầ ng. Phong trào đấu
tranh hào, hòa bình, và ti n b xã h i c a công nhân và nhân đòi dân sinh , dân chủ ế
dân lao đng các nước bản ch nghĩa một dòng thác nữa đánh thng vào chính
sách phản động gây chi n cế ủa đế quc M c ti. Th ễn đấu tranh cách m ng c a nhân
dân ta n Nam t ng Kh i (1959 - mi phong trào Đồ 1960) qua giai đoạn đấu
tranh v i các chi ến lược chi n tranh c a M ế đã khẳng định tính đúng đn của phương
thc k t hế ợp đấu tranh chính tr v ới đấu tranh vũ trang; thự ện phương châm “hai c hi
chân, ba mũi, ba vùng”; kế ữa đấ ị, đất hp cht ch, nhp nhàng gi u tranh chính tr u
tranh quân s , binh v u tranh ngo i giao. S k t h p và th ng nh t gi a các ận và đấ ế
mặt đấu tranh đã nhân sức m nh c a dân t c ta lên g p b i, t o ra th ế ch động chiến
lược để tri n khai th ế trận “thiên la địa võng” ca chi n tranh nhân dân, làm cho M ế
và đồng minh c a chúng luôn trong vòng vây c a cách m ng, b chia r , cô l p, b
tiế n công m t cọi nơi, bấ lúc nào, d n mẫn đế t lòng tin vào mc tiêu c a cu c
chiến tranh, đi dần ti tht bi.
3.2.3 Chi c bi t (1961-1965) ến tranh đặ
c M chuy n sang chi n tranh ki u m ng và Bác H Khi đế qu ến lược “chiế ới”, Đ
đã chỉ ệc tăng cườ ữa đấ đấu tranh trang bằ đạo vi ng gi u tranh chính tr ng ba
mũi giáp công chính trị, quân s binh v n trên c ba vùng chi c là r ến lượ ng núi,
nông thôn đồ ằng đô thị. Đi sâu phân ng b ch nhng thế mnh, yếu ca k thù,
Đả độ ng ta nh i kận định: “Thờ tm ổn định ca chế M - i kDiệm đã qua và th
14
khng ho ng liên ti p, suy s p nghiêm tr ế ọng đã bắt đầu.Đầu năm 1961, Tổng thng
M G.Kennơđi buộ ải điề ến lượ đũa ạt” sang “phảc ph u chnh chi c t “trả n ng
linh ho i ba chi n tranh : chi c bi t, chi n tranh c c bạt” v ế ến tranh đặ ế , chiến tranh
tng l c.
Tháng 1-1-1961, B Chính tr n t n tranh ch trương chuyể khởi nghĩa sang chiế
cách m . Ban Ch nh thành l ng ấp hành Trung ương Đảng đã quyết đị ập Trung ương
Cc mi n Nam thay cho X y Nam B Ngày -1-1961, B Chính tr. 31 ra Ch th
v phương hưng và nhim v công tác trước mt ca cách mng min Nam, nhn
mnh ph u tranh chính trải tăng cường đấu tranh trang song song đó đấ . Vi
nhim v trướ c m t là xây d ng l ực lượng v c chính tr và quân s Tháng 2-1961, .
B chính tr ra quy nh v quy ết đị Ngh ết v nhi m v quân s , c n ph i ki m ch ế
M và th ng M min Nam, sẵn sàng đố ới âm mưu và hành đội phó v ng m rng
chiến tranh. Ngoài ra ph i c ng c c phòng trên mi n B c, xây d qu ng l ực lượng
mi n Nam.,
Quán tri t ch và ngh quy t c a B chính tr , H i ngh c l n th th ế Trung ương Cụ
nht (tháng 10- t trí kh c n thi t ch t ch k t h p gi a hai 1961) đã nhấ ẳng định s ế ế
hình th u tranh chính tr ức đấ và đấu tranh vũ trang.
Cùng v c hi n ch o k ch ới đó th đạ ế ho 5 năm (1961-1965) hay tên g i chính th c
là "K ế hoạch 5 năm lần th nht phát tri n kinh t c dân (1961-1965)" ế qu để đẩy lên
xây d ng mi n B c. Nhim v n c a K -1965 là bả ế hoạch nhà nước 5 năm 1961
"phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở v t ch t và k thu t c a ch nghĩa xã hội, thc
hin m c công nghiột bướ p hóa xã hi ch nghĩa và hoàn thành công cuộc ci to
xã h i ch p t n B c ti n nhanh, ti n m nh, ti n v ng ch c lên nghĩa, tiế ục đưa miề ế ế ế
ch nghĩa xã hội. T năm 1961 đến năm 1965 đã kết n p 30 v ạn đảng viên, t chc
đả Đế ng các c c cấp đượ ng c. n cu n thối năm 1964, kế hoạch năm năm l nh t
đã giành được nhng thng li quan trng. Min Bc tr thành h u ng phương vữ
chc cho c nước.
Cuối năm 1960, hình thc thng tr b ng chính quy ền tay sai Ngô Đình Diệm b tht
bi, M buc ph i chuy n sang thc hin chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. “ Chiến
tranh đặc biệt” là một cu c chi ến tranh thâm độc và nguy hi m, gây nhi ều khó khăn
cho cu c chi u c a Nhân dân ta i trong th b ến đấ . Tuy nhiên, ra đờ ế động, “ chiến
tranh đặ ệt” không những không phát huy được bi c tác dng mà cong t ng b b gãy
trước cao trào n i d y và ti n công, gi v ng quy n làm ch c ế a Nhân dân ta min
Nam. M c tiêu chính c ủa “chiến tranh đặc bi c a M ệt” min Nam d p t t phong
trào “Đồ ởi”, bình đị ền năm 18 tháng ực lượng Kh nh mi vi l ng quân ngy do M
trang b c v n M ch huy, ngăn chặn chi vi n B c, cô l p mi n B c, khi n mi
cn s ném bom min B c. Th ế nhưng dưới s lãnh đạo ca Đảng, Nhân dân ta đã
đấu tranh kiên cường ch ng tr các hành động chi n tranh c a k ế địch. Đảng b min
Nam được ki n toàn v i h thng , t p trung t Trung ương Cục đến các chi b. Mt
tr n gi i phóng làm thêm chức năng ca chính quyn cách m ng. Ngày 15-2-1961,
15
các l c th t v i tên g Quân gi i phóng ực lượng vũ trang miền Nam đượ ng nh i
min Nam Vi t Nam. 50% đảng viên toàn Đảng b miền Nam đã được điều đng là
nòng c xây d ng b i t p trung. Ph i h p v u tranh chính tr binh v n, t độ ới đấ
lực lượng vũ trang đy mnh hoạt độ ệt đng tiêu hao, tiêu di ch, dy lùi nhiu cuc
càng quét c a quân ng y, h n chúng n i d y giành và gi n làm ch tr qu quy .
Các Đảng b lãnh đạo đã thực hi n t ừng bước ci cách ruộng đất, chia thêm cho dân
4 v t canh tác. ạn hécta đấ
T thc ti n c a cu c kháng chi n, ngày 6- ế 12-1962, B Chính tr h p ta ph và có i
kh năng kiềm chế và chiến thng k địch, ti n hành m t cu c chi n tranh toàn dân ế ế
và trường kỳ, trước m t là làm th t b i kế hoch ti n công cế ảu địch trong năm 1963.
Sang năm 1963, ền Nam đã giành đượcuc kháng chiến mi c nhiu thng li ln.
Vi tinh th n s n sàng chi c chu n b t t v m i m b i, ến đấu, đượ ặt, các đơn v độ
hi quân, phòng không và lực lượng v ũ trang đã nổ súng k p th i, anh dũng tiến công
đợ ế địt ti n công ca c a ch, b i c , bắn rơi 8 máy bay hiện đạ ủa địch n b thương mổ
s chi c khác, b t s ng m t gi c lái. Cế hiến th ng ngày 5-8-1964 ng t quân đã chứ
ta có kh năng đánh bại cu c chi n tranh phá ho i b ng không quân và h i quân c ế a
đế “Cuộ “Chiế quc M. c n tranh đặ ệt” mà chúng đang thí nghiệc bi m min Nam
Việt Nam đã thấ , thì chúng cũng sẽt bi tht bi bt k nơi nào khác.”
3.2.3 Chi n tranh cế c b (1965-1968)
Vào đầu năm 1965, M chuy n sang chi ến lược “chiến tranh c c b ộ”, đưa quân chiến
đấ u M vào Nam và ném bom vào mi n Bc, mc tiêu c a Mtiêu di t ch l c
quân gi i phóng , bình định mi n Nam, bu c phía Vi t Nam ph i ng ồi đàm phán theo
điều ki n c a M Chính quy . ền Giônxơn trương đưa quân Mỹch vào nhanh và rút
ra nhanh, nghĩa là muốn giành thng l i trong m t th i gian ng n.
Hi ngh l n th 11 Ban Ch ng khóa III tháng 3- ấp hành Trung ương Đả 1965 đã
chuy tển hướ ạt động ho ng ca min Bc thi bình sang thi chiến, tiếp tc s
nghip xây dng ch nghĩa h u kiội trong đi n chi n tranh i cuế , đánh bạ c
chiến tranh phá ho i không quân, h i quân M , phát huy t ối đa vai trò hậu phương
vi mi n Nam, cùng vi ệc làm tròn nghĩa vụ quc t v i cách m c Làoế ạng hai ,
Campuchia. Trong h i ngh l n th 12 Ban Ch ng khoá III ấp hành Trung ương Đ
tháng 12-1965 k t lu n : Mế ặc đế quc M đưa vào miền Nam hàng ch c v n quân
độ i vi n chinh, l ng so sánh gi ch ta i lực lượ ữa đị không thay đổ ớn, nhưng cuc
chiến tranh tr nên gay go hơn Nhân dân ta đã có những sở chc chắn để gi vng
thế ch động trên chi ng. ến trườ
Ngh quyết Hi ngh l n th 11 và 12 Ban Ch ấp hành Trung ương Đảng khóa III có
tm quan tr ng vô cùng trong vi ánh b n tranh c ệc đ ại “chiế c b a Mộ” củ .
Trướ c mùa khô 1965-1966, B Chính tr ch th cho quân và dân ta mi n Nam ra
sc chu n b thế trn và lực lượng, quy t ph i gi ế thế ch động tiến công, dùng hình
16
th c ph n c u vông để chiên đấ i quân M và quân ng y, ph i làm th t b i các m c
tiêu cơ bản ca chúng.
Trung ương Cụ ấp Đả ủy địa phương c, các Khu y Quân khu y, các c ng min
Nam kh các cu c h i ngh bàn v ng ch o, cho mẩn trương mở biện pháp, hướ đạ i
mặt để có th ch động đố ới địi phó v ch.
Qua hai cu c ph n công chi a quân vi n chinh M u nh n l y th y b ến lược c đề i
dưới tay nhân dân Vi o ra c c di n m trên chi ng mi n Nam. ệt Nam, đã tạ i ến trườ
Tiếp đến cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của Mỹ là
một bộ phận hữu của chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Máy bay, tàu chiến Mỹ
đánh phá ác liệt hầu hết các vị trí quân sự quan trọng thả mìn phong tỏa các cửa biển,
lạch sông nhằm ngăn chặn sự tiếp tế của miền Bắc. Chiến tranh diễn ra ngày càng
ác liệt nhưng nhân dân miền Bắc cũng như nhân dân cả nước đều không hề nao núng.
17-7 - 1966 chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước: “chiến tranh
có thể kéo dài năm năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và
một số thành phố, nghiệp thể sợ bị n phá, xong nhân dân Việt Nam quyết
không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”
Ngay từ đầu và trong suốt quá trình chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất quân và
dân miền Bắc đã đánh trả quyết liệt. Đảng nhà nước đã phát động và tổ chức
phong trào toàn dân làm công tác giao thông vận tải trong đó lực lượng giao thông,
vận tải chuyên nghiệp nòng cốt và bộ binh công binh hậu cần vận tải ,phòng không
là lực lượng xung kích
Tháng 1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III quyết
định mở trận đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ hơn nữa sự đồng tình, ủng hộ
giúp đỡ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ, khoét sâu mâu thuẫn trong
nội bộ địch, cô lập cao thái độ hiếu thắng trong giới cầm quyền Mỹ, hỗ trợ cho đấu
tranh chính trị và quân sự của quân và dân ta.
3.2.4 Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân .
Mỹ đã tiến hành chiến tranh cục bộ với mọi thủ đoạn biện pháp, song âm mưu
giành thắng lợi quyết định ở miền Nam Việt Nam trong hai năm của Mỹ đã bị phá
vỡ.Thất bại ở Việt Nam đã làm cho tình hình nước Mỹ trở nên không ổn định. Về
phía ta, qua hai năm đương đầu với chiến tranh cục bộ, quân dân miền Nam đã phát
huy mạnh mẽ chiến lược tiến công, từng bước bị gãy hai gọng kìm “tìm diệt” -
“bình định”,làm thất bại mục tiêu quân sự, chính trị Mỹ-ngụy
Miền Bắc càng chứng cho tính bền vững của một hậu phương cùng một lúc làm hai
nhiệm vụ là xây dựng và bảo vệ miền Bắc và chi viện cho miền Nam. Về đối ngoại
sự nghiệp chính nghĩa và đường lối đối ngoại đúng đắn của ta đã tranh thủ được sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ ngày càng rộng rãi của nhân dân chính phủ nhiều
nước, đặc biệt là các nước hội chủ nghĩa mặc còn nhiều điều bất đồng giữa
Liên Xô và Trung Quốc.
17
Ngay sau khi đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thhai của Mỹ ngụy, từ -
tháng 5- 1967 bộ chính trị và các cơ quan chỉ đạo chiến lược đã có nhiều cuộc họp
bàn về chủ trương chiến lược Đông Xuân 1967 1968. Vì vậy Hội nghị Bộ Chính -
trị Trung ương đảng (12 1967) đã quyết định một phương thức tiến công nhầm tạo -
nên chuyển biến trong cục diện. Đó là cách tổng công kích tổng khởi nghĩa vào tất -
cả các đồ thị riêng lũy của Mỹ ngụy trên miền Nam-
Tháng 1- 1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III thông
qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 1967, Hội nghị nhận định: điểm cơ bản của 12-
tình hình vẫn đang ở thế thắng, thế chủ động thuận lợi, địch đang ở thế thua,
thế bị động khó khăn: xu thế của tình hình trong cả năm 1968 địch sẽ cần
chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước. Hội nghị hạ quyết tâm chiến
lược chuyển sang chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sau một thời
kỳ mới một thời kỳ tiến công nổi dậy giành thắng lợi quyết định để thực hiện
được quyết tâm đó phải động viên những nỗ lực lớn nhất từ Đảng, toàn dân cả
nước hai miền, dùng phương pháp tổng công kích tổng khởi nghĩa để giành
thắng lợi quyết định. Hướng tiến công được xác định gồm đòn đánh tiêu diệt của bộ
đội chủ lực ở chiến. trường rừng núi và đòn công kích quân sự kết hợp với nổi dậy
của quần chúng đang sắp quan đầu não của Mỹ ngụy các đô thị quan trọng -
trên toàn miền Nam.
Mục tiêu chiến lược là đập tan ý chí xâm lược của Mỹ , buộc mỹ phải chịu thua
miền , chấm dứt mọi chiến tranh đối với miền Bắc. Nam
Trung tuần tháng 1- 1968, liên quân Lào- Việt mở Chiến dịch Nậm Bạc và lực lượng
trang bất ngờ tiến công o cứ điểm Khe Sanh 29 rạng sáng ngày 30. Đêm
đêm ngày 30 rạng ngày 13- 1-1968( tức giao thừa và mồng một Tết), cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thâ nổ ra trên khắp chiến trường với hướng chính là các n
đô thị, trung tâm quân sự, chính trị của Mỹ ngụy. -
Trong gần hai tháng, cuộc Tổng tiến công đã nhiều thành tựu lớn : đánh vào 4
trong 6 thành phố lớn, 37 trong 40 thị , hàng trăm thị trấn, đánh vào mục tiêu
trọng yếu : Tòa Đại Sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Dinh Độc Lập,.
18
( Xe tăng Quân Giả ến vào dinh Độ Ảnh tư liệi phóng ti c Lp, Sài Gòn, ngày 30-4-1975. u )
Bị tấn công bất ngờ thoạt đầu chúng lúng túng nhưng ngay sau đó chúng điều động
máy bay, vũ khí hạng nặng để phản công. ế nhưng đêm 1968, Tổng Thống Th 31-3-
Mỹ Giônxơn đã tuyên bố đơn phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom
miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, sẵn sàng cử đại diện sang đàm phán, thực
hiện chính sách phi Mỹ hóa”, tổng thống Giônxơn cũng không đứng ra tranh cử
nữa. Như vậy, quân Mỹ đã ngầm thừa nhận sự thất bại của mình. Đến ngày 31- -10
1968, Mỹ đã tuyên bố ngừng ném bom, bắn phá trên đất nước Việt Nam, chấp nhạn
họp hội nghị Paris để giải quyết chiến tranh.
Cuc T ng ti n công n i d ế ậy mùa Xuân năm 1975 là một trong nh ng chi n công ế
vang d i nh t su t chi u dài l ch s d c và gi c c a dân t c Vi t Nam, ựng nướ nướ
góp ph n kh ẳng định s đưng l i kháng chi n ch ế ng M , c ứu nước độc l p, t ch,
đúng đắn, sáng t o c ủa Đảng ta, đồng thi là th ng l i tiêu bi ểu đánh dấu ngh thu t
quân s dân t c phát tri n lên t m cao m o, khoa h ới, mang tính độc đáo, sáng tạ c
với tư tưởng nhân văn sâu sắc.
19
3.3 Chi t Nam hóa chi c Mến lược Việ ến tranh” của đế qu ch trương
chuyển hướ ến lượ ủa Đảng chi c c ng.
Sau th t b i n ng n c chi n tranh c c b n Nam Vi t Nam, trướ ến lước “ chiế ộ” ở mi
nước M lâm vào khng hong n ng n ế ế t Chi n tranh th gi Trưới th hai. c tình
hình thúc ép đó xơn đã vậNích n d ng h c thuy ết Níchxơn vào cuộc chi n tranh Viế t
Nam m, đề ến lược Việ ến tranh” ra chi t Nam hóa chi t s điều chnh ch trương
nhưng thự ại dùng ngườ ệt để ết ngườ ệt ới âm mưu duy trì c cht l i Vi gi i Vi v
kiu th c dân m i min Nam Vi t Nam. “ Việt Nam a chiến tranh” m t chi ến
lược hết s c thâm sâu nguy hi m c ủa đế quc M. Mục tiêu bn c ếa chi n
lược “Việ ến tranh” của Níchxơn rút quân Mỹt Nam hoá chi ra khi min Nam
Vit Nam v n gi c chính quy n tay sai Nguy đượ ễn Văn Thiệu. Để đạt được
mc tiêu chiến lược đó, Níchxơn đã sử d ng t ối đa về quân s c ủa nước M k t h ế p
vi nh ng th đoạn chính tr ngo i giao r t x o quy t hòng giành l i th m nh, ế
hòng cô l p và bóp ngh t cu c kháng chi n c a nhân dân Vi t Nam. ế
Với tình hình đó, Đả cũng ra sứng ta c cng c tinh thn quyết tâm chng M ca
nhân dân ta, ngày 1-1-11969 Ch t ch H Chí Minh đã viết trong bức thư chúc mừng
năm mớ : “Vì độ do, Đánh cho Mỹ , đánh cho ngụy nhào,…” i c lp, vì t cút
Tiếp theo g ng b n Nam tháng 11-1968, Ngh quy chính tr Ch th ửi Đả mi ết B
tháng 4 - ng viên quân và dân ta ti p t y m nh công kích, t ng kh1969 đã độ ế ục đẩ i
nghĩa để đánh bại chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh” và âm mưu kết thúc chiến
tranh trên th mế nh c a M .
Hi ngh ng l n th ch rõ, Trung ương Đả 18 và 21 sau này cũng đã v ta chưa đánh
giá được hết ý đ thâm hi m và kh năng của địch cũng như tình hình khó khan trên
chiến trườ ển hướng cho nên ta cn chuy ng tiến công v nông thôn phá tan âm mưu
của địch.
Để th c hin ch trương đó, miề ắc cũng đưa mộn B t khối lượng người và vũ khí để
tăng sức chi u cho mi n Nam anh dung m ra hai cu c ti n công vào mùa xuân ến đấ ế
và mùa hè năm 1969.
Từ đêm 22 rạng ngày 23 1969, quân và dân miền Nam đồng loạt mở đợt tiến công -2-
vào hơn 400 mục tiêu của địch ở 36 thành phố, thị xã, hơn 100 quận lỵ, thị trấn, 35
sở chỉ huy, 38 sân bay, 17 khu hậu cần lớn. Đây đòn phủ đầu đối với tập đoàn
Níchxơn vừa lên cầm quyền ở Mỹ. ở miền Đông Nam Bộ có một số trận đánh tiêu
diệt các cụm tiểu đoàn hoặc nhiều đại đội địch ở Bến Tranh, TCao, Lộc Ninh, Dầu
Tiếng. Đặc biệt các lực lượng đặc công đánh gần 300 trận, trong đó có 90 trận đánh
vào các sở chỉ huy, sân bay, kho tàng của địch, giết làm bị thương 2 vạn tên, có
nhiều quan nhân viên kỹ thuật Mỹ, phá huỷ 250 máy bay, 150 khẩu pháo và
hàng trăm triệu lít xăng dầu. Trong 30 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân và dân
miền Nam đã tiêu diệt hàng vạn tên Mỹ, ngụy và chư hầu, phá huỷ hàng nghìn máy
bay, xe tăng và pháo lớn, thiêu cháy hàng chục kho bom đạn, xăng dầu.

Preview text:

HC VIN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYN
KHOA LCH S ĐẢNG CNG SN VIT NAM
-------------------------------
TIU LUN
MÔN: LCH S ĐẢNG CNG SN VIT NAM
S LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN T QUYẾT ĐỊNH
THNG LI TRONG KHÁNG CHIN CHNG M CỨU NƯỚC ( 1954-1975 ) H VÀ TÊN :
LÊ HNG NGC MÃ SINH VIÊN : 2156090039 LP
: BÁO MẠNG ĐIỆN T CLC
Hà Nội, tháng 1 năm 2022 0
MC LC
M ĐẦU
Tính tt yếu của đề tài ……………………………………………………………2 NI DUNG
I.TÌNH HÌNH XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC KHI CÓ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1.1 Tình hình xã hội trước khi Đảng ra đời……………………………………..3
1.2 Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời………………4
II
. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ YẾU TỐ TẤT YẾU
2.1 Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước………………………..4
2.2
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam………………..………………………..5
2.3 Ý nghĩa lịch sử………………………………………………………………… 7
III. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC ( 1954 - 1975 )
3.1 Bối cảnh lịch sử……………………………………………………………….8
3.2 Chiến lược của Đảng
3.2.1 Khôi phục kinh tế miền Bắc và giữ gìn lực lượng ở miền Nam………….9
3.2.2 Xây d
ng bo v min Bắc, đánh thắng ba chiến lược chiến tranh của đế
qu
c M ………………………………………………………………………….11
3.2.3 Chi
ến tranh đặc bit (1961-1965) ………………………………………..13
3.2.3 Chiến tranh cc b (1965-1968)……………………………………………15
3.2.4 Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân…………………………………16
3.3 Chi
ến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quc M và ch trương
chuyển hướng chiến lược của Đảng……………………………….
. …………19
3.4 Cuc tiến công chiến lược năm 1972 ……………………………………….20
VI. HI
ỆP ĐỊNH PARI ĐƯỢC KÝ KT………………………………………..21
K
T LUN……………………………………………………………………….22
TÀI LI
U THAM KHO……………………………………………….. . ….. 23 1
LI M ĐẦU
Cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954– 1975) đó một cuộc chiến tranh vô
cùng khóc khốc liệt, ác liệt nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của
dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta đã trải qua bao năm đấu tranh thì ta cũng
đã giành được chiến thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông ta
đã thu về làm một. Chiến công đó chính là một biểu tượng sáng ngời của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế
giới như một chiến công vĩ đại, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế và
có tính thời đại sâu sắc. Chính thắng lợi đó đã đánh dấu một bước ngoặc
mới trong quá trình mở đường cho dân tộc Việt Nam bước vào thời kì
mới- kỉ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, đi lên xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại những kì tích vĩ đại của Cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, thống nhất đất nước, càng làm chúng
ta thấy rõ vai trò to lớn của Đảng được thể hiện ở mọi mặt : công tác lãnh
đạo, chỉ đạo trong cuộc kháng chiến chống Mỹ “quyết tâm đánh Mỹ và
thắng Mỹ” . Đó cũng là lí do em chọn đề tài tiểu luận : Sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước ( 1954-1975 ). 2
I.TÌNH HÌNH XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC KHI CÓ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1.1 Tình hình xã hội trước khi Đảng ra đời.
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế
độ thống trị vô cùng tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên nước ta.
Về chính trị, chúng lập ra chế độ thống trị tàn bạo, thi hành những chính sách cai trị
chuyên chế, biến những giai cấp tư sản mại bản, địa chủ phong kiến thành tay sai
đắc lực để có thể thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố dã man, tàn bạo, chia rẽ dân
tộc ta,... Tạo nên sự xấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng
của chế độ thuộc địa. Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta
mất hết quyền tự do, độc lập,mọi phong tào yêu nước đều bị đàn áp dã man, mọi
phong trào tiến bộ từ bên ngoài sẽ đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, khai thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản Pháp, sức lao động
của nhân còn bị bóc lột “tới tận xương tuỷ” khiến đời sống của nhân dân ta bần cùng
hóa, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra những thứ thuế
vô lý, vô nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến, làm cho kinh tế bị què
quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, kéo đến hậu quả nghiêm trọng.
Về văn hoá - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hóa nô
dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tối tăm, lạc hậu, chậm phát
triển, dốt nát, phải chấp nhận phục tùng, lệ thuộc.
Dưới sự tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ cấu kết
với thực dân để tăng cường bóc lột nhân dân ta. Tuy nhiên, chính trong lúc này nội
bộ địa chủ Việt Nam có sự phân hoá rõ rệt. Một bộ phận có lòng yêu nước, căm ghét
chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và ở những
độ khác nhau. Giai cấp nông dân chính là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt
Nam , bị thực dân và phong kiến áp bức một cách nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn
khổ của giai cấp nông dân đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và tay sai, tăng
thêm ý chí cách mạng đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền tự do. Giai cấp công
nhân ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa phần xuất
thân từ nông dân, có quan hệ chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị áp bức. Giai cấp tư
sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa chèn ép. Tầng lớp tiểu tư sản Việt
Nam gồm học sinh, trí thức, …. đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô
sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, có khả năng tiếp thu những
tư tưởng tiến bộ từ nước ngoài truyền vào. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt
Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác
nhau, đều bị áp bức, bóc lột. Từ đó, trong xã hội , ngoài những mâu thuẫn cơ bản
giữa nhân dân, chủ yếu là nông nhân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh
những mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và càng ngày càng gay gắt với đời sống 3
của nhân dân. Đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp.
Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến đặt ra
hai yêu cầu lớn : Phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc lập cho dân
tộc, tự do cho nhân dân. Xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ, chủ yếu
là lấy lại ruộng đất cho nhân dân. Trong đó, chống đế quốc vẫn là nhiệm vụ hàng đầu.
Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong
kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với
đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt
ra, cần được giải quyết.
1.2 Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời.
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước đầy gian khổ, thì dân tộc ta đã
sớm hình thành lòng yêu nước nồng nàn với tinh thần anh hùng kiên cường, bất
khuất. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên để đấu
tranh chống lại quân xâm lược. Chúng ta có thể thấy từ năm 1858 đến trước năm
1930, hàng trăm các cuộc khởi nghĩa, những phong trào chống Pháp đã nổ ra theo
rất nhiều khuynh hướng khác nhau , như cuộc khởi nghĩa của Trương Công , Thủ
Khoa Huân, hay như phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du , Đông Kinh,..
hay các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám ,.. lãnh đạo. Điểm
chung đây đều là những cuộc đấu tranh đứng lên vì nhân dân, vì độc lập vô cùng anh
dũng thế nhưng dập tắt, thất bại.
Nguyên do chính dẫn tới sự thất bại chung của những phong trào là do những người
đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đều chưa tìm được hướng đi đúng đắn
cho con đường cứu nước, điều đó cũng phản ánh đúng tư tưởng, sự phát triển của xã
hội lúc bấy giờ. Cách mạng cứu nước của ta đã thực sự rơi vào khủng hoảng, bế tắc.
Việc cấp thiết lúc bấy giờ chính là tìm ra một con đường cứu nước đúng đắn, phù
hợp với thực tiễn đấu tranh để có thể giải phóng dân tộc, lấy lại tự do.
II. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÀ YẾU TỐ TẤT YẾU
2.1 Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Giữa lúc tình hình cách mạng Việt Nam đang lâm vào con đường khủng hoảng khi
tìm ra con đường để cứu nước. Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890, quê ở làng
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ, có tên là Nguyễn Tất Thành,
lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, cảnh lầm than của nhân dân, Nguyễn Tất Thành
sớm có ý chí đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng dân tộc.
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành ( Nguyễn Ái Quốc ) rời đất nước bắt đầu ra đi
tìm đường cứu nước, học hỏi các tư tưởng tiên tiến của các nước khác rồi quay về giúp đồng bào ta. 4
Trên con đường tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua rất nhiều bước
ngoặt lớn.Người đã nhận ra được những hạn chế của những nhà yêu nước đương
thời. Không những vậy, Người còn tìm ra những hạn chế của cách mạng dân chủ tư
sản là những cuộc cách mạng không giải phóng được công nông và quần chúng lao
động. Nguyễn Tất Thành đã đi qua rất nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động vừa học
tập, cùng với đó là nghiên cứu những lý luận, rút ra những kinh nghiệm từ các cuộc
cách mạng tư sản Mỹ ( năm 1776 ) và Cách mạng tư sản Pháp ( năm 1789 ).
Tiếp theo đó, đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc Tế
Cộng Sản. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là sự kiện chính trị lớn
nhất của thế kỷ XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản. Chính thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với những người cách mạng Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc vô cùng ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó và kính phục V.I. Lênin
và đã tham gia nhiều cuộc ủng hộ nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đã giải đáp những vấn đề mà
Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc, nhận ra rõ lập trường của V.I.Lênin và Quốc tế thứ
ba khắc hẳn lời tuyên bố suông của Quốc tế thứ hai. Người đã tán thành Quốc tế thứ
ba, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản.
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với
tư cách đại biểu Đông Dương, người bỏ phiếu tán thành thành lập Đảng Cộng sản
Pháp và trở thành người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Trở thành người cộng sản , Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin về nước. Quá trình đó cũng là quá trình Người từng bước vạch ra đường lối
chiến lược cho con đường Cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản
Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc,
đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường
Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách
mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời
của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
2.2 Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc trước tiên đã thúc đẩy phong trào công
nhân và phong trào nông dân lên cao. 5
Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, đội ngũ công nhân Việt Nam có khoảng mười
vạn người. Các cuộc đấu tranh chống bọn chủ của công nhân Việt Nam được diễn
ra với nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ việc phá giao kèo, bỏ việc bãi công. Họ
biết liên kết công nhân nhiều xí nghiệp cùng đấu tranh và liên hệ với công nhân Pháp
và công nhân Trung Quốc. Đã có rất nhiều cuộc đấu tranh như : tháng 8-1925 cuộc
bãi công tiêu biểu của hơn 1.000 công nhân binh xưởng Ba Sơn ( Sài Gòn ) do Tôn
Đức Thắng lãnh đạo đã giành thắng lợi, trong hai năm 1926-1927, có 17 cuộc đấu
tranh của công nhân trong cả nước. Tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân Nhà
máy sợi Nam Định ( tháng 7-1926 ), đồn điền Cam Tiên ( tháng 12 - 1926 ), năm
1928 có cuộc bãi công nổ ra tại mỏ than Mạo Khê, Nhà máy đá Laruy ( Larue ),....
Các cuộc đấu tranh đã thể hiện rõ tinh thần đoàn kết giai cấp, ý thức tổ chức của các
công nhân. Chính báo chí của thực dân Pháp cũng đã thừa nhận : “ Từ đây, hành
động tập thể của những người lao động đã thay thế cho những âm mưu của các hội kín”
Những phong trào nông dân đã đã phát triển khá mạnh ở nhiều trong cả nước. Năm
1927, nông dân làng Ninh Thạnh Lợi ( Rạch Giá) đấu tranh chống thực dân và địa
chủ đã chiếm đất đến đổ máu. Các nông dân thuộc các tỉnh Hà Nam, Nam Định ,
Ninh Bình,... cũng đã đứng lên đấu tranh chống lại bọn địa chủ cướp đất, bãi sa bồi,..
Cả hai phong trào công nhân và nông dân đều đã hỗ trợ, tương trợ lẫn nhau.Để đáp
ứng đòi hỏi từ thực tiễn cách mạng, ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện 3 tổ chức Cộng
sản : Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng ở Nam Kỳ và
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở Trung kỳ. Sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản diễn
ra trong vòng nửa cuối năm 1929 là bước tiến nhảy vọt của phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử
Việt Nam. Tuy nhiên, ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi
sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động.
Trong bối cảnh đó, nhận thấy sự cần thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản duy
nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam, ngày 23-12-1929,
Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm đến Trung Quốc. Người triệu tập đại biểu của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại bán đảo Cửu Long
(Hương Cảng) để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Báo cáo gửi Quốc tế
cộng sản ngày 18-2-1930 của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị diễn ra vào ngày 6-1, các
đại biểu trở về An Nam ngày 8-2-1930.
Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo
luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung
đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị
đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi 6
đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp
bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.
Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng có giá trị
như cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày
3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm Ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì
mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung
cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức
thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng
sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.
Đáp ứng đòi hỏi của phong trào cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc chủ động
triệu tập các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng bàn việc hợp nhất.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng
của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam
đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào
cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, phong trào yêu nước và phong trào công nhân ở
Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn
của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm
nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.
2.3 Ý nghĩa lịch sử
Việc hợp nhất đã quy tụ ba tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất ở
Việt Nam theo một đường lối chính trị đúng đắn, đã dẫn đến sự thống nhất về tư
tưởng và cả hành động của phong trào cách mạng cả nước, tạo nên một truyền thống
về sự đoàn kết của Đảng và dân tộc từ đó về sau. 7
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chính là một bước ngoặt to lớn trong Cách mạng
lịch sử của dân tộc ra, chấm dứt cuộc khủng hoảng trên con đường tìm đường cứu
nước, Đảng sẽ chính là cơ sở dẫn đến những thắng lợi oanh liệt và là một bước nhảy
vọt trong lịch sử dân tộc vào những năm sau.
Vị lãnh tụ vĩ đại - Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã viết về sự kiện Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời : “ Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành
và đủ sức lãnh đạo cách mạng” .
III. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC ( 1954 - 1975 )
3.1 Bối cảnh lịch sử
Trong lúc nhân dân ta bước vào thời kỳ mới giữa lúc phong trào cách mạng trên thế
giới tiếp tục dâng cao. Sự lớn mạnh của các nước Liên Xô, sự hình thành hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới và thắng lợi mới của phong trào độc lập dân tộc ở
Inđônêxia, Ấn Độ, Ai Cập, Cuba,.... và với xu thế hào bình, trung lập đã làm lung
lay tận gốc chủ nghĩa thực dân cũ và bước đầu đã gây khủng hoảng cho chủ nghĩa thực dân mới.
Những khó khăn trong thời kỳ mới xuất phát từ âm mưu bá chủ thế giới của Mỹ
bằng chiến lược ngăn cản sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và đánh phá phong trào
giải phóng dân tộc. Trong chiến lược đó, Việt Nam trở thành đối tượng xâm lược trọng điểm của Mỹ.
Đặc trưng chủ yếu của thời kỳ mới ở nước ta là chế độ của của thực dân Pháp chấm
dứt trên toàn bộ bán đảo Đông Dương, nhưng chế độ thực dân mới của Mỹ lại thay
Pháp thống trị miền Nam của Việt Nam, uy hiếp Campuchia và khống chế Lào; miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong khi bấy giờ miền
Nam lại trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ.
Ngày 8-8-1954, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ do Tổng thống Aixenhao chủ trì đã
ra Quyết định NCS 5429/2 với nội dung cơ bản : Pháp phải nhanh chóng rút quân
khỏi miền Nam Việt Nam và phải ủng hộ Ngô Đình Diệm; Mỹ trực tiếp viện trợ cho
ngụy quyền Sài Gòn không qua Pháp ; loại bỏ Bảo Đại, những tay sai lâu đời của Pháp.
Ngày 7-7-1954, ở miền Nam, một nội các bù nhìn tay sau Mỹ được thành lập do
Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng. Ngày 17-7-1955,
Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử. Ngày 23-2 - 0 1955, Diệm tổ chức
“trưng cầu dân ý” phế truất vua Bảo Đại và lên làm Tổng thống.
Hệ thống cố vấn Mỹ không những ở Phủ Tổng thống, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Nha
sát cảnh, các bộ của nguỵ quyền Sài Gòn mà ở các đơn vị quân đội nguỵ và các địa phương khác. 8
Sau khi gạt Pháp ra khỏi guồng máy cai trị và đã độc chiếm miền Nam, Mỹ - nguỵ
tập trung mũi đàn áp cách mạng. Chúng liên tiếp mở những cuộc hành quân càn
quét, các chiến dịch “tố cộng” với khẩu hiệu “ đạp lên oán thù, thà giết lầm còn hơn
bỏ sót” hay “ dĩ Đảng trị Đảng, dĩ dân trị dân”. Cuối năm 1955, hàng trăm ngàn cán
bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước đều bị giết hại.
Mỹ tin chắc rằng với bộ máy chính quyền của ngụy và đội quân nguỵ có nhãn hiệu
độc lập hơn hẳn nguỵ quyền và nguỵ quân thời Pháp, chúng nghĩ sẽ thắng được cách
mạng Việt Nam. Nhưng thực tế chúng đã đánh giá thấp dân ta, nhất là khi Việt Nam
có Đảng Mác - Lênin lãnh đạo, Mỹ đánh giá quá cao chính sách thực dân mới và tiềm lực của Mỹ.
Giờ đây đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới đang là vấn đề chính của nước ta. Kẻ
thù của chúng ta giờ đây không còn là thực dân Pháp bại trận và suy yếu, mà là đế
quốc Mỹ, chúng có tiềm lực về kinh tế và lực lượng quốc phòng mạnh hơn các đế quốc khác.
Lực lượng cách mạng ở miền Nam tạm thời ở thế giữ gìn lực lượng. Sau khi quân
đội ra rút đi các tổ chức cách mạng ở miền Nam phát rút vào hoạt động bí mật, hoạt động không hợp pháp.
Còn miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng do Nhân dân làm chủ đi theo xu thế tất yếu
là quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trước mắt, miền Bắc phải hàn gắn xong những
vết thương nặng nề của chiến tranh. Cách mạng đã chuyển giai đoạn, nhưng Đảng
lãnh đạo cách mạng chưa kịp chuyển biến về nhận thức, về đường lối tổ chức.
Những thuận lợi mới và những căn bản đã đảm bảo cho cách mạng nước ta nhất định
thắng lợi. Còn những khó khan mới sẽ đòi nước ta phải cố gắng vượt qua thời kỳ gian khổ lâu dài.
 Trách nhiệm lịch sử đặt lên vai Đảng Lao động Việt Nam, đội tiên phong cách
mạng của Nhân dân Việt Nam, là phải tìm ra đáp số cho bài toán về con đường
giải phóng miền Nam và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
trong điều kiện Mỹ đã thay Pháp thống trị miền Nam.
3.2 Chiến lược của Đảng
3
.2.1 Khôi phục kinh tế miền Bắc và giữ gìn lực lượng ở miền Nam.
Trước hết, đường li chính tr, quân s và phương hướng tiến hành chiến tranh cách
m
ạng đúng đắn, sáng to của Đảng là nhân t quyết định thng li cuc kháng chiến
ch
ng M, cứu nước. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình các mặt, nhất là tình
hình trong nước và bối cảnh quốc tế, Đảng ta đã vạch ra đường lối tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Đảng cũng sớm khẳng định: vì giải phóng miền Nam, phải bảo vệ và
xây dựng miền Bắc, và để bảo vệ, xây dựng miền Bắc, phải đánh thắng giặc Mỹ ở
miền Nam; hai nhiệm vụ đó kết hợp chặt chẽ với nhau trên phạm vi chiến lược, nhằm 9
một mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, thực hiện thống nhất nước nhà. Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc
đáo của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Theo đó, cùng với
xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, giữ vai trò là hậu phương lớn cho
tiền tuyến lớn, Đảng ta hết sức coi trọng việc xây dựng, phát triển lực lượng và trực
tiếp lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh cách mạng miền Nam.
Trong Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II từ ngày 15-
17/7/1954 tại Việt Bắc dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị đã xem
xét và đánh giá tình hình mới và vạch ra chiến lược của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đọc bản báo cáo quan trọng mạng tên Tình hình mới và nhiệm vụ mới.Báo cáo
nhận định : sau chiến thắng lớn ở Điện Biên Phủ , thế ta ngày càng mạnh, thế địch
ngày càng yếu nhưng thế mạnh và thế yếu ấy là tương đối. Đế quốc Mỹ âm mưu kéo
dài chiến tranh Đông Dương , phá hoại hiệp định G ơn i
evơ, tìm cách hất cẳng Pháp
để độc chiếm Việt Nam, Campuchia và Lào, biến nhân dân ba nước thành nước nô lệ của Mỹ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng “ … cho nên mọi việc của ta đều nhằm
chống đế quốc Mỹ. Bất kỳ người nào nước nào không thân Mỹ đều có thể làm mặt
trận thống nhất ( tạm thời ) với ta”
Trong bản báo cáo đã nêu rõ, nếu muốn lập lại hòa bình, chấm dứt chiến chiến tranh,
phải điều chỉnh khu vực, nghĩa là quân đội địch phải tập trung vào một vùng để rút
dần, còn dân ta phải tập trung vào một vùng để xây dựng, tạo điều kiện đi lên thống nhất.
Cùng với đó, bản báo cáo đã nhận định: Tranh lấy hòa bình không phải là chuyện
dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức tạp.
Ba nhiệm vụ chính được nêu ra trong bản báo cáo :
“1- Tranh thủ củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ toàn quốc
2- Tăng cường lực lượng quân đội nhân dân, xây dựng một quân đội nhân dân mạnh
mẽ và thích hợp với yêu cầu của tình thế mới
3- Tiếp tục thực hiện người cày có ruộng; ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị điều
kiện kiến thiết nước nhà”
Chủ yếu công tác trước mắt làm cho toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhận rõ tính
chất, nội dung tình hình và nhiệm vụ mới.
Bản báo cáo Để hoàn thành nhiệm vụ và đẩy mạnh công tác trước mắt đã được trình
bày và hội nghị đã thảo luận và hoàn toàn nhất trí với sự chuyển hướng mới do Chủ
tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh nêu ra.
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra Lời kêu gọi đồng bào và cán bộ chiến sĩ cả nước.
Ngày 5-9-1954, Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết cụ thể
hóa và bổ sung thêm nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu. Đặc điểm quan trọng nhất 10
trong tình hình mới là miền Nam, Bắc tạm thời chia thành hai vùng. Cuộc đấu tranh
của nhân dân miền Nam phải chuyển sang từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính
trị. Cùng ngày thì Bộ chính trị ra bản chỉ thị riêng cho Đảng bộ miền Nam. Chỉ thị
vạch ra ba nhiệm vụ chính trước mắt :
“1- Đấu tranh đòi đối phương thi hành đúng Hiệp định.
2- Chuyển hướng công tác cho thích hợp điều kiện mới, nắm vững phương châm,
chính sách mới, sắp xếp cán bộ, bố trí lực lượng, vừa phải che giấu lực lượng vừa
lợi dụng các khả năng công khai, hợp pháp.
3- Tập trung mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình, thống nhất, đấu tranh đánh
đổ chính quyền Ngô Đình Diệm thân Mỹ, lập ra chính quyền tán thành hòa bình
thống nhất, độc lập, dân chủ cải thiện dân sinh, tăng cường vận động ngụy quân, ngụy quyền.”
Về sự lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam, chỉ thị vạch rõ tổ chức đảng phải bí mật,
gọn nhẹ, vững chắc, trong sạch, chống gian tế chui vào.
Tiếp theo về việc xây dựng miền Bắc, tháng 9-1954, Nghị quyết Bộ chính trị đã vạch
rõ trong thời kỳ tiếp quản không phải tiến hành cải tạo xã hội mà là ổn định xã hội,
ổn định vật giá, ổn định thị thường, những hoạt động của thành phố và nông thôn sẽ
trở lại bình thường sau đó mới cải cách những bước cần thiết một cách thận trọng
nhất. Nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi
kinh tế, then chốt là phục hồi nền sản xuất nông nghiệp, giao thông vận tải. Tăng
cường mở rộng hoạt động quốc tế dựa trên nguyên tác bình đẳng, hai bên đều có lợi,
tôn trọng lãnh thổ, chủ quyền của nhau; tập hợp mũi nhọn để có thể chống đế quốc
Mỹ, mở rộng các mối quan hệ với các nước Đông Nam Á, nước Pháp, ngoài ra cần
phải củng cố tình hữu nghị giữa các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Hội nghị lần thứ bảy ( tháng 3- 1955) và lần thứ 8 ( tháng 8-1955) đều đã chỉ ra và
nhận định rõ : muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai cần củng cố nền hào bình, thực
hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ, điều cốt yếu phải ra sức củng cố miền
Bắc , miền Băc dần tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị Bộ chính trị tháng 6 – 1956 bổ sung thêm : Hình thức đấu tranh trong toàn
quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, nhưng không có nghĩa là không dùng cũ trang
tự vệ trong hoàn cảnh nhất định. Từ năm 1956-1957, hàng chục đơn vị vũ trang ra
đời ở Nam Bộ, nhiều đội trừ gian được thành lập ở Liên khu V.
3.2.2 Xây dng bo v min Bắc, đánh thắng ba chiến lược chiến tranh của đế quc M
Với đường lối chiến lược đúng đắn, sáng tạo đó và trên cơ sở thực tiễn của cách
mạng miền Nam, Đảng ta đã kịp thời định ra đường lối lãnh đạo phù hợp với từng
giai đoạn cách mạng, đảm bảo cho cuộc chiến đấu của toàn quân và toàn dân ta trên
khắp hai miền giành thắng lợi ngày càng to lớn và toàn diện. Đó chính là việc thực
hiện Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 (khóa II) và Nghị quyết Đại 11
hội lần thứ III (năm 1960) của Đảng, cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn
lực lượng sang thế tiến công. Kết quả là ta đã làm thất bại chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt” của Mỹ. Nghị quyết Trung ương lần thứ 14 (khóa III) đã chỉ đạo thành
công cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, làm phá sản chiến lược
"Chiến tranh cục bộ" của chúng. Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng năm 1973 đã chỉ đạo cuộc phản công chiến lược giành thắng lợi. Đặc biệt, Hội
nghị Bộ Chính trị, tháng 10-1974 và đầu năm 1975 đã kịp thời đánh giá đúng so sánh
lực lượng giữa địch và ta, vạch rõ sự xuất hiện của thời cơ lịch sử, thông qua kế
hoạch và hạ quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam. Thực hiện quyết
tâm đó, quân và dân ta đã thực hành Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 toàn thắng.
Trong không khí sục sôi căm thù và trước xu thế vùng dậy của quần chúng, tháng 1-
1959 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã họp Hội nghị lần thứ 15 đây là
kết quả của quá trình tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm đúc kết kinh nghiệm cách
mạng miền Nam 1954 đến năm 1958. Hội nghị đồng thời đã theo dõi những diễn
biến mới nhất của tình hình thế giới như Cách mạng dân chủ tư sản Irắc ( năm 1958),
Cách mạng Cuba ( 1959), Hội nghị đã chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt
Nam: Một là mâu thuẫn giữa mộ bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa
chủ phong kiến và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị ở miền Nam và mooyj bên
là toàn thể dân tộc Việt Nam bao gồm nhân dân hai miền Nam, Bắc; Hai là mâu
thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa với con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc.
Tuy là chính chất khác nhau , nhưng hai mâu thuẫn cơ bản đó có mối quan hệ biện
chứng và tác động lẫn nhau.
Căn cứ vào đó Hội nghị đã nhất trí đề ra nhiệm vụ Cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mới là : tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành cách mạng
dân chủ trong cả nước, ra sức củng cố miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội, xây dựng một Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh.
Còn về cách mạng miền Nam : Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc để người dân có
ruộng cày; nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, để kiên quyết đấu tranh chống
quân xâm lược và gây chiến, đánh đổ ách thống trị của Ngô Đình Diệm, tay sai xủa
đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam.
Về phía Đảng ta cần nghiên cứu và chủ động sử dụng khuynh hướng hòa bình, trung
lập đang nảy nở trong tư sản dân tộc và trí thức ở lớp trên , coi trọng công tác binh
vận, triệt để lợi dụng mâu thuẫn của chế độ Mỹ- Diệm, thêm bạn bớt thù.
Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam, Nghị quyết đã chỉ rõ : Sự tồn tại và trưởng
thành của Đảng bộ miền Nam dưới chế độ độc tài phát xít là một yếu tố quyết định
thắng lợi của phong trào cách mạng miền Nam. 12
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói : Không phải một lúc ta đánh đổ được ngay chế
độ Mỹ- Diệm. Vì vậy, cần đánh lui địch từng bước, tranh từng thắng lợi về phía
mình, chuẩn bị lực lượng khi thời cơ đến.
Nghị quyết 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến
lên, xoay chuyển tình hình, dẫn đến “Đồng Khởi” oanh liệt toàn miền Nam năm 1960.
Hội nghị lần thứ 16 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II tháng 4-1959 đã
thảo luận và thông qua hai nghị quyết quan trọng : Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa
nông nghiệp và Nghị quyết về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản doanh nghiệp.
Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng từ ngày 5 đến ngày 10-9-1060
đã thảo luận và nhất trí với Báo cáo chính trị và các báo cáo khác của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng. Sự nhất trí này đã được thể hiện trong việc thông qua Nghị quyết
của Đại hội về đường lối và nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua điều
lệ sửa đổi và Lời kêu gọi của Đại Hội. Sự đoàn kết nhất trí của Đại hội là hạt nhân
đoàn kết nhân dân cả nước, là nguồn sức mạnh dẫn đến phong trào cách mạng ở hai
miền Nam, Bắc. Hạn chế của Đại hội III là chưa có dự kiến về chặng đường đầu tiên
của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa.
Với thắng lợi của công cuộc củng cố miền Bắc và phong trào “Đồng Khởi” ở miền
Nam, cách mạng Việt Nam đứng trước tình thế mới đầy triển vọng. Phong trào đấu
tranh đòi dân sinh , dân chủ hào, hòa bình, và tiến bộ xã hội của công nhân và nhân
dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa là một dòng thác nữa đánh thẳng vào chính
sách phản động gây chiến của đế quốc Mỹ. Thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân
dân ta ở miền Nam từ phong trào Đồng Khởi (1959 - 1960) và qua giai đoạn đấu
tranh với các chiến lược chiến tranh của Mỹ đã khẳng định tính đúng đắn của phương
thức kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; thực hiện phương châm “hai
chân, ba mũi, ba vùng”; kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đấu tranh chính trị, đấu
tranh quân sự, binh vận và đấu tranh ngoại giao. Sự kết hợp và thống nhất giữa các
mặt đấu tranh đã nhân sức mạnh của dân tộc ta lên gấp bội, tạo ra thế chủ động chiến
lược để triển khai thế trận “thiên la địa võng” của chiến tranh nhân dân, làm cho Mỹ
và đồng minh của chúng luôn ở trong vòng vây của cách mạng, bị chia rẽ, cô lập, bị
tiến công ở mọi nơi, bất cứ lúc nào, dẫn đến mất lòng tin vào mục tiêu của cuộc
chiến tranh, đi dần tới thất bại.
3.2.3 Chiến tranh đặc bit (1961-1965)
Khi đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh kiểu mới”, Đảng và Bác Hồ
đã chỉ đạo việc tăng cường giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang bằng ba
mũi giáp công chính trị, quân sự và binh vận trên cả ba vùng chiến lược là rừng núi,
nông thôn đồng bằng và đô thị. Đi sâu phân tích những thế mạnh, yếu của kẻ thù,
Đảng ta nhận định: “Thời kỳ tạm ổn định của chế độ Mỹ - Diệm đã qua và thời kỳ 13
khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu.Đầu năm 1961, Tổng thống
Mỹ G.Kennơđi buộc phải điều chỉnh chiến lược từ “trả đũa ồ ạt” sang “phản ứng
linh hoạt” với ba chiến tranh : chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, chiến tranh tổng lực.
Tháng 1-1-1961, Bộ Chính trị chủ trương chuyển từ khởi nghĩa sang chiến tranh cách mạn .
g Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Trung ương
Cục miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ. Ngày 3 -
1 1-1961, Bộ Chính trị ra Ch th
v phương hướng và nhim v công tác trước mt ca cách mng min Nam, nhấn
mạnh phải tăng cường đấu tranh vũ trang song song đó là đấu tranh chính trị. Với
nhiệm vụ trước mắt là xây dựng lực lượng về cả chính trị và quân sự. Th áng 2-1961,
Bộ chính trị ra quyết định về Nghị quyết vệ nhiệm vụ quân sự, cần phải kiềm chế
Mỹ và thắng Mỹ ở miền Nam, sẵn sàng đối phó với âm mưu và hành động mở rộng
chiến tranh. Ngoài ra phải củng cố quốc phòng trên miền Bắc, xây dựng lực lượng ở miền Nam. … ,
Quán triệt chỉ thị và nghị quyết của Bộ chính trị, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ
nhất (tháng 10-1961) đã nhất trí khẳng định sự cần thiết chặt chẽ kết hợp giữa hai
hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Cùng với đó thực hiện chỉ đạo kế hoạch 5 năm (1961-1965) hay tên gọi chính thức
là "Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân (1961-1965)" để đẩy lên
xây dựng miền Bắc. Nhiệm vụ cơ bản của Kế hoạch nhà nước 5 năm 1961-1965 là
"phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vt cht và k thut ca ch nghĩa xã hội, thc
hi
n một bước công nghip hóa xã hi ch nghĩa và hoàn thành công cuộc ci to
xã h
i ch nghĩa, tiếp tục đưa miền Bc tiến nhanh, tiến mnh, tiến vng chc lên
ch
nghĩa xã hội. Từ năm 1961 đến năm 1965 đã kết nạp 30 vạn đảng viên, tổ chức
đảng ở các cấp được củng cố. Đ
ến cuối năm 1964, kế hoạch năm năm lần thứ nhất
đã giành được những thắng lợi quan trọng. Miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc cho cả nước.
Cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị thất
bại, Mỹ buộc phải chuyển sang thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. “ Chiến
tranh đặc biệt” là một cuộc chiến tranh thâm độc và nguy hiểm, gây nhiều khó khăn
cho cuộc chiến đấu của Nhân dân ta. Tuy nhiên, ra đời trong thế bị động, “ chiến
tranh đặc biệt” không những không phát huy được tác dụng mà cong từng bị bẻ gãy
trước cao trào nổi dậy và tiến công, giữ vững quyền làm chủ của Nhân dân ta ở miền
Nam. Mục tiêu chính của “chiến tranh đặc biệt
” của Mỹ ở miền Nam là dập tắt phong
trào “Đồng Khởi”, bình định miền năm 18 tháng với lực lượng quân ngụy do Mỹ trang bị v
à cố vấn Mỹ chỉ huy, ngăn chặn chi viện ở miền Bắc, cô lập miền Bắc, khi
cần sẽ ném bom ở miền Bắc. Thế nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã
đấu tranh kiên cường chống trả các hành động chiến tranh của kẻ địch. Đảng bộ miền
Nam được kiện toàn với hệ thống , tập trung từ Trung ương Cục đến các chi bộ. Mặt
trận giải phóng làm thêm chức năng của chính quyền cách mạng. Ngày 15-2-1961, 14
các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng
miền Nam Việt Nam. 50% đảng viên toàn Đảng bộ miền Nam đã được điều động là
nòng cốt xây dựng bộ đội tập trung. Phối hợp với đấu tranh chính trị và binh vận,
lực lượng vũ trang đẩy mạnh hoạt động tiêu hao, tiêu diệt địch, dẩy lùi nhiều cuộc
càng quét của quân ngụy, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành và giữ quyền làm chủ.
Các Đảng bộ lãnh đạo đã thực hiện từng bước cải cách ruộng đất, chia thêm cho dân
4 vạn hécta đất canh tác.
Từ thực tiễn của cuộc kháng chiến, ngày 6-12-1962, Bộ Chính trị họp ta phải và có
khả năng kiềm chế và chiến thắng kẻ địch, tiến hành một cuộc chiến tranh toàn dân
và trường kỳ, trước mắt là làm thất bại kế hoạch tiến công cảu địch trong năm 1963.
Sang năm 1963, cuộc kháng chiến ở m ề
i n Nam đã giành được nhiều thắng lợi lớn.
Với tinh thần sẵn sàng chiến đấu, được chuẩn bị tốt về mọi mặt, các đơn vị bộ đội,
hải quân, phòng không và lực lượng vũ trang đã nổ súng kịp thời, anh dũng tiến công
đợt tiến công của của địch, bắn rơi 8 máy bay hiện đại của địc , h bắn bị thương mổ
số chiếc khác, bắt sống một giặc lái. Chiến thắng ngày 5-8-1964 đã chứng tỏ quân
ta có khả năng đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ. “
Cuộc “Chiến tranh đặc biệt” mà chúng đang thí nghiệm ở miền Nam
Việt Nam đã thất bại, thì chúng cũng sẽ thất bại ở bất kỳ nơi nào khác.”
3.2.3 Chiến tranh cc b (1965-1968)
Vào đầu năm 1965, Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đưa quân chiến
đấu Mỹ vào Nam và ném bom vào miền Bắc, mục tiêu của Mỹ là tiêu diệt chủ lực
quân giải phóng, bình định miền Nam, buộc phía Việt Nam phải ngồi đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Ch
ính quyền Giônxơn chủ trương đưa quân Mỹ vào nhanh và rút
ra nhanh, nghĩa là muốn giành thắng lợi trong một thời gian ngắn.
Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III tháng 3- 1965 đã
chuyển hướng hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, tiếp tục sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, đánh bại cuộc
chiến tranh phá hoại không quân, hải quân Mỹ, phát huy tối đa vai trò hậu phương
với miền Nam, cùng việc làm tròn nghĩa vụ quốc tế với cách mạng hai nước Lào,
Campuchia. Trong hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III
tháng 12-1965 kết luận : Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân
đội viễn chinh, lực lượng so sánh giữa địch và ta không thay đổi lớn, nhưng cuộc
chiến tranh trở nên gay go hơn Nhân dân ta đã có những cơ sở chắc chắn để giữ vững
thế chủ động trên chiến trường.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III có
tầm quan trọng vô cùng trong việc đánh bại “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Trước mùa khô 1965-1966, Bộ Chính trị chỉ thị cho quân và dân ta ở miền Nam ra
sức chuẩn bị thế trận và lực lượng, quyết phải giữ thế chủ động tiến công, dùng hình 15
thức phản công để chiên đấu với quân Mỹ và quân ngụy, phải làm thất bại các mục tiêu cơ bản của chúng.
Trung ương Cục, các Khu ủy và Quân khu ủy, các cấp Đảng ủy địa phương miền
Nam khẩn trương mở các cuộc hội nghị bàn về biện pháp, hướng chỉ đạo, cho mọi
mặt để có thể chủ động đối phó với địch.
Qua hai cuộc phản công chiến lược của quân viễn chinh Mỹ đều nhận lấy thấy bại
dưới tay nhân dân Việt Nam, đã tạo ra cục diện mới trên chiến trường miền Nam.
Tiếp đến cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của Mỹ là
một bộ phận hữu cơ của chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Máy bay, tàu chiến Mỹ
đánh phá ác liệt hầu hết các vị trí quân sự quan trọng thả mìn phong tỏa các cửa biển,
lạch sông nhằm ngăn chặn sự tiếp tế của miền Bắc. Chiến tranh diễn ra ngày càng
ác liệt nhưng nhân dân miền Bắc cũng như nhân dân cả nước đều không hề nao núng.
17-7 - 1966 chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước: “chiến tranh
có thể kéo dài năm năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và
một số thành phố, xí nghiệp có thể sợ bị tàn phá, xong nhân dân Việt Nam quyết
không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do”
Ngay từ đầu và trong suốt quá trình chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất quân và
dân miền Bắc đã đánh trả quyết liệt. Đảng và nhà nước đã phát động và tổ chức
phong trào toàn dân làm công tác giao thông vận tải trong đó lực lượng giao thông,
vận tải chuyên nghiệp là nòng cốt và bộ binh công binh hậu cần vận tải ,phòng không là lực lượng xung kích
Tháng 1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III quyết
định mở trận đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ hơn nữa sự đồng tình, ủng hộ và
giúp đỡ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ, khoét sâu mâu thuẫn trong
nội bộ địch, cô lập cao thái độ hiếu thắng trong giới cầm quyền Mỹ, hỗ trợ cho đấu
tranh chính trị và quân sự của quân và dân ta.
3.2.4 Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân .
Mỹ đã tiến hành chiến tranh cục bộ với mọi thủ đoạn và biện pháp, song âm mưu
giành thắng lợi quyết định ở miền Nam Việt Nam trong hai năm của Mỹ đã bị phá
vỡ.Thất bại ở Việt Nam đã làm cho tình hình nước Mỹ trở nên không ổn định. Về
phía ta, qua hai năm đương đầu với chiến tranh cục bộ, quân dân miền Nam đã phát
huy mạnh mẽ chiến lược tiến công, từng bước bị gãy hai gọng kìm “tìm- diệt” và
“bình định”,làm thất bại mục tiêu quân sự, chính trị Mỹ-ngụy
Miền Bắc càng chứng cho tính bền vững của một hậu phương cùng một lúc làm hai
nhiệm vụ là xây dựng và bảo vệ miền Bắc và chi viện cho miền Nam. Về đối ngoại
sự nghiệp chính nghĩa và đường lối đối ngoại đúng đắn của ta đã tranh thủ được sự
đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ ngày càng rộng rãi của nhân dân và chính phủ nhiều
nước, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa mặc dù còn nhiều điều bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc. 16
Ngay sau khi đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ - ngụy, từ
tháng 5- 1967 bộ chính trị và các cơ quan chỉ đạo chiến lược đã có nhiều cuộc họp
bàn về chủ trương chiến lược Đông Xuân 1967 - 1968. Vì vậy Hội nghị Bộ Chính
trị Trung ương đảng (12- 1967) đã quyết định một phương thức tiến công nhầm tạo
nên chuyển biến trong cục diện. Đó là cách tổng công kích - tổng khởi nghĩa vào tất
cả các đồ thị riêng lũy của Mỹ -ngụy trên miền Nam
Tháng 1- 1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III thông
qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967, Hội nghị nhận định: điểm cơ bản của
tình hình vẫn là đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua,
thế bị động và khó khăn: xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ cần
chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước. Hội nghị hạ quyết tâm chiến
lược chuyển sang chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sau một thời
kỳ mới một thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định để thực hiện
được quyết tâm đó phải động viên những nỗ lực lớn nhất từ Đảng, toàn dân ở cả
nước và hai miền, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành
thắng lợi quyết định. Hướng tiến công được xác định gồm đòn đánh tiêu diệt của bộ
đội chủ lực ở chiến. trường rừng núi và đòn công kích quân sự kết hợp với nổi dậy
của quần chúng đang sắp cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy ở các đô thị quan trọng trên toàn miền Nam.
Mục tiêu chiến lược là đập tan ý chí xâm lược của Mỹ , buộc mỹ phải chịu thua ở
miền Nam, chấm dứt mọi chiến tranh đối với miền Bắc.
Trung tuần tháng 1- 1968, liên quân Lào- Việt mở Chiến dịch Nậm Bạc và lực lượng
vũ trang bất ngờ tiến công vào cứ điểm Khe Sanh. Đêm 29 rạng sáng ngày 30 và
đêm ngày 30 rạng ngày 13- 1-1968( tức giao thừa và mồng một Tết), cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân nổ ra trên khắp chiến trường với hướng chính là các
đô thị, trung tâm quân sự, chính trị của Mỹ- ngụy.
Trong gần hai tháng, cuộc Tổng tiến công đã có nhiều thành tựu lớn : đánh vào 4
trong 6 thành phố lớn, 37 trong 40 thị xã , hàng trăm thị trấn, đánh vào mục tiêu
trọng yếu : Tòa Đại Sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu ngụy, Dinh Độc Lập,…. 17
( Xe tăng Quân Giải phóng tiến vào dinh Độc Lp, Sài Gòn, ngày 30-4-1975. Ảnh tư liệu )
Bị tấn công bất ngờ thoạt đầu chúng lúng túng nhưng ngay sau đó chúng điều động
máy bay, vũ khí hạng nặng để phản công. Thế nhưng đêm 31-3-1968, Tổng Thống
Mỹ Giônxơn đã tuyên bố đơn phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom
miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, sẵn sàng cử đại diện sang đàm phán, thực
hiện chính sách “ phi Mỹ hóa”, tổng thống Giônxơn cũng không đứng ra tranh cử
nữa. Như vậy, quân Mỹ đã ngầm thừa nhận sự thất bại của mình. Đến ngày 31-10-
1968, Mỹ đã tuyên bố ngừng ném bom, bắn phá trên đất nước Việt Nam, chấp nhạn
họp hội nghị Paris để giải quyết chiến tranh.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là một trong những chiến công
vang dội nhất suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam,
góp phần khẳng định sự đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước độc lập, tự chủ,
đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đồng thời là thắng lợi tiêu biểu đánh dấu nghệ thuật
quân sự dân tộc phát triển lên tầm cao mới, mang tính độc đáo, sáng tạo, khoa học
với tư tưởng nhân văn sâu sắc. 18
3.3 Chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quc M và ch trương
chuyển hướng chiến lược của Đảng.
Sau thất bại nặng nề trước chiến lước “ chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam,
nước Mỹ lâm vào khủng hoảng nặng nề từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Trước tình
hình thúc ép đó Níchxơn đã vận dụng học thuyết Níchxơn vào cuộc chiến tranh Việt
Nam, đề ra chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh” một sự điều chỉnh chủ trương
nhưng thực chất lại là “ dùng người Việt để giết người Việt” với âm mưu duy trì
kiểu thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. “ Việt Nam hóa chiến tranh” là một chiến
lược hết sức thâm sâu và nguy hiểm của đế quốc Mỹ. Mục tiêu cơ bản của chiến
lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Níchxơn là rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam
Việt Nam mà vẫn giữ được chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu. Để đạt được
mục tiêu chiến lược đó, Níchxơn đã sử dụng tối đa về quân sự của nước Mỹ kết hợp
với những thủ đoạn chính trị và ngoại giao rất xảo quyệt hòng giành lại thế mạnh,
hòng cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam.
Với tình hình đó, Đảng ta cũng ra sức củng cố tinh thần quyết tâm chống Mỹ của
nhân dân ta, ngày 1-1-11969 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong bức thư chúc mừng
năm mới: “Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào,…”
Tiếp theo Chỉ thị gửi Đảng bộ miền Nam tháng 11-1968, Nghị quyết Bộ chính trị
tháng 4 -1969 đã động viên quân và dân ta tiếp tục đẩy mạnh công kích, tổng khởi
nghĩa để đánh bại chiến lược “ Việt Nam hóa chiến tranh” và âm mưu kết thúc chiến
tranh trên thế mạnh của Mỹ.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 18 và 21 sau này cũng đã vạch rõ, ta chưa đánh
giá được hết ý đồ thâm hiểm và khả năng của địch cũng như tình hình khó khan trên
chiến trường cho nên ta cần chuyển hướng tiến công về nông thôn phá tan âm mưu của địch.
Để thực hiện chủ trương đó, miền Bắc cũng đưa một khối lượng người và vũ khí để
tăng sức chiến đấu cho miền Nam anh dung mở ra hai cuộc tiến công vào mùa xuân và mùa hè năm 1969.
Từ đêm 22 rạng ngày 23-2-1969, quân và dân miền Nam đồng loạt mở đợt tiến công
vào hơn 400 mục tiêu của địch ở 36 thành phố, thị xã, hơn 100 quận lỵ, thị trấn, 35
sở chỉ huy, 38 sân bay, 17 khu hậu cần lớn. Đây là đòn phủ đầu đối với tập đoàn
Níchxơn vừa lên cầm quyền ở Mỹ. ở miền Đông Nam Bộ có một số trận đánh tiêu
diệt các cụm tiểu đoàn hoặc nhiều đại đội địch ở Bến Tranh, Trà Cao, Lộc Ninh, Dầu
Tiếng. Đặc biệt các lực lượng đặc công đánh gần 300 trận, trong đó có 90 trận đánh
vào các sở chỉ huy, sân bay, kho tàng của địch, giết và làm bị thương 2 vạn tên, có
nhiều sĩ quan và nhân viên kỹ thuật Mỹ, phá huỷ 250 máy bay, 150 khẩu pháo và
hàng trăm triệu lít xăng dầu. Trong 30 ngày đêm chiến đấu kiên cường, quân và dân
miền Nam đã tiêu diệt hàng vạn tên Mỹ, ngụy và chư hầu, phá huỷ hàng nghìn máy
bay, xe tăng và pháo lớn, thiêu cháy hàng chục kho bom đạn, xăng dầu. 19