1
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN
TRUYỀN
-------------------------
TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ
NHÂN TỐ HÀNG ĐẤU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ ĐẢNG
Sinh viên:
Mã số sinh viên:
Lớp:
Hà nội, tháng năm
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................3
NỘI DUNG............................................................................................................................3
I. SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐC HÀNG ĐẦU QUYẾT
ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM...................................3
1. Bối cảnh lịch sử.........................................................................................................3
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng.................................................................................................................4
3. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là yếu tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi. .8
II. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ ĐẢNG HIỆN
NAY.......................................................................................................................27
1. Chấp hành nghiêm túc các quy định pháp luật và nghĩa vụ của công dân, tăng
cường học tập Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Luôn trau
dồi, học hỏi, bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch............................27
2. Tích cực tham gia các hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
và hội sinh viên trong các học viện, nhà trường...............................................28
3. Phát huy tinh thần sáng tạo, chủ động ý thức trách nhiệm của bản thân trong
việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng............................................................28
4. Tích cực xây dựng lực lượng nòng cốt trong sinh viên.......................................29
5. Biết tận dụng đúng đắn, linh hoạt các phương tiện thông tin truyền thông để
bảo vệ Đảng..........................................................................................................29
KẾT LUẬN..........................................................................................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................30
3
MỞ ĐẦU
Nhìn lại mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc khi cách mạng Việt Nam hoàn
thắng lợi hẳn mỗi người đều không thể quên được những năm tháng đấu tranh
hào hùng vẻ vang về chiến thắng vĩ đại của dân tộc trước đế quốc hùng mạnh
bậc nhất thế giới vào thế kỷ XX. Chiến thắng lịch sử ấy đã thể hiện rất rõ nét vai
trò lãnh đạo của Đảng, cho thấy sự đúng đắn và tài tình trong suốt quá trình đấu
tranh dành độc lập dân tộc, tự do và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh với đế
quốc Mỹ là một cuộc đấu trang có quy mô lớn kéo dài trường kỳ và đầy gian
khổ, nhân dân ta đã phải chịu vô vàn những đau thương, nhưng cùng với sự lãnh
đạo tài tình của Ban chấp hành Trung Ương và Bộ chính trị, đất nước ta vẫn kiên
cường, bất khuất quyết tâm đánh bại kẻ thù. Và sau 21 năm chiến đấu ác liệt, đất
nước ta đã dành được chiến thắng, trở thành một trang sử hào hùng và đi vào lịch
sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX.
Chiến thắng của Đảng và nhân ta được coi là một chiến thắng tất yếu, nó mang
tính chất thời đại sâu sắc và mở ra kỉ nguyên mới cho phong trào cách mạng thế
giới. Trong trận đối đầu lịch sử ấy, sự lãnh đạo của Đảng chính là nguyên nhân
lớn nhất quyết định thắng lợi của Tổ Quốc. Đảng ta luôn có những đường lối
quân sự, chính trị linh hoạt, đúng đắn, sáng tạo và độc lập qua từng giai đoạn. Có
thể nói, Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của Cách mạng Việt Nam.
Lớp trẻ ngày nay càng phải trau đồi, hiểu biết rõ ràng về những trang sử hào
hùng của dân tộc, thấy được công lao của Đảng và đặc biệt là biết góp phần xây
dựng và bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Chính vì vậy, đề tài “Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đấu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam và trách nhiệm của sinh viên đối với việc bảo vệ Đảng hiện nay” là một đề
tài quan trọng cần được được tìm hiểu và nghiên cứu tường tận.
NỘI DUNG
I. SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐC HÀNG ĐẦU
QUYẾT ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Bối cảnh lịch sử.
1.1. Tình hình thế giới tác động đến cách mạng Việt Nam
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, sự ra đời và hoạt động
củaQuốc tế Cộng sản đã tác động mạnh mẽ đối với phong trào giải phóng ở các
nướcthuộc địa trên thế giới trong những năm 20 của thế kỷ XX, trong đó có Việt
Namvà Đông Dương.
1.2. Tình hình trong nước
4
Trong bối cảnh các nước đế quốc đẩy mạnh tìm kiếm thuộc địa, Việt Nam trở
thành đối tượng nằm trong mưu đồ thôn tính của thực dân Pháp.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về
chính trị, kinh tế, xã hội. Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân
Pháp và
chính quyền tay sai đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ phong
kiến, đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới với thái độ chính trị khác
nhau. Mâu thuẫn chủ yếu nhất trong xã hội và ngày càng trở nên gay gắt là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và chính quyền phong
kiến tay sai.
1.3. Các phong trào yêu nước đòi độc lập của nhân dân Việt Nam trước khi
có Đảng và sự khủng khoảng đường lối giải phóng dân tộc.
- Phong trào yêu nước theo lập trường phong kiến (1958 – 1896)
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản (1897-1930)
- Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh
- Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng
Như vậy, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống
yêu nước, bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân
Pháp theo ý thức hệ phong kiến, tư sản của Nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi và liên
tục, nhưng tất cả đều không thành công. Sự thất bại đó do nguyên nhân các giai
cấp lãnh đạo đã lạc hậu, non yếu; không nhận thức đúng yêu cầu khách quan của
lịch sử gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người;
không tập hợp và tổ chức được đông đảo các giai tầng yêu nước; những hạn chế
trong phương pháp đấu tranh… Việt Nam lâm vào khủng hoảng bế tắc về đường
lối cứu nước, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho các thế hệ yêu nước đương thời là cần
phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để
giải phóng dân tộc.
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng
2.1. Sự chuyển biến của phong trào yêu nước
Với nỗ lực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và hoạt động yêu nước tích
cực của các cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Phong
trào thanh niên cả nước đã thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo con
đường cách mạng vô sản, nâng cao giác ngộ và thái độ cách mạng của giai cấp
công nhân. Do đó phong trào công nhân đã bùng nổ. Số cuộc đấu tranh của công
5
nhân tăng gấp 40 lần trong những năm 1928-1929, gấp 2,5 lần trong 2 năm
1926-19271. Phong trào đấu tranh, phong trào đấu tranh của nông dân và các
tầng lớp thị dân càng diễn ra gay gắt thì càng cần phải có tổ chức và sự lãnh đạo.
Nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng đủ sức tập hợp lực lượng dân tộc
và gánh vác vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc lúc bấy giờ càng trở
nên cấp thiết đối với cách mạng Việt Nam.
2.2. Các tổ chức cộng sản được thành lập
Đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt
Nam, tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên không còn thích hợp và đủ
sức lãnh đạo phong trào. Trước tình hình đó, tháng 3/1929 những người lãnh đạo
Bắc Kỳ đã quyết định lập ở Việt Nam.Chi bộ Cộng sản đầu tiên
2.2.1. Đông Dương Cộng sản Đảng
17/6/1929, 20 đại biểu của các tổ chức Bắc Kỳ đã họp và quyết định thành lập
Đông Dương Cộng sản Đảng Tuyên ngôn, Điều lệ thông qua . Cơ quan ngôn luận
là báo .Bùa liềm
2.2.2. Đông Dương Cộng sản Đảng
Tháng 11/1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản
Đảng được thànhlập tại Khánh Hội, Sài Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất
bản . Tạp chí Bônsơvích
2.2.3. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng chịu tác động mạnh của Hội Việt Nam
Cách mạng thanh niên đã đi theo khuynh hướng vô sản. Tháng 9/1929, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập và ra Tuyên đạt.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở ba miền đã khẳng định bước tiến về chất của
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng
cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu cấp thiết của lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chứccộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ đường
lối của Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình
và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính, tình trạng đó không tránh khỏi
phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổchức trên cả nước.
Trước tình hình đó, theo tài liệu (ghi ngày 27-10-1929) của Quốc tế Cộng sản
gửi những người cộng sản Đông Dương, nêu rõ: “Việc thiếu một Đảng Cộng sản
duy nhất trong lúc phong trào quần chúng công nhân và nông dân ngày càng
phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt của
cuộc cách mạng ở Đông Dương”. Vì vậy: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp
bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng
6
cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản
có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức
duy nhất ở Đông Dương”
2.3. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước yêu cầu cấp thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất và chấm dứt
sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản. Việt Nam.
Từ 06/01 đến 07/02/1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản diễn ra trên
bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chỉ đạo của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chánh cương chính ngắn, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Nguyễn Ái Quốc. Trong đó, Chánh cương vắn tắt và Sách
lược vắn tắt thể hiện rõ đường lối của cách mạng Việt Nam với chủ trương “làm
cho tư sản hoá dân quyền, làm cách mạng cho dân tộc để tiến lên xã hội cộng sản
chủ nghĩa.
=> Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch
sử dân tộc, là bước ngoặt đưa cuộc đấu tranh của dân tộc bước sang thời kỳ mới.
2.4. Nội dung cơ bản và ý nhĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản thể hiện mục tiêu, phương hướng, nhiệm
vụ chiến lược, phương thức hoạt động ... của một đảng, tổ chức chính trị trong
một thời kỳ lịch sử nhất định.
Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là
ngọn cờ tập hợp, thống nhất các lực lượng xã hội đấu tranh vì mục tiêu, lý tưởng
cách mạng của Đảng. Chiến lược và đường lối của Cách mạng Việt Nam là
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã làm rõ
mục tiêu chiến lược của cách mạng đó là gắn giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp và giải phóng con người, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tất
cả đã thể hiện rõ phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập
cho dân tộc và ruộng đất cho người cày, đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản.
Về phương diện chính trị, Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của
cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”,
“Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ công nông
binh. Tổ chức ra quân đội công nông”. Phản ánh đúng mâu thuẫn cơ bản của xã
7
hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến và đáp ứng đúng yêu cầu bức thiết của
cách mạng Việt Nam lúc này là đánh đuổi đế quốc xâm lược để giành lại độc lập
cho dân tộc. Vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được đặt đúng tầm quan trọng
của xé theo mối quan hệ với đấu tranh giai cấp.
Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ:
+ Dân chúng được tự do tổ chức.
+ Nam nữ bình quyền
+ Phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết những sản phẩm cấm
ở trong nước; thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,…);
thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo;
bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành
luật ngày làm tám giờ… Những nhiệm vụ về phương diện xã hội và phương diện
kinh tế đã phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã hội, cần được giải quyết ở Việt
Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống
trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội, đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp công nhân và nông dân.
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh đã chỉ rõ thái độ chính trị của từng giai cấp
“tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc
được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”.
Cương lĩnh xác định lực lượng cơ bản của cách mạng là công nhân, nông dân,
trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các
lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, nhưng đồng thời “Đảng phải hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào phe vô sản
giai cấp, “Phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộcphải bằng con đường
bạo lực cách mạng của quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ không thể là con
đường cải lương thoả hiệp “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công
nông mà đi vào đường thoả hiệp”. Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp
để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, còn “bộ phận
nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”.
Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế, Cương lĩnh phát triển quan điểm về
mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính
quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cương lĩnh
8
chỉ rõ: “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng
thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp
thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định tính tự lực tự cường, đồng thời xác định rõ lực
lượng đồng minh quốc tế đó là sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản thế giới, nhất làgiai cấp vô sản Pháp. Đồng thời, Cương lĩnh còn
phân hoá kẻ thù khi xác định đánhđổ thực dân Pháp, nhưng chủ trương đoàn kết
với giai cấp vô sản thế giới, trong đó, “nhất là đoàn kết với giai cấp vô sản
Pháp”.
Sau khi xác định vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định: “Đảng là đội
tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Đây chính là nội
dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chỉ rõ ngay trong văn kiện đầu tiên của
Đảng mới được thành lập. Cương lĩnh xác định vai trò lãnh đạo, nhưng để lãnh
đạo được thì phải “thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, Đảng muốn
“thu phục” thì phải tự đổi mới, tựchỉnh đốn Đảng, phải nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng; Đồng thời “làm cho giai cấp minh lãnh đạo được
dân chúng” thì Đảng cần phải thường xuyên chú trọng xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh toàn diện về cả tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức, mới “có
đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”.
=> Cương lĩnh chính trị đã xác định đúng đắn đường con đường giải phóng dân
tộc là phương hướng cách mạng vô sản, giải quyết được tình trình trạng khủng
hoảng đường lối cách mạng diễn ra đầy thế kỷ XX.
3. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là yếu tố hàng đầu quyết định mọi thắng
lợi
3.1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền và Tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945.
Tháng 8/1945, Việt Nam có được thời khách quan thuật lợi quân Nhật đầu hàng
các nước Đồng Minh vô điều kiện. Đây chính là cơ hội ngàn năm có một để tiến
hàng tổng khởi nghãi của nhân dân ta đúng như dự đoán của lãnh tụ Hồ Chí
Minh.
Thời cơ xuất hiện không chỉ có ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Đông Nam
châu Á bị quân đội Nhật chiếm đóng. Các nước này tuy có điều kiện khách quan
thuận lợi giống như ở Việt Nam, nhưng không chớp được thời cơ khởi nghĩa
hoặc kịp thời phát động tổng khởi nghĩa nhưng thành quả thu được không nhiều,
vì lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ, Đảng tiên phong chưa nắm được quyền
9
lãnh đạo cách mạng… Chỉ có duy nhất ở Việt Nam từ khi Đảng thành lập năm
1930 đến năm 1945, đảng từng bước chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chờ thời cơ
đến và kịp thời chớp thời cơ, lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Đảng đã vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
đất nước thời điểm lúc bấy giờ, tích cực kêu gọi đoàn kết các giai cấp dân tộc và
lớp yêu nước, tôn giáo để xây dựng lực lượng các mạng to lớn trong toàn đất
nước, từ đó chờ đợi thời cơ thích hợp để giành thắng lợi. Sự lãnh đạo tích cực
của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng và thời cơ đã được thể hiện rõ qua các
biểu hiện:
3.1.1 Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân đã được chuẩn bị
mọi mặt sẵn sang nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ tới.
- Đảng đã lãnh đạo nhân dân đã tiến hành cách cuộc cao trò cách mạng:
+ : Đây là Phong trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao Xô viết – Nghệ Tĩnh
cuộc tập dượt đầu tiên chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám, tuy bị đế quốc và tay
sai đàn áp nhưng cao trào này đã cho thấy bước đầu thắng lợi của Cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh của Đảng với khối liên minh công nông, đồng thời để lại
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
+ Cao trào cách mạng dân sinh, dân chủ 1936 – 1939: là cuộc tập dượt thứ hai
chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám.
+ : là cuộc tập dượt thứ ba Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939 – 1945
trực tiếp dẫn tới kỳ tích thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945.
+ : Đảng đã ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và Cao trào kháng Nhật cứu nước
hành động của chúng ta”, lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần,
kêu gọi quần chúng nhân dân đã được chuẩn bị mội mặt phải đoàn kết quyết tâm
đánh giặc dành lại độc lập dân tộc.
3.1.2. Đảng đã tích cực vận động, lôi kéo tầng lớp trung gian gồm có tiểu tư
sản, tư sản dân tộc và các nhân sĩ yêu nước trong giai cấp địa chủ đứng về
phía cách mạng.
Chính sách của Đảng với tầng lớp trung gian trong thời kỳ Cách mạng tháng
Tám là: phê bình, uốn nắn, vạch đường lối, chân thành đoàn kết cùng nhau đưa
cách mạng đến thành công. Chẳng những thẳng thắn phê bình mà Đảng còn chân
thành đoàn kếttrong hành động thực tế. Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung gian lập
ra tổ chức của mìnhđể phát huy năng lực phục vụ Tổ quốc. “Tháng 6 năm 1944
Đảng dân chủ Việt Nam ra đời với tư cách là một chính đảng cách mạng của tư
sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức yêu nước tiến bộ” làm cho thành phần tổ chức
của Mặt trận Việt Minh ngàythêm phong phú và khả năng hiệu triệu của tầng lớp
10
trung gian tham gia đánh đuổi. Nhật càng được tăng thêm. Tuy vậy, cho đến cuộc
đảo chính của Nhật ngày 9-3-1945 các tầng lớp trung gian tham gia phong trào
cách mạng chống Nhật - Pháp vẫn chưa đông đảo. Bởi một số nhân vật trung
gian khác, tuy hiểu rằng Nhật chẳng tốt đẹp gì, nhưng thiếu quan điểm đấu tranh
cách mạng nên lập lờ chủ trương lợi dụng Nhật hoặc lợi dụng chính phủ bù nhìn
Trần Trọng Kim để xây dựng lực lượng cho Việt Nam để sau này Nhật thua có
thể chống Pháp nếu Pháp quay trở lại xâm lược lần nữa, điển hình là tổ chức Tân
Việt Nam hội. Hơn nữa, bộ mặt có vẻ trung gian của nội các bù nhìn Trần Trọng
Kim cũng làm cho nhiều người mắc lừa…Trước tình hình đó, Đảng chủ trương
phải vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim "Thân phận bù nhìn của nó chỉ
giữ được bù nhìn, phương châm của nó hứa hẹn nhiều nhưng thực hành ít, hay
thực hành trái với lời hứa. Nhiệm vụ của nó là bọc nhung cho ách Nhật và hùa
với giặc áp bức bóc lột nhân dân”, và bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu của phát xít
Nhật...Sự phê bình, giúp đỡ của Đảng đã làm cho quần chúng trung gian dần dần
tỉnh ngộ và đi theo cách mạng. Ngày 13/8/1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng
minh tầng lớp trung gian nói chung đều theo cách mạng
3.1.3. Đảng đã chủ động nắm bắt thời cơ, tiên phong đề ra đường lối cách
mạng đúng đắn, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa dành chính
quyền.
Từ hội nghị thành lập Đảng năm 1930, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọnphong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Đường lối chiến
lược vàsách lược của Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung,
phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt tại Hội nghị lần
thứ Tám của Ban Chấp hành Trung ương (5/1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
trực tiếp chủ trì đã đề ra chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng. Hội nghị
quyết định tiếp tục chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh
thủ mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hội nghị nhấn mạnh “Trong lúc này
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự
do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi
kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của các bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi được”. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, xúc tiến chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa.
Đêm 9-3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, ngay đêm đó Hội nghị Ban Thường vụ
Trung ương mở rộng được triệu tập tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng
chí Trường Chinh chủ trì. Ban thường vụ Trung ương Đảng nhận định về thời cơ
11
có thểnổ ra khởi nghĩa: Tình hình chính trị trong cả nước khủng hoảng sâu sắc,
nạn đói ghê gớm diễn ra, chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt là những cơ hội tốt
cho khởi nghĩa đi đến chín muồi một cách nhanh chóng; Khi quân Đồng minh
kéo vào Đông Dương, khi phát xít Nhật đưa quân ra ngăn cản quân Đồng minh,
để sau lưng sơ hở thì lúc đó là lúc phát động khởi nghĩa vô cùng thuận lợi. Đồng
thời bản Chỉ thị nói rõ “Dù sao takhông thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào
Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc khởi nghĩa của ta, vì như thế lại ỷ
vào người và tự bỏ tay trong khi tình thếbiến chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng
Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng củanhân dân Nhật thành lập hay nếu
giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940 và quân độiviễn chinh của Nhật mất
tinh thần thì khi ấy quân đồng minh chưa đổ bộ vào Đông Dương thì cuộc tổng
khởi nghĩa của ta có thể bùng nổ thắng lợi”. Dự kiến này gần đúng với sự thật
diễn ra trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Thực hiện chỉ thị trên, Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước lãnh đạo
toàn dân gấp rút chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước. Hội nghị thay đổi khẩu hiệu (đánh đuổi phát xít Nhật -Pháp) trước đây
bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật và đề ra việc thành lập chính quyền cách
mạng của nhân dân. Bản Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta” thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời nhạy bén, bình tĩnh thận
trọng và sáng tạo. Bản chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và
của Mặt trận Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước, quyết định trực tiếp
đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Để chuẩn bị tích cực và khẩn trương hơn nữa cho việc khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền trong cả nước. Ban thường vụ Trung ương triệu tập hội nghị quân
sự Bắc Kỳ ở Hiệp Hoà, Bắc Giang (16-4-1945). Hội nghị quyết định quyết đinh
thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển
hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; xây dựng căn cứ kháng Nhật để
chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Trong cao trào tiền khởi nghĩa, tất
cả các hoạt động của Đảng về chính trị, quân sự, tư tưởng đều chĩa mũi nhọn vào
phát xít Nhật và chính phủ bù nhìn thân Nhật, nhằm mục tiêu trước mắt là tổng
khởi nghĩa giành chính quyền.
Đảng cũng đã nắm bắt chính xác thời cơ giành chính quyền đó là từ khi Nhật
tuyên bố đầu hàng Đồng Minh đến trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương
khoảng cuối tháng 5/1945. Vừa được tin quân Nhật hoàn toàn tan rã và xin đầu
hàng Liên Xô và các nước Đồng minh, ngày 13/8/1945 Hội nghị toàn quốc của
Đảng khai mạc ở Tân Trào (Tuyên Quang). Hội nghị nhận định thời cơ cho ta
12
giành độc lập đã tới, Đảng phải kịp thời phát động, lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa
giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước
khi quân Đồng minh Anh, Mỹ vào Việt Nam.
Trong đêm 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập dưới quyền
Tổng Bí thư Trường Chinh. Xứ ủy ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban Quốc gia giải quyết sự việc. Các nhà báo
Việt Nam đã gửi thư cho đồng bào cả nước kêu gọi nổi dậy. Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền. Tại đây lực lượng được chuẩn lâu dài bị từ năm 1930, Đảng
và nắm bắt thời cơ và sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa
giành chính quyền. Nhờ đó, nhân dân Việt Nam trong một thời gian ngắn (14 -
288 - 1945) đã phá bỏ xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, lật đổ chế độ, phong
kiến tay sai, trả lại chính quyền cho nhân dân.
Tóm lại, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là bởi nhiều yếu tố, đặc biệt sự
chuẩn bị kĩ lưỡng, biết nhận định và chớp thời kết hợp với đường lối lãnh đạo
đúng đắn của Đảng. Cùng với đó là tinh thần kiên cường bất khuất, dũng cảm
đánh giặc của nhân dân ta. Sự kết hợp chặt chẽ đường lối, chủ trương đúng đắn
của Đảng với sự quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta đã làm nên kì tích vang dội
Cách mạng Tháng Tám. Từ đó có thể khẳng định một lần nữa vai trò của Đảng
đối với chiến thắng lịch sử của đất nước ta.
Ngày 02-9-1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên
mới – kỷ nguyên độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đánh giá ý nghĩa lịch
sử của thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao
động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân
tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch
sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi
đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng, bảo vệ chính
quyền cách mạng non trẻ - Đường lối của Đảng trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954).
3.2.1. Đảng lãnh đạo cuốc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 –
1946)
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải
đối mặt những khó khăn, thách thức nghiêm trọng: nền kinh tế kiệt quệ, ngân
sách quốc gia trống rỗng, nạn đói tiếp tục đe dọa; hơn 90% dân số mù chữ, các tệ
13
nạn xã hội do chế độ cũ để lại nặng nề; trong khi đó, ngoại xâm và nội phản câu
kết với nhau để cùng chống phá chính quyền cách mạng non trẻ. Vận mệnh của
Tổ quốc như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong tình thế hiểm nghèo ấy, Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã đề ra những quyết sách đúng đắn,
toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng:
- Tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I (6/1/1946), Hội đồng nhân dân
nhằm củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng nền móng cho chế độ mới.
thành lập Chính phủ chính thức (02- 3-1946) và thông qua Hiến pháp của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (09-11-1946).
- Phát động phong trào chống “giặc đói”, “giặc dốt”: tăng gia sản xuất, xóa bỏ
mọi thứ thuế vô lý, thực hiện giảm tô, chia lại ruộng công, tịch thu ruộng đất của
đế quốc, việt gian chia cho nông dân nghèo. Mở lớp Bình dân học vụ kêu gọi
toàn dân tham gia phong trào xóa nạn mù chữ; xây dựng “Quỹ độc lập” và
phong trào “Tuần lễ vàng” huy động đóng góp tự nguyện của nhân dân.
- Phát triển lực lượng vũ trang cách mạng theo nguyên tắc toàn diện cả về chính
trị và quân sự, chú trọng cả số lượng và chất lượng...
- Lãnh đạo Nhân dân Nam Bộ tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp ngay
từ thời điểm thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam lần thứ hai (23-9-1945).
- Tiến hành đấu tranh trên mặt trận ngoại giao: trên cơ sở phân tích âm mưu, thủ
đoạn của các kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam, Đảng đã thực hiện sách lược
lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù để phân hoá chúng, tránh tình thế cùng
một lúc đương đầu với nhiều kẻ thù. Đó là:
+ Thực hiện sách lược nhân nhượng, hòa hoãn với quân đội Trung Hoa Dân quốc
và tay sai của chúng ở miền Bắc để tập trung kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ
(từ tháng 09-1945 đến tháng 03-1946).
+ Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với Pháp để đẩy nhanh quân đội
Trung Hoa Dân quốc về nước, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (từ tháng 3-1946 đến tháng 12-1946).
Với đường lối đúng đắn, sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về
sách lược, Đảng đã huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vượt qua
muôn vàn khó khăn, nguy hiểm, củng cố giữ vững chính quyền cách mạng,
chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
3.2.2. Đảng lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 –
1954)
14
Bất chấp nguyện vọng yêu chuộng hòa bình của Nhân dân ta, mặc dù chúng ta
đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới,
chúng muốn cướp nước ta một lần nữa. Ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung
ương công bố Chỉ thị Toàn dân kháng chiến và cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Thực hiện chủ trương kháng chiến của
Đảng và đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đã nhất tề
đứng lên với quyết tâm: “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”.
Đường lối kháng chiến được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện quan trọng của
Đảng: bắt đầu từ bản Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc (ngày 25-11-1945), tiếp
đến là Công việc khẩn cấp bây giờ (tháng 10-1946), Chỉ thị Toàn dân kháng
chiến ngày 12-12-1946 và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh (ngày 19-12-1946), những quan điểm cơ bản của đường lối kháng
chiến đã hình thành. Giữa năm 1947, Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết một loạt
bài báo nhằm hướng dẫn việc thực hiện đường lối của Đảng, những bài viết này
được tập hợp thành cuốn sách Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Tác
phẩm Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi đã thể hiện những quan điểm
cơ bản về đường lối kháng chiến của Đảng, đó là đường lối: “toàn dân, toàn
diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính” đưa cuộc kháng chiến của nhân dân
ta đi đến thắng lợi. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951)
tổng kết 5 năm kháng chiến đã bổ sung và phát triển đường lối kháng chiến khi
kháng chiến đã phá thế bị bao vây và đế quốc Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến
tranh Đông Dương. Về cơ bản, đường lối chung của cuộc kháng chiến tập trung
một số nội dung:
Về mục đích kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ là sự kế thừa và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám nhằm đánh đổ
thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất, độc lập hoàn toàn.
Về tính chất của cuộc kháng chiến: Đảng khẳng định đây là cuộc chiến tranh
cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn
diện, lâu dài. Do vậy, đó là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và
hòa hìnhcó tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. Đảng chủ trương liên
hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp, đoàn kết với Miên, Lào
và các dân tộc yêuchuộng tự do, hòa bình.
Về phương châm kháng chiến: Đảng chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân,
thực hiện "kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là
chính".
15
Kháng chiến toàn dân: là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn
dân, đoàn kết toàn dân tộc tích cực tham gia cuộc kháng chiến. Phải xây dựng sự
đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân
là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi phố là một mặt trận”. Trong đó
Quân đội nhân dân và các lực lượng vũ trang là lực lượng làm nòng cốt cho toàn
dân đánh giặc.
Kháng chiến toàn diện: là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ
bằng quân sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó
trên mặttrận quân sự, đấu tranh vũ trang trang vai trò mũi nhọn, mang tính quyết
định. Pháthuy mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc để phục vụ kháng chiến
thắng lợi.
Kháng chiến lâu dài: Xuất phát từ sự so sánh lực lượng, ban đầu địch mạnh, ta
yếunên Đảng chủ trương đánh lâu dài. Vừa đánh vừa xây dựng phát triển lực
lượng, đồng thời tích cực tiêu hao, tiêu diệt địch để so sánh lực lượng sẽ dần có
lợi cho và ta sẽ chuyển từ yếu thành mạnh, tiến tới đánh thắng thù. Song, Đảng
khẳng định đánh lâu dài nhưng phải tạo thế chủ động phát triển thế và lực, tạo
thời cơ giành thắng lợi quyết định.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính: là dựa vào sức lực của nhân dân, vào
đường lối đúng đắn của Đảng, vào các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa của
đất nước, đồng thời ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để
chiến thắng kẻ thù.
=> Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành trong những năm đầu của
cuộc chiến tranh chống Pháp là hoàn toàn đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn
đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối
đó đã huy động và phát huy cao nhất mọi nguồn lực, mọi nguồn sức mạnh của
toàn dân tộc để đánh thắng kẻ thù xâm lược, tranh thủ và phát huy cao độ hiệu
quả sự giúp đỡ quốc tế đối với cuộc kháng chiến. Đường lối kháng chiến của
Đảng được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở
thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp.
3.2.3. Đảng tổ chức, chỉ đạo kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950.
Sau khi đề ra Đường lối kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lượcvà
can thiệp Mỹ, thì Đảng ta tiếp tục chủ trương, chỉ đạo kháng chiến từ năm 1947-
1950. Sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường, Nhà nước dân chủ nhân dân ngày
càngvững mạnh, mặt trận Việt Minh, Liên Việt và các đoàn thể cách mạng đã tập
hợp rộng rãi khối đại đoàn kết dân tộc
16
Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội: Đảng tiếp tục chủ trương đẩy mạnh phong
trào tăng gia sản xuất, tự cấp, tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho bộ đội và
nhân dân. Duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học cho các trường phổ
thông các cấp. Tìm hướng đi tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của lực lượng tiến bộ
và nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến, đặt cơ quan đại diện ở Thái Lan,
Miến Điện (nay là Myanmar), cử các đoàn đại biểu đi dự hội nghị quốc tế.
Trên mặt trận ngoại giao: Đảng và Chính Phủ chủ trương tích cực tranh thủ mở
rộng quan hệ ngoại giao với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Ngoại giao
từng bước phá thế bị bao vây, tranh thủ được sự ủng hộ về mọi mặt của đồng chí,
bè bạn trên thế giới. Các nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên công
nhân và đặt quan hệ ngoại giai với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; ủng
hộ, giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
Đặc biệt, trên mặt trận quân sự, để đối phó với cuộc tấn công của địch lên Việt
Bắc, ngày 15/10/1947, Ban Thường Vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phải phá
tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp, trong đó nêu rõ quyết tâm của quân
và dân ta, vạch ra thế yếu của địch và đề ra các nhiệm vụ quân sự cho các chiến
trường là phải ra sức phát động mạnh mẽ cuộc chiến tranh du kích ở đồng bằng
Bắc Bộ và Trung Bộ; chặt đứt giao thông, bao vây không để địch tiếp tế, liên lạc
tiếp ứng cho nhau; đồng loạt tấn công địch trên tất cả các hướng tiến công của
chúng cả đường bộ và đường sông.
=> Sau 75 ngày đêm chiến đấu liên tục, oanh liệt, đến ngày 21/12/1947, quân và
dân ta lần lượt bẻ gãy tất cả các mũi tiến công nguy hiểm của giặc Pháp, loại
khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch. Và ta đã bảo toàn được cơ quan đầu não
và căn cứ địa kháng chiến, đánh bại âm mưu, kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh
của thực dân Pháp.
Trên vùng tạm bị chiếm, Đảng chỉ đạo tiếp tục phát triển mạnh chiến tranh du
kích để “biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta “. Từ giữa năm
1949, tướng Rơve - Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp đề ra kế hoạch mở
rộng chiếm đóng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, phong tỏa, khóa chặt biên giới
Việt - Trung. Tháng 6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở
một chiến dịch quân sự lớn tiến công địch dọc tuyến biên giới Việt - Trung thuộc
2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn (Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950), nhằm tiêu
diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, tạo hành
lang mở rộng quan hệ thông thương với Trung Quốc và các nước xã hội chủ
nghĩa, tạo điều kiện thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển đến giai đoạn mới. Đây
17
là chiến dịch quân sự lớn, quan trọng đầu tiên do quân ta chủ động mở; đích thân
chủ tịch Hồ Chí Minh đi thị sát và trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.
=> Cuộc chiến đấu anh dũng và quyết liệt của quân và dân ta diễn ra không nghỉ
trong suốt 30 ngày đêm liên tục, từ 16/9 đến 17/10/1950 và đã giành được thắng
lợi to lớn. Chiến thắng này đã mở ra cục diện mới, đưa cuộc kháng chiến chuyển
sang giai đoạn phát triển cao hơn.
3.2.4. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta, đẩy mạnh cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi (1951 – 1954)
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cương của Đảng
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-
1951, tại xã Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên
Quang.Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối
cách mạngViệt Nam. Đó là đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến
lên chủ nghĩa xãhội. Nội dung cơ bản của của báo cáo được phản ánh trong
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội thông qua, gồm các nội
dung quan trọng sau đây:
Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này: “dân chủ nhân dân, một phần
thuộc địa và nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến để giải quyết mâu thuẫn giữa
chế độ dân chủ nhân dân và các thế lực phản động chính là chủ nghĩa đế quốc
xâm lược. Đối tượng đấu tranh chính của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa đế
quốc xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, và phong kiến phản động.
Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam “là đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những di tích
phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ
dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”. Ba nhiệm vụ đó khăng khít
với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là hoàn thành giải phóng dân tộc.
Lực lượng của cách mạng Việt Nam gồm các giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra, còn có những thân sĩ (địa
chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành
nhân dân mà nền tảng là công, nông và lao động trí thức. Giai cấp công nhân là
giai cấp lãnh đạo cách mạng. Chính cương cũng nêu ra triển vọng phát triển của
cách mạng Việt Nam nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt
Nam là cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo nên nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
=> Đại hội II thành công là một bước tiến mới của Đảng về mọi mặt, là “Đại hội
kháng chiến kiến quốc”, “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây
18
dựng Đảng Lao động Việt Nam” Tuy nhiên, Đại hội cũng có hạn chế, khuyết
điểm về nhậnthức là mắc vào tư tưởng “tả” khuynh, giáo điều, rập khuôn máy
móc.
* Đảng lãnh đạo đẩy mạnh kháng chiến chống thực dân Pháp về mọi mặt
Tháng 9-1951, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai đề ra ban
nhiệm vụ lớn: tích cực tiêu diệt sinh lực địch; phá kế hoạch lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch; bồi dưỡng sức dân, xây
dựng lực lượng, củng cố hậu phương.
Để đối phó và làm thất bại kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi, Đảng chủ trương mở
liên tiếp 3 chiến dịch tiến công quân sự có quy mô lớn đánh vào vùng chiếm
đóng của địch ở địa bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nhằm tiêu diệt, tiêu hao
sinh lực địch, tạo điều kiện phát triển cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng
địch, đó là các chiến dịch Trung du (Trần Hưng Đạo-12-1950), chiến dịch đường
số 18 (Hoàng Hoa Thám-3-1951) và chiến dịch Hà Nam Ninh (Quang Trung-5-
1951). Tiếp đó ta mở chiến dịch Hòa Bình (12-1951) đánh vào chỗ yếu của địch,
phát huy lợi thế của ta và giành được thắng lợi to lớn. Thu Đông 1952, Đảng chủ
trương mở tiếp chiến dịch Tây Bắc nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch,
giải phóng một phần đất đai và nhân dân vùng Tây Bắc, phá âm mưu lập “Xứ
Thái tự trị” của thực dân Pháp.
Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng, Chính phủ ra sức
chăm lo phát triển lực lượng, củng cố và tăng cường sức mạnh của hậu phương
kháng chiến. Chính phủ phát động cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành
tiết kiệm, động viên mọi tầng lớp công nhân, nông dân, cán bộ viên chức khắc
phục khó khăn, hăng hái lao động, tăng gia sản xuất tự túc một phần lương thực,
thực phẩm; bảo đảm đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng cung cấp đủ
cho bộ đội. Các mặt văn hóa, y tế, giáo dục, xây dựng nếp sống mới, củng cố
mặt trận dân tộc thống nhất cũng được phát triển và đạt được nhiều thành tựu
mới..
* Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp.
Tháng 7-1953, Đại tướng H.Navarre (Hăngri Nava) đã vạch ra kế hoạch chính
trị-quân sự mới lấy tên là “Kế hoạch Nava”, kế hoạch này đã được Hội đồng
Quốc phòng Pháp nhanh chóng thông qua. Chi phí vật chất cho kế hoạch Nava
chủ yếu do Mỹ thực hiện. Kế hoạch Nava dự kiến thực hiện trong vòng 18 tháng
với 2 bước cơ bản nhằm “chuyển bại thành thắng”. Đây được coi là cố gắng cao
nhất và cuối cùng của Pháp và Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương.
19
Để đánh bại âm mưu và kế hoạch Nava, Đảng chủ trương mở cuộc tiến công
chiến lược Đông Xuân 1953 -1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhằm phát huy
sức mạnh của hậu phương, chi viện tiền tuyến, nhất là lực lượng nông dân, cho
cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Mọi nguồn nhân tài, vật lực, dân công tiếp tế, chi viện cho mặt trận Điện Biên
Phủ được tăng cường với hàng vạn ngày công, hàng vạn tấn lương.
=> Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ là chiến thắng của toàn dân tộc Việt
Nam, của lòng yêu nước sâu sắc, ý chí và khát vọng độc lập tự do của nhân dân
Việt Nam mà nòng cốt là lực lượng. Chiến dịch đánh dấu sự thất bại thảm hại
của chủ nghĩa thực dân Pháp, của quân đội Pháp và hệ thống nô dịch thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc, thực dân trong thế kỷ XX. Thắng lợi ở Điện Biên Phủ “là
cột mốc lịch sử bằng vàng”, là “thiên sử vàng của dân tộc Việt Nam”.
=> Một ngày sau khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về chấm
dứtchiến tranh họp ở Giơnevơ đã bắt đầu bàn về vấn đề ở Đông Dương. Cuối
cùng, ngày 21-7-1954, về Đông Dương được ký kết, kết Hiệp định Giơ-ne-vơ
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm của nhân dân Việt Nam chống
thực dân Pháp xâm lược. Bản tuyên bố cuối cùng về lập lại hòa bình ở Đông
Dương được các nước tham dự hội nghị cam kết chính thức chấp nhận. Đại diện
chính phủ Mỹ ra tuyên bố riêng thừa nhận Hiệp định. Đây là văn bản pháp lý
quốc tế đầu tiên công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam,
Lào và Campuchia; đánh dấu kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược; mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam và mở đường
cho cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất hoàn toàn cho nhân dân ba nước
Đông Dương sau này.
3.3. Đảng lãnh đạo xây dựng thành công Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc và
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước (1954-1975).
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam
bước vào thời kỳ mới với đặc điểm: đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với
hai chế độ chính trị – xã hội đối lập nhau. Miền Bắc đã có hoà bình, dưới sự lãnh
đạo của Đảng đang bắt đầu xây dựng một xã hội mới. Miền Nam vẫn còn dưới
ách đô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế quốc.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-
1960.Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là
Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất
nước nhà”. Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp
20
hành Trung ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của
Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thông qua
Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và Lời kêu gọi của Đại hội.
Con đường phát triển của cách mạng nước ta lúc này được Đảng ta xác định là
phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành ở miền Bắc, xây dựng tiềm lực cách mạng xã hội chủ nghĩa
đưa miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng
miền Nam, giữa vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ của toàn
bộ cách mạng Việt Nam và sự nghiệp thống nhất đất nước.
Hai là, tiến hành ở miền Nam, chống đế cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3.3.1. Đảng lãnh đạo toàn thể nhân dân xây dựng thành công Chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, xuất phát từ đặc điểm của miền
Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá
trình cải biến cách mạng về mọi mặt.
Từ những luận điểm đó, Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền
thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội
chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở
thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả
nước Việt Nam vừa phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã phát huy và kết hợp
được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh
của ba dòng thác cáchmạng trên thế giới
Trên cơ sở miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa
(1958-1960), Đại hội lần thứ ba của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch
năm năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất-kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, nhiệm vụ

Preview text:

1
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
------------------------- TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ
NHÂN TỐ HÀNG ĐẤU QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI
CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ ĐẢNG Sinh viên: Mã số sinh viên: Lớp:
Hà nội, tháng năm 2 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................3
NỘI DUNG............................................................................................................................3

I. SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐC HÀNG ĐẦU QUYẾT
ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM...................................3
1. Bối cảnh lịch sử.........................................................................................................3
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên

của Đảng.................................................................................................................4
3. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là yếu tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi. .8
II. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI VIỆC BẢO VỆ ĐẢNG HIỆN

NAY.......................................................................................................................27
1. Chấp hành nghiêm túc các quy định pháp luật và nghĩa vụ của công dân, tăng
cường học tập Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Luôn trau
dồi, học hỏi, bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch............................27

2. Tích cực tham gia các hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
và hội sinh viên trong các học viện, nhà trường...............................................28
3. Phát huy tinh thần sáng tạo, chủ động ý thức trách nhiệm của bản thân trong
việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng............................................................28
4. Tích cực xây dựng lực lượng nòng cốt trong sinh viên.......................................29
5. Biết tận dụng đúng đắn, linh hoạt các phương tiện thông tin truyền thông để

bảo vệ Đảng..........................................................................................................29
KẾT LUẬN..........................................................................................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................30
3 MỞ ĐẦU
Nhìn lại mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc khi cách mạng Việt Nam hoàn
thắng lợi hẳn mỗi người đều không thể quên được những năm tháng đấu tranh
hào hùng vẻ vang về chiến thắng vĩ đại của dân tộc trước đế quốc hùng mạnh
bậc nhất thế giới vào thế kỷ XX. Chiến thắng lịch sử ấy đã thể hiện rất rõ nét vai
trò lãnh đạo của Đảng, cho thấy sự đúng đắn và tài tình trong suốt quá trình đấu
tranh dành độc lập dân tộc, tự do và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh với đế
quốc Mỹ là một cuộc đấu trang có quy mô lớn kéo dài trường kỳ và đầy gian
khổ, nhân dân ta đã phải chịu vô vàn những đau thương, nhưng cùng với sự lãnh
đạo tài tình của Ban chấp hành Trung Ương và Bộ chính trị, đất nước ta vẫn kiên
cường, bất khuất quyết tâm đánh bại kẻ thù. Và sau 21 năm chiến đấu ác liệt, đất
nước ta đã dành được chiến thắng, trở thành một trang sử hào hùng và đi vào lịch
sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX.
Chiến thắng của Đảng và nhân ta được coi là một chiến thắng tất yếu, nó mang
tính chất thời đại sâu sắc và mở ra kỉ nguyên mới cho phong trào cách mạng thế
giới. Trong trận đối đầu lịch sử ấy, sự lãnh đạo của Đảng chính là nguyên nhân
lớn nhất quyết định thắng lợi của Tổ Quốc. Đảng ta luôn có những đường lối
quân sự, chính trị linh hoạt, đúng đắn, sáng tạo và độc lập qua từng giai đoạn. Có
thể nói, Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của Cách mạng Việt Nam.
Lớp trẻ ngày nay càng phải trau đồi, hiểu biết rõ ràng về những trang sử hào
hùng của dân tộc, thấy được công lao của Đảng và đặc biệt là biết góp phần xây
dựng và bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. Chính vì vậy, đề tài “Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đấu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam và trách nhiệm của sinh viên đối với việc bảo vệ Đảng hiện nay” là một đề
tài quan trọng cần được được tìm hiểu và nghiên cứu tường tận. NỘI DUNG
I. SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG LÀ NHÂN TỐC HÀNG ĐẦU
QUYẾT ĐỊNH MỌI THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1. Bối cảnh lịch sử.
1.1. Tình hình thế giới tác động đến cách mạng Việt Nam
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, sự ra đời và hoạt động
củaQuốc tế Cộng sản đã tác động mạnh mẽ đối với phong trào giải phóng ở các
nướcthuộc địa trên thế giới trong những năm 20 của thế kỷ XX, trong đó có Việt Namvà Đông Dương.
1.2. Tình hình trong nước 4
Trong bối cảnh các nước đế quốc đẩy mạnh tìm kiếm thuộc địa, Việt Nam trở
thành đối tượng nằm trong mưu đồ thôn tính của thực dân Pháp.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về
chính trị, kinh tế, xã hội. Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân Pháp và
chính quyền tay sai đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ phong
kiến, đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới với thái độ chính trị khác
nhau. Mâu thuẫn chủ yếu nhất trong xã hội và ngày càng trở nên gay gắt là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai.
1.3. Các phong trào yêu nước đòi độc lập của nhân dân Việt Nam trước khi
có Đảng và sự khủng khoảng đường lối giải phóng dân tộc.
- Phong trào yêu nước theo lập trường phong kiến (1958 – 1896)
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản (1897-1930)
- Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh
- Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng
Như vậy, vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống
yêu nước, bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân
Pháp theo ý thức hệ phong kiến, tư sản của Nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi và liên
tục, nhưng tất cả đều không thành công. Sự thất bại đó do nguyên nhân các giai
cấp lãnh đạo đã lạc hậu, non yếu; không nhận thức đúng yêu cầu khách quan của
lịch sử gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người;
không tập hợp và tổ chức được đông đảo các giai tầng yêu nước; những hạn chế
trong phương pháp đấu tranh… Việt Nam lâm vào khủng hoảng bế tắc về đường
lối cứu nước, nhiệm vụ lịch sử đặt ra cho các thế hệ yêu nước đương thời là cần
phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
2.1. Sự chuyển biến của phong trào yêu nước
Với nỗ lực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và hoạt động yêu nước tích
cực của các cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Phong
trào thanh niên cả nước đã thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo con
đường cách mạng vô sản, nâng cao giác ngộ và thái độ cách mạng của giai cấp
công nhân. Do đó phong trào công nhân đã bùng nổ. Số cuộc đấu tranh của công 5
nhân tăng gấp 40 lần trong những năm 1928-1929, gấp 2,5 lần trong 2 năm
1926-19271. Phong trào đấu tranh, phong trào đấu tranh của nông dân và các
tầng lớp thị dân càng diễn ra gay gắt thì càng cần phải có tổ chức và sự lãnh đạo.
Nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng đủ sức tập hợp lực lượng dân tộc
và gánh vác vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc lúc bấy giờ càng trở
nên cấp thiết đối với cách mạng Việt Nam.
2.2. Các tổ chức cộng sản được thành lập
Đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt
Nam, tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên không còn thích hợp và đủ
sức lãnh đạo phong trào. Trước tình hình đó, tháng 3/1929 những người lãnh đạo
Bắc Kỳ đã quyết định lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.
2.2.1. Đông Dương Cộng sản Đảng
17/6/1929, 20 đại biểu của các tổ chức Bắc Kỳ đã họp và quyết định thành lập
Đông Dương Cộng sản Đảng thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ. Cơ quan ngôn luận là báo Bùa liềm.
2.2.2. Đông Dương Cộng sản Đảng
Tháng 11/1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản
Đảng được thànhlập tại Khánh Hội, Sài Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất
bản Tạp chí Bônsơvích.
2.2.3. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng chịu tác động mạnh của Hội Việt Nam
Cách mạng thanh niên đã đi theo khuynh hướng vô sản. Tháng 9/1929, Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập và ra Tuyên đạt.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở ba miền đã khẳng định bước tiến về chất của
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng
cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu cấp thiết của lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chứccộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ đường
lối của Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình
và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính, tình trạng đó không tránh khỏi
phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổchức trên cả nước.
Trước tình hình đó, theo tài liệu (ghi ngày 27-10-1929) của Quốc tế Cộng sản
gửi những người cộng sản Đông Dương, nêu rõ: “Việc thiếu một Đảng Cộng sản
duy nhất trong lúc phong trào quần chúng công nhân và nông dân ngày càng
phát triển, đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt của
cuộc cách mạng ở Đông Dương”. Vì vậy: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp
bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng 6
cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản
có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức
duy nhất ở Đông Dương”
2.3. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước yêu cầu cấp thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất và chấm dứt
sự chia rẽ trong phong trào cộng sản ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản. Việt Nam.
Từ 06/01 đến 07/02/1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản diễn ra trên
bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chỉ đạo của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chánh cương chính ngắn, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Nguyễn Ái Quốc. Trong đó, Chánh cương vắn tắt và Sách
lược vắn tắt thể hiện rõ đường lối của cách mạng Việt Nam với chủ trương “làm
cho tư sản hoá dân quyền, làm cách mạng cho dân tộc để tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa.
=> Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch
sử dân tộc, là bước ngoặt đưa cuộc đấu tranh của dân tộc bước sang thời kỳ mới.
2.4. Nội dung cơ bản và ý nhĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản thể hiện mục tiêu, phương hướng, nhiệm
vụ chiến lược, phương thức hoạt động ... của một đảng, tổ chức chính trị trong
một thời kỳ lịch sử nhất định.
Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là
ngọn cờ tập hợp, thống nhất các lực lượng xã hội đấu tranh vì mục tiêu, lý tưởng
cách mạng của Đảng. Chiến lược và đường lối của Cách mạng Việt Nam là
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã làm rõ
mục tiêu chiến lược của cách mạng đó là gắn giải phóng dân tộc với giải phóng
giai cấp và giải phóng con người, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tất
cả đã thể hiện rõ phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập
cho dân tộc và ruộng đất cho người cày, đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Về phương diện chính trị, Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của
cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”,
“Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ công nông
binh. Tổ chức ra quân đội công nông”. Phản ánh đúng mâu thuẫn cơ bản của xã 7
hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến và đáp ứng đúng yêu cầu bức thiết của
cách mạng Việt Nam lúc này là đánh đuổi đế quốc xâm lược để giành lại độc lập
cho dân tộc. Vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc được đặt đúng tầm quan trọng
của xé theo mối quan hệ với đấu tranh giai cấp.
Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ:
+ Dân chúng được tự do tổ chức. + Nam nữ bình quyền
+ Phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết những sản phẩm cấm
ở trong nước; thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,…);
thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo;
bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành
luật ngày làm tám giờ… Những nhiệm vụ về phương diện xã hội và phương diện
kinh tế đã phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã hội, cần được giải quyết ở Việt
Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện, triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống
trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội, đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp công nhân và nông dân.
Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh đã chỉ rõ thái độ chính trị của từng giai cấp
“tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc
được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”.
Cương lĩnh xác định lực lượng cơ bản của cách mạng là công nhân, nông dân,
trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các
lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, nhưng đồng thời “Đảng phải hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào phe vô sản
giai cấp, “Phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộcphải bằng con đường
bạo lực cách mạng của quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ không thể là con
đường cải lương thoả hiệp “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công
nông mà đi vào đường thoả hiệp”. Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp
để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, còn “bộ phận
nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ”.
Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế, Cương lĩnh phát triển quan điểm về
mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính
quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cương lĩnh 8
chỉ rõ: “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng
thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp
thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”. Như vậy, ngay từ khi thành lập, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định tính tự lực tự cường, đồng thời xác định rõ lực
lượng đồng minh quốc tế đó là sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản thế giới, nhất làgiai cấp vô sản Pháp. Đồng thời, Cương lĩnh còn
phân hoá kẻ thù khi xác định đánhđổ thực dân Pháp, nhưng chủ trương đoàn kết
với giai cấp vô sản thế giới, trong đó, “nhất là đoàn kết với giai cấp vô sản Pháp”.
Sau khi xác định vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định: “Đảng là đội
tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Đây chính là nội
dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chỉ rõ ngay trong văn kiện đầu tiên của
Đảng mới được thành lập. Cương lĩnh xác định vai trò lãnh đạo, nhưng để lãnh
đạo được thì phải “thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, Đảng muốn
“thu phục” thì phải tự đổi mới, tựchỉnh đốn Đảng, phải nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng; Đồng thời “làm cho giai cấp minh lãnh đạo được
dân chúng” thì Đảng cần phải thường xuyên chú trọng xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh toàn diện về cả tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức, mới “có
đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”.
=> Cương lĩnh chính trị đã xác định đúng đắn đường con đường giải phóng dân
tộc là phương hướng cách mạng vô sản, giải quyết được tình trình trạng khủng
hoảng đường lối cách mạng diễn ra đầy thế kỷ XX.
3. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là yếu tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi
3.1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền và Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Tháng 8/1945, Việt Nam có được thời khách quan thuật lợi quân Nhật đầu hàng
các nước Đồng Minh vô điều kiện. Đây chính là cơ hội ngàn năm có một để tiến
hàng tổng khởi nghãi của nhân dân ta đúng như dự đoán của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Thời cơ xuất hiện không chỉ có ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Đông Nam
châu Á bị quân đội Nhật chiếm đóng. Các nước này tuy có điều kiện khách quan
thuận lợi giống như ở Việt Nam, nhưng không chớp được thời cơ khởi nghĩa
hoặc kịp thời phát động tổng khởi nghĩa nhưng thành quả thu được không nhiều,
vì lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ, Đảng tiên phong chưa nắm được quyền 9
lãnh đạo cách mạng… Chỉ có duy nhất ở Việt Nam từ khi Đảng thành lập năm
1930 đến năm 1945, đảng từng bước chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chờ thời cơ
đến và kịp thời chớp thời cơ, lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Đảng đã vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
đất nước thời điểm lúc bấy giờ, tích cực kêu gọi đoàn kết các giai cấp dân tộc và
lớp yêu nước, tôn giáo để xây dựng lực lượng các mạng to lớn trong toàn đất
nước, từ đó chờ đợi thời cơ thích hợp để giành thắng lợi. Sự lãnh đạo tích cực
của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng và thời cơ đã được thể hiện rõ qua các biểu hiện:
3.1.1 Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân đã được chuẩn bị
mọi mặt sẵn sang nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ tới.
- Đảng đã lãnh đạo nhân dân đã tiến hành cách cuộc cao trò cách mạng:
+ Phong trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao Xô viết – Nghệ Tĩnh: Đây là
cuộc tập dượt đầu tiên chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám, tuy bị đế quốc và tay
sai đàn áp nhưng cao trào này đã cho thấy bước đầu thắng lợi của Cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh của Đảng với khối liên minh công nông, đồng thời để lại
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
+ Cao trào cách mạng dân sinh, dân chủ 1936 – 1939: là cuộc tập dượt thứ hai
chuẩn bị cho Cách mạng Tháng Tám.
+ Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939 – 1945: là cuộc tập dượt thứ ba
trực tiếp dẫn tới kỳ tích thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945. +
: Đảng đã ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và
Cao trào kháng Nhật cứu nước
hành động của chúng ta”, lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần,
kêu gọi quần chúng nhân dân đã được chuẩn bị mội mặt phải đoàn kết quyết tâm
đánh giặc dành lại độc lập dân tộc.
3.1.2. Đảng đã tích cực vận động, lôi kéo tầng lớp trung gian gồm có tiểu tư
sản, tư sản dân tộc và các nhân sĩ yêu nước trong giai cấp địa chủ đứng về phía cách mạng.
Chính sách của Đảng với tầng lớp trung gian trong thời kỳ Cách mạng tháng
Tám là: phê bình, uốn nắn, vạch đường lối, chân thành đoàn kết cùng nhau đưa
cách mạng đến thành công. Chẳng những thẳng thắn phê bình mà Đảng còn chân
thành đoàn kếttrong hành động thực tế. Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung gian lập
ra tổ chức của mìnhđể phát huy năng lực phục vụ Tổ quốc. “Tháng 6 năm 1944
Đảng dân chủ Việt Nam ra đời với tư cách là một chính đảng cách mạng của tư
sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức yêu nước tiến bộ” làm cho thành phần tổ chức
của Mặt trận Việt Minh ngàythêm phong phú và khả năng hiệu triệu của tầng lớp 10
trung gian tham gia đánh đuổi. Nhật càng được tăng thêm. Tuy vậy, cho đến cuộc
đảo chính của Nhật ngày 9-3-1945 các tầng lớp trung gian tham gia phong trào
cách mạng chống Nhật - Pháp vẫn chưa đông đảo. Bởi một số nhân vật trung
gian khác, tuy hiểu rằng Nhật chẳng tốt đẹp gì, nhưng thiếu quan điểm đấu tranh
cách mạng nên lập lờ chủ trương lợi dụng Nhật hoặc lợi dụng chính phủ bù nhìn
Trần Trọng Kim để xây dựng lực lượng cho Việt Nam để sau này Nhật thua có
thể chống Pháp nếu Pháp quay trở lại xâm lược lần nữa, điển hình là tổ chức Tân
Việt Nam hội. Hơn nữa, bộ mặt có vẻ trung gian của nội các bù nhìn Trần Trọng
Kim cũng làm cho nhiều người mắc lừa…Trước tình hình đó, Đảng chủ trương
phải vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim "Thân phận bù nhìn của nó chỉ
giữ được bù nhìn, phương châm của nó hứa hẹn nhiều nhưng thực hành ít, hay
thực hành trái với lời hứa. Nhiệm vụ của nó là bọc nhung cho ách Nhật và hùa
với giặc áp bức bóc lột nhân dân”, và bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu của phát xít
Nhật...Sự phê bình, giúp đỡ của Đảng đã làm cho quần chúng trung gian dần dần
tỉnh ngộ và đi theo cách mạng. Ngày 13/8/1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng
minh tầng lớp trung gian nói chung đều theo cách mạng
3.1.3. Đảng đã chủ động nắm bắt thời cơ, tiên phong đề ra đường lối cách
mạng đúng đắn, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa dành chính quyền.
Từ hội nghị thành lập Đảng năm 1930, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọnphong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Đường lối chiến
lược vàsách lược của Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung,
phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Đặc biệt tại Hội nghị lần
thứ Tám của Ban Chấp hành Trung ương (5/1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
trực tiếp chủ trì đã đề ra chủ trương thay đổi chiến lược cách mạng. Hội nghị
quyết định tiếp tục chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh
thủ mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hội nghị nhấn mạnh “Trong lúc này
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự
do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi
kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của các bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không
đòi được”. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, xúc tiến chuẩn bị
khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa.
Đêm 9-3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, ngay đêm đó Hội nghị Ban Thường vụ
Trung ương mở rộng được triệu tập tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng
chí Trường Chinh chủ trì. Ban thường vụ Trung ương Đảng nhận định về thời cơ 11
có thểnổ ra khởi nghĩa: Tình hình chính trị trong cả nước khủng hoảng sâu sắc,
nạn đói ghê gớm diễn ra, chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt là những cơ hội tốt
cho khởi nghĩa đi đến chín muồi một cách nhanh chóng; Khi quân Đồng minh
kéo vào Đông Dương, khi phát xít Nhật đưa quân ra ngăn cản quân Đồng minh,
để sau lưng sơ hở thì lúc đó là lúc phát động khởi nghĩa vô cùng thuận lợi. Đồng
thời bản Chỉ thị nói rõ “Dù sao takhông thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào
Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc khởi nghĩa của ta, vì như thế lại ỷ
vào người và tự bỏ tay trong khi tình thếbiến chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng
Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng củanhân dân Nhật thành lập hay nếu
giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940 và quân độiviễn chinh của Nhật mất
tinh thần thì khi ấy quân đồng minh chưa đổ bộ vào Đông Dương thì cuộc tổng
khởi nghĩa của ta có thể bùng nổ thắng lợi”. Dự kiến này gần đúng với sự thật
diễn ra trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Thực hiện chỉ thị trên, Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước lãnh đạo
toàn dân gấp rút chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả
nước. Hội nghị thay đổi khẩu hiệu (đánh đuổi phát xít Nhật -Pháp) trước đây
bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật và đề ra việc thành lập chính quyền cách
mạng của nhân dân. Bản Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta” thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời nhạy bén, bình tĩnh thận
trọng và sáng tạo. Bản chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và
của Mặt trận Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước, quyết định trực tiếp
đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Để chuẩn bị tích cực và khẩn trương hơn nữa cho việc khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền trong cả nước. Ban thường vụ Trung ương triệu tập hội nghị quân
sự Bắc Kỳ ở Hiệp Hoà, Bắc Giang (16-4-1945). Hội nghị quyết định quyết đinh
thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển
hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; xây dựng căn cứ kháng Nhật để
chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Trong cao trào tiền khởi nghĩa, tất
cả các hoạt động của Đảng về chính trị, quân sự, tư tưởng đều chĩa mũi nhọn vào
phát xít Nhật và chính phủ bù nhìn thân Nhật, nhằm mục tiêu trước mắt là tổng
khởi nghĩa giành chính quyền.
Đảng cũng đã nắm bắt chính xác thời cơ giành chính quyền đó là từ khi Nhật
tuyên bố đầu hàng Đồng Minh đến trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương
khoảng cuối tháng 5/1945. Vừa được tin quân Nhật hoàn toàn tan rã và xin đầu
hàng Liên Xô và các nước Đồng minh, ngày 13/8/1945 Hội nghị toàn quốc của
Đảng khai mạc ở Tân Trào (Tuyên Quang). Hội nghị nhận định thời cơ cho ta 12
giành độc lập đã tới, Đảng phải kịp thời phát động, lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa
giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước
khi quân Đồng minh Anh, Mỹ vào Việt Nam.
Trong đêm 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập dưới quyền
Tổng Bí thư Trường Chinh. Xứ ủy ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban Quốc gia giải quyết sự việc. Các nhà báo
Việt Nam đã gửi thư cho đồng bào cả nước kêu gọi nổi dậy. Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền. Tại đây lực lượng được chuẩn lâu dài bị từ năm 1930, Đảng
và nắm bắt thời cơ và sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa
giành chính quyền. Nhờ đó, nhân dân Việt Nam trong một thời gian ngắn (14 -
288 - 1945) đã phá bỏ xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, lật đổ chế độ, phong
kiến tay sai, trả lại chính quyền cho nhân dân.
Tóm lại, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là bởi nhiều yếu tố, đặc biệt sự
chuẩn bị kĩ lưỡng, biết nhận định và chớp thời kết hợp với đường lối lãnh đạo
đúng đắn của Đảng. Cùng với đó là tinh thần kiên cường bất khuất, dũng cảm
đánh giặc của nhân dân ta. Sự kết hợp chặt chẽ đường lối, chủ trương đúng đắn
của Đảng với sự quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta đã làm nên kì tích vang dội
Cách mạng Tháng Tám. Từ đó có thể khẳng định một lần nữa vai trò của Đảng
đối với chiến thắng lịch sử của đất nước ta.
Ngày 02-9-1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên
mới – kỷ nguyên độc lập, tự do, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đánh giá ý nghĩa lịch
sử của thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao
động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân
tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch
sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi
đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng, bảo vệ chính
quyền cách mạng non trẻ - Đường lối của Đảng trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954).
3.2.1. Đảng lãnh đạo cuốc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 – 1946)
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải
đối mặt những khó khăn, thách thức nghiêm trọng: nền kinh tế kiệt quệ, ngân
sách quốc gia trống rỗng, nạn đói tiếp tục đe dọa; hơn 90% dân số mù chữ, các tệ 13
nạn xã hội do chế độ cũ để lại nặng nề; trong khi đó, ngoại xâm và nội phản câu
kết với nhau để cùng chống phá chính quyền cách mạng non trẻ. Vận mệnh của
Tổ quốc như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong tình thế hiểm nghèo ấy, Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã đề ra những quyết sách đúng đắn,
toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng:
- Tổ chức Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I (6/1/1946), Hội đồng nhân dân
nhằm củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng nền móng cho chế độ mới.
thành lập Chính phủ chính thức (02- 3-1946) và thông qua Hiến pháp của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (09-11-1946).
- Phát động phong trào chống “giặc đói”, “giặc dốt”: tăng gia sản xuất, xóa bỏ
mọi thứ thuế vô lý, thực hiện giảm tô, chia lại ruộng công, tịch thu ruộng đất của
đế quốc, việt gian chia cho nông dân nghèo. Mở lớp Bình dân học vụ kêu gọi
toàn dân tham gia phong trào xóa nạn mù chữ; xây dựng “Quỹ độc lập” và
phong trào “Tuần lễ vàng” huy động đóng góp tự nguyện của nhân dân.
- Phát triển lực lượng vũ trang cách mạng theo nguyên tắc toàn diện cả về chính
trị và quân sự, chú trọng cả số lượng và chất lượng...
- Lãnh đạo Nhân dân Nam Bộ tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp ngay
từ thời điểm thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam lần thứ hai (23-9-1945).
- Tiến hành đấu tranh trên mặt trận ngoại giao: trên cơ sở phân tích âm mưu, thủ
đoạn của các kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam, Đảng đã thực hiện sách lược
lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù để phân hoá chúng, tránh tình thế cùng
một lúc đương đầu với nhiều kẻ thù. Đó là:
+ Thực hiện sách lược nhân nhượng, hòa hoãn với quân đội Trung Hoa Dân quốc
và tay sai của chúng ở miền Bắc để tập trung kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ
(từ tháng 09-1945 đến tháng 03-1946).
+ Thực hiện sách lược hòa hoãn, nhân nhượng với Pháp để đẩy nhanh quân đội
Trung Hoa Dân quốc về nước, chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (từ tháng 3-1946 đến tháng 12-1946).
Với đường lối đúng đắn, sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về
sách lược, Đảng đã huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vượt qua
muôn vàn khó khăn, nguy hiểm, củng cố giữ vững chính quyền cách mạng,
chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
3.2.2. Đảng lãnh đạo toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954) 14
Bất chấp nguyện vọng yêu chuộng hòa bình của Nhân dân ta, mặc dù chúng ta
đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới,
chúng muốn cướp nước ta một lần nữa. Ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung
ương công bố Chỉ thị Toàn dân kháng chiến và cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Thực hiện chủ trương kháng chiến của
Đảng và đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đã nhất tề
đứng lên với quyết tâm: “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ”.
Đường lối kháng chiến được thể hiện rõ trong nhiều văn kiện quan trọng của
Đảng: bắt đầu từ bản Chỉ thị về Kháng chiến kiến quốc (ngày 25-11-1945), tiếp
đến là Công việc khẩn cấp bây giờ (tháng 10-1946), Chỉ thị Toàn dân kháng
chiến ngày 12-12-1946 và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh (ngày 19-12-1946), những quan điểm cơ bản của đường lối kháng
chiến đã hình thành. Giữa năm 1947, Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết một loạt
bài báo nhằm hướng dẫn việc thực hiện đường lối của Đảng, những bài viết này
được tập hợp thành cuốn sách Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Tác
phẩm Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi đã thể hiện những quan điểm
cơ bản về đường lối kháng chiến của Đảng, đó là đường lối: “toàn dân, toàn
diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”
đưa cuộc kháng chiến của nhân dân
ta đi đến thắng lợi. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951)
tổng kết 5 năm kháng chiến đã bổ sung và phát triển đường lối kháng chiến khi
kháng chiến đã phá thế bị bao vây và đế quốc Mỹ can thiệp sâu vào cuộc chiến
tranh Đông Dương. Về cơ bản, đường lối chung của cuộc kháng chiến tập trung một số nội dung:
Về mục đích kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ là sự kế thừa và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám nhằm đánh đổ
thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất, độc lập hoàn toàn.
Về tính chất của cuộc kháng chiến: Đảng khẳng định đây là cuộc chiến tranh
cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa, nó có tính chất toàn dân, toàn
diện, lâu dài. Do vậy, đó là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và
hòa hìnhcó tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. Đảng chủ trương liên
hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp, đoàn kết với Miên, Lào
và các dân tộc yêuchuộng tự do, hòa bình.
Về phương châm kháng chiến: Đảng chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân,
thực hiện "kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính". 15
Kháng chiến toàn dân: là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn
dân, đoàn kết toàn dân tộc tích cực tham gia cuộc kháng chiến. Phải xây dựng sự
đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân
là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi phố là một mặt trận”. Trong đó
Quân đội nhân dân và các lực lượng vũ trang là lực lượng làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Kháng chiến toàn diện: là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ
bằng quân sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó
trên mặttrận quân sự, đấu tranh vũ trang trang vai trò mũi nhọn, mang tính quyết
định. Pháthuy mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc để phục vụ kháng chiến thắng lợi.
Kháng chiến lâu dài: Xuất phát từ sự so sánh lực lượng, ban đầu địch mạnh, ta
yếunên Đảng chủ trương đánh lâu dài. Vừa đánh vừa xây dựng phát triển lực
lượng, đồng thời tích cực tiêu hao, tiêu diệt địch để so sánh lực lượng sẽ dần có
lợi cho và ta sẽ chuyển từ yếu thành mạnh, tiến tới đánh thắng thù. Song, Đảng
khẳng định đánh lâu dài nhưng phải tạo thế chủ động phát triển thế và lực, tạo
thời cơ giành thắng lợi quyết định.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính: là dựa vào sức lực của nhân dân, vào
đường lối đúng đắn của Đảng, vào các điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa của
đất nước, đồng thời ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ thù.
=> Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành trong những năm đầu của
cuộc chiến tranh chống Pháp là hoàn toàn đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn
đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối
đó đã huy động và phát huy cao nhất mọi nguồn lực, mọi nguồn sức mạnh của
toàn dân tộc để đánh thắng kẻ thù xâm lược, tranh thủ và phát huy cao độ hiệu
quả sự giúp đỡ quốc tế đối với cuộc kháng chiến. Đường lối kháng chiến của
Đảng được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở
thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp.
3.2.3. Đảng tổ chức, chỉ đạo kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950.
Sau khi đề ra Đường lối kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lượcvà
can thiệp Mỹ, thì Đảng ta tiếp tục chủ trương, chỉ đạo kháng chiến từ năm 1947-
1950. Sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường, Nhà nước dân chủ nhân dân ngày
càngvững mạnh, mặt trận Việt Minh, Liên Việt và các đoàn thể cách mạng đã tập
hợp rộng rãi khối đại đoàn kết dân tộc 16
Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội: Đảng tiếp tục chủ trương đẩy mạnh phong
trào tăng gia sản xuất, tự cấp, tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho bộ đội và
nhân dân. Duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học cho các trường phổ
thông các cấp. Tìm hướng đi tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của lực lượng tiến bộ
và nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến, đặt cơ quan đại diện ở Thái Lan,
Miến Điện (nay là Myanmar), cử các đoàn đại biểu đi dự hội nghị quốc tế.
Trên mặt trận ngoại giao: Đảng và Chính Phủ chủ trương tích cực tranh thủ mở
rộng quan hệ ngoại giao với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Ngoại giao
từng bước phá thế bị bao vây, tranh thủ được sự ủng hộ về mọi mặt của đồng chí,
bè bạn trên thế giới. Các nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên công
nhân và đặt quan hệ ngoại giai với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; ủng
hộ, giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
Đặc biệt, trên mặt trận quân sự, để đối phó với cuộc tấn công của địch lên Việt
Bắc, ngày 15/10/1947, Ban Thường Vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phải phá
tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp, trong đó nêu rõ quyết tâm của quân
và dân ta, vạch ra thế yếu của địch và đề ra các nhiệm vụ quân sự cho các chiến
trường là phải ra sức phát động mạnh mẽ cuộc chiến tranh du kích ở đồng bằng
Bắc Bộ và Trung Bộ; chặt đứt giao thông, bao vây không để địch tiếp tế, liên lạc
tiếp ứng cho nhau; đồng loạt tấn công địch trên tất cả các hướng tiến công của
chúng cả đường bộ và đường sông.
=> Sau 75 ngày đêm chiến đấu liên tục, oanh liệt, đến ngày 21/12/1947, quân và
dân ta lần lượt bẻ gãy tất cả các mũi tiến công nguy hiểm của giặc Pháp, loại
khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch. Và ta đã bảo toàn được cơ quan đầu não
và căn cứ địa kháng chiến, đánh bại âm mưu, kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp.
Trên vùng tạm bị chiếm, Đảng chỉ đạo tiếp tục phát triển mạnh chiến tranh du
kích để “biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta “. Từ giữa năm
1949, tướng Rơve - Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp đề ra kế hoạch mở
rộng chiếm đóng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, phong tỏa, khóa chặt biên giới
Việt - Trung. Tháng 6/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở
một chiến dịch quân sự lớn tiến công địch dọc tuyến biên giới Việt - Trung thuộc
2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn (Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950), nhằm tiêu
diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, tạo hành
lang mở rộng quan hệ thông thương với Trung Quốc và các nước xã hội chủ
nghĩa, tạo điều kiện thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển đến giai đoạn mới. Đây 17
là chiến dịch quân sự lớn, quan trọng đầu tiên do quân ta chủ động mở; đích thân
chủ tịch Hồ Chí Minh đi thị sát và trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.
=> Cuộc chiến đấu anh dũng và quyết liệt của quân và dân ta diễn ra không nghỉ
trong suốt 30 ngày đêm liên tục, từ 16/9 đến 17/10/1950 và đã giành được thắng
lợi to lớn. Chiến thắng này đã mở ra cục diện mới, đưa cuộc kháng chiến chuyển
sang giai đoạn phát triển cao hơn.
3.2.4. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta, đẩy mạnh cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi (1951 – 1954)
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cương của Đảng
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-
1951, tại xã Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên
Quang.Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối
cách mạngViệt Nam. Đó là đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến
lên chủ nghĩa xãhội. Nội dung cơ bản của của báo cáo được phản ánh trong
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội thông qua, gồm các nội dung quan trọng sau đây:
Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này: “dân chủ nhân dân, một phần
thuộc địa và nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến để giải quyết mâu thuẫn giữa
chế độ dân chủ nhân dân và các thế lực phản động chính là chủ nghĩa đế quốc
xâm lược. Đối tượng đấu tranh chính của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa đế
quốc xâm lược Pháp và can thiệp Mỹ, và phong kiến phản động.
Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam “là đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những di tích
phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ
dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”. Ba nhiệm vụ đó khăng khít
với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là hoàn thành giải phóng dân tộc.
Lực lượng của cách mạng Việt Nam gồm các giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra, còn có những thân sĩ (địa
chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành
nhân dân mà nền tảng là công, nông và lao động trí thức. Giai cấp công nhân là
giai cấp lãnh đạo cách mạng. Chính cương cũng nêu ra triển vọng phát triển của
cách mạng Việt Nam nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt
Nam là cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo nên nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
=> Đại hội II thành công là một bước tiến mới của Đảng về mọi mặt, là “Đại hội
kháng chiến kiến quốc”, “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây 18
dựng Đảng Lao động Việt Nam” Tuy nhiên, Đại hội cũng có hạn chế, khuyết
điểm về nhậnthức là mắc vào tư tưởng “tả” khuynh, giáo điều, rập khuôn máy móc.
* Đảng lãnh đạo đẩy mạnh kháng chiến chống thực dân Pháp về mọi mặt
Tháng 9-1951, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai đề ra ban
nhiệm vụ lớn: tích cực tiêu diệt sinh lực địch; phá kế hoạch lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt của địch; bồi dưỡng sức dân, xây
dựng lực lượng, củng cố hậu phương.
Để đối phó và làm thất bại kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi, Đảng chủ trương mở
liên tiếp 3 chiến dịch tiến công quân sự có quy mô lớn đánh vào vùng chiếm
đóng của địch ở địa bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nhằm tiêu diệt, tiêu hao
sinh lực địch, tạo điều kiện phát triển cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng
địch, đó là các chiến dịch Trung du (Trần Hưng Đạo-12-1950), chiến dịch đường
số 18 (Hoàng Hoa Thám-3-1951) và chiến dịch Hà Nam Ninh (Quang Trung-5-
1951). Tiếp đó ta mở chiến dịch Hòa Bình (12-1951) đánh vào chỗ yếu của địch,
phát huy lợi thế của ta và giành được thắng lợi to lớn. Thu Đông 1952, Đảng chủ
trương mở tiếp chiến dịch Tây Bắc nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch,
giải phóng một phần đất đai và nhân dân vùng Tây Bắc, phá âm mưu lập “Xứ
Thái tự trị” của thực dân Pháp.
Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng, Chính phủ ra sức
chăm lo phát triển lực lượng, củng cố và tăng cường sức mạnh của hậu phương
kháng chiến. Chính phủ phát động cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành
tiết kiệm, động viên mọi tầng lớp công nhân, nông dân, cán bộ viên chức khắc
phục khó khăn, hăng hái lao động, tăng gia sản xuất tự túc một phần lương thực,
thực phẩm; bảo đảm đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng cung cấp đủ
cho bộ đội. Các mặt văn hóa, y tế, giáo dục, xây dựng nếp sống mới, củng cố
mặt trận dân tộc thống nhất cũng được phát triển và đạt được nhiều thành tựu mới..
* Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tháng 7-1953, Đại tướng H.Navarre (Hăngri Nava) đã vạch ra kế hoạch chính
trị-quân sự mới lấy tên là “Kế hoạch Nava”, kế hoạch này đã được Hội đồng
Quốc phòng Pháp nhanh chóng thông qua. Chi phí vật chất cho kế hoạch Nava
chủ yếu do Mỹ thực hiện. Kế hoạch Nava dự kiến thực hiện trong vòng 18 tháng
với 2 bước cơ bản nhằm “chuyển bại thành thắng”. Đây được coi là cố gắng cao
nhất và cuối cùng của Pháp và Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương. 19
Để đánh bại âm mưu và kế hoạch Nava, Đảng chủ trương mở cuộc tiến công
chiến lược Đông Xuân 1953 -1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhằm phát huy
sức mạnh của hậu phương, chi viện tiền tuyến, nhất là lực lượng nông dân, cho
cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Mọi nguồn nhân tài, vật lực, dân công tiếp tế, chi viện cho mặt trận Điện Biên
Phủ được tăng cường với hàng vạn ngày công, hàng vạn tấn lương.
=> Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ là chiến thắng của toàn dân tộc Việt
Nam, của lòng yêu nước sâu sắc, ý chí và khát vọng độc lập tự do của nhân dân
Việt Nam mà nòng cốt là lực lượng. Chiến dịch đánh dấu sự thất bại thảm hại
của chủ nghĩa thực dân Pháp, của quân đội Pháp và hệ thống nô dịch thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc, thực dân trong thế kỷ XX. Thắng lợi ở Điện Biên Phủ “là
cột mốc lịch sử bằng vàng”, là “thiên sử vàng của dân tộc Việt Nam”.
=> Một ngày sau khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về chấm
dứtchiến tranh họp ở Giơnevơ đã bắt đầu bàn về vấn đề ở Đông Dương. Cuối cùng, ngày 21-7-1954,
về Đông Dương được ký kết, kết
Hiệp định Giơ-ne-vơ
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm của nhân dân Việt Nam chống
thực dân Pháp xâm lược. Bản tuyên bố cuối cùng về lập lại hòa bình ở Đông
Dương được các nước tham dự hội nghị cam kết chính thức chấp nhận. Đại diện
chính phủ Mỹ ra tuyên bố riêng thừa nhận Hiệp định. Đây là văn bản pháp lý
quốc tế đầu tiên công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam,
Lào và Campuchia; đánh dấu kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược; mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam và mở đường
cho cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất hoàn toàn cho nhân dân ba nước Đông Dương sau này.
3.3. Đảng lãnh đạo xây dựng thành công Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc và
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975).
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam
bước vào thời kỳ mới với đặc điểm: đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền với
hai chế độ chính trị – xã hội đối lập nhau. Miền Bắc đã có hoà bình, dưới sự lãnh
đạo của Đảng đang bắt đầu xây dựng một xã hội mới. Miền Nam vẫn còn dưới
ách đô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế quốc.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-
1960.Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là
Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất
nước nhà”. Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp 20
hành Trung ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của
Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thông qua
Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và Lời kêu gọi của Đại hội.
Con đường phát triển của cách mạng nước ta lúc này được Đảng ta xác định là
phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng tiềm lực
đưa miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng
miền Nam, giữa vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ của toàn
bộ cách mạng Việt Nam và sự nghiệp thống nhất đất nước. Hai là, tiến hành
ở miền Nam, chống đế
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
3.3.1. Đảng lãnh đạo toàn thể nhân dân xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, xuất phát từ đặc điểm của miền
Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá
trình cải biến cách mạng về mọi mặt.
Từ những luận điểm đó, Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền
thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội
chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở
thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả
nước Việt Nam vừa phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã phát huy và kết hợp
được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh
của ba dòng thác cáchmạng trên thế giới
Trên cơ sở miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa
(1958-1960), Đại hội lần thứ ba của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch
năm năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất-kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, nhiệm vụ