





Preview text:
  lOMoAR cPSD| 60797905 I. LÝ LUẬN 
 1.2 Nội dung cơ bản của Cách mạng Công nghiệp 4.0  
Thuật ngữ "Cách mạng công nghiệp lần thứ tư" đã được áp dụng cho sự phát triển công nghệ quan trọng 
một vài lần trong 75 năm qua, và là để thảo luận về học thuật. Khái niệm Công nghiệp 4.0 hay nhà máy 
thông minh lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ công nghiệp Hannover tại Cộng hòa Liên bang Đức vào 
năm 2011. Công nghiệp 4.0 nhằm thông minh hóa quá trình sản xuất và quản lý trong ngành công nghiệp 
chế tạo. Sự ra đời của Công nghiệp 4.0 tại Đức đã thúc đẩy các nước tiên tiến khác như Mỹ, Nhật, Trung 
Quốc, Ấn Độ thúc đẩy phát triển các chương trình tương tự nhằm duy trì lợi thế cạnh tranh của mình. 
Năm 2013, một từ khóa mới là "Công nghiệp 4.0" (Industrie 4.0) bắt đầu nổi lên xuất phát từ một báo cáo 
của chính phủ Đức đề cập đến cụm từ này nhằm nói tới chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành 
sản xuất mà không cần sự tham gia của con người. 
Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) lần thứ 46 đã chính thức khai mạc tại thành phố 
Davos-Klosters của Thụy Sĩ, với chủ đề “Cuộc CMCN lần thứ 4”, Chủ tịch Diễn đàn 
Kinh tế Thế giới đã đưa ra một định nghĩa mới, mở rộng hơn khái niệm Công nghiệp 4.0 của Đức. Nhân 
loại đang đứng trước một cuộc cách mạng công nghiệp mới, có thể thay đổi hoàn toàn cách chúng ta sống, 
làm việc và quan hệ với nhau. Quy mô, phạm vi và sự phức tạp của lần chuyển đổi này không giống như 
bất kỳ điều gì mà loài người đã từng trải qua. 
Cụ thể, đây là “một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng 
với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS). 
Hiện nay, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi khuôn khổ dự án của Đức với sự tham gia của nhiều nước và 
trở thành một phần quan trọng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 
Bản chất của CMCN lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông 
minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động 
lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người  máy,... 
Cuộc CMCN thứ 4 hay Công nghiệp 4.0, là xu hướng hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công 
nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet kết nối vạn vật và điện toán đám mây. 
Cuộc CMCN lần thứ 4 không chỉ là về các máy móc, hệ thống thông minh và được kết nối, mà còn có phạm 
vi rộng lớn hơn nhiều. Đồng thời là các làn sóng của những đột phá xa hơn trong các lĩnh vực khác nhau 
từ mã hóa chuỗi gen cho tới công nghệ nano, từ các năng lượng tái tạo tới tính toán lượng tử. 
Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các "nhà máy thông minh" hay “nhà máy số”. Trong 
các nhà máy thông minh này, các hệ thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một 
bản sao ảo của thế giới vật lý. Với IoT, các hệ thống vật lý không gian ảo này tương tác với nhau và với con 
người theo thời gian thực, và thông qua IoS thì người dùng sẽ được tham gia vào chuỗi giá trị thông qua 
việc sử dụng các dịch vụ này. 
1.2. Kinh tế thị trường    lOMoAR cPSD| 60797905
Kinh tế thị trường nói chung là những hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, một hình thức mà ở 
đó hầu hết các quan hệ kinh tế trên diễn ra trên thị trường, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế vốn  có của nó. 
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, diễn ra trong môi trường cạnh 
tranh và lấy lợi nhuận làm động lực thúc đẩy.  Đặc trưng:  • 
KTTT đòi hỏi sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, các chủ thể KT bình đẳng  trước PL  • 
Thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực xã hội  • 
Cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực thúc đẩy KTTT phát triển  • 
Động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi ích kinh tế - xã hội  • 
Nhà nước là chủ thể thực hiện quản lý nhà nước, khắc phục khuyết tật của TT Ưu thế của nền 
kinh tế thị trường:   • 
KTTT luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự hình thành ý tưởng mới của các chủ thể kinh tế  • 
KTTT luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể, các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia  • 
KTTT luôn tạo ra phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người thúc đẩy tiến bộ, văn  minh xã hội 
Khuyết tật của KTTT  • 
Không đảm bảo cung ứng được một số hàng hóa dịch vụ công cộng  • 
Khai thác cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường  • 
Phân hóa giàu nghèo, chênh lệch thu nhập, phân cực của cải  • 
KTTT phát triển có thể dẫn tới độc quyền  • 
Tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng có tính chu kỳ và thất nghiệp 
3. Nền kinh tế thị trường tại Nước Ta hiện nay 
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là một nội dung trọng tâm, được khẳng định một cách nhất quán, 
xuyên suốt, rõ ràng về mặt lý luận và thực tiễn xây dựng, vận hành. Đặc trưng cơ bản của nền KTTT ở Việt 
Nam phát triển vì mục tiêu phát triển con người, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, 
văn minh”, một thuộc tính quan trọng của định hướng XHCN trong KTTT ở Việt Nam; gắn kinh tế với xã 
hội, đảm bảo sự phát triển của xã hội, vì mục tiêu phát triển con người. Điều đó thể hiện bản chất tốt đẹp, 
tính nhân văn của chế độ xã hội; thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế 
đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình 
phát triển. Mỗi chính sách kinh tế được xây dựng, thực hiện đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã 
hội, mỗi chính sách xã hội nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, khuyến khích làm giàu hợp    lOMoAR cPSD| 60797905
pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn 
cảnh khó khăn, yếu thế. 
Từ thực tiễn phát triển đất nước những năm qua đã chứng minh rằng, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt 
Nam đã hội đủ các yếu tố của nền KTTT hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, như đa dạng các hình thức 
sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà pháp luật 
không cấm, các chủ thể kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày càng 
đồng bộ; vai trò của Nhà nước về quản lý kinh tế đã được đổi mới, như quản lý bằng luật pháp, chính sách, 
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh tế của Nhà nước, không can thiệp vào hoạt 
động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật 
của cơ chế thị trường… 
 II. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ĐẾN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM  HIỆN NAY.   2.1 
Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến kinh tế. 
Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động tới Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh 
quốc phòng và mọi mặt của đời sống với mức độ khác nhau; làm thay đổi cách sống, cách làm việc và cách 
giao tiếp của người dân theo hướng tốt hơn, đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện. Bên cạnh đó 
là những tác động tiêu cực đi kèm với những nguy cơ mất ổn định, gây xáo trộn xã hội, nhất là ảnh hưởng 
đối với sức tăng trưởng của nền kinh tế. 
Thứ nhất, Cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi mô hình tăng trưởng và cách tiến hành công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước. Ðiều đó đặt ra yêu cầu ngày càng lớn hơn đối với quá trình tái cơ cấu các 
ngành và tái cơ cấu đầu tư. Hiện nay, tăng trưởng ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tập trung 
ở các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều lao động, hạn chế trong chuyển giao công nghệ. Nguồn 
đầu tư nước ngoài vào các ngành chế tạo sử dụng công nghệ thấp, nhân công rẻ, nhưng điều này sẽ là  bất lợi cho Việt Nam. 
Thứ hai, Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra những thay đổi lớn các ngành công nghiệp sản xuất chủ lực 
của đất nước. Những ngành chế biến thực phẩm, sản xuất điện tử, máy vi tính và thiết bị viễn thông, dệt 
may… là những ngành công nghiệp sản xuất trọng điểm sẽ chịu tác động sâu sắc nhất trước những biến 
động khó lường từ Cách mạng công nghiệp 4.0. Do những ngành công nghiệp này đều sử dụng nhiều lao 
động hoặc sản xuất sản phẩm cuối cùng có giá trị gia tăng thấp, dẫn đến sự tăng trưởng chậm về giá trị 
gia tăng trong sản xuất công nghiệp. Ðây là một trong những cản trở lớn đối với phát triển công nghiệp 
khi Việt Nam cần từng bước chuyển dịch sang các ngành công nghệ cao, sản xuất các sản phẩm giá trị gia 
tăng cao. Trong thời gian tới Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có những ảnh hưởng lớn trong việc thay đổi 
phương thức tổ chức sản xuất của các ngành công nghiệp chính của Việt Nam. Do vậy, năng lực cạnh tranh 
của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với hạn chế về năng lực đầu tư, đổi mới hoạt 
động sản xuất và khả năng thích ứng nhanh chóng với những thay đổi của thị trường có xu hướng suy  giảm đáng kể. 
Thứ ba, Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi và chuyển dịch cơ cấu mặt hàng cũng như cơ cấu thị 
trường xuất nhập khẩu của Việt Nam. Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động nhanh và làm thay đổi các 
phương thức trong kinh doanh thương mại cả trên thị trường nội địa cũng như hoạt động ngoại thương. 
Sự xuất hiện của các nền tảng toàn cầu, trong một thế giới phẳng và các mô hình kinh doanh mới sẽ dẫn 
tới các hình thức tổ chức và văn hoá doanh nghiệp có những thay đổi sâu sắc.    lOMoAR cPSD| 60797905
Thứ tư, Cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi tính chất lao động và việc làm ở Việt Nam. Cách mạng 
công nghiệp 4.0 sẽ tác động lớn tới lao động và việc làm, cũng như bản chất của lao động trong cấu thành 
giá trị sản phẩm; có những việc làm mới với các yêu cầu khác và trong một môi trường làm việc hay cách 
tổ chức không còn giống như hiện nay. 
Thứ năm, xuất hiện các mô hình sản xuất kinh doanh mới. Cách mạng công nghiệp 4.0 cho phép thay thế 
nguồn lực tài chính bằng nguồn lực tri thức và trí tuệ, cho phép tạo ra những cơ hội đầu tư và phát triển 
mạnh mẽ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn đầu tư ban đầu cho khởi nghiệp có thể không lớn, nhưng 
lợi nhuận thu về cao. Việc phát triển ngày một rộng của internet vạn vật cho phép các công ty này tiếp cận 
tốt hơn với từng đơn vị, từ đó có thể theo dõi và đánh giá hiệu quả của họ trong thời gian thực. Như vậy, 
với Cách mạng công nghiệp 4.0, các doanh nghiệp khởi nghiệp dễ dàng hơn, vốn ít hơn trong khi mang lại 
lợi nhuận lớn trong thời gian ngắn hơn. 
Thứ sáu, xuất hiện nhiều loại hình hoạt động thương mại mới. Các phương thức kinh doanh thương mại 
mới như thương mại điện tử, thành toán điện tử, giao dịch điện tử… sẽ làm thay đổi, thậm trí triệt tiêu 
các hoạt động kinh doanh truyền thống. Thị trường thương mại điện tử vì thế cũng được mở rộng, mô 
hình thương mại điện tử ngày càng đổi mới. Các chuỗi cung ứng truyền thống với sự hỗ trợ của sức mạnh 
lan tỏa của số hóa và công nghệ thông tin trở thành chuỗi cung ứng thông minh, đem lại hiệu quả cho nền 
kinh tế số nói chung cũng như thương mại điện tử nói riêng. Cách mạng công nghiệp 4.0 làm giảm đáng 
kể chi phí giao dịch, vận chuyển, góp phần giảm giá bán sản phNm hàng hóa và dịch vụ, giảm chi phí trong 
quá trình lưu thông và phân phối sản phẩm. 
2.2. Tác động của ngành công nghiệp 4.0 đến Xã hội.  • Tích cực:   1. 
Tăng năng suất và hiệu quả công việc: Cách mạng 4.0 với sự phát triển củatrí tuệ nhân tạo 
(AI), Internet vạn vật (IoT), và tự động hóa giúp cải thiện năng suất lao động, giảm thiểu thời gian 
và chi phí trong sản xuất, từ đó tạo ra những sản phẩm chất lượng cao hơn với chi phí thấp hơn.  2. 
Khả năng kết nối và giao tiếp toàn cầu: Các công nghệ mới như 5G, mạng xã hội và các 
nền tảng giao tiếp trực tuyến giúp con người kết nối dễ dàng và nhanh chóng hơn, không phân 
biệt khoảng cách địa lý. Điều này thúc đẩy giao lưu văn hóa, kinh tế, và giáo dục toàn cầu.  3. 
Thúc đẩy sáng tạo và đổi mới sáng tạo: Cách mạng 4.0 mở ra cơ hội cho các công ty, tổ 
chức và cá nhân sáng tạo, đổi mới và phát triển sản phẩm, dịch vụ mới. Công nghệ giúp thúc đẩy 
nghiên cứu và phát triển (R&D), tạo ra những đột phá trong khoa học và công nghệ.  4. 
Cải thiện chất lượng cuộc sống: Các công nghệ như y tế thông minh, nhà thông minh, giao 
thông tự động giúp cải thiện chất lượng sống, bảo vệ sức khỏe và bảo vệ môi trường. Hệ thống y 
tế có thể sử dụng AI để chẩn đoán bệnh chính xác hơn và nhanh chóng hơn.  5. 
Cơ hội học hỏi và đào tạo không giới hạn: Công nghệ giúp tạo ra nhiều cơ hội học tập và 
đào tạo trực tuyến, dễ tiếp cận và linh hoạt hơn cho mọi đối tượng, từ học sinh, sinh viên đến  người đi làm.  6. 
Giảm thiểu tác động môi trường: Công nghệ mới giúp tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, 
giảm lượng khí thải và tiết kiệm năng lượng. Các giải pháp về năng lượng tái tạo, phương tiện giao 
thông điện tử cũng góp phần bảo vệ môi trường.  • Tiêu cực:   1. 
những thách thức từ việc thu hẹp quy mô của các lĩnh vực sản xuất truyền thống cũng 
như việc đào thải người lao động không đáp ứng yêu cầu về kỹ năng. Sự phát triển của trí tuệ    lOMoAR cPSD| 60797905
nhân tạo và tự động hóa lao động có thể dẫn đến việc thay thế lao động giản đơn bằng máy móc 
hiện đại đã và đang đặt ra thách thức lớn cho vấn đề XH ở Việt Nam  2. 
những thách thức từ việc thu hẹp quy mô của các lĩnh vực sản xuất truyền thống cũng 
như việc đào thải người lao động không đáp ứng yêu cầu về kỹ năng. Sự phát triển của trí tuệ 
nhân tạo và tự động hóa lao động có thể dẫn đến việc thay thế lao động giản đơn bằng máy móc 
hiện đại đã và đang đặt ra thách thức lớn cho vấn đề XH ở Việt Nam  3. 
CMCN 4.0 không chỉ ảnh hưởng đến cấu trúc lao động và yêu cầu về năng lực lao động, 
mà còn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội thông qua việc thay đổi hành vi sống của người  dân  4. 
tình trạng thất nghiệp tại các khu vực nông thôn vẫn là một thách thức do thiếu trình độ, 
mất đất canh tác do quá trình đô thị hóa và lực lượng lao động tại Việt Nam hiện nay vẫn giữ thói 
quen sản xuất nhỏ, thiếu tính động và sáng tạo, thiếu ý thức kỷ luật và tác phong công nghiệp  5. 
kết quả giảm nghèo chưa bền vững, bất bình đẳng tuyệt đối giữa người giàu và người 
nghèo có xu hướng gia tăng; chênh lệch phát triển giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu  hẹp. 
III. Chủ Trương của Đảng ta về cách Mạng công nghiệp 4.0 lên nền KTTT 
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008, Đảng ta khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi 
các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây 
cũng là nền kinh tế có tổ chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản 
lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phát huy những ưu 
thế của kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch, vừa loại bỏ những khuyết tật của hai nền kinh tế đó, nhằm 
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
Có thể nói, trải qua 35 năm đổi mới, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 
ngày càng hoàn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại 
hội XIII, Đảng ta nhận định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng 
đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây 
dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng 
bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới”(2). “Thể chế kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập”(3). Đường 
lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy 
nền kinh tế của nước ta tăng trưởng vượt bậc, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhờ vậy, sau 
35 năm đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước thoát khỏi 
khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành nước có thu nhập trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu 
vực và thế giới, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế. 
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “KHCN 
giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên và môi trường, 
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển 
KHCN nhằm mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên 
tiến của thế giới”(4). Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ KHCN, làm 
cho KHCN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất    lOMoAR cPSD| 60797905
hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo 
vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh” 
Đẩy mạnh cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Cần đổi mới mạnh mẽ và toàn 
diện nội dung, chương trình cũng như phương pháp giảng dạy và học tập, nghiên cứu tạo ra tiền đề quan 
trọng nhất cho quá trình thích ứng và hội nhập quốc tế. Đào tạo nhân lực về mặt công nghệ và tri thức 
mới cũng như xây dựng một môi trường hỗ trợ sáng tạo có ý nghĩa sống còn để thích nghi cuộc cách mạng 
này. Cần đầu tư có chiều sâu và hiệu quả để các trường đại học trọng điểm đi đầu trong nghiên cứu KHCN 
mới nhằm tiệm cận với các nước tiên tiến. Có chính sách phát triển đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học. 
Các trường đại học trọng điểm thu hút nhân tài trong giới khoa học, nghiên cứu và giảng dạy 
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền 
kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo 
và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thế chế phát triển nền kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập”(12). “Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có 
chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu 
tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng 
có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp 
lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu  hiệu” 
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng 
qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh 
nghiệm của thế giới”(16). Điều này không chỉ tạo tiền đề xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hiện thực 
ở Việt Nam mà còn góp phần bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại mới.