



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61265515 BÀI TẬP NHÓM
HỌC PHẦN: KINH TẾ ĐẦU TƯ
ĐỀ TÀI: TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Nhóm sinh viên: Nhóm 2
Lớp học phần: DTKT1154(125)_06 Khóa: 66
Giảng viên: ThS. Nguyễn Duy Tuấn
Thành viên nhóm: 1. Nguyễn Thái Ngân – 11242355
2. Nguyễn Lê Hà Vy – 11242455
3. Nguyễn Phương Lan – 11242296
4. Bùi Đức Hải – 11240675
5. Thới Nguyễn Thảo Hiền – 11242259 lOMoAR cPSD| 61265515 Hà Nội, 2025 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 2
I. Cơ sở lý luận .................................................................................................... 3
1. Khái niệm ...................................................................................................... 3
1.1. Tăng trưởng kinh tế .................................................................................. 3
1.2. Đầu tư phát triển ........................................................................................... 6
2. Mối quan hệ lý thuyết giữa đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế...........4
II. Lịch sử hình thành và phát triển của Phật giáo...........................................3
1. Nguồn gốc......................................................................................................3
2. Lịch sử phát triển của Phật giáo......................................................................3
III. Những triết lý cơ bản của Phật giáo..........................................................5
1. Tứ diệu đế...................................................................................................5
2. Bát chánh đạo.............................................................................................6
3. Thuyết Vô thường – Vô ngã – Duyên khởi.................................................6
4. Ngũ uẩn.......................................................................................................7
5. Luật Nhân quả - Nghiệp..............................................................................8
B. VẬN DỤNG HIỂU BIẾT VỀ ĐẠO PHẬT TRONG KINH DOANH QUỐC
TẾ CỦA CÁC CÔNG TY.............................................................................................8
I. Tập đoàn TH – TH Group...........................................................................8
1. Giới thiệu chung về TH Group.......................................................................8
2. TH Group ứng dụng đạo Phật trong kinh doanh quốc tế.................................8
3. Kết quả..........................................................................................................11
II. Tập đoàn Hoa Sen – Hoa Sen Group........................................................11
1. Giới thiệu chung về Hoa Sen Group.............................................................11
2. Hoa Sen Group ứng dụng đạo Phật trong kinh doanh quốc tế......................11
3. Kết quả..........................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................15
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN.................................................................15 lOMoAR cPSD| 61265515
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nền kinh
tế thế giới vận động theo xu thế phát triển của kinh tế thị trường, nơi cạnh tranh, đổi
mới sáng tạo và hội nhập giữ vai trò quyết định. Đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là những
nước đang phát triển như Việt Nam, duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững không chỉ là
mục tiêu quan trọng mà còn là yêu cầu tất yếu để nâng cao vị thế quốc gia, cải thiện đời
sống nhân dân và rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến. Trong tiến
trình này, đầu tư phát triển được xem là động lực then chốt, vừa là tiền đề, vừa là nhân
tố thúc đẩy mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế.
Nền kinh tế thị trường vốn đặt ra những yêu cầu khắt khe đối với nguồn lực và
phương thức tổ chức sản xuất. Đầu tư phát triển trở thành công cụ quan trọng để huy
động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội. Thông qua đầu tư vào cơ sở
hạ tầng, công nghiệp, dịch vụ, giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ, nền kinh tế
có điều kiện nâng cao năng lực sản xuất, gia tăng năng suất lao động và mở rộng thị
trường. Có thể nói, đầu tư phát triển vừa tạo nền tảng vật chất, vừa xây dựng tiềm lực
lâu dài cho tăng trưởng, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH–
HĐH) và hội nhập quốc tế.
Trong quá trình CNH–HĐH, Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và thách thức.
Một mặt, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) gia tăng mạnh mẽ, góp phần bổ
sung nguồn lực cho phát triển. Mặt khác, đầu tư trong nước, đặc biệt là đầu tư công,
vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc kiến tạo hạ tầng kinh tế – xã hội, tạo môi trường thuận
lợi cho khu vực tư nhân phát triển. Trong bối cảnh đó, đầu tư phát triển trở thành yếu tố
quyết định khả năng duy trì tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời bảo đảm sự bền vững và ổn định dài hạn.
Tăng trưởng kinh tế, xét như thước đo cơ bản của sự phát triển, phản ánh sự gia
tăng quy mô sản lượng trong một giai đoạn nhất định, thường được thể hiện qua chỉ số
GDP hoặc GNP. Tăng trưởng cao và ổn định giúp cải thiện thu nhập bình quân, mở rộng
phúc lợi xã hội, giảm nghèo bền vững và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, tăng trưởng không tự phát sinh mà phụ thuộc trực tiếp vào quy mô và chất
lượng của đầu tư phát triển. Các mô hình kinh tế học như Cobb–Douglas hay Harrod–
Domar đã chỉ ra rằng tăng trưởng sản lượng phụ thuộc chặt chẽ vào tích lũy vốn và hiệu
quả sử dụng vốn. Trong đó, đầu tư phát triển quyết định mức tăng vốn (K) trong hàm
sản xuất, đồng thời ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất thông qua đổi mới lOMoAR cPSD| 61265515
công nghệ và nâng cao năng suất lao động. Không chỉ vậy, trong mô hình tổng cầu, đầu
tư (I) là thành phần trọng yếu, vừa tác động đến tổng cầu ngắn hạn, vừa mở rộng tổng
cung tiềm năng trong dài hạn.
Thực tiễn cũng minh chứng rõ vai trò này. Các quốc gia công nghiệp mới (NICs)
ở Đông Á như Hàn Quốc, Singapore hay Đài Loan đã thành công nhờ tập trung đầu tư
vào giáo dục, cơ sở hạ tầng và khoa học – công nghệ, qua đó đạt bước phát triển ngoạn
mục chỉ trong vài thập kỷ. Đối với Việt Nam, thành tựu tăng trưởng kinh tế hơn ba thập
kỷ qua kể từ công cuộc Đổi mới (1986) cũng gắn liền với chiến lược đầu tư phát triển,
đặc biệt trong các lĩnh vực hạ tầng giao thông, năng lượng, công nghiệp chế biến chế
tạo và dịch vụ. Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng nếu đầu tư không được quản lý và sử
dụng hiệu quả sẽ dẫn đến nhiều hệ quả tiêu cực như đầu tư dàn trải, lãng phí, nợ công
gia tăng, phụ thuộc vào vốn ngoại và sức ép môi trường.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định: đầu tư phát triển giữ vai trò động lực
then chốt, tác động trực tiếp và lâu dài đến quá trình tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, đề tài
“Phân tích tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng kinh tế” mang ý nghĩa cả về
lý luận và thực tiễn. Bài tiểu luận sẽ tập trung làm rõ khung cơ sở lý thuyết, đánh giá
thực trạng tại Việt Nam những năm gần đây, chỉ ra những tác động tích cực cũng như
hạn chế của đầu tư phát triển đối với tăng trưởng, và từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả đầu tư, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững và toàn diện. .
I. Cơ sở lý luận 1. Khái niệm
1.1. Tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Trong khoa học kinh tế, tăng trưởng kinh tế là một phạm trù trung tâm, phản ánh
sự mở rộng quy mô sản xuất và gia tăng của cải xã hội. Tuy nhiên, khái niệm này không
phải lúc nào cũng được định nghĩa thống nhất, mà thay đổi theo từng trường phái lý
luận, giai đoạn lịch sử cũng như cách tiếp cận của các tổ chức quốc tế. Việc tìm hiểu
các quan điểm khác nhau về tăng trưởng kinh tế giúp ta có cái nhìn đa chiều, từ đó xây
dựng cách tiếp cận phù hợp với điều kiện phát triển của mỗi quốc gia.
• Quan điểm 1: Theo các nhà kinh tế học cổ điển
Theo Adam Smith (1776), tăng trưởng kinh tế gắn với quá trình tích lũy tư bản,
phân công lao động và mở rộng thị trường. Ông coi tăng trưởng là kết quả của việc kết
hợp hiệu quả giữa vốn, lao động và đất đai. lOMoAR cPSD| 61265515
Còn David Ricardo lại nhấn mạnh đến vai trò tích lũy vốn và sự giới hạn của đất
đai. Ông cho rằng tăng trưởng cuối cùng sẽ bị chậm lại do “quy luật lợi tức giảm dần” trong nông nghiệp.
Mặt khác, Thomas Malthus lại nhìn tăng trưởng qua mối quan hệ giữa dân số và
lương thực; cho rằng dân số tăng nhanh sẽ làm cạn kiệt nguồn lực, kìm hãm tăng trưởng.
• Quan điểm 2: Theo kinh tế học tân cổ điển
Theo Robert Solow - Trevor Swan (mô hình Solow - Swan), tăng trưởng được
hiểu là sự gia tăng sản lượng dài hạn nhờ sự kết hợp của lao động, vốn và tiến bộ công
nghệ (công nghệ được coi là yếu tố ngoại sinh).
Dựa trên quan điểm này, tăng trưởng kinh tế bền vững không chỉ dựa vào vốn và
lao động, mà phụ thuộc chủ yếu vào tiến bộ công nghệ.
• Quan điểm 3: Theo lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Paul Romer, Robert Lucas (thập niên 1980-1990) đưa ra ý kiến răng trưởng kinh
tế là kết quả của các yếu tố nội sinh như tri thức, vốn con người, đổi mới sáng tạo và
hoạt động R&D. Theo đó, tăng trưởng có thể tự duy trì trong dài hạn nếu quốc gia chú
trọng vào giáo dục, nghiên cứu và đổi mới công nghệ.
• Quan điểm 4: Quan điểm của các tổ chức quốc tế
Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng GDP hoặc
GNP thực tế qua thời gian, đặc biệt chú trọng đến tốc độ tăng GDP bình quân đầu người
như một thước đo cải thiện đời sống.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) lại nhấn mạnh tăng trưởng là sự gia tăng khả năng
sản xuất của nền kinh tế, được phản ánh qua sự tăng trưởng thực tế của GDP.
Mặt khác, Liên Hợp Quốc đưa ra một góc nhìn rộng hơn như sau: Tăng trưởng
kinh tế không chỉ là tăng GDP, mà còn phải gắn liền với phát triển con người, tiến bộ xã hội và công bằng.
• Quan điểm 5: Trong kinh tế chính trị Mác-Lênin
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về quy mô sản xuất xã hội, nhờ vào
việc nâng cao năng suất lao động xã hội, tích lũy tư bản và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ.
Quan điểm này nhấn mạnh rầng tăng trưởng phải gắn liền với mục tiêu xã hội
chủ nghĩa, nghĩa là không chỉ tạo ra nhiều của cải mà còn ảnh hưởng đến công bằng và
nâng cao đời sống nhân dân.
Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm đa diện, được hiểu theo nhiều cách tùy thuộc
vào trường phái kinh tế, thời kỳ lịch sử hay cách tiếp cận của các tổ chức quốc tế. Dù
khác biệt, các quan điểm đều thống nhất rằng tăng trưởng phản ánh sự gia tăng về quy
mô sản xuất và năng lực kinh tế nhờ vào việc huy động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực như: vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học – công nghệ và quản lý. lOMoAR cPSD| 61265515
Xu hướng hiện nay là gắn tăng trưởng với phát triển con người, công bằng xã hội và
bền vững môi trường. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia
đang phát triển, trong đó có Việt Nam, khi vừa phải đạt được tốc độ tăng trưởng cao,
vừa đảm bảo mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội.
1.1.2. Chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học kinh tế và
quản lý kinh tế vĩ mô. Để đánh giá chính xác mức độ tăng trưởng, các nhà nghiên cứu
và nhà hoạch định chính sách cần sử dụng những chỉ tiêu đo lường phù hợp. Các chỉ
tiêu này không chỉ giúp phản ánh sự gia tăng về quy mô sản xuất và thu nhập quốc gia,
mà còn cung cấp cơ sở để so sánh, phân tích xu hướng và đưa ra quyết sách phát triển.
Trong thực tiễn, một số chỉ tiêu thường được sử dụng phổ biến gồm GDP, GNP, GDP
bình quân đầu người và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
1.1.2.1. Tổng sản phẩm trong nước (GDP-Gros Domestic Product)
GDP là tổng giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được
sản xuất trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
GDP là tiêu chí cơ bản và phổ biến nhất để đo lường quy mô của nền kinh tế, thể
hiện năng lực sản xuất trong lãnh thổ, không phân biệt sản phẩm do công dân hay doanh
nghiệp nước ngoài tạo ra.
Đây là chỉ tiêu dễ tính toán nhất, giúp so sánh hiệu quả nền kinh tế giữa các quốc
gia, khu vực. Tuy nhiên, GDP không phản ánh phân phối thu nhập, chất lượng tăng
trưởng hay tác động môi trường.
1.1.2.2. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP - Gross National Product)
GNP là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng do công dân và doanh nghiệp
của một quốc gia tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định, bất kể ở trong hay ngoài lãnh thổ quốc gia đó.
GNP thể hiện năng lực sản xuất gắn liền với quốc tịch kinh tế hơn là lãnh thổ, đặc
biệt hữu ích trong bối cảnh hiện nay khi có càng nhiều các quốc gia có hoạt động đầu
tư và sản xuất ở nước ngoài.
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá hiệu quả hoạt động của công dân và doanh nghiệp
quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Mặt khác, GNP lại khó phản ánh chính xác khi dòng
vốn quốc tế phức tạp; không phản ánh đầy đủ mức sống của người dân trong nước.
1.1.2.3. GDP bình quân đầu người
GDP bình quân đầu người được tính bằng GDP chia cho số dân trung bình trong
năm. Đây là chỉ tiêu phản ánh mức thu nhập bình quân của một người dân trong nền lOMoAR cPSD| 61265515
kinh tế, là thước đo phổ biến để đánh giá mức sống và so sánh giữa các quốc gia; được
các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) và Liên Hợp Quốc sử dụng trong
việc phân loại các quốc gia (nước có thu nhập thấp, trung bình hay cao). Đây cũng
là chỉ tiêu giúp dễ dàng so sánh được nền kinh tế giữa các quốc gia, phản ánh trực tiếp
mức độ giàu nghèo tương đối giữa các đất nước đó. Tuy nhiên, nó không phản ánh sự
chênh lệch thu nhập trong xã hội cũng như chất lượng cuộc sống (giáo dục, y tế, môi
trường). Một quốc gia có GDP bình quân đầu người cao nhưng phân hóa giàu nghèo
lớn thì phúc lợi xã hội vẫn không cao.
1.1.2.4. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ phần trăm gia tăng của GDP (hoặc GNP) thực
tế trong một thời kỳ so với thời kỳ trước, được tính bằng cách lấy GDP năm hiện tại trừ
đi GDP năm trước, chia tất cả cho GDP năm trước rồi nhân 100%.
Đây là chỉ tiêu quan trọng cho biết nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm theo
thời gian, từ đó đưa ra những hoạch định về chính sách tài khóa, tiền tệ và các chiến
lược phát triển trong năm tới.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được đánh giá là chỉ tiêu đơn giản, dễ hiểu, trực quan
cho việc đánh giá tốc độ phát triển. Song, đây chỉ phản ánh nhịp độ tăng trưởng, không
phản ánh chất lượng tăng trưởng.
1.1.2.5. Một số chỉ tiêu bổ sung khác
Ngoài bốn chỉ tiêu trên, trong nghiên cứu hiện đại còn sử dụng thêm các chỉ tiêu
khác giúp bổ sung góc nhìn toàn diện hơn về chất lượng tăng trưởng:
• Chỉ số phát triển con người (HDI): Kết hợp GDP bình quân đầu người
với các yếu tố xã hội như tuổi thọ và trình độ giáo dục.
• Năng suất lao động xã hội: Đo lường hiệu quả sử dụng lao động trong sản xuất.
• Thu nhập quốc dân khả dụng (NDI): Phản ánh phần thu nhập thực tế còn
lại để tiêu dùng và tích lũy sau khi trừ đi thuế, cộng thêm các khoản thu
nhập ròng từ nước ngoài.
1.2. Đầu tư phát triển
1.2.1. Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là quá trình sử dụng các nguồn lực hiện tại (chủ yếu là vốn, lao
động, công nghệ và tài nguyên) để xây dựng mới, mở rộng, cải tạo hoặc nâng cấp cơ sở
vật chất – kỹ thuật; mua sắm máy móc, thiết bị, công nghệ; đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực; tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học – công nghệ và các lĩnh vực hỗ lOMoAR cPSD| 61265515
trợ khác nhằm tạo ra hoặc gia tăng năng lực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ trong tương lai.
Về bản chất, đầu tư phát triển là sự hy sinh nguồn lực hiện tại để hình thành tài
sản cố định và tiềm lực lâu dài cho nền kinh tế – xã hội, từ đó thúc đẩy tăng trưởng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiện đại hóa sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống.
1.2.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển
Đặc điểm nổi bật của đầu tư phát triển là mang tính dài hạn, có quy mô vốn lớn,
thời gian thu hồi dài (chi phí bỏ ra trước, hiệu quả thu được sau) và có tác động lan tỏa
mạnh mẽ đến nhiều ngành, lĩnh vực. Đây cũng là loại đầu tư mang tính chiến lược, có
tác động lâu dài đến cơ cấu kinh tế, năng suất lao động và trình độ công nghệ; có vai
trò then chốt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững của mỗi quốc gia.
1.2.3. Phân biệt đầu tư phát triển với các hình thức đầu tư khác
Trong nghiên cứu kinh tế, khái niệm “đầu tư” thường được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau. Để tránh nhầm lẫn, cần phân biệt đầu tư phát triển với các hình thức đầu tư
khác như đầu tư tài chính ngắn hạn, đầu tư chứng khoán và đầu tư tiêu dùng.
Thứ nhất, đầu tư phát triển là hoạt động bỏ vốn nhằm hình thành hoặc gia tăng
giá trị tài sản cố định, mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn
nhân lực, phát triển khoa học – công nghệ. Đặc điểm của loại đầu tư này là quy mô vốn
thường lớn, thời gian thực hiện dài, thời gian thu hồi vốn chậm nhưng mang lại lợi ích
lâu dài cho toàn xã hội. Đầu tư phát triển có mối quan hệ mật thiết với quá trình tái sản
xuất mở rộng và là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Thứ hai, đầu tư tài chính ngắn hạn chủ yếu là việc bỏ vốn vào các công cụ tài
chính ngắn hạn như gửi tiết kiệm kỳ hạn ngắn, mua trái phiếu ngắn hạn, cho vay thương
mại, hoặc các hoạt động kinh doanh vốn có khả năng quay vòng nhanh. Mục tiêu của
hình thức đầu tư này là tìm kiếm lợi nhuận tức thời, ít gắn với quá trình tạo lập cơ sở
vật chất – kỹ thuật hay mở rộng năng lực sản xuất của nền kinh tế.
Thứ ba, đầu tư chứng khoán là hình thức đầu tư phổ biến trên thị trường tài chính,
trong đó các chủ thể bỏ vốn để mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc các công cụ chứng khoán
phái sinh với kỳ vọng thu lợi từ chênh lệch giá hoặc cổ tức, lãi suất. Loại đầu tư này có
tính thanh khoản cao, mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào biến động thị trường. Tuy có
thể góp phần huy động vốn cho doanh nghiệp, song đầu tư chứng khoán về bản chất
không trực tiếp tạo ra của cải vật chất mới, mà chủ yếu mang tính chất chuyển dịch quyền sở hữu vốn.
Thứ tư, đầu tư tiêu dùng được hiểu là các khoản chi để mua sắm hàng hóa, dịch
vụ phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc hộ gia đình như nhà ở, phương tiện đi lại, trang thiết
bị sinh hoạt. Tuy gọi là “đầu tư”, nhưng thực chất đây là chi tiêu cho tiêu dùng lâu bền, lOMoAR cPSD| 61265515
không tạo ra giá trị sản xuất mới mà chỉ nhằm nâng cao mức sống, phúc lợi và tiện nghi cho người sử dụng.
Tóm lại, ta có thể hiểu đầu tư phát triển gắn liền với quá trình tái sản xuất mở
rộng, tạo ra năng lực sản xuất mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, đầu
tư tài chính ngắn hạn và đầu tư chứng khoán chủ yếu nhằm mục đích sinh lời nhanh về
mặt tài chính, ít tác động trực tiếp đến năng lực sản xuất của nền kinh tế. Còn đầu tư
tiêu dùng chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân, không tạo ra giá trị gia tăng về kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô.
1.2.4. Phân loại các hoạt động đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là một phạm trù rộng, có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí
khác nhau, phản ánh đặc điểm nguồn vốn, lĩnh vực, cũng như hình thức tổ chức thực
hiện. Việc phân loại này không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà còn có giá trị thực tiễn,
giúp Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội có cái nhìn toàn diện hơn trong hoạch định và
sử dụng hiệu quả các nguồn lực.
1.2.4.1. Theo nguồn vốn huy động
1.2.4.1.1. Đầu tư công
Đầu tư công là hình thức đầu tư do Nhà nước thực hiện hoặc sử dụng nguồn vốn
từ ngân sách nhà nước và các quỹ công để tiến hành các hoạt động đầu tư nhằm xây
dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc
phòng – an ninh và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Nói cách khác, đầu tư công là hoạt động chi tiêu vốn của khu vực nhà nước vào
các dự án, chương trình phát triển mang tính chất công cộng, lâu dài và phi lợi nhuận
trực tiếp, nhằm tạo ra môi trường và nền tảng cho khu vực tư nhân và toàn xã hội phát triển.
Mục tiêu chính của đầu tư công không phải lợi nhuận tài chính trực tiếp, mà là
hiệu quả kinh tế - xã hội, như nâng cao phúc lợi cộng đồng, cải thiện cơ sở hạ tầng,
giảm bất bình đẳng, hỗ trợ các vùng khó khăn.
Đầu tư công có quy mô vốn thường lớn với nguồn vốn chủ yếu từ ngân sách nhà
nước, trái phiếu chính phủ, vốn vay ODA hoặc vốn vay ưu đãi nước ngoài; thời gian
thực hiện dài và tác động sâu rộng đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.
1.2.4.1.2. Đầu tư tư nhân trong nước (DDI)
Đầu tư tư nhân trong nước (DDI) là hoạt động đầu tư do các tổ chức, doanh
nghiệp và cá nhân trong nước thực hiện bằng nguồn vốn thuộc sở hữu của họ, với mục
tiêu chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận hoặc mở rộng sản xuất - kinh doanh. lOMoAR cPSD| 61265515
Với nguồn vốn đến từ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình hoặc cá nhân trong
nước, đầu tư tư nhân có tính linh hoạt cao, dễ thích ứng với biến động thị trường, song
cũng chịu nhiều rủi ro do hạn chế về quy mô vốn và khả năng quản trị.
Động cơ của đầu tư chủ yếu là lợi ích kinh tế, đồng thời có thể mang lại lợi ích
xã hội gián tiếp như tạo việc làm, đóng thuế cho ngân sách nhà nước.
1.2.4.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là hình thức đầu
tư mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào một quốc gia khác để thành lập hoặc tham gia
vào hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý và kiểm soát một
phần hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Với thời gian đầu tư thường dài hạn, gắn liền với lợi ích lâu dài của nhà đầu tư
tại nước sở tại, FDI có thể tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế thông qua việc bổ sung
vốn, nâng cao năng suất, tạo việc làm, nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro về phụ thuộc công
nghệ, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Ngoài vốn, FDI thường đi kèm với công nghệ,
kỹ năng quản lý, kinh nghiệm thị trường và mạng lưới tiêu thụ toàn cầu. 1.2.4.1.4. Vốn ODA
ODA (Official Development Assistance - Hỗ trợ phát triển chính thức) là nguồn
vốn do chính phủ, tổ chức quốc tế hoặc các định chế tài chính đa phương của nước
ngoài cung cấp cho một quốc gia, thường là các nước đang và kém phát triển, với mục
đích hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội.
ODA thường được hình thành dưới dạng viện trợ không hoàn lại, vay ưu đãi (lãi
suất thấp, thời gian vay và ân hạn dài) hoặc hỗn hợp (kết hợp viện trợ và vay); với mục
tiêu chính là thúc đẩy phát triển, xóa đói giảm nghèo, cải thiện hạ tầng kinh tế – xã hội,
nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, và hỗ trợ cải cách thể chế. Hình
thức vốn này không nhằm mục tiêu lợi nhuận trực tiếp cho bên tài trợ, nhưng thường
gắn với các điều kiện ràng buộc về chính sách, kinh tế hoặc hợp tác song phương, đa
phương. Đáng chú ý, ODA có tác động quan trọng trong việc bổ sung vốn cho đầu tư
công ở các nước đang phát triển, song cũng có thể tạo ra nguy cơ gia tăng gánh nặng nợ
công nếu không được sử dụng hiệu quả.
1.2.4.2. Theo lĩnh vực sử dụng vốn
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội: Đây là lĩnh vực đầu tư nền tảng, bao
gồm các công trình giao thông, năng lượng, viễn thông, cấp thoát nước, y tế, giáo dục,
văn hóa. Đầu tư vào hạ tầng có đặc điểm là quy mô vốn lớn, thời gian thực hiện dài, lợi
nhuận tài chính trực tiếp không cao nhưng lợi ích kinh tế – xã hội rất lớn, vì nó tạo môi
trường và điều kiện cho các ngành khác phát triển. lOMoAR cPSD| 61265515
Đầu tư vào sản xuất - kinh doanh: Đây là lĩnh vực tập trung vào việc mở rộng
và phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và thương mại. Đặc điểm
của loại đầu tư này là mục tiêu lợi nhuận rõ ràng, gắn liền với việc nâng cao năng lực
sản xuất, tạo việc làm và đóng góp trực tiếp vào GDP.
Đầu tư vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo: Đầu tư vào nghiên cứu
– phát triển (R&D), đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng
cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh. Đây là lĩnh vực
có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, giúp nền kinh tế bắt kịp xu thế toàn cầu.
Đầu tư vào nguồn nhân lực: Đây là lĩnh vực hướng tới phát triển con người –
yếu tố trung tâm của phát triển bền vững. Bao gồm đào tạo nghề, giáo dục, nâng cao
trình độ chuyên môn, cải thiện sức khỏe, thể lực và chất lượng cuộc sống của người lao
động. Đặc điểm của loại đầu tư này là lợi ích không thấy ngay trong ngắn hạn, nhưng
về dài hạn sẽ làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao chất
lượng tăng trưởng. Ví dụ: chương trình đào tạo kỹ sư công nghệ thông tin, chính sách
nâng cao tay nghề lao động trong các khu công nghiệp.
1.2.4.3. Ý nghĩa của việc phân loại các hoạt động đầu tư phát triển
Việc phân loại các hoạt động đầu tư phát triển có ý nghĩa quan trọng cả về lý
luận lẫn thực tiễn. Trước hết, nó giúp làm rõ bản chất và đặc điểm của từng loại hình
đầu tư, từ đó tạo cơ sở khoa học để nghiên cứu mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng
kinh tế. Thông qua các tiêu chí phân loại, người nghiên cứu có thể nhận diện rõ sự khác
biệt giữa đầu tư công, đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài hay đầu tư vào các lĩnh vực
khác nhau như hạ tầng, sản xuất, khoa học – công nghệ, nguồn nhân lực.
Thứ hai, phân loại đầu tư phát triển giúp cơ quan quản lý nhà nước hoạch định
chính sách và phân bổ nguồn lực hợp lý. Mỗi loại hình đầu tư có đặc điểm và mục tiêu
khác nhau: đầu tư công thiên về hiệu quả xã hội, đầu tư tư nhân chú trọng lợi nhuận,
FDI gắn với công nghệ và thị trường toàn cầu, trong khi đầu tư vào hạ tầng hay nguồn
nhân lực lại có tác động nền tảng lâu dài. Việc phân loại rõ ràng cho phép nhà quản lý
có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ hoặc kiểm soát phù hợp đối với từng nhóm hoạt động.
Thứ ba, việc phân loại còn có ý nghĩa trong công tác đánh giá hiệu quả đầu tư
và định hướng phát triển. Khi thống kê và phân tích theo từng loại hình, nhà nghiên cứu
có thể xác định mức đóng góp cụ thể của từng nguồn vốn hay từng lĩnh vực vào tăng
trưởng kinh tế, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu
quả đầu tư trong tương lai.
Tóm lại, phân loại các hoạt động đầu tư phát triển không chỉ là yêu cầu mang
tính khoa học trong nghiên cứu, mà còn là công cụ hữu ích cho quản lý vĩ mô, giúp sử lOMoAR cPSD| 61265515
dụng nguồn lực đầu tư một cách hiệu quả, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
2. Mối quan hệ lý thuyết giữa đầu tư phát triển và tăng trưởng kinh tế
2.1. Hàm Cobb-Douglass
2.1.1. Công thức của hàm Cobb-Douglass
Hàm Cobb-Douglass có dạng: Với: • Q là sản lượng
• A, α, β là các hằng số dương • L là lao động
• K là vốn được sử dụng
Trong đó: 0 < α < 1. Với giả thiết 0 < α, hàm Cobb-Douglas coi giá trị sản xuất
tỷ lệ thuận với lao động (L) và vốn (K).
2.1.2. Ý nghĩa của hàm Cobb-Douglass
Có ba yếu tố quan trọng cần được đảm bảo để duy trì phát triển hoạt động sản xuất: • Lao động sống (L)
• Công cụ máy móc và nguyên nhiên vật liệu (vốn - K)
• Trình độ khoa học kỹ thuật, khả năng tổ chức quản lý của doanh nghiệp
nói riêng và toàn xã hội nói chung (các yếu tố tổng hợp - A)
Sản xuất phát triển nhanh hay chậm tùy thuộc vào việc sử dụng các yếu tố lao
động, vốn như thế nào, đồng thời cũng phụ thuộc vào các yếu tố tổng hợp. Trên bình
diện kinh tế, các yếu tố này phản ánh hiệu quả sản xuất chung từ đó đánh giá tác động
của “ Đầu tư phát triển “ - với vai trò là một yếu tố đầu vào của hàm Cobb-Douglas.
Vậy nên hàm này thể hiện cũng như đánh giá hiệu quả “ Đầu tư phát triển “ đối với tăng trưởng kinh tế.
Trong cơ chế vận hành của mô hình này, vốn (K) đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Đầu tư phát triển chính là kênh trực tiếp làm gia tăng tích lũy vốn. Khi một nền kinh tế
gia tăng đầu tư phát triển, lượng vốn vật chất (máy móc, nhà xưởng, công nghệ…) tăng
lên. Điều này làm cho K trong hàm Cobb–Douglas mở rộng, từ đó nâng cao sản lượng lOMoAR cPSD| 61265515
Y. Quá trình này cho thấy sự gắn kết chặt chẽ giữa quyết định đầu tư và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Không chỉ dừng lại ở mức sản lượng, đầu tư phát triển còn ảnh hưởng đến năng
suất cận biên của vốn (MPK). Theo tính chất của hàm Cobb–Douglas, khi K tăng, sản
lượng tăng nhưng tốc độ tăng có xu hướng giảm dần do quy luật lợi suất giảm dần. Vì
vậy, doanh nghiệp chỉ đầu tư đến khi lợi nhuận biên bằng với chi phí vốn, tức là:
Trong đó r là lãi suất và δ là tỷ lệ khấu hao. Như vậy, lãi suất gián tiếp điều tiết
đầu tư - hay đầu tư phát triển, qua đó chi phối vốn tích lũy và tăng trưởng.
Ý nghĩa thực tiễn: Trong bối cảnh suy thoái, chính sách giảm lãi suất sẽ khuyến
khích đầu tư phát triển, thúc đẩy tích lũy vốn, nhờ đó khôi phục sản xuất và tăng trưởng.
Ngược lại, khi nền kinh tế nóng lên, lãi suất có thể được nâng cao để hạn chế đầu tư quá
mức, tránh lạm phát. Do đó, đầu tư phát triển – vốn – sản lượng là chuỗi liên kết trung
tâm trong phân tích kinh tế vĩ mô.
Kết luận: Có thể khẳng định, trong mô hình Cobb–Douglas, đầu tư phát triển
không chỉ đơn thuần là hoạt động tăng thêm tài sản cố định mà còn là động lực quyết
định mức vốn (K), từ đó mở rộng sản lượng (Y) và tác động đến tăng trưởng dài hạn.
Chính vì vậy, việc điều hành đầu tư phát triển và lãi suất luôn được coi là những công
cụ then chốt trong chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia như đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế.
2.2. Mô hình Harrod–Domar
2.2.1. Tổng quan mô hình và những công thức liên quan
Mô hình này giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố
tiết kiệm và đầu tư phát triển, dựa trên hai giả định:
• Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế đối với cung lao động
• Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc
Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố) đưa vào sản xuất tăng
lên. Từ đó, họ suy luận ra được rằng một khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng
cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì sẽ càng ngày càng
không cân bằng (mất ổn định kinh tế).
Mô hình này cho thấy rằng tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào:
• Mức độ tiết kiệm.
• Năng suất của đầu tư, tức là tỷ lệ sản lượng/vốn. lOMoAR cPSD| 61265515
Nó coi đầu ra của bất kì một đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một ngành
công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó. Nếu gọi
đầu ra là Y và tốc độ tăng trưởng của đầu ra là g, có nghĩa là:
Nếu gọi S là mức tích lũy của nền kinh tế thì tỷ lệ tích lũy (s) trong GDP sẽ là:
Vì tiết kiệm là nguồn đầu tư, nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm
(St=It), do đó cũng có thể viết:
Mục đích của đầu tư là để tạo ra vốn sản xuất, nên It=ΔKt . Nếu gọi k là tỷ số gia
tăng giữa vốn và sản lượng (còn gọi là hệ số ICOR) ta có: Trong đó:
- ΔK là mức thay đổi vốn sản xuất: ΔK=Kt−K(t−1)
- ΔY là mức thay đổi về kết quả sản xuất: ΔY=Yt−Y(t−1)
- t : chỉ năm nghiên cứu
- t−1 : chỉ năm trước năm nghiên cứu Hoặc: Vì:
Do đó, chúng ta có công thức Harrod-Domar:
2.2.2. Vai trò của đầu tư phát triển trong tăng trưởng kinh tế theo mô hình Harrod–Domar
Từ quan hệ trên ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau:
Một là: Xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định được
khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ kế hoạch
là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong xây dựng chiến
lược phát triển kinh tế, xã hội. lOMoAR cPSD| 61265515
Hai là: Khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu của các cấp lãnh
đạo đặt ra, mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích lũy cần có để đạt
được mục tiêu đó. Là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra.
Hệ số ICOR nói lên rằng, vốn sản xuất được tạo ra bằng đầu tư dưới dạng nhà
máy, trang thiết bị là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, các khoản tiết kiệm của dân cư và
các công ty chính là nguồn gốc cơ bản của vốn đầu tư. Hệ số ICOR phụ thuộc vào nguồn
dự trữ và công nghệ sản xuất. ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư càng dắt. Hệ số ICOR ở
một số nước có xu hướng tăng và ICOR ở các nước phát triển thường cao hơn các nước đang phát triển.
Cần lưu ý là tỷ số gia tăng vốn – sản lượng chỉ đo năng lực sản xuất của phần
vốn tăng thêm, nó khác với tỷ số trung bình vốn – đầu ra phản ánh năng lực của toàn bộ vốn sản xuất.
2.2.3. Ý nghĩa và ứng dụng trong đầu tư phát triển
Khi đã biết khả năng đầu tư (thông qua tỷ lệ tích lũy s) và hiệu quả đầu tư (ICOR),
có thể dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế trong kế hoạch từ đó xác định mục tiêu phát
triển kinh tế. Điều này đặc biệt quan trọng để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Xác định nhu cầu vốn đầu tư cần thiết: Trước một mục tiêu tăng trưởng g mà
lãnh đạo đặt ra, mô hình Harrod–Domar cho phép tính toán lượng vốn đầu tư phát triển
cần huy động để đạt mục tiêu đó.
Vai trò của ICOR: ICOR càng thấp chứng tỏ đầu tư càng hiệu quả, cùng một mức
vốn bỏ ra sẽ tạo ra sản lượng cao hơn. Ngược lại, ICOR cao cho thấy đầu tư kém hiệu
quả, vốn bỏ ra nhiều nhưng tăng trưởng thu được thấp. Kết luận
Theo mô hình Harrod–Domar, đầu tư phát triển chính là động lực cốt lõi của tăng
trưởng kinh tế. Tăng vốn đầu tư, duy trì tỷ lệ đầu tư hợp lý trong GDP, đồng thời nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn (giảm ICOR) sẽ giúp gia tăng sản lượng, thu nhập và tạo ra
khả năng tiết kiệm cao hơn cho các giai đoạn tiếp theo.
2.3. Hàm tổng cầu: AD = C + I + G + ( X - M )
2.3.1. Công thức hàm tổng cầu
Trong nền kinh tế vĩ mô, tổng cầu (Aggregate Demand – AD) được xác định theo công thức:
AD = C + I + G + ( X − M ) Trong đó:
- C: Tiêu dùng của hộ gia đình lOMoAR cPSD| 61265515
- I: Đầu tư của doanh nghiệp
- G: Chi tiêu của Chính phủ - X: Xuất khẩu - M: Nhập khẩu
Rõ ràng, đầu tư (I) là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành tổng cầu.
Thực tế cho thấy, đầu tư thường chiếm từ 24 – 28% tổng cầu của hầu hết các quốc gia
(theo số liệu Ngân hàng Thế giới – World Bank). Do đó, sự thay đổi của đầu tư có tác
động đáng kể đến tổng cầu, và từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng, việc làm và giá cả trong nền kinh tế.
2.3.2. Đầu tư phát triển thông qua hàm tổng cầu và tổng cung
2.3.2.1. Đầu tư phát triển trong hàm tổng cầu ngắn hạn
Trong ngắn hạn, khi các yếu tố của tổng cung chưa kịp thay đổi, việc tăng đầu tư
sẽ dẫn đến sự dịch chuyển của đường tổng cầu (AD) sang phải. Cơ chế vận hành cụ thể như sau:
Khi các doanh nghiệp gia tăng đầu tư để mua sắm máy móc, xây dựng
nhà xưởng hoặc mở rộng quy mô sản xuất, tổng cầu của toàn nền kinh tế
sẽ tăng lên ngay lập tức.
Trên đồ thị AD-AS, điều này thể hiện bằng việc đường AD dịch chuyển từ AD0 sang AD1.
Hệ quả là sản lượng cân bằng của nền kinh tế tăng từ Y0 lên Y1, trong
khi mức giá chung tăng từ P0 lên P1.
Điểm cân bằng của nền kinh tế dịch chuyển từ E0 sang E1. lOMoAR cPSD| 61265515
Như vậy, trong ngắn hạn, tăng đầu tư làm gia tăng sản lượng thực tế (GDP) và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời có thể tạo áp lực lên giá cả, dẫn đến lạm phát cầu kéo
2.3.2.2. Đầu tư phát triển trong hàm tổng cung dài hạn và sản lượng tiềm năng
Đầu tư không chỉ đơn thuần là một khoản chi tiêu làm tăng tổng cầu trong ngắn
hạn, mà còn có tác động sâu rộng đến tổng cung tiềm năng (LRAS) trong dài hạn.
Điều này xuất phát từ hai cơ chế chính:
Tích lũy vốn vật chất: Đầu tư làm gia tăng quy mô tư bản trong nền kinh
tế (máy móc, thiết bị, cơ sở hạ tầng). Nhờ đó, năng lực sản xuất trong
tương lai được mở rộng, giúp tổng cung dài hạn dịch chuyển sang phải.
Cải tiến công nghệ và năng suất: Đầu tư thường đi kèm với đổi mới công
nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất, giúp giảm chi phí bình quân dài hạn và
tăng sản lượng tiềm năng.
Trên đồ thị, ngoài sự dịch chuyển của AD trong ngắn hạn, về dài hạn còn có sự
dịch chuyển của đường tổng cung tiềm năng (LRAS) sang phải, cho thấy nền kinh tế có
khả năng sản xuất ở mức sản lượng cao hơn mà không tạo ra áp lực lạm phát kéo dài. 2.3.3. Kết luận
Tóm lại, đầu tư phát triển thông qua hàm tổng cầu và tổng cung có tác động hai mặt:
Trong ngắn hạn, tăng đầu tư làm đường AD dịch chuyển sang phải, giúp
tăng sản lượng và việc làm, nhưng có thể làm tăng giá cả.
Trong dài hạn, đầu tư góp phần tích lũy vốn, cải tiến công nghệ, từ đó
nâng cao năng lực sản xuất, dịch chuyển LRAS sang phải và thúc đẩy tăng trưởng bền vững. lOMoAR cPSD| 61265515
Do đó, trong hoạch định chính sách kinh tế, Chính phủ và doanh nghiệp cần coi
trọng đầu tư phát triển như một động lực kép: vừa kích thích tổng cầu ngắn hạn, vừa tạo
nền tảng cho tăng trưởng dài hạn.
Từ đó, có thể rút ra kết luận: đầu tư phát triển không chỉ đơn thuần là hoạt động
tăng thêm tài sản cố định, mà là động lực trung tâm thúc đẩy GDP tăng trưởng cả trong
ngắn hạn và dài hạn. Chính sách đầu tư hợp lý, kết hợp với quản lý hiệu quả vốn và đổi
mới công nghệ, là chìa khóa để các quốc gia đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và ổn định.
II. Tác động của đầu tư phát triển đến tăng trưởng kinh tế
1. Tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế
Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng kinh
tế thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR. Theo mô hình Harrod-Domar, đầu tư là nguồn
gốc của tăng trưởng kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng thì cần phải gia tăng đầu tư. Hay
nói cách khác, mức tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào mức gia tăng đầu tư thuần.
Hệ số ICOR (tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng) là tỷ số giữa quy mô đầu
tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn
vị sản lượng (GDP) tăng thêm.
Tại Việt Nam, giai đoạn 2018–2019 là thời kỳ tăng trưởng khá ổn định. Tỷ lệ đầu
tư phát triển toàn xã hội so với GDP dao động quanh mức 34,6%, tốc độ tăng trưởng
GDP đạt trên 7%. Tuy nhiên, hệ số ICOR trong giai đoạn này vào khoảng 6, tức là cần
khoảng 6 đơn vị vốn để tạo ra 1 đơn vị tăng trưởng. Dù chưa tối ưu, quy mô đầu tư lớn
vẫn đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2020, mặc dù đầu tư tăng lên 34,8% GDP,
nhưng ICOR tăng đến 14,3 do ảnh hưởng của đại dịch, vốn đầu tư vẫn cao nhưng sản
xuất đình trệ, dẫn đến tăng trưởng GDP chỉ đạt 2,87%. Đến năm 2022, đầu tư tiếp tục
ở mức cao - 33,5% GDP, ICOR giảm còn 4,82. GDP đạt 8,02%, cho thấy nền kinh tế
đang phục hồi từ tác động của đại dịch. Năm 2023, GDP tăng 5,05%, nhưng ICOR tăng mạnh đến 7,86.
Hệ số ICOR của Việt Nam trong những năm qua phản ánh nền kinh tế có hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư thấp, không ổn định. Nếu hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Việt
Nam bằng Hàn Quốc hay Nhật Bản đạt được trong giai đoạn tăng trưởng nhanh, thì tốc
độ tăng GDP của Việt Nam sẽ cao hơn nhiều. Chẳng hạn, đối với Nhật Bản vào những
năm 70 và Hàn Quốc vào những năm 80 của thế kỷ trước, cũng với mục tiêu tăng trưởng
nhanh và trình độ công nghệ như Việt Nam hiện nay, tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP thấp
hơn (khoảng 32-33%) nhưng hệ số ICOR chỉ từ 2,5 – 3. lOMoAR cPSD| 61265515
Nhìn tổng thể bức tranh kinh tế nước ta có thể chỉ ra một số nguyên nhân dẫn tới
tình trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư yếu kém. Một là, phân bổ vốn đầu tư chưa hợp
lý, dàn trải, không tập trung vào những ngành kinh tế trọng điểm có giá trị kinh tế cao
và có lợi thế theo quy mô, chưa tập trung vào các vùng động lực tăng trưởng. Hai là, cơ
cấu vốn đầu tư giữa các khu vực kinh tế chưa hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của
khu vực kinh tế nhà nước rất thấp. Ba là, quản lý vốn đầu tư còn nhiều bất cập, thời gian
thực hiện dự án đầu tư kéo dài, gây thất thoát, lãng phí. Năm là, cơ cấu và mô hình kinh
tế chậm đổi mới; đầu tư công nghệ và phương thức sản xuất của nền kinh tế lạc hậu dẫn
tới năng suất lao động thấp, giảm hiệu quả đầu tư.
Như vậy, đầu tư phát triển là động lực trực tiếp thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh
tế, nhưng hiệu quả sử dụng vốn mới là yếu tố quyết định để tăng trưởng của Việt Nam mạnh mẽ và bền vững.
2. Tăng tích lũy vốn, mở rộng sản lượng
Tác động cơ bản khác của đầu tư phát triển là gia tăng tích lũy vốn vật chất, qua
đó mở rộng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Xét trên cơ sở hàm sản xuất Cobb–
Douglas, sự gia tăng của yếu tố vốn (K) dẫn đến gia tăng mức sản lượng (Y). Tuy nhiên,
do đặc trưng của hàm sản xuất với hệ số α thuộc khoảng (0;1), hiệu suất biên của vốn
có xu hướng giảm dần nếu quá trình tích lũy vốn không đi kèm với cải thiện chất lượng
lao động (L) và nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).
Năm 2019, dự án Nhà máy Nhiệt điện BOT Vân Phong 1 tại Khánh Hòa được
thành lập, có tổng vốn đầu tư khoảng 2,58 tỷ USD, xây dựng nhà máy với công suất lắp
đặt 1.432 MW (công suất tinh 1.320 MW). Nhà máy sử dụng công nghệ lò hơi siêu tới
hạn với hàng loạt các thiết bị hiện đại, đảm bảo hiệu suất cao đồng thời đáp ứng các tiêu
chuẩn môi trường nghiêm ngặt của Việt Nam và quốc tế. Nhà máy dự kiến cung cấp
khoảng 8,5 tỷ kWh điện mỗi năm cho lưới điện quốc gia, tương đương khoảng 3% tổng
sản lượng điện năng toàn quốc. Từ ngày 24/1/2024, dự án chính thức đi vào vận hành,
góp phần đưa tổng giá trị sản phẩm ngành công nghiệp năm 2024 tăng 18,5% so với năm 2023.
Gia tăng vốn vật chất (K) thông qua dự án quy mô lớn trực tiếp làm tăng năng
lực sản xuất của nền kinh tế, cụ thể ở đây là gia tăng sản lượng điện, góp phần bảo đảm
cung ứng điện, giữ vững an ninh năng lượng quốc gia.
Qua đó, cho thấy vốn đầu tư giữ vai trò then chốt trong mở rộng quy mô sản
xuất, nhưng để tránh quy luật hiệu suất giảm dần, Việt Nam cần song hành với cải thiện
chất lượng lao động và đổi mới công nghệ lOMoAR cPSD| 61265515
3. Tác động đến tổng cầu
Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết, ta cần đầu tư. Đầu tư là một yếu tố
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu Ngân hàng thế
giới, đầu tư thường chiếm từ 24% đến 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước
trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư thể hiện rõ trong ngắn hạn. Khi tổng
cung chưa kịp thay đổi, gia tăng đầu tư (I) làm cho tổng cầu (AD) tăng (nếu các yếu tố khác không đổi).
Tại Việt Nam, dự án xây dựng đường sắt cao tốc độ cao trục Bắc - Nam là một
trong những dự án đầu tư phát triển trọng điểm. Trong lịch sử đầu tư công của đất nước
ta, đây là dự án có quy mô lớn nhất từ trước đến nay, dự kiến tổng chi xấp xỉ 70 tỷ USD.
Đây là con số khái toán ở mức tiền khả thi, rất lớn. Mức chi đầu tư này sẽ tác động đến
tăng trưởng kinh tế trong suốt thời gian dự án thi công.
Qua đánh giá sơ bộ, nếu như số tiền này được đưa vào triển khai từ nay đến năm
2035 thì tác động của đầu tư đường sắt cao tốc độ cao này làm tăng khoảng 0,97 điểm
% GDP. Đây là con số hết sức đáng kể, góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh
tế.Việc triển khai dự án tạo ra nhu cầu lớn về vật liệu xây dựng, máy móc thiết bị, lao
động và dịch vụ kỹ thuật, từ đó kích thích chi tiêu đầu tư (I) trong tổng cầu.
Trong ngắn hạn, thứ nhất tác động đến ngành xây dựng của chúng ta trong cơ
cấu GDP bởi vì đây là công trình xây lắp. Thứ hai là tác động đến các ngành phụ trợ
phục vụ cho công trình này, như ngành cung cấp vật liệu cho xây dựng công trình, kể
cả các vật liệu thông thường như cát, đá, sỏi hay vật liệu đặc chủng như sắt, thép để làm
đường ray hoặc các công trình khác. Thứ ba, tác động đến các ngành dịch vụ cung cấp
cho công trình này như tài chính, ngân hàng hay dịch vụ về huy động vốn…Và thứ tư,
tạo công ăn việc làm. Đây là công trình quy mô cực lớn, do vậy để huy động lực lượng
tham gia vào xây dựng công trình này sẽ tạo ra công ăn việc làm tương đối lớn, giúp
gia tăng thu nhập và nâng cao mức tiêu dùng (C) của các hộ gia đình liên quan.
Trong dài hạn, khi hoàn thành, đường sắt cao tốc Bắc – Nam giúp cải thiện kết
nối giao thông giữa các vùng kinh tế, giảm chi phí vận chuyển, thúc đẩy thương mại và
đầu tư mới. Điều này không chỉ làm tăng tổng cầu trực tiếp qua chi tiêu đầu tư và tiêu
dùng liên quan, mà còn gián tiếp nâng cao năng lực sản xuất, tức gia tăng tổng cung (Y) của nền kinh tế.
4. Tác động đến tổng cung
Xét theo trình tự thời gian, sau khi thực hiện giai đoạn đầu tư là giai đoạn vận
hành kết quả đầu tư. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi
vào hoạt động làm cho tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng. Sản lượng tăng,
giá giảm, tiêu dùng tăng và sản xuất được kích thích, từ đó mở rộng quy mô đầu tư.