Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay về vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay về vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Thông tin:
10 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay về vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa | Bài tập lớn môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam

Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay về vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa | Tiểu luận môn Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

32 16 lượt tải Tải xuống
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài
:
Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh
năm 1991 đến nay về vấn đề phát triển kinh tế thị trường
Họ và tên: Vũ Linh Anh
MSV: 11219531
Lớp học phần: LLLSD1102(122)CLC_22
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thắm
Hà Nội, Tháng 10 Năm 2022
lOMoARcPSD| 40551442
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................. 2
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 3
Phần 1: Cơ sở lý luận ..................................................................................................... 3
Việt Nam tháng 6 năm 1991 ......................................................................................... 3
1.2. Nội dung cơ bản của bản Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độlên
chủ nghĩa xã hội........................................................................................................... 4
1.2.1. Phương hướng cơ bản ...................................................................................... 4
1.2.2. Bài học kinh nghiệm ......................................................................................... 5
Phần 2: Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay về
vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời
kỳđổi mới ......................................................................................................................... 6
2.1. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa qua các kỳ đại hội trong 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 ................... 6
2.2. Những thành tựu to lớn của đất nước sau nhiều năm thực hiện đường lối đổimới
do Đảng khởi xướng và lãnh đạo ................................................................................ 8
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 9
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 10
1.1. Bối cảnh lịch sử Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản
LỜI MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Bằng việc
nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để vạch
ra đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đất nước
và xu thế thời đại, Đảng đã dẫn dắt nhân dân ta đạt được những thành công vĩ đại trong
hơn bảy thập kỷ. Trải qua 92 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã trải qua 12 kỳ đại hội đại biểu toàn quốc với muôn vàn khó khăn, thử thách,
đặt ra nhiều phương hướng, mục tiêu và các bài học kinh nghiệm được kế thừa từ các kỳ
đại hội trước phát huy, đổi mới sáng tạo cho các giai đoạn sau. Những chủ trương
đường lối đúng đắn của Đảng góp phần lớn trong việc phát triển mọi mặt đất nước từ
kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục…, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao vị thế của
Việt Nam trong khu vực và trên toàn thế giới. Chặng đường đổi mới và hội nhập quốc tế
của Việt Nam từ 1986 đến nay một quá trình đồng hành đầy ththách, khó khăn.
Những thành công đạt được ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực để Việt Nam bước
lOMoARcPSD| 40551442
vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn. Bước vào
thời kì mới, nhất là trong bối cảnh thế giới như hiện nay, Đảng ta cần có những thay đồi
phù hợp với tình hình, để lãnh đạo toàn dân, toàn Đảng giành được những thắng lợi mới
trong thời mở cửa hội nhập kinh tế thị trường. Đại hội VII của Đảng (tháng 6 năm
1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Đây là văn kiện quan trọng mang tầm định hướng
chiến lược, nền tảng tưởng luận để không ngừng bổ sung và hoàn chỉnh từng
bước cho bản Cương lĩnh bổ sung năm 2011 ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta, dân
tộc ta trong giai đoạn mới.
Với tính chất mang ý nghĩa lịch sử như trên, em quyết định lựa chọn đề tài: “Sự phát
triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay về vấn đề phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” để nghiên cứu. Nội dung đề tài sẽ thực hiện
phân tích nghiên cứu làm hai nội dung chính bao gồm nội dung, những phương
hướng bản bài học kinh nghiệm được nêu trong Cương lĩnh xác định quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay
về vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi
mới.
Việc nghiên cứu đề tài thúc đẩy sự tìm tòi, học hỏi và nâng cao khả năng tư duy của em
một sinh viên đang học môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng bởi kiến
thức còn nhiều hạn chế nên chắc chắn trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những
thiếu sót. Em mong giảng viên hướng dẫn và bạn đọc chú ý góp ý bổ sung để em
thể hoàn thiện n hiểu biết của bản thân để t kinh nghiệm cho những thiếu sót của
mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
Phần 1: Cơ sở lý luận
1.1. Bối cảnh lịch sử Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt
Nam tháng 6 năm 1991
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành trong
bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Đó là sự khủng hoảng
trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá nhiều phía
vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản, những âm mưu và
thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa hội hiện thực sự
hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên thế giới đã tác động
đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam.
lOMoARcPSD| 40551442
Đất nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch
ở cả trong và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sóng của nhân dân vẫn còn khó khăn,
đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới
được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã đạt được những thành
tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát triển.
1.2. Nội dung bản của bản Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Phương hướng cơ bản
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Cương lĩnh năm 1991 đã
nêu rõ những phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng Nhà nước hội chủ nghĩa, Nnước của nhân dân, do nhân dân,
nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân tầng lớp trí thức làm
nền tảng, do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, gi
nghiêm kỷ cương hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc
và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước
xây dựng sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa hội, không ngừng nâng cao năng
suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo
chế thị trường sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho
thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả
các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo
đức, thể lực thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với
phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu sự nghiệp dân giàu, ớc mạnh. Thực
hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước hội chủ nghĩa,
lOMoARcPSD| 40551442
với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội bảo vệ Tổ quốc hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta
luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ xây dựng xong về bản
những sở kinh tế của chủ nghĩa hội, với kiến trúc thượng tầng vchính trị tư
tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trthành một nước hội chủ nghĩa phồn vinh.
Quá độ lên chủ nghĩa hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường.
Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái
ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
1.2.2. Bài học kinh nghiệm
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây
dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu phương hướng hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng
đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải
tạo hội chủ nghĩa, xbỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; lúc đẩy mạnh quá
mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì qlâu chế quản kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương.
Công tác tưởng tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng. Từ thực tiễn
cách mạng với những thành công và khuyết điểm, sai lầm, Đại hội VII đã thể rút ra
những bài học lớn:
Một là, phải giữ vững định hướng hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự
kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy
cảm nắm bắt cái mới.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp. Đổi mới một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Ba là, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội.
Bốn là, tiếp tục phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ hội chủ nghĩa, nhưng để
phát huy dân chủ đúng hướng và đạt kết quả thì quá trình đó phải được lãnh đạo tốt,
bước đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị - xã hội nói chung.
lOMoARcPSD| 40551442
Năm là, phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện giải quyết đúng đắn những
vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới; tăng cường
tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Phần 2: Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay về vấn
đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi
mới
2.1. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
qua các kỳ đại hội trong 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991
Nhiều năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa hội theo phương hướng xã hội chủ nghĩa
hoá toàn bộ quan hệ sản xuất đã dẫn tới tình trạng sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế phát
triển chậm. Thực tiễn đó đã minh chứng một điều là cần phải mở ra một phương hướng
mới để đi lên chủ nghĩa hội. Từ Đại hội VI trở đi, Đảng đã đề ra chính sách kinh tế
nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả ng tiềm tàng của
đất nước sử dụng hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế, xác định nền kinh tế nước ta
một nền kinh tế cấu nhiều thành phần. 2 thành phần kinh tế lớn bao trùm đó là kinh
tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh khu vực tập thể, cùng với bộ phận
kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó; và các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế
tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân thể, những người buôn bán kinh
doanh dịch vụ thể); kinh tế bản nhân, kinh tế bản nhà nước dưới nhiều hình
thức, hình thức cao công hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một
bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng khác.
Đến Đại hội VII, trong Cương lĩnh năm 1991, Đại hội nêu rõ phương hướng: “Phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo
chế thị trường có sự quản lý của nhà ớc”. Trong đó, Đảng xác định rõ, kinh tế quốc
doanh kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Việc
thừa nhận nền kinh tế cấu nhiều thành phần thhiện sự nhận thức mới của Đảng ta về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vào tháng 6 năm 1996, tại Đại hội VIII, Đảng đưa
ra quan niệm mới, rất quan trọng về kinh tế hàng hóa chủ nghĩa xã hội: “Sản xuất
hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa hội, thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội
và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng” (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb.Chính trị Quốc Gia, Nội, 1996). Tuy nhiên, tại thời điểm đó, Đảng ta
vẫn quan điểm rằng việc vận dụng các hình thức kinh tế phương pháp quản nền
kinh tế thị trường chỉ để sử dụng những mặt tích cực nhằm phục vụ cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa hội, còn về bản chất kinh tế thị trường những mặt mâu thuẫn với
bản chất của chủ nghĩa hội. Sau đó, thuật ngữ xây dựng “nền kinh tế thị trường định
hướng hội chủ nghĩa” đã được Đảng sử dụng lần đầu tại Đại hội lần thứ IX (năm
2001), sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, coi đó hình tổng quát, đường
lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội. Việc
lOMoARcPSD| 40551442
đưa ra khái niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước
đột phá luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, xuất phát từ thực tiễn tình hình Việt
Nam tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Đây thành tựu luận quan
trọng sau một thời gian nhìn nhận thực tế, không ngừng tìm tòi, đề xuất sửa đổi và tổng
kết thực tiễn của Đảng, gắn bó giữa việc nhận thức quy luật khách quan với phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước nhân dân Việt Nam. Đến nay, đc trưng
của nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày
càng sâu sắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một hình thái kinh tế thị trường mới
trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường. Đây loại hình tổ chức kinh tế được hướng
dẫn điều hành theo quy luật của chế thị trường dựa trên những nguyên tắc
hội chủ nghĩa. Những đặc điểm thể hiện trên cả ba phương diện: sở hữu, tổ chức quản lý
và phân phối. Trong cơ chế này, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh,
quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện. Thị trường có
vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án
tổ chức sản xuất kinh doanh hiệu quả. Sự vận hành của chế thị trường chắc chắn
sẽ tác động rất lớn tới vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Để quản tốt
nền kinh tế đất nước, Nnước phải không ngừng đổi mới hoàn thiện các công cụ
quản lý vĩ mô sao cho lực lượng sản xuất có cơ hội phát huy hết khả năng của mình, tạo
ra nguồn của cải dồi dào cho đất nước. Nhận thức điều đó, tại Đại hội VII Đảng chủ
trương tiếp tục đổi mới, bổ sung và đồng bộ hoá hệ thống pháp luật; nâng cao chất lượng
kế hoạch hoá, lấy thị trường làm đối tượng căn cứ quan trọng nhất; xây dựng chính
sách tài chính quốc gia và thực hiện cải cách cơ bản tài chính Nhà nước,... Trong Đại hội
VII, Đảng chỉ rõ: “Nhà nước quản nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành
phần kinh tế, tạo môi trường điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
theo chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ xử các vi phạm pháp luật trong hoạt động
kinh tế, đảm bảo sự hài hoà giữa phát trển kinh tế phát triển hội” (Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, Nội, 1991). Một đặc trưng bản
của chủ nghĩa hội là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, Đảng ta đặc biệt coi
trọng sự phát triển của kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã nhằm củng cố phát triển
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Cho nên, mặc dù nền kinh tế nước ta có sự tham gia
của nhiều thành phần kinh tế khác nhau nhưng vẫn đảm bảo được sự phát triển của nền
kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế nước ta một nền kinh tế phát triển theo định hướng hội chủ nghĩa.
Chúng ta chấp nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vì mục tiêu con người, làm
cho đời sống người lao động ngày càng sung túc hơn, tiến bộ hơn.. Cho nên, trong quan
hệ phân phối, Đảng ta luôn chú trọng tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ
công bằng hội. Công bằng hội không chỉ động lực, còn mục tiêu của
tăng trưởng kinh tế. mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển
hội; mỗi chính sách hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi
lOMoARcPSD| 40551442
đôi với xóa đói giảm nghèo, chăm sóc những người công, những người không may
gặp khó khăn, nhỡ. Do vậy, chúng ta không thể chấp nhận tăng trưởng kinh tế bằng
mọi giá mà phải luôn gắn với một quan hệ phân phối đảm bảo sự công bằng giữa những
người lao động, phải m cho bản chất xã hội chủ nghĩa ngày càng sáng tỏ hơn. Điều này
được Đảng ta nhấn mạnh trong kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: “Nhà nước
ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy mặt tích
cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”
(Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Nội,
2003).
thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, hình kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp luận bản sâu sắc
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Những thành tựu to lớn của đất nước sau nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới
do Đảng khởi xướng và lãnh đạo
Trong những năm trước Đại hội VI, Đảng đã có những biện pháp nóng vội, muốn xoá bỏ
ngay các thành phần kinh tế phi hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế bản
nhân thành quốc doanh, xu hướng muốn tổ chức ngay c hợp tác quy lớn,
không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực cán bộ trước sự
phát triển của thực tiễn. Những sai lầm này sau đó đã được Đảng ta nhìn nhận rõ và tiếp
tục điều chỉnh, để từ đó làm tiền đề đổi mới cho những giai đoạn sau.
So với 5 năm đầu tiên thực hiện đường lối đổi mới, từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII nêu lên những phương hướng mới trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai đoạn 1991 – 1995 này Đảng Nhà nước ta đã
những đổi mới đi vào chiều sâu của quan hệ sản xuất. Nhờ đó, nền sản xuất nước ta
đã có một quan hệ sản xuất tương đối phù hợp, do đó lực lượng sản xuất được giải toả,
tháo gỡ khỏi nhiều lực cản để phát triển. Trong giai đoạn 1991 – 1995, nền kinh tế nước
ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren
trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm
trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991 1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy
lùi từ 774,7% năm 1986 còn 67,1% năm 1991, 12,7% năm 1995. Lương thực không
những đủ ăn mà còn xuất khẩu được 2 triệu tấn gạo mỗi năm. Nhiều ng trình thuộc kết
cấu hạ tầng và cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây dựng, tạo thêm sức mạnh vật chất
thế cân đối mới cho sự phát triển. Đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được
cải thiện. Trình độ dân tmức hưởng thụ n hoá của nhân dân khá hơn trước. Ổn
định chính trị hội được giữ vững. Nhiệm vụ đề ra cho 5 năm 1991 1995 đã hoàn
thành vềbản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế hội nghiêm trọng và kéo
dài hơn 15 năm. Các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao, liên tiếp trong 4
năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10
lOMoARcPSD| 40551442
nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất.
Đời sống nhân dân được cải thiện rệt cả về vật chất và tinh thần. Tính theo chuẩn
nghèo chung, tỷ lnghèo giảm mạnh thơn 70% năm 1990 xuống còn dưới 6% năm
2018; hơn 45 triệu người thoát nghèo trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2018.
Cơ chế thị trường có tác dụng như một guồng máy hoạt động của nền sản xuất và trong
lưu thông hàng hoá, tạo được mối liên kết chặt chẽ giữa sản xuất nông nghiệp với sản
xuất công nghiệp. Đồng thời nó cũng có tác dụng như là một công cụ, một phương thức
để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và mở ra cơ hội để tiếp xúc với bên ngoài… Cho nên, sự
tồn tại của chế thị trường yếu khách quan tất yếu đối với công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế chuyển sang chế thị trường đã thúc
đẩy kinh tế hàng hoá phát triển. Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường đang tạo nên những cơ sở vật chất quan trọng cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa hội nước ta. Do đó, thể coi kinh tế thị trường
một công cụ, một phương tiện để chúng ta đi lên chủ nghĩa hội. Tn cơ sở lãnh đạo
thực hiện công cuộc đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, Đảng ta lấy những phương hướng
được nêu trong Cương lĩnh năm 1991 làm nền tảng, chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. . Bước vào thời kì đổi mới (từ năm 1986),
Đảng ta đã đưa ra được một đường lối kinh tế đúng đắn, đường lối kinh tế đó vừa gắn
liền với những nguyên của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa sự phát triển sáng tạo, phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta. Nhờ có đường lối kinh tế đúng đắn đó đất nước ta
đã đạt được những thành tựu quan trọng: đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế hội, tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao, tình hình chính trị xã hội ổn định,
quốc phòng an ninh vững chắc, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, vị thế
đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế,... Những thành tựu đó chính
cơ sở để khẳng định đường lối kinh tế đúng đắn của đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
KẾT LUẬN
Mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là không thay đổi, nhưng y thời điểm lịch
sử khác nhau Chủ nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội đặc trưng
mục tiêu, cách nhận thức khác nhau, bằng những con đường, cách thức, bước đi khác
nhau. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã rút ra
những bài học kinh nghiệm lãnh đạo snghiệp cách mạng của Đảng. Trong quá trình
thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta không những cụ thể hóa mà còn bổ sung, phát
triển nhiều vấn đề bản về Đảng và đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, trải qua 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đất nước ta
đã đạt được những bước tiến quan trọng và về lý luận và thực tiễn. Đảng ta nhận thấy rõ
chế độ công hữu về liệu sản xuất chủ yếu sản phẩm của nền kinh tế phát triển với
trình độ hội hoá cao các lực lượng sản xuất hiện đại, từng bước được xác lập sẽ
chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng về cơ bản. Điều đó lý giải tại
lOMoARcPSD| 40551442
sao Đảng và nhà ớc ta chủ trương thực hiện lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng hội chủ nghĩa. thể thấy, luận về đường lối đổi mới, về chủ
nghĩa hội con đường đi lên chủ nghĩa hội của Việt Nam ngày càng được hoàn
thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Cụ thể,
về lĩnh vực kinh tế, quy mô, trình độ nền kinh tế cơ bản phục hồi nhanh chóng sau khủng
hoảng và có cải thiện tốc độ tăng trưởng rõ rệt. Những thành tựu của công cuộc đổi mới,
xây dựng bảo vệ Tổ quốc hội chủ nghĩa gần 30 năm qua đã chứng minh cho s
đúng đắn của Cương lĩnh năm 1991 và những bổ sung, phát triển của Đảng ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1987
2. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1991
3. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần th VIII, Nxb.Chính trị Quốc Gia,
Nội,1996
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trQuốc Gia, Nội,2003
5. Đảng Công sản Việ t Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lê chủ nghĩa xã hôi (năm 1991) – Nxb ST, H.1991
6. Đảng Công sản Việ t Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lê chủ nghĩa xã hôi (bổ sung, phát triển năm 2011)
7. Hồng Phúc: “Những thành tựu về kinh tế - hội qua 20 năm đổi mới (1986
2005)”, in trong sách: Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2006
| 1/10

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài : Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh
năm 1991 đến nay về vấn đề phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa Họ và tên: Vũ Linh Anh MSV: 11219531
Lớp học phần: LLLSD1102(122)CLC_22
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thắm
Hà Nội, Tháng 10 Năm 2022 lOMoAR cPSD| 40551442 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................. 2
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 3
Phần 1: Cơ sở lý luận ..................................................................................................... 3
Việt Nam tháng 6 năm 1991 ......................................................................................... 3
1.2. Nội dung cơ bản của bản Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độlên
chủ nghĩa xã hội........................................................................................................... 4
1.2.1. Phương hướng cơ bản ...................................................................................... 4
1.2.2. Bài học kinh nghiệm ......................................................................................... 5
Phần 2: Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay về
vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời
kỳđổi mới
......................................................................................................................... 6
2.1. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa qua các kỳ đại hội trong 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 ................... 6
2.2. Những thành tựu to lớn của đất nước sau nhiều năm thực hiện đường lối đổimới
do Đảng khởi xướng và lãnh đạo ................................................................................ 8
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 9
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 10
1.1. Bối cảnh lịch sử Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản LỜI MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Bằng việc
nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để vạch
ra đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đất nước
và xu thế thời đại, Đảng đã dẫn dắt nhân dân ta đạt được những thành công vĩ đại trong
hơn bảy thập kỷ. Trải qua 92 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã trải qua 12 kỳ đại hội đại biểu toàn quốc với muôn vàn khó khăn, thử thách,
đặt ra nhiều phương hướng, mục tiêu và các bài học kinh nghiệm được kế thừa từ các kỳ
đại hội trước và phát huy, đổi mới sáng tạo cho các giai đoạn sau. Những chủ trương
đường lối đúng đắn của Đảng góp phần lớn trong việc phát triển mọi mặt đất nước từ
kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục…, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao vị thế của
Việt Nam trong khu vực và trên toàn thế giới. Chặng đường đổi mới và hội nhập quốc tế
của Việt Nam từ 1986 đến nay là một quá trình đồng hành đầy thử thách, khó khăn.
Những thành công đạt được có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực để Việt Nam bước lOMoAR cPSD| 40551442
vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn. Bước vào
thời kì mới, nhất là trong bối cảnh thế giới như hiện nay, Đảng ta cần có những thay đồi
phù hợp với tình hình, để lãnh đạo toàn dân, toàn Đảng giành được những thắng lợi mới
trong thời kì mở cửa hội nhập kinh tế thị trường. Đại hội VII của Đảng (tháng 6 năm
1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Đây là văn kiện quan trọng mang tầm định hướng
chiến lược, là nền tảng tư tưởng lý luận để không ngừng bổ sung và hoàn chỉnh từng
bước cho bản Cương lĩnh bổ sung năm 2011 và là ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta, dân
tộc ta trong giai đoạn mới.
Với tính chất mang ý nghĩa lịch sử như trên, em quyết định lựa chọn đề tài: “Sự phát
triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay về vấn đề phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
để nghiên cứu. Nội dung đề tài sẽ thực hiện
phân tích và nghiên cứu làm rõ hai nội dung chính bao gồm nội dung, những phương
hướng cơ bản và bài học kinh nghiệm được nêu trong Cương lĩnh xác định quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay
về vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới.
Việc nghiên cứu đề tài thúc đẩy sự tìm tòi, học hỏi và nâng cao khả năng tư duy của em
– một sinh viên đang học môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng bởi kiến
thức còn nhiều hạn chế nên chắc chắn trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những
thiếu sót. Em mong giảng viên hướng dẫn và bạn đọc chú ý và góp ý bổ sung để em có
thể hoàn thiện hơn hiểu biết của bản thân để rút kinh nghiệm cho những thiếu sót của mình.
Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG
Phần 1: Cơ sở lý luận
1.1. Bối cảnh lịch sử Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 6 năm 1991
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành trong
bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Đó là sự khủng hoảng
trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống phá nhiều phía
vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản, những âm mưu và
thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự
hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên thế giới đã tác động
đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam. lOMoAR cPSD| 40551442
Đất nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch
ở cả trong và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sóng của nhân dân vẫn còn khó khăn,
đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới
được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã đạt được những thành
tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát triển.
1.2. Nội dung cơ bản của bản Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Phương hướng cơ bản
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Cương lĩnh năm 1991 đã
nêu rõ những phương hướng cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ
nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng
suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối,
lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho
thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả
các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội
dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo
đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với
phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực
hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, lOMoAR cPSD| 40551442
với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta
luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng.
Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản
những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư
tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường.
Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái
ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
1.2.2. Bài học kinh nghiệm
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây
dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng
đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải
tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá
mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương.
Công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng. Từ thực tiễn
cách mạng với những thành công và khuyết điểm, sai lầm, Đại hội VII đã có thể rút ra những bài học lớn:
Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự
kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp. Đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ba là, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội.
Bốn là, tiếp tục phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng để
phát huy dân chủ đúng hướng và đạt kết quả thì quá trình đó phải được lãnh đạo tốt, có
bước đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị - xã hội nói chung. lOMoAR cPSD| 40551442
Năm là, phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết đúng đắn những
vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới; tăng cường
tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Phần 2: Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay về vấn
đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới
2.1. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
qua các kỳ đại hội trong 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991
Nhiều năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương hướng xã hội chủ nghĩa
hoá toàn bộ quan hệ sản xuất đã dẫn tới tình trạng sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế phát
triển chậm. Thực tiễn đó đã minh chứng một điều là cần phải mở ra một phương hướng
mới để đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ Đại hội VI trở đi, Đảng đã đề ra chính sách kinh tế
nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của
đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế, xác định rõ nền kinh tế nước ta là
một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần. 2 thành phần kinh tế lớn bao trùm đó là kinh
tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ phận
kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó; và các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế
tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh
doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình
thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một
bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng khác.
Đến Đại hội VII, trong Cương lĩnh năm 1991, Đại hội nêu rõ phương hướng: “Phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Trong đó, Đảng xác định rõ, kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Việc
thừa nhận nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần thể hiện sự nhận thức mới của Đảng ta về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vào tháng 6 năm 1996, tại Đại hội VIII, Đảng đưa
ra quan niệm mới, rất quan trọng về kinh tế hàng hóa và chủ nghĩa xã hội: “Sản xuất
hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn
minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng” (Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb.Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 1996). Tuy nhiên, tại thời điểm đó, Đảng ta
vẫn quan điểm rằng việc vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý nền
kinh tế thị trường chỉ để sử dụng những mặt tích cực nhằm phục vụ cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, còn về bản chất kinh tế thị trường có những mặt mâu thuẫn với
bản chất của chủ nghĩa xã hội. Sau đó, thuật ngữ xây dựng “nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” đã được Đảng sử dụng lần đầu tại Đại hội lần thứ IX (năm
2001), sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, coi đó là mô hình tổng quát, là đường
lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc lOMoAR cPSD| 40551442
đưa ra khái niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước
đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, xuất phát từ thực tiễn tình hình Việt
Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Đây là thành tựu lý luận quan
trọng sau một thời gian nhìn nhận thực tế, không ngừng tìm tòi, đề xuất sửa đổi và tổng
kết thực tiễn của Đảng, gắn bó giữa việc nhận thức quy luật khách quan với phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Đến nay, đặc trưng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định ngày càng sâu sắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một hình thái kinh tế thị trường mới
trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường. Đây là loại hình tổ chức kinh tế được hướng
dẫn và điều hành theo quy luật của cơ chế thị trường và dựa trên những nguyên tắc xã
hội chủ nghĩa. Những đặc điểm thể hiện trên cả ba phương diện: sở hữu, tổ chức quản lý
và phân phối. Trong cơ chế này, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh,
quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện. Thị trường có
vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án
tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Sự vận hành của cơ chế thị trường chắc chắn
sẽ tác động rất lớn tới vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Để quản lý tốt
nền kinh tế đất nước, Nhà nước phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện các công cụ
quản lý vĩ mô sao cho lực lượng sản xuất có cơ hội phát huy hết khả năng của mình, tạo
ra nguồn của cải dồi dào cho đất nước. Nhận thức rõ điều đó, tại Đại hội VII Đảng chủ
trương tiếp tục đổi mới, bổ sung và đồng bộ hoá hệ thống pháp luật; nâng cao chất lượng
kế hoạch hoá, lấy thị trường làm đối tượng và căn cứ quan trọng nhất; xây dựng chính
sách tài chính quốc gia và thực hiện cải cách cơ bản tài chính Nhà nước,... Trong Đại hội
VII, Đảng chỉ rõ: “Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành
phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động
kinh tế, đảm bảo sự hài hoà giữa phát trển kinh tế và phát triển xã hội” (Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1991). Một đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa xã hội là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, Đảng ta đặc biệt coi
trọng sự phát triển của kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã nhằm củng cố và phát triển
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Cho nên, mặc dù nền kinh tế nước ta có sự tham gia
của nhiều thành phần kinh tế khác nhau nhưng vẫn đảm bảo được sự phát triển của nền
kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chấp nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là vì mục tiêu con người, làm
cho đời sống người lao động ngày càng sung túc hơn, tiến bộ hơn.. Cho nên, trong quan
hệ phân phối, Đảng ta luôn chú trọng tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội. Công bằng xã hội không chỉ là động lực, mà còn là mục tiêu của
tăng trưởng kinh tế. mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã
hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dù
trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi lOMoAR cPSD| 40551442
đôi với xóa đói giảm nghèo, chăm sóc những người có công, những người không may
gặp khó khăn, cơ nhỡ. Do vậy, chúng ta không thể chấp nhận tăng trưởng kinh tế bằng
mọi giá mà phải luôn gắn với một quan hệ phân phối đảm bảo sự công bằng giữa những
người lao động, phải làm cho bản chất xã hội chủ nghĩa ngày càng sáng tỏ hơn. Điều này
được Đảng ta nhấn mạnh rõ trong kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: “Nhà nước
ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy mặt tích
cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”
(Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2003).
Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Những thành tựu to lớn của đất nước sau nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới
do Đảng khởi xướng và lãnh đạo
Trong những năm trước Đại hội VI, Đảng đã có những biện pháp nóng vội, muốn xoá bỏ
ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư
nhân thành quốc doanh, có xu hướng muốn tổ chức ngay các hợp tác xã quy mô lớn,
không tính đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực cán bộ trước sự
phát triển của thực tiễn. Những sai lầm này sau đó đã được Đảng ta nhìn nhận rõ và tiếp
tục điều chỉnh, để từ đó làm tiền đề đổi mới cho những giai đoạn sau.
So với 5 năm đầu tiên thực hiện đường lối đổi mới, từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII nêu lên những phương hướng mới trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai đoạn 1991 – 1995 này Đảng và Nhà nước ta đã
có những đổi mới đi vào chiều sâu của quan hệ sản xuất. Nhờ đó, nền sản xuất nước ta
đã có một quan hệ sản xuất tương đối phù hợp, do đó lực lượng sản xuất được giải toả,
tháo gỡ khỏi nhiều lực cản để phát triển. Trong giai đoạn 1991 – 1995, nền kinh tế nước
ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren
trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm
trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991 – 1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy
lùi từ 774,7% năm 1986 còn 67,1% năm 1991, 12,7% năm 1995. Lương thực không
những đủ ăn mà còn xuất khẩu được 2 triệu tấn gạo mỗi năm. Nhiều công trình thuộc kết
cấu hạ tầng và cơ sở công nghiệp trọng yếu được xây dựng, tạo thêm sức mạnh vật chất
và thế cân đối mới cho sự phát triển. Đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được
cải thiện. Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân khá hơn trước. Ổn
định chính trị – xã hội được giữ vững. Nhiệm vụ đề ra cho 5 năm 1991 – 1995 đã hoàn
thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng và kéo
dài hơn 15 năm. Các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao, liên tiếp trong 4
năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10 lOMoAR cPSD| 40551442
nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất.
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Tính theo chuẩn
nghèo chung, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% năm 1990 xuống còn dưới 6% năm
2018; hơn 45 triệu người thoát nghèo trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2018.
Cơ chế thị trường có tác dụng như một guồng máy hoạt động của nền sản xuất và trong
lưu thông hàng hoá, nó tạo được mối liên kết chặt chẽ giữa sản xuất nông nghiệp với sản
xuất công nghiệp. Đồng thời nó cũng có tác dụng như là một công cụ, một phương thức
để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và mở ra cơ hội để tiếp xúc với bên ngoài… Cho nên, sự
tồn tại của cơ chế thị trường là yếu khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường đã thúc
đẩy kinh tế hàng hoá phát triển. Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường đang tạo nên những cơ sở vật chất quan trọng cho
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, có thể coi kinh tế thị trường là
một công cụ, một phương tiện để chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở lãnh đạo
thực hiện công cuộc đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, Đảng ta lấy những phương hướng
được nêu trong Cương lĩnh năm 1991 làm nền tảng, chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. . Bước vào thời kì đổi mới (từ năm 1986),
Đảng ta đã đưa ra được một đường lối kinh tế đúng đắn, đường lối kinh tế đó vừa gắn
liền với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa có sự phát triển sáng tạo, phù
hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta. Nhờ có đường lối kinh tế đúng đắn đó đất nước ta
đã đạt được những thành tựu quan trọng: đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao, tình hình chính trị xã hội ổn định,
quốc phòng an ninh vững chắc, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, vị thế
đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế,... Những thành tựu đó chính là
cơ sở để khẳng định đường lối kinh tế đúng đắn của đảng ta trong giai đoạn hiện nay. KẾT LUẬN
Mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là không thay đổi, nhưng tùy thời điểm lịch
sử khác nhau mà Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa hội có đặc trưng và
mục tiêu, cách nhận thức khác nhau, bằng những con đường, cách thức, bước đi khác
nhau. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã rút ra
những bài học kinh nghiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trong quá trình
thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta không những cụ thể hóa mà còn bổ sung, phát
triển nhiều vấn đề cơ bản về Đảng và đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, trải qua 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đất nước ta
đã đạt được những bước tiến quan trọng và về lý luận và thực tiễn. Đảng ta nhận thấy rõ
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là sản phẩm của nền kinh tế phát triển với
trình độ xã hội hoá cao các lực lượng sản xuất hiện đại, từng bước được xác lập và sẽ
chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng về cơ bản. Điều đó lý giải tại lOMoAR cPSD| 40551442
sao Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng được hoàn
thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Cụ thể,
về lĩnh vực kinh tế, quy mô, trình độ nền kinh tế cơ bản phục hồi nhanh chóng sau khủng
hoảng và có cải thiện tốc độ tăng trưởng rõ rệt. Những thành tựu của công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa gần 30 năm qua đã chứng minh cho sự
đúng đắn của Cương lĩnh năm 1991 và những bổ sung, phát triển của Đảng ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1987
2. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1991
3. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị Quốc Gia, Hà Nội,1996
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc Gia, Hà Nội,2003
5. Đảng Công sản Việ t Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lêṇ chủ nghĩa xã hôi (năm 1991) – Nxb ST, H.1991̣
6. Đảng Công sản Việ t Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lêṇ chủ nghĩa xã hôi (bổ sung, phát triển năm 2011)̣
7. Võ Hồng Phúc: “Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới (1986
2005)”, in trong sách: Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006