






Preview text:
lOMoAR cPSD| 59691467
1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là gì? Học thuyết hình thái kinh tế
xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội
của triết học Mác-Lênin, là một trong ba bộ phận hợp thành triết học Mác. Chủ
nghĩa duy vật lịch sử lý giải sự tiến hóa của xã hội loài người bằng sự phát triển
của trình độ sản xuất. Cụ thể thì trình độ sản xuất thay đổi khiến quan hệ sản
xuất thay đổi, sự thay đổi quan hệ sản xuất lại dẫn đến những mối quan hệ xã hội
thích ứng với những quan hệ sản xuất đó thay đổi. Ngoài ra, những tư tưởng nảy
sinh ra từ những quan hệ xã hội đó cũng thay đổi kéo theo sự thay đổi hệ thống
pháp lý và chính trị. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác trở thành phương pháp
luận của nhiều nhà nghiên cứu trong các bộ môn như sử học, xã hội học,…
Học thuyết hình thái – kinh tế xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, vạch ra những quy luật cơ bản của sự vận động phát triển xã hội,
là phương pháp luận khoa học để nhận thức, cải tạo xã hội. Ngày nay, thế giới
đang có những biến đổi to lớn, sâu sắc nhưng lý luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn
giữ nguyên giá trị khoa học và thời đại. Đây là cơ sở thế giới quan, phương pháp
luận khoa học chỉ đạo cho các chính đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa vận dụng
sáng tạo trong xác định cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng
chủ nghĩa xã hội; là cơ sở khoa học của việc xác định con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin bao gồm một hệ
thống các quan điểm cơ bản:
- Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự vận động, phát triển của xã hội.
- Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
- Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
2. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành sản xuất. Đó là hoạt động đặc
trưng riêng của con người và xã hội loài người.
- Sản xuất là hoạt động không ngững sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh
thần nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Ở thế giới loài vật không có hoạt động sản xuất. Có thể nói, điểm khác biệt
căn bản giữa xã hội loài người với thể giới đông vật là ở chỗ: Con người
lao động sản xuất còn loài vật thì không.
Sự sản xuất xã hội bao gồm 3 phương diện không tách rời nhau là sản xuất
vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người.
- Sản xuất vật chất là quá trình mà trong đó con người sử dụng công cụ
lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng
vật chất của giới tự nhiên để tạo ra của cải xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu
tồn tại và phát triển của con người. lOMoAR cPSD| 59691467
- Vai trò của sản xuất vật chất :
+Sản xuât vật chất là tiền đề trực tiếp tạo ra tư liệu sinh hoạt của con người
. Duy trì sự tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể người nói riêng
+Sản xuất vật chất là tiền đề của mọi hoạt động lịch sử của con người
+Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người
=>Xét đến cùng, sản xuất vật chất quyết định toàn bộ sự vận động, phát
triển của đời sống xã hội, để phát triển xã hội phải bắt đầu từ phát triển đời
sống kinh tế - vật chất.
3. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản
xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
- Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình
độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
a/ Lực lượng sản xuất.
-Lực lượng sản xuất: là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất,
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất
của giới tự nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
-Người lao động: Là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và
năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao
động là chủ thể sáng tọa, đồng thời là chủ thê tiêu dùng mọi của cải vật chât của xã hội.
-Tư liệu sản xuất: là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm
tư liệu lao động và đối tượng lao động
+Đôi tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dùng
tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích
sử dụng của con người.
+Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa vào
đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động thành
sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người
-Phương tiện lao động: Là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công
cụ lao động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong
quá trình sản xuất vật chất
+Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử
dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng, tạo ra của cải
vật chất phục vụ nhu cầu của con người và xã hội b/ Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với
người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất thể hiện trong 3 khía cạnh: Quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ giữa người với người trong tổ chức
quản lý sản xuất, quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm. lOMoAR cPSD| 59691467
c/ Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất thể hiện ở 3 khía cạnh: Lực lượng
sản xuất nào quan hệ sản xuất đó, khi lực lượng sản xuất thay đổi thì quan hệ sản
xuất cũng thay đổi, nội dung quan hệ sản xuất do lực lượng sản xuất quyết định.
Quan hệ sản xuất lại tác động ngược lại lực lượng sản xuất theo 2 chiều hướng:
Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ tạo đà phát triển cho
LLSX, ngược lại nếu QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì
sẽ cản trở LLSX phát triển. Để xét sự phù hợp giữa QHSX và LLSX ta xét các khía cạnh sau:
_Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành LLSX.
_Sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành QHSX.
_Sự kết hợp đúng đắn giữa LLSX với QHSX.
_Tạo điều kiện tối ưu sử dụng và kết hợp giữa lao động và TLSX.
_Tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ
thành quả thành quả vật chất, tinh thần của lao động.
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX là quy luật quyết định sự vận
động, phát triển nội tại của bản thân PTSX và là quy luật phổ biến tác động tới
toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
4. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
a/ Cơ sở hạ tầng: Là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận
động hiện thực của chúng, hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Cấu trúc CSHT
bao gồm: QHSX tàn dư là QHSX của xã hội cũ, QHSX thống trị giữ vai trò chủ
đạo quyết định xu hướng chung của CSHT, QHSX mầm mống là QHSX của xã hội tương lai.
b/ Kiến trúc thượng tầng: Là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những
thiết chế xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành
trên một cơ sở hạ tầng nhất định. c/ Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng được thể hiện
rất rõ, chúng tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Cụ thể như sau:
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng:
- Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị
thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan
hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu
thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
- Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà lOMoAR cPSD| 59691467
nước, pháp luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải thích
từ chính nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng
và do cơ sở hạ tầng quyết định.
- Những biến đổi cơ bản trong cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng
tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ
sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế
thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội.
Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh
vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện
những đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng
tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,… đều trực tiếp hay gián tiếp
phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
- Khi cơ sở hạ tầng thay đổi kéo theo kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá
trình thay đổi diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã
hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra trong bản thân mỗi
hình thái kinh tế - xã hội. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc
thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có những yếu tố của kiến trúc thượng
tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật,...
Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
- Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ
tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều.
Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan
thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại,
nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
- Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan
trọng, có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ
tư tưởng mà còn dựa vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh
kinh tế của giai cấp thống trị. Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà
nước) cũng là một lực lượng kinh tế”. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng
như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng,
nhưng thường thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.
5. Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên.
5.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng
sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên quần hệ lOMoAR cPSD| 59691467
sản xuất đặc trưng ấy.
Phạm trù hình thái kinh tế xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất(cơ sở hạ tầng), kiến trúc thượng tầng.
- Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân
biệt các thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động,
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phố và quyết định mọi quan
hệ xã hội, đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất bản chất
các chế độ xã hội khác nhau.
- Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh
vực tình thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội.
5.2. Tiến trình lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người.
Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội: Cộng sản
nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hiện tại là đang
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển này là 1 quá trình lịch sử tự nhiên do các lý do sau:
_Sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan
_Nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển của xã hội đều có nguyên nhân
trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của LLSX xã hội.
_Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội còn chịu sự tác động của
các nhân tố chủ quan khác nên xu hướng chung của các HTKT – XH là sự phát
triển từ thấp lên cao. Nhưng sự phát triển đó được diễn ra bằng nhiều cách.
_Điều kiện lịch sử của mỗi quốc gia khác nhau (nhân tố khách quan và chủ quan)
6. Sự vận dụng của Đảng về học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội ở Việt Nam hiện nay.
6.1. Các nội dung đã áp dụng
a. Lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Theo Ăngghen, các nước lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi lên chủ nghĩa
xã bằng những con đường phát triển bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Muốn làm được
điều đó thì cách mạng vô sản phải thành công, nhân dân lao động dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản đã tiến hành cách mạng giành được chính quyền từ tay
giai cấp thống trị và các nước đó đã giành được sự giúp đỡ từ các nước phương
Tây. Hơn thế nữa, lý luận của chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế - xã hội đã khẳng
định: các quốc gia, dân tộc có thể phát triển tuần tự theo những bước quá độ của
các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ cộng sản nguyên thủy đến cộng sản lOMoAR cPSD| 59691467
chủ nghĩa, song căn cứ vào điều kiện lịch sự cụ thể mà các quốc gia có thể bỏ qua
một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội.
Theo Lênin, có 2 hình thức quá độ; quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Lê-nin
cho rằng những nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển thì có thể đi lên chủ nghĩa
xã hội bằng quá độ trực tiếp. Ngược lại, những nước lạc hậu có thể đi lên chủ
nghĩa xã hội bằng quá độ gián tiếp. Thực chất đó là sự bỏ qua TBCN tiến thẳng lên con đường XHCN.
Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc cách mạng XHCN,
xây dựng chủ nghĩa, bỏ qua chủ nghĩa tư bản dựa trên 2 căn cứ sau đây:
- Một là, chỉ có CHXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi
áp bức, bóc lột bất công, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
- Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng Nga năm 1971 đã mở ra một thời đại
mới, tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường CNXH.
Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của
XHCN, không mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội củ chủ nghĩa Mác Lê-nin.
Trong điều kiện cụ thể sự lựa chọn ấy chính là sự lựa chọn con đường rút ngắn
bỏ qua chế độ TBCN. Con đường CNXH cho phép chúng ta có thể phát triển
nhanh lực lượng sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu quả
các vấn đề xã hội phát triển xã hội theo chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho
xã hội và nhân dân lao động phải trả giá cho các vấn đề của xã hội tư bản mà trước
hết là chế độ người bóc lột người, là quan hệ bất bình đẳng người với người… b/
Hướng đi xây dựng xã hội.
Xã hội mà nhân dân ta quyết tâm xây dựng là một xã hội của dân, do dân, vì dân,
có một nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất tiến bộ và chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được
giải phóng, hưởng cuộc sống hạnh phúc, phát triển về mọi mặt, các dân tộc anh
em chung sống hòa bình, đoàn kết và hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước
trên thế giới. Đây là chính là nội dung “sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và
phát triển của xã hội” và “vai trò quyết đinh của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) của Đảng ta đã khẳng định:
“Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Mục
tiêu đó chính là sự cụ thể hóa từ nội dung “biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng của xã hội”. 6.2. Các thành tựu đạt được lOMoAR cPSD| 59691467
Nếu như giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân
hàng năm chỉ đạt 4,4% thì đến năm 2019 con số này đã đạt 7,02%, quy mô nền
kinh tế đạt hơn 262 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đã đạt đến gần 2800 USD.
Danh sách Forbes Asia 2019 công bố, trong 200 công ty có doanh thu trên 1 tỷ
USD tốt nhất tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, có đến 7 doanh nghiệp Việt
Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn đứng thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới
để đầu tư năm 2019, tăng 15 bậc so với năm 2018.
Thống kê từ Bộ Công thương cho thấy, tính đến năm 2019, Việt Nam đã có quan
hệ chính thức với 189/193 quốc gia của Liên Hợp Quốc, có quan hệ kinh tế -
thương mại và đầu tư với trên 224 quốc gia và vùng lãnh thổ, có 16 đối tác chiến
lược, 11 đối tác chiến lược toàn diện; 71 nước đã công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường.
Việt Nam đã tham gia thiết lập 1 nền kinh tế thị trường đầy đủ, minh bạch và hiện
đại, đáp ứng yêu cầu của hội nhập; xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện
thuận lợi, phát huy hơn nữa vai trò của địa phương, doanh nghiệp trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế cũng đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng trong
mạng lưới liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu thế giới.