Tài liệu môn Lịch sử đảng | Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Tài liệu môn Lịch sử đảng | Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF gồm 11 trang, giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (CT101)
Trường: Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)
1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau năm 1954
Ngay khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, với mưu đồ biến miền Nam Việt
Nam thành căn cứ quân sự, thuộc địa kiểu mới, tạo thành “con đê” ngăn chặn làn
sóng chủ nghĩa cộng sản tràn xuống Đông Nam Á, làm bàn đạp tấn công ra miền Bắc
Việt Nam, đánh phá phong trào giải phóng dân tộc, đế quốc Mỹ đã dựng lên chính
quyền Ngô Đình Diệm, dùng bạo lực phản cách mạng đàn áp, khủng bố dã man nhân
dân yêu nước miền Nam. Tháng 3-1959, Ngô Đình Diệm tuyên bố “đặt miền Nam
trong tình trạng chiến tranh”, “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”. Cách mạng
miền Nam bị tổn thất rất nặng nề.
Xu hướng chung của nhân dân thế giới lúc này là mong muốn giải quyết các
cuộc chiến tranh, xung đột bằng thương lượng hòa bình, ngăn chặn sự bùng nổ cuộc
chiến tranh thế giới mới. Trong lúc đó, những tác động phức tạp từ tình hình quốc tế,
đặc biệt là bất đồng giữa những nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa, làm cho phong
trào cách mạng, lực lượng cách mạng thế giới bị chia rẽ. Liên Xô, Trung Quốc bất
đồng quan điểm về đường lối và phương pháp tiến hành cách mạng, ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển của phong trào cách mạng trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Giới cầm quyền hiếu chiến Mỹ đã lợi dụng sự mâu thuẫn, chia rẽ đó để đẩy mạnh
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Việt Nam vừa ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài 9 năm, hậu quả để lại rất nặng
nề, kinh tế đinh đốn, xuất phát điểm để xây dựng chủ nghĩa xã hội rất thấp. Sự nghiệp
cách mạng của nhân dân miền Nam đã trải qua những tháng ngày gian khổ, khó khăn
nhất. Tình hình quốc tế và trong nước ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành đường
lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tình hình đó đòi hỏi Đảng phải nhanh chóng
hoạch định đường lối cách mạng cho cả nước, thống nhất ý chí và hành động cho
cách mạng của cả hai miền.
2. Quá trình Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
2.1. Đảng hoạch định đường lối cách mạng miền Nam và lãnh đạo cuộc
đấu tranh chống chế độ thực dãn kiểu mới của đế quốc Mỹ (1954-1960)
* Quá trình hình thành đường lối cách mạng miền Nam
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa II họp từ ngày 15 đến
ngày 18-7-1954, Đảng chủ động nhận diện kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông
Dương là đế quốc Mỹ. Nghị quyết Bộ Chính trị (9-1954) xác định nhiệm vụ của toàn
Đảng là củng co miền Bắc, đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở miền Nam.
Tháng 1-1956 và tháng 6-1956, Bộ Chính trị họp và xây dựng văn kiện Mẩy
vẩn đề về đường lối cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6-1956
khẳng định: cách mạng miền Nam cần kết hợp đấu tranh chính trị với vũ trang tự vệ.
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương khóa II (12-1957), xác định
đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dần ở
miền Nam, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm giải phóng miên Nam,
bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Tại Hội nghị lần thứ 14 (11-1958), đường lối
cách mạng trong cả nước và của mỗi miền đã được hình thành một cách tổng quát.
Qua nghiên cứu, đúc két kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh của nhân dân miền
Nam và bản Đề cương đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam do đồng chí Lê
Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ khởi thảo (8-1956), tháng 1-1959, Hội nghị lần thứ 15
Ban Chấp hành Trung ương khóa n họp tại Hà Nội bàn về đường lối cách mạng miền
Nam. Hội nghị họp kỳ thứ hai vào tháng 5-1959, thảo luận về chủ trương, đường lối
và ra nghị quyết về cách mạng miền Nam.
Trên cơ sở phân tích tình hình xã hội Việt Nam, Nghị quyết xác định: Cách
mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược song song tiến hành, đó là cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bấc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Hai
cuộc cách mạng có quan hệ hữu cơ với nhau: “Nếu không ra sức củng cố miền Bắc
và tích cực đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội thì không thể có chỗ dựa vững
chắc để ttanh thủ hòa bình thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ. Không
kiên quyết đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến ở miền Nam, cụ thể là
chê độ Mỹ - Diệm, thì cũng không thể tạo điều kiện thuận lợi nhất để hòa bình thống nhất Tổ quốc”1.
Về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam ở miền Nam, Nghị quyết chỉ rõ: “Nhiệm vụ
cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực
hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhãn dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thong nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh”2.
Nghị quyết xác định phương pháp cách mạng là dùng bạo lực cách mạng của
quần chúng nhân dân, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang; chủ trọng tăng cường
công tác mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân và công tác xây dựng Đảng,
xây dựng Đảng bộ miền Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đủ sức lãnh
đạo trực tiếp cách mạng miền Nam.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Vãn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2002, t.20, tr.62.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Vãn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2002, t.20, tr.81.
Nghị quyết Hội nghị kết luận: “con đường phát triển cơ bản của cách mạng
Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình
hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lẩy sức mạnh của
quần chúng, dựa vào lực lượng chỉnh trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực
lượng vũ trang để đảnh đổ quyền thong trị của đế quốc và phong kiến, đựng lên
chỉnh quyền cách mạng của nhân dân”3.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa quan trọng. Những nội dung cơ
bản của Nghị quyết đã phản ánh và đáp ứng đúng yêu cầu, mở đường cho cách mạng
miền Nam tiến lên, thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng trong
những thời điểm khó khăn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), đã bổ sung và phát
triển những quan điểm và chủ trương của Nghị quyết 15. Đại hội Iđiẳng định, đồng
thời tiến hành hai chiến lược cách mạng ở hai miền và xác định rõ vị trí, nhiệm vụ
cách mạng ở mỗi miền. Mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam (với vai trò là tiền tuyến lớn) với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
(với vai trò là hậu phương lớn). Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò
quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự
nghiệp thống nhất đất nước. Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp
đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tư tưởng, phương
châm chỉ đạo cách mạng miền Nam của Đại hội III là: kiên quyết giữ vững đường
lối hòa bình thống nhất nước nhà, giữ vững Hiệp nghị Giơnevơ, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.
Nghị quyết của Đại hội thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, không chỉ khơi
dậy sức mạnh tổng hợp của cả nước trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến mà
còn là nền tảng, sự định hướng cho bước phát triển tiếp theo của cả dân tộc khi đã
hoàn thành công cuộc giải phóng.
* Đảng ỉãnh đạo cuộc đẩu tranh của nhân dần miền Nam chống chế độ thực
dân kiểu mới của đế quổc Mỹ (1954-1960)
Trong hoàn cảnh khó khăn của những năm 1955-1958, mặc dù bị đàn áp, khủng
bố, tổn thất rất nặng nề, nhưng các tổ chức đảng ở miền Nam đã động viên và tổ chức
được 12 triệu lượt quần chúng đấu tranh chính trị dưới nhiều hình thức và mức độ
khác nhau đòi nhà cầm quyền Sài Gòn thi hành Hiệp định Giơnevơ, thực hiện các
quyền tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện hòa bình thống nhất đất nước trên
cơ sở độc lập, dân chủ, đấu tranh chóng lại sự khủng bố, đàn áp của quân đội và
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2002, t.20, tr.82.
chính quyền Sài Gòn, đặc biệt là chống chính sách “tố cộng”, “diệt cộng” tàn bạo
của chúng. Vào cuối giai đoạn này, thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng,
cách mạng miền Nam vượt qua thử thách khốc liệt để chuyển từ đấu tranh chính trị
lên khởi nghĩa từng phần.
Cao trào Đồng khởi năm 1960 đã đập tan từng mảng lớn chính quyền cơ sở của
địch ở nông thôn, đã làm phá sản một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực
dân mới mà đế quốc Mỹ dựng lên tại miền Nam Việt Nam, đưa cách mạng miền Nam
thoát ra khỏi thời kỳ khó khăn, tổn thất, chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến
công. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập (20-12-1960),
đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng miền Nam.
2.2. Đảng lãnh đạo đấu tranh chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
(1961-1965)
Ngày 20-1-1961, Kennơđi lên làm Tổng thống Mỹ, thông qua chiến lược toàn
cầu mới với tên gọi “Phản ứng linh hoạt”. “Chiến tranh đặc biệt” là một bộ phận trong
chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt”. Với công thức: cố vấn, vũ khí Mỹ và quân
chủ lực Việt Nam Cộng hòa, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm triển khai thực hiện
kế hoạch Xtalây-Taylo, bình định miền Nam trong vòng 18 tháng; xương sống của kế
hoạch này là quốc sách lập ấp chiến lược. Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa dự
định lập 17.000 ấp chiến lược, thực hiện “tát nước, bắt cá”, tách nhân dân ra khỏi lực
lượng cách mạng, bình định nông thôn miền Nam.
Tháng 1-1961, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về “Phương hướng và nhiệm vụ công
tác trước mắt của cách mạng miền Nam”, quyết định chuyển cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng, chỉ rõ những
nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam là tiêu hao lực lượng quân đội Sài Gòn và
làm phá sản quốc sách ấp chiến lược của địch.
Ngày 23-1-1961, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
III quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam.
Tháng 12-1963, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ chín, xác định những
vấn đề quan trọng về đường lối cách mạng miền Nam và đường lối đoàn kết quốc tế
của Đảng. Nghị quyết Trung ương 9 khóa III xác định “đấu tranh vũ trang đóng vai
trò quyết định trực tiếp” thắng lợi trên chiến trường.
Tháng 3-1964, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Hội nghị
chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết và quyết tâm chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Thực hiện chủ trương đẩy mạnh cuộc chiến tranh cách mạng với phương châm
“hai chân, ba mũi, ba vùrig”, quân và dân miên Nam đã lập chiến công ở Ấp Bắc (2-
1-1963), thể hiện sức mạnh và hiệu quả của đấu tranh vũ trang kết họp với đấu tranh
chính trị và binh vận, chống địch càn quét và nổi dậy giành quyền làm chủ. Sau chiến
thắng Ấp Bắc, phong trào thi đua với Ấp Bắc được đẩy mạnh khắp miền Nam. Chiến
thắng Bình Giã (12-1964), Ba Gia (5-1965), Đồng Xoài (7-1965)... đã sáng tạo một
hình thức tiến công, phương châm tác chiến độc đáo ở miền Nam là: hai chân (quân
sự, chính trị), ba mũi (quân sự, chính trị, binh vận), ba vùng (đô thị, nông thôn đồng bằng, miền núi).
Với tinh thần chủ động, sáng tạo, sau hơn 4 năm (từ năm 1961 đến giữa năm
1965), lực lượng cách mạng đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế
quốc Mỹ ở miền Nam. Ba trụ cột của chiến lược này là xây dựng chính quyền mạnh,
xây dựng quân đội Việt Nam Cộng hòa mạnh và bình dịnh nông thôn miền Nám
bằng các ấp chiến lược đều không thực hiện được. Chính quyền Ngô Đình Diệm bị
lật đổ (1-11-1963) gây nên tình hình rối loạn kéo dài trên chính trường miền Nam thời gian sau đó.
2.3. Đảng lãnh đạo đấu tranh chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
(1965-1968)
“Chiến tranh cục bộ” là một hình thức chiến tranh trong chiến lược toàn cầu
“Phản ứng linh hoạt” của Mỹ. Đế quốc Mỹ đưa quân chiến đấu và quân các nước
Đồng minh của Mỹ vào trực tiếp tham chiến, đóng vai trò chủ yếu trên chiến trường
miền Nam. Đồng thời, mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân
đối với miền Bắc Việt Nam nhằm làm suy yếu miền Bắc và ngăn chặn sự chi viện
của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.
Trước tình hình cách mạng miền Nam diễn biến hét sức phức tạp, vận mệnh
dân tộc đứng trước những thách thức nghiêm trọng, Đảng kiên định lập trường, lãnh
đạo nhân dân kiên quyết kháng chiến. Ngày 25-3-1965, Hội nghị lần thứ 11 Ban
Chấp hành Trung ương khóa III họp, ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp
bách trước mắt, quyết định chuyển toàn bộ miền Bắc từ thời bình sang thời chiến
trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, tổ chức, kinh tế, an ninh, quốc phòng và đối ngoại;
đảm bảo cho miền Bắc có đầy đủ sức mạnh đánh thảng không quân, hải quân Mỹ;
duy trì và giữ vững sản xuất, tăng khả năng chi viện cho chiến trường miền Nam.
Tháng 12-1965, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương đã phân tích
một cách toàn diện chiến lược mới của Mỹ, kết luận: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào
miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, cuộc chiến đấu của quân và dân ta sẽ khó
khăn, gian khổ gấp bội nhưng do quân Mỹ vào trong thế thua, thế bị động nên lực
lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Vì thế, cuộc kháng chiến vẫn
giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công. Kết hợp đấu tranh quân sự và đấu
tranh chính trị, nhưng đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp. Phương
châm là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Hội nghị hạ quyết tâm: “động viên
lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa
bình thống nhất nước nhà”4.
Quân và dân miền Nam đánh thắng Mỹ ở Núi Thành, Vạn Tường, Bầu Bàng,
Đất Cuốc, Plâyme..., đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và
1966-1967, làm thất bại kế hoạch “tìm và diệt”, bình định nhằm giành quyền chủ
động trên chiến trường của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn. Miền Bắc bước đầu đánh
thắng chiến tranh phá hoại, đảm bảo giao thông thông suốt, chi viện cho chiến trường
ngày càng nhiều và hiệu quả.
Kết hợp với những thắng lợi về quân sự và chính trị, ngày 28-1-1967, Hội nghị
lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm
tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, bè bạn, mở ra cục diện vừa đánh, vừa đàm, phát huy
sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ.
Phát huy thắng lợi đánh thắng hai cuộc phản công chiến lược của quân Mỹ và
quân đội Sài Gòn, tháng 12-1967, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về “tổng công kích,
tổng khởi nghĩa”. Nghị quyết của Bộ Chính trị sau đó được Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 14 họp tháng 1-1968 thông qua.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, đêm 30 rạng sáng ngày 31-1-1968
(giao thừa Tết Mậu Thân năm 1968), quân và dân miền Nam đồng loạt nổ súng tổng
tiến công và nổi dậy, đánh vào hầu hết các cơ quan đầu não địch ở trung ương và địa
phương, tại hàng trăm thị xã, thị trấn, căn cứ quân sự của Mỹ, từ Đường 9 - Khe Sanh
đến đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt mạnh mẽ, vang dội ở Sài Gòn - Gia Định, Huế.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một đòn tiến công chiến
lược đánh vào đầu não kẻ thù. Đây là thất bại chiến lược có tính chất bước ngoặt, khởi
đầu quá trinh đi đến thất bại hoàn toàn của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Chiến lược
“Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ phá sản. Nước Mỹ buộc phải chấp nhận đàm
phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ ngày 13-5-1968 tại Pari. Tổng
thống Mỹ Giônxơn tuyên bố: ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở ra Bắc và ngừng
hoàn toàn việc ném bom miền Bắc từ ngày 1-1 -
1 1968; không ra tranh cử Tổng thống
nhiệm kỳ thứ hai; triệu hồi tướng Oétmolen, Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam về
4 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2003, t.26, tr.634.
nước; không chấp nhận yêu cầu đưa thêm quân Mỹ đến miền Nam Việt Nam. Sau các
đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, địch tổ chức phản kích quyết liệt,
đẩy chủ lực ta ra xa khỏi các thành thị, các vùng ven, vùng đồng bằng, tiến hành bình
định trên quy mô lớn, đồng thời triển khai hàng loạt biện pháp nhằm triệt phá cơ sở cách mạng miền Nam.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Đảng mắc một số sai
lầm, khuyết điểm nghiêm trọng: chủ quan trong đánh giá tình hình nên đề ra yêu cầu
quá cao, chưa sát thực tế. Đảng kết luận: “Tết Mậu Thân thắng rất lớn, mà nhất là
đánh bại được ý chí xâm lược của Mỹ, tạo nên bước ngoặt quyết định của chiến tranh.
Nhưng sau đó ta chuyển chậm, chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào đô thị khi
không còn điều kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất”5.
2.4. Đảng lãnh đạo đấu tranh đánh bại Chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” (từ năm 1969 đến tháng 4-1975)
Ngày 20-1-1969, Níchxơn lên làm Tổng thống Mỹ, đưa ra chiến lược chiến
tranh mới: “Việt Nam hóa chiển tranh”, với các nội dung: từng bước rút quân chiến
đấu Mỹ về nước, nỗ lực xây dựng quân đội và bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng
hòa để thay thế quân Mỹ; đẩy mạnh thực hiện bình định nông thôn; đánh vào hậu
phương quốc tế của Việt Nam.
Thực hiện chiến lược này, Mỹ tăng cường viện trợ, xây dựng quân đội Sài Gòn
về mọi mặt, mặt khác tiến hành các cuộc hành quân càn quét và tiếp tục thực hiện
chương trình bình định. Mỹ coi chương trình bình định là biện pháp và là chìa khóa
của “Việt Nam hóa chiến tranh”, đồng thời Mỹ tìm cách mở rộng chiến tranh trên bán đảo Đông Dương.
Trong thời gian đầu đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”, do ta không nhận thức đầy đủ, kịp thời tính chất thâm độc của các kế hoạch
bình định nông thôn, không tập trung đúng mức sự chỉ đạo và lực lượng đối phó, nên
trước sự phản kích mãnh liệt của địch, chiến tranh nhân dân địa phương và thế trận
của cuộc kháng chiến bị suy giảm nặng nề.
Tháng 1-1970, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra
nhiệm vụ: đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên tất cả các mặt, vừa tấn công, vừa xây
dựng lực lượng, giành thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi quyết định, tiến tới thống nhất nước nhà.
5 Kết luận của Bộ Chính trị họp ngày 23-4-1994. Xem Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị:
Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975: Thẳng ỉợỉ và bài học, Nxb.Chính trị quếc gia Sự thật, H.2000, tr.160.
Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 18, Đảng chỉ đạo cách mạng miền Nam vượt
qua khó khăn gian khổ, kiên trì xây dựng và phát triển lực lượng, tiến công địch trên
cả ba vùng chiến lược, đánh bại từng bước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”
và “Đông Dương hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ trong những năm 1970-1971.
Tại chiến trường Lào, đầu năm 1970, thực hiện chủ trương của lãnh đạo Đảng
hai nước, liên quân Lào - Việt Nam đã phối hợp mở chiến dịch phản công quy mô
lớn, đánh bại cuộc hành quân của kẻ thù, bảo vệ căn cứ địa chủ yếu cùa Lào, phá thế
uy hiếp sườn phía Tây miền Bắc Việt Nam và tuyến vận tải Tây Trường Sơn.
Các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam phối họp với lực lượng kháng chiến
Campuchia kịp thời phản công đánh bại cuộc hành quân của 10 vạn quân Mỹ và quân
Việt Nam Cộng hòa sang Đông Bắc Campuchia (5-1970), giữ vững căn cứ và vùng
giải phóng tại đây, buộc Mỹ phải rút quân khỏi Campuchia (6-1970).
Năm 1971, quân và dân Việt Nam phối hợp với quân và dân Lào chủ động mở
chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào, đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn
“Lam Sơn 719” của Mỹ và quân đội Sài Gòn đánh ra khu vực Đường 9 - Nam Lào.
Quân và dân Việt Nam đã phối hợp với quân và dân Campuchia đập tan cuộc hành
quân “Toàn thắng 1-1971” của Mỹ đánh vào các hậu cứ kháng chiến tại Đông - Bắc Campuchia.
Đế quốc Mỹ đối phó bằng cách “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiên tranh ở miền Nam,
mở cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đánh phá miền Bắc từ đầu tháng 4-1972
bằng thủ đoạn hủy diệt tàn bạo. Tổng thống Mỹ Níchxơn đã sử dụng chính sách ngoại
giao thâm độc, chia rẽ và cô lập Việt Nam bằng việc thực hiện hai chuyến thăm
Trung Quốc (2-1972) và Liên Xô (5-1972), khiến cho cuộc kháng chiến của Việt Nam gặp nhiều khó khăn.
Đầu năm 1972, Hội nghị lần thứ 20 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đề ra
nhiệm vụ đẩy mạnh kháng chiến, đoàn kết phối hợp chiến đấu chặt chẽ với quân và
dân Lào, quân và dân Campuchia, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”
của Mỹ, đánh bại học thuyết Níchxơn.
Ngày 23-2-1972, Bộ Chính trị và Thường vụ Quân ủy Trung ương thông qua
kế hoạch cuộc tiến công chiên lược Xuân - Hè 1972. Ngày 30-3-1972, quân ta mở
cuộc tiến công Xuân - Hè 1972 trên chiến trường chính là Trị - Thiên, Tây Nguyên
và Đông Nam Bộ. Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược 1972 làm thay đổi cục
diện chiến tranh ở miền Nam.
Cùng vói thắng lợi ở miền Nam, quân dân miền Bắc đánh thắng cuộc chiến
tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ, đánh bại cuộc tập kích chiến lược đường không
bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương trên miền Bắc trong
12 ngày đêm cuối tháng 12-1972, buộc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán để ký kết Hiệp định Pari.
Cuộc đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội nghị Pari kéo dài suốt 4 năm 8 tháng
20 ngày, với 202 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo,
1.000 cuộc phỏng vấn, đã kết thúc vào ngày 27-1-1973 bằng Hiệp định về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam Cộng
hòa ngang nhiên vi phạm Hiệp định Pari, thực hiện nhiều hành động chiến tranh
trong vùng chúng kiểm soát và tiến hành lấn chiếm vùng giải phóng.
Tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị
quyết: “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của
cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới”.
Hội nghị dự kiến hai khả năng: Một là, có thể từng bước buộc địch thi hành
Hiệp định Pari; Hai là, lại phải tiến hành chiến tranh cách mạng để đánh bại địch,
giành thắng lợi hoàn toàn. Hội nghị khẳng định: “Con đường của cách mạng miền
Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm
vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa
cách mạng miền Nam tiến lên”6.
Tiếp tục tư tưởng chiến lược tiến công; nắm bắt thời cơ để giải phóng đất nước,
từ ngày 30-9 đến ngày 8-1 -
0 1974, Bộ Chính trị họp bàn về chủ trương giải phóng miền
Nam. Tại Hội nghị này, Bộ Chính trị đã phê chuẩn kế hoạch 2 năm 1975-1976 và kế
hoạch tác chiến năm 1975. Từ ngày 8-12-1974 đến ngày 8-1-1975, Bộ Chính trị tiếp tục
họp (lần 2), chỉ rõ: “Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp,
đánh những trận quyết định, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ...”7.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 bắt đầu bằng chiến dịch Tây
Nguyên, tiến công vào Buôn Ma Thuột ngày 10-3-1975. Trước thắng lợi lớn ở Tây
Nguyên, cuộc họp Bộ Chính trị ngày 18-3-1975 đã quyết định giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Sau khi làm chủ Buôn Ma Thuột và toàn bộ Tây Nguyên, tiêu diệt và làm tan
rã toàn bộ lực lượng Quân đoàn II và hệ thống chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở
Quân khu II, quân ta nhanh chóng phát triển cuộc tiến công xuống các tỉnh ven biển miền Trung.
Phối hợp với chiên trường Tây Nguyên, ngày 21-3-1975, chiến dịch tiến công
6 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2004, t.34, tr.232.
7 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2004, t.35, tr.192.
giải phóng Huế bắt đầu. Ngày 26-3, Huế được giải phóng. Cùng ngày, chiến dịch
tiên công giải phóng Đà Năng bắt đầu. Ngày 29-3, Đà Nẵng được giải phóng. Trên
đà thắng lợi của mặt trận Tây Nguyên và Huế, Đà Nẵng, ngày 25-3-1975, Bộ Chính
trị bổ sung quyết tâm chiến lược: giải phóng miền Nam trước mùa mưa.
Sau khi làm tan rã Quân đoàn I và II, giải phóng hoàn toàn địa bàn Quân khu
I và II của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ngày 1-4-1975, Bộ Chính trị quyết định
giải phóng miền Nam trong tháng 4-1975.
Sau khi tạo thế và lực, ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng
Sài Gòn - Gia Định bắt đầu. Vào lúc 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, cờ chiến tháng đã
được cắm trên dinh Độc lập. Toàn bộ lực lượng quân sự và bộ máy chính quyền địch
ở Quân khu III, Quân đoàn III bị tiêu diệt. Ngày 2-5-1975, cuộc chiến đấu để giải
phóng các địa phương còn lại ở đồng bằng sông Cửu Long và các đảo trên quần đảo
Trường Sa và các đảo, quần đảo ở Biển Đông giành thắng lợi.
3. Đánh giá quá trình Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
3.1. Ưu điểm
Đảng đã độc lập, tự chủ, xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam ở cả hai miền.
Đảng đã lãnh đạo phát huy đến mức cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù.
Đảng đã vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách
mạng, phương thức và nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân.
Đảng đã chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh
cách mạng, nghệ thuật tạo và nắm thời cơ, giành được những thắng lợi quyết định.
Đảng luôn chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ của cách mạng. 3.2. Hạn chế
Trong một số thời điểm, bước chuyển của chiến tranh cách mạng, chủ trương, sự
chỉ đạo chiến lược của Đảng có những sai lầm, khuyết điểm: Trong hai năm 1957-1958,
chậm chỉ đạo chuyển hướng đấu tranh chính trị, chậm xác định con đường cách mạng
miền Nam. Chủ quan tròng đánh giá tình hình, đặt ra yêu cầu cao so với khả năng thực
tế, nhất là sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, ta đã không kịp
thời kiểm điểm rút kinh nghiệm ngay để đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển
hướng kịp thời, chậm thấy cố gắng mới của địch và những khó khăn lúc đó của ta, cho
nên thế và lực cách mạng miền Nam bị khó khăn, tổn thất trong một thời gian. * * *
Ngay sau khi giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân
dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã bước ngay vào cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm suốt ba thập kỷ. Chính quyền cách mạng vừa thành lập đã phải lãnh đạo
nhân dân cả nước đương đầu và đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của
thực dân Pháp. Tiếp đó, lại đoàn kết toàn dân chống lại cuộc chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ. Trước họa xâm lãng, mọi người Việt Nam yêu nước nêu cao ý chí
“thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Với
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, quân và dân ta đã kết thúc vẻ
vang cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Đây là hai cuộc chiến tranh giải phóng chống ngoại xâm vì quyền lợi tối cao
của dân tộc và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại: giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến đã bảo vệ
được nền độc lập dân tộc, khởi đầu một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Kỷ
nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, thăng lợi này đã góp phần dẫn
đến những thay đổi to lớn và nhanh chóng có tính toàn cầu. Những bài học kinh
nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược, có ý nghĩa thực tiễn lớn lao và giá trị lâu dài đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.