/74
lOMoARcPSD| 61601608
Mục lục
CÂU 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC: ............................................. 1
CÂU 2.1: NGUYÊN LÍ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN ............................................................................. 7
CÂU 2.2: NGUYÊN LÍ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN.......................................................................................... 14
CÂU 3: QUY LUẬT TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG ................................. 22
THAY ĐỔI VỀ CHẤT ............................................................................................................................... 22
CÂU 4: QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦAC MẶT ĐỐI LẬP ............................ 28
CÂU 5: QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH.................................................................................. 34
CÂU 6: VAI TRÒ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC ......................................................................... 40
CÂU 7: QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT .................................. 47
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT .................................................................................................. 47
CÂU 8: QUY LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ H ......................................... 57
TẦNG KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG .............................................................................................. 57
CÂU 9: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI LÀ MỘT .................................. 60
QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN (Sách chuyên đề trang 192,193,198-201) ........................................ 60
CÂU 10: TÍNH TẤT YẾU, VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA ĐẤU TRANH GIAI .................................. 63
CẤP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .................................................................................................... 63
CÂU 11: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý............................................ 67
THỨC XÃ HỘI .......................................................................................................................................... 67
CÂU 12: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON ........................................... 70
NGƯỜI BẢN CHẤT CON NGƯỜI .................................................................................................... 70
TÀI LIỆU MÔN TRIẾT HỌC
CÂU 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VT CHẤT VÀ Ý THỨC:
*Khái niệm về vật chất của V.I. Lenin: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
*Khái niệm ý thức: Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ
óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
*Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất trước, ý thức sau, vật chất quyết
định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người.
lOMoARcPSD| 61601608
Biểu hiện mối quan hệ này trong đời sốnghội, đó là tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, tức
lĩnh vực vật chất quyết định nh vực ý thức, cụ thể hơn trong đời sống hội thì nhân tố vật
chất quyết định nhân tố ý thức. Nhân tố vật chất bao gồm: Điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống,
điều kiện khách quan, quy luật khách quan, khả năng khách quan,...
Nhân tố ý thức bao gồm: Tư tưởng, quan điểm, luận, đường lối, chính sách, mục tiêu, phương
hướng, biện pháp, giải pháp, cách thức hành động,...
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Vật chất tồn tại khách quan nguồn gốc sinh ra
ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não người trong quá trình phản
ánh hiện thực khách quan.
(Ví dụ: “Có thực mới vực được đạo”, “Có bột mới gột nên hồ”)
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Nội dung của ý thức mang tính khách quan, do thế giới
khách quan quy định. Sở dĩ ý thức có nội dung vì ý thức phản ánh hiện thực khách quan.
(Ví dụ: Câu chuyện cậu sống trong rừng cùng bầy sói không được tiếp xúc với loài người thì
hành động của cậu sau khi trở về xã hội cũng chỉ giống như những con sói.)
+ Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Bản chất sáng tạo bản chất hội của ý thức cũng
phải dựa trên những tiền đề vật chất nhất định. Do đó, sự phản ánh năng động, sáng tạo của ý thức
xuất phát từ thế giới khách quan, từ hoạt động thực tiễn của con người.
(Ví dụ: Tục ngữ có câu “Cái khó ló cái khôn”)
+ Vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức: Tri thức và các yếu tố của ý thức
đều dựa trên sự phản ánh vật chất. Svận động, phát triển của ý thức gắn liền với sự phát triển
của quá trình vật chất.
(Ví dụ: Dưới sự phát triển của lao động sản xuất, công cụ lao động bằng kim loại ra đời thay
thế công cụ lao động bằng đá.)
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
+ Tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện chỗ, ý thức sự phản ánh thế giới vật chất vào
trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra, ý thức không lệ thuộc một cách máy
móc vào vật chất.
+ Tự bản thân ý thức không thể có sức mạnh để tác động vào vật chất. Muốn có sức mạnh để tác
động vào vật chất thì ý thức phải được thâm nhập vào con người tổ chức thực hiện trong thực
tiễn. Chính ý thức quyết định thành công hay thất bại của con người trong thực tiễn.
(Ví dụ: Nếu không đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể
giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ.)
lOMoARcPSD| 61601608
+ Vai trò của ý thức thể hiện chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người. Nếu ý thức
phản ánh phù hợp với vật chất thì nó sẽ thúc đẩy các quá trình vật chất phát triển. Ngược lại, nếu
ý thức phản ánh không phù hợp với vật chất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các quá trình vật
chất.
(Ví dụ: Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 10000 độ C thì con người tạo ra các nhà
máy gang thép để sản xuất các loại thép với đủ các kích cỡ chủng loại, chứ không phải kích thước
thủ công xưa.)
+ Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn. Tuy nhiên, ý thức không thể vượt
quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan
và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
(Ví dụ: Ý thức học tập của các em học sinh vùng sâu vùng xa tuy rất tốt nhưng do điều kiện vật
chất còn khó khăn, mức độ tiếp cận thông tin của các em còn khá yếu.) nghĩa phương pháp
luận:
Thứ nhất, vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên tắc nh
khách quan; trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành
động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động chủ
quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí; cũng như là bệnh bảo thủ, trì trệ.
Thứ tư, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh
thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan.
VẬN DỤNG
1. Trong học tập
Các nhân tố vật chất tác động đến sinh viên điều kiện, hoàn cảnh gia đình, điều kiện khách quan
của môi trường học, năng lực học tập của chính sinh viên đó,… Nhiều sinh viên phải sống xa gia
đình, không còn được giáo viên quan tâm, nhắc nhở như lúc còn học cấp 3, phải làm quen lại với
bạn bè môi trường học tập mới, dẫn đến sinh viên cần phải những mục tiêu phù hợp, đề ra
những biện pháp cụ thể để vượt qua khó khăn và đạt được kết quả cao trong học tập.
Trước tiên về tri thức, chúng ta cần nhận thức được sự khác biệt giữa việc học đại học và học phổ
thông từ đó tìm kiếm phương pháp học tập hiệu quả, cũng như chủ động tự học, biết cách sắp xếp
thời gian linh hoạt hơn. Sinh viên cần tìm hiểu bài trước khi đến lớp, chủ động trao đổi thêm với
thầy cô, bạn bè về những phần kiến thức mà mình chưa hiểu, cũng như cố gắng tích lũy kiến thức
để có thể hoàn thành tốt những bài tập được giao. Về yếu tố tình cảm, sinh viên có thể tự tạo cho
lOMoARcPSD| 61601608
mình hứng thú với môn học qua việc m hiểu những điểm thú vị, giúp ích của môn học đối với
công việc hay cuộc sống của chúng ta sau này, từ đó cảm thấy thích học và trở nên thoải mái hơn
trong quá trình tiếp thu kiến thức. Ngoài ra sinh viên phải luôn giữ niềm tin vào những việc mình
đang làm, vào ngành mình đã chọn để không bị lạc lõng, mất phương hướng trong học tập. Chúng
ta cũng cần có ý chí kiên định để vượt qua mọi khó khăn, cám dỗ để có thể thành công trong quá
trình tích lũy tri thức.
Bên cạnh đó, mỗi sinh viên cần phải đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành động theo
các quy luật mang tính khách quan, thể hiện qua một số hành động như: đi học đúng giờ, tham dự
các tiết học đầy đủ, tuân theo nội quy của nhà trường đồng thời làm theo những lời mà giảng viên
hướng dẫn,…
Ngoài ra, sinh viên cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ. Cụ
thể cần phải tiếp thu chọn lọc những ý kiến mới, việc hôm nay không nên để ngày mai, không
chủ quan trước mọi tình huống, phải biết lắng nghe và tiếp thu sự góp ý của người khác.
Trong việc học tập, sinh viên cần phải xem xét đồng thời các nhân tố vật chất lẫn nhân tố ý thức.
dụ đối với việc đăng học phần, sinh viên cần phải tính đến năng lực học tập của bản thân,
điều kiện tài chính của gia đình, cân nhắc quỹ thời gian, không đăng học phần một cách tràn
lan với mục đích tốt nghiệp sớm tránh trường hợp học không theo kịp, dẫn đến hao phí tiền bạc,
thời gian, công sức mà kết quả lại không được như ý muốn.
2. Trong cuộc sống
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ căn bản mà chúng ta cần phải xác
định để có thể đưa ra quyết định đúng đắn cho mỗi hành động của mình. Trong cuộc sống ta luôn
chịu sự tác động của vật chất ý thức. Đối với cuộc sống sinh viên vật chất có thể điều kiện,
hoàn cảnh gia đình, môi trường (con người sinh viên tiếp xúc, văn hóa, nề nếp của gia đình,
nội quy trường học…). Vật chất quyết định ý thức nên ta phải tôn trọng và tuân theo những quy
luật khách quan đó. Sinh viên cần phải xác định những nhân tố vật chất ảnh hưởng đến cuộc
sống của bản thân, từ đó đưa ra những cách sống phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình, đồng
thời vẫn đảm bảo việc học tập ở trường.
Mặt khác, do ý thức tác động trở lại vật chất ta phải phát huy nh năng động chủ quan của ý
thức, bao gồm: Về tri thức, ta phải nhận thức được hoàn cảnh của gia đình, nhận thức được giá trị
của bản thân, mình giỏi gì, mình thích gì, mình làm được gì, từ đó tìm cho mình con đường đúng
đắn để đi, để vươn lên khỏi hoàn cảnh khó khăn. Về tình cảm, khi ta đã dùng tri thức để hiểu bản
thân mình thì ta đã biết được đam mê của chính mình, từ đó ta xây dựng nên ước mơ, sự yêu thích,
để làm động lực bước đi trên con đường mình đã chọn. Một khi đã chọn, là ta niềm tin sẽ thành
công, niềm tin vào ước mơ đó sẽ là ngọn đèn soi cho chúng ta không bị trệt khỏi con đường đúng
đắn mà mình đã đặt ra. Ngoài ra ta phải dùng ý chí để làm sức mạnh, kiên trì đến cùng, không b
khó khăn trước mắt mà từ bỏ ước mơ, để thành công.
lOMoARcPSD| 61601608
Ta cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, cũng phải tuân theo quy luật khách quan, nếu ta
cố gắng quá vượt qua khỏi mức chịu đựng của thể thì chúng ta phải nghỉ ngơi, không thể coi
thường sức khỏe. Đồng thời phải chống lại bệnh bảo thủ trì trệ, loại bỏ tưởng đổ lỗi cho hoàn
cảnh mà không nỗ lực cố gắng, hạ thấp tính tích cực của ý thức.
Và cuối cùng trong cuộc sống ta cần phải xem xét đồng thời các nhân tố vật chất lẫn tinh thần.
dụ nếu như sinh viên muốn đi làm thêm để có thể kiếm tiền trang trải cho cuộc sống của mình thì
sinh viên cần phải cân nhắc đến các yếu tố như điều kiện, hoàn cảnh làm việc, mức lương cũng
như năng lực của bản thân khả năng sắp xếp thời gian của mình để tránh việc dành quá nhiều
thời gian làm thêm mà ảnh hưởng đến việc học trong trường.
3. Trong công cuộc đổi mới
vật chất quyết định ý thức nên Đảng luôn tôn trọng hành động theo quy luật khách quan:
Đảng đã nắm bắt nghiên cứu thấu đáo bối cảnh quốc tế, nh hình thế giới, khu vực tác động
đến Việt Nam nhằm đề ra những sách lược sát, đúng, kịp thời, bảo đảm sự phát triển của đất nước.
Cụ thể là trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển nhanh, bền vững, Đảng đã thực hiện tốt xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại
cả về kinh tế hội, tập trung đầu phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, các nền tảng số
như: mạng 5G, trí tuệ nhân tạo (AI),…
Để có được những chủ trương, đường lối đúng đắn và kịp thời đó là nhờ tinh thần chủ động, sáng
tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đường
lối đổi mới đó kết quả của sự khảo nghiệm thực tiễn và đổi mới duy luận; bước phát
triển ý nghĩ trong nhận thức hành động của Đảng với những chủ trương, đường lối mang
tính đột phá.
Đảng ta vẫn lấy chủ nghĩa Mác - -Nin, tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tưởng, kim chỉ
nam cho mọi hành động, cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bản thân sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa hội một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của
nhân tố chủ quan, của nh năng động, sáng tạo. trước hết tri thức, những phát minh
đại, những đường lối chính sách đúng đắn có tính chất quyết thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Thêm vào đó là tình cảm, là niềm tin của người dân vào các chính sách, đường lối do Đảng đề ra.
Và còn là khối đại đoàn kết toàn dân và đó còn là ý chí, nhiệt tình, quyết tâm thực hiện cho được
hội xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam. Snghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp
sáng tạo đại của Đảng, Nhà nước, nhân dân. Không ý chí, hoài bão lớn, nghị lực lớn thì
không thể thực hiện được những nhiệm vụ trọng đại của dân tộc. Vấn đchỗ mọi nhiệt tình
và ý chí cách mạng hiện nay phải gắn liền với tri thức, hiểu biết, đặt trên sở khoa học, sự phát
triển tiềm lực trí tuệ của cả dân tộc.
Trong quá trình đổi mới, chúng ta cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, cũng như bảo thủ, trì
trệ. Cũng như trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã khẳng định: “phải
đấu tranh chống cái cũ, chống bảo thủ trì trệ, chống giáo điều rập khuôn, chống chủ quan nóng
lOMoARcPSD| 61601608
vội, chống tha hóa biến chất, chống những thói quen lỗi thời dai dẳng. Đây là cuộc đấu tranh cách
mạng gian khổ diễn ra trên mọi lĩnh vực và trong bản thân từng người chúng ta”
Ngoài ra, khi xem xét các hiện tượng kinh tế - hội của đất nước, Đảng đã luôn cân nhắc đến
nhân tố vật chất lẫn nhân tố ý thức như xem xét tình hình thế giới và khu vực, các chính sách kinh
tế - hội hiện hành đặc biệt tình hình nước Việt Nam ở thời điểm đó để có thể đưa ra những
đường lối, chủ trương phù hợp nhất cho công cuộc đổi mới của đất nước.
4. Trong giáo dục
Vật chất quyết định ý thức nên ta phải tôn trọng nguyên tắc khách quan, trong hoạt động thực tiễn
cần phải xuất phát từ thực tế khách quan. Thật vậy, trước xu hướng của hội hiện nay hội nhập
quốc tế, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước sự phát triển nhanh chóng của khoa học thuật, chương trình giáo dục
cũ khó đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới. Đứng trước điều kiện khách quan đó,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra những giải pháp cụ thể thông qua việc ban hành Chương trình
giáo dục phổ thông 2018.
Mặt khác, do ý thức tác động trở lại vật chất nên BGD&ĐT đã chú ý đề cao nhận thức của giáo
viên và học sinh về chương trình mới để phát huy tính năng động chủ quan của ý thức.
Cụ thể, về tri thức, giáo viên và học sinh cần nắm được tinh thần của chương trình giáo dục mới,
từ đó biết đổi mới sáng tạo để phù hợp với nội dung chương trình. Còn về mặt tình cảm, các nhà
lãnh đạo phải luôn dành sự quan tâm cho nền giáo dục nước nhà từ đó đề ra những chính sách
giáo dục, phát hiện sai lầm kịp thời để hoàn thiện cũng như đưa giáo dục nước nhà ngày càng phát
triển. Mỗi giáo viên với tình yêu dành cho nghề giáo, tình cảm cho học sinh sẽ luôn sẵn sàng, cố
gắng tiếp thu những cái mới trong giáo dục và cải thiện bài giảng nhằm truyền đạt kiến thức hiệu
quả nhất cho học sinh của mình. Cần xây dựng cho học sinh cần niềm yêu thích việc học có như
vậy đứng trước những cái thay đổi thay vì lo sợ, các em sẽ cảm thấy hào hứng tìm tòi, học hỏi sự
mới mẻ trong nó. Về ý chí, sự thay đổi bao giờ cũng mang đến nhiều khó khăn, thách thức, vì thế
cần thầy và trò cần phải cố gắng, nỗ lực thích nghi với sự thay đổi, trau dồi kiến thức, kỹ năng để
làm việc học tập hiệu quả hơn. Trong giáo dục, chúng ta cần chống lại sự chủ quan, duy ý chí
cũng như không được bảo thủ, trì trệ. Cụ thể, chúng ta cần phải khắc phục bất cập về chất lượng,
số lượng cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới phát triển giáo dục, trình độ
chuyên môn của một bộ phận nhà giáo còn yếu, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chưa đáp
ứng được yêu cầu dạy và học theo định hướng phát triển năng lực. Đã làm ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng giáo dục.
luôn xem xét giáo dục trong cả điều kiện khách quan điều kiện chủ quan. Đảm bảo chất
lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu của kinh tế xã hội và phát triển dựa trên các yếu tố chủ quan như
cơ sở vật chất, truyền thống và chính trị của đất nước.
lOMoARcPSD| 61601608
CÂU 2.1: NGUYÊN LÍ VỀ MỐI LIÊN HPHBIẾN
*Vai trò, vị trí của nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
Vị trí: 1 trong 2 nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Vai trò: Nguyên về mối liên hệ phổ biến cùng với nguyên về sự phát triển 2 nguyên
tính chất bao trùm toàn bộ phép biện chứng duy vật. *Nội dung
Khái niệm mối liên hệ: Mối liên hệ một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy
định lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành nên
sự vật, hiện tượng; giữa các sư vật, hiện tượng với nhau; giữa sự vật, hiện tượng với môi trường;
mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ kéo theo sự biến đổi của sự vật, hiện tượng
khác.
(Ví dụ: Quá trình cung - cầu trên thị trường, mối liên hệ giữa con người và môi trường sống, mối
liên hệ giữa môi trường và nên kinh tế.)
*Tính chất mối liên hệ
Tính khách quan:
+ Tính khách quan của mối liên hệ xuất phát từ tính thống nhất của vật chất thế giới. Các sự vật,
hiện tượng trong thế giới đa dạng, muôn hình, muôn vẻ như thế nào đi chăng nữa thì chúng
cũng chỉ những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất, kể cả ý thức con
người cũng vậy.
+ Đây mối liên hệ vốn của bản thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do sự áp đặt từ
bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản thân các
sự vật, hiện tượng hay các mặt, bộ phận trong một sự vật, hiện tượng luôn luôn chứa đựng các mối
liên hệ. Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn
của mình để đạt được hiệu quả cao nhất.
(Ví dụ: sự vận động của tự nhiên mưa, bão, lụt…hay sự vận động của xã hội. Con người cũng
phải chịu sự tác động của những người xung quanh, của tự nhiên, xã hội.) Tính phổ biến:
+ Tính phổ biến của mối liên hệ xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới vật chất. Mỗi
sự vật hiện tượng là một hệ thống có cấu trúc nội tại. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại một
cách cô lập, biệt lâp với các sự vật hiện tượng khác. Bản thân sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể
thống nhất.
+ Mối liên hệ có trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình, có cả trong tự nhiên,
xã hội và tư duy con người.
lOMoARcPSD| 61601608
(Ví dụ: Cây muốn sống thì phải trao đổi chất, quang hợp. Con người muốn tồn tại phát triển
phải tham gia vào các quá trình sản xuất vật chất… trong quá trình này con người còn phải tham
gia vào các hoạt động khác…) Tính đa dạng phong phú:
+ Tính da dạng, phong phú của mối liên hệ xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình của muôn vẻ của
thế giới vật chất. Trong thế giới nhiều kiểu mối liên hệ mỗi kiểu có đặc điểm riêng, vị trí,
vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
+ Sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối
liên hệ biểu hiện khác nhau như liên hệ bên trong liên hệ bên ngoài, mối liên hệ bản mối
liên hệ không cơ bản, mối quan hệ chủ yếu – mối quan hệ thứ yếu, …
dụ: Liên hệ giữa mặt trời trái đất, liên hệ hữu chất sống, liên hệ thực vật với
động vật…
*Ý nghĩa phương pháp luận:
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải xem xét tất cả các mặt các mối liên hệ, kể cả
những mặt khấu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định. V. I. Lênin
viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao qua và nghiên cứu tất cả các mặt các
mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó.
Hai là, trong vô vàn các mới liên hệ, trước hết cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, tức
là xem xét một cách có trọng tâm, trọng điểm, nhờ đó nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện
tượng.
Ba , sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tương thì cần phải đối chiếu với các mối liên
hệ còn lại để tránh mắc sai lầm trong nhận thức.
Bốn là, chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều (chi thấy một mặt mà không thấy
nhiều mặt, chỉ thấy một mối liên hệ mà không thấy các mối liên hệ khác).
Năm , chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải (coi mọi mối liên hệ như nhau), nghĩa
chống lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
Sáu , chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu tành cái chủ yếu, quy cái không bản thành
cái cơ bản; bằng lý lẽ, lập luận tưởng rằng có lý, nhưng thật chất là vô lý.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
Thứ nhất, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh lịch sử -
cụ thể; trong điều kiện, môi trường cụ thể, trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định;
trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ
tọa độ nhất định…
lOMoARcPSD| 61601608
Thứ hai, cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác nhau phải
giải quyết trong thực tiễn.
Thứ ba, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể nhất
định, như theo V. I. Lênin, “phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”, đó là “bản chất” và “linh hồn
sống” của chủ nghĩa Mác.
VẬN DỤNG
1. Trong học tập:
Quan điểm toàn diện:
Việc vận dụng quan điểm toàn diện trong học tập giúp sinh viên định hướng sâu cao hơn
trong việc học để ngày càng phát triển và hoàn thiện bản thân.
Đặt việc học vào các mối liên hệ khác nhau: cần học cái gì, học như nào, khi nào học, áp dụng
như nào, áp dụng vào đâu,... Từ đó ta có thể rút ra mối quan hệ giữa những điều ta học được để
tạo nên một hệ thống kiến thức cần thiết cho quá trình học tập. Ví dụ như trong việc học Toán thì
có những kiến thức mà Toán không làm rõ, chỉ khái quát vấn đề, trong khi các môn khác lại tập
trung làm rõ vấn đề đó thì ta phải tìm hiểu sâu sắc hơn và tiếp thu những ý kiến khác nhau có
được kiến thức phù hợp.
Trong quá trình học tập chúng ta cũng cần phải những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu để học một
cách có trọng tâm, trọng điểm. Cụ thể trong cả quá trình học tập, chúng ta xác định mối liên hệ
cơ bản đó chính là phương pháp học tập của bản thân. Phương pháp học tập ảnh hưởng rất nhiều
đến việc chúng ta tiếp thu kiến thức cũng như có thể hoàn thành tốt một môn học bất kì. Ngoài
ra, sức khỏe là mối quan hệ cơ bản và tác động trực tiếp lên mỗi người chúng ta nên sinh viên
còn cần chú ý rèn luyện thể chất để có đủ sức khỏe hoàn thành các môn học trường. Còn trong
từng giai đoạn học tập, chúng ta rút ra mối liên hệ chủ yếu đó là xác định những học phần quan
trọng và dành nhiều thời gian hơn cho những học phần đó.
Bên cạnh đó, chúng ta cần tránh đánh giá sự vật một cách siêu hình, phiến diện, chỉ nhìn một vài
mặt, một liên hệ đã đi đến liên kết luận bản chất sự vật đó. Chẳng hạn như ta đánh giá một môn
học là không cần thiết vì nó không liên quan đến chuyên ngành nhưng thật chất nó cung cấp cho
ta những kỹ năng cần thiệt cho công việc sau. Mỗi sinh viên cũng cần chống lại thuật ngụy biện,
không đổ lỗi cho thầy cô, nhà trường khi kết quả học tập kém.
Quan điểm lịch sử, cụ thể:
bậc đại học, chương trình đào tạo, phương pháp dạy học, môi trường điều kiện học,…
nhiều thay đổi, yêu cầu ta phải thay đổi để thích ứng với môi trường mới.
Đầu tiên là tự học: Khi vào đại học, không còn việc “thầy đọc trò chép”, mà đòi hỏi sinh viên tự
tìm kiếm và giải quyết vấn đề được đặt ra. Từ đó quá trình nhận thức của sinh viên ngày càng
phát triển, phát huy khả năng sáng tạo, tìm tòi, có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn.
lOMoARcPSD| 61601608
Tiếp theo, khiêm tốn, học hỏi mọi người luôn tìm tòi để thể nâng cao kiến thức cho bản thân
vì sự vật hiện tượng là vô hạn và phong phú.
Kế tiếp, học có hệ thống. Mỗi học phần chứa một lượng kiến thức nhất định, và có mối liên hệ
với nhau. Do đó sinh viên cần xác định được các tính chất đặc thù của mỗi phần để hệ thống
chuỗi kiến thức một cách rõ ràng, chuẩn xác.
(Việc giao lưu, tham gia câu lạc bộ và tạo mối quan hệ tốt với bạn bè, thầy cô cũng là điều cần
thiết.
Trong môi trường đại học, thường xuyên làm việc nhóm giúp phát triển trong học tập cũng như
các kỹ
năng mềm. Kết nối với thầy cô là kết nối với tri thức, ta sẽ khắc phục được lỗ hổng trong học tập
tình thầy trò khăng khít.)
Chúng ta cần phải xem xét việc học trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn khác nhau. Ví
dụ như là sinh viên năm nhất, chúng ta nên chú trọng vào học tập, đến năm hai, năm ba, chúng ta
nên phân bố thời gian để rèn các kĩ năng mềm hoặc làm thêm để có thêm kinh nghiệm thực tiễn.
*Do đó, là sinh viên, việc vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể giúp ta
phát triển, hoàn thiện bản thân hơn, rèn luyện phẩm chất, học hỏi từ bạn bè và xã hội, đáp ứng
được nhu cầu, lợi ích của xã hội hiện nay, để xã hội tiếp tục phát triển trong tương lai.
2. Trong cuộc sống:
Quan điểm toàn diện:
Quan điểm toàn diện giúp ta biết rằng khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng nào đó, phải
xem xét một cách toàn diện, mọi mặt của một vấn đề để hiểu được bản chất của sự vật hiện
tượng, không nhìn bề ngoài mà phán xét hay kết luận.
Trong cuộc sống hiện nay, mối liên hệ cơ bản chủ yếu chính là mối liên hệ giữa người với người.
Mỗi cá nhân sẽ tác động qua lại với người họ tiếp xúc, từ đó bộc lộ tính cách, bản chất con người
họ.
Cụ thể hơn trong cuộc sống hằng ngày khi chúng ta giao tiếp, khi đánh giá một người bạn mới
quen phải xem xét nhiều mặt: thể lực, trí lực, phẩm chất, học tập, đoàn thể...; nhiều mối liên hệ
giữa người đó với thầy cô, nhân viên, bạn bè, chủ nhà trọ;gia đình... giữa các mặt, mối liên hệ đó
tác động qua lại, phải có cái nhìn bao quát chỉnh thể đó, rối từ đó rút ra bạn đó là người như thế
nào. Chứ không thể chỉ thông qua cách bạn đó ăn nói mà vội đánh giá.
Hoặc ví dụ với những bạn vừa vào một môi trường mới, rất dễ dàng để chúng ta ấn tượng hay bị
cuốn hút về ngoại hình, tính cách của các bạn khác. Tuy nhiên ta chỉ dựa vào đó mà đánh giá cả
một con người thì đánh giá đó là hoàn toàn sai lầm, vì đó chỉ là cách đánh giá phiến diện. Tính
lOMoARcPSD| 61601608
cách và ngoại hình là hai mặt khác nhau nên ta không thể vội vàng kết luận được một người có
ngoại hình tốt là có tính cách tốt được vì đó chỉ nhìn vào một mặt. Mà quá trình đánh giá người
khác là một quá trình lâu dài và toàn diện bởi khi ta tiếp xúc về mọi mặt của họ và chỉ khi ta tiếp
xúc đủ lâu thì ta sẽ thấy rõ được bản chất thật sự của họ.
Quan điểm lịch sử, cụ thể:
Chúng ta áp dụng quan điểm lịch sử, cụ thể trong giao tiếp hằng ngày với mọi người xung
quanh. Tùy trường hợp cụ thể mà ta có những cách ứng xử khác nhau cho phù hợp, ta phải biết
mình đang ở trong hoàn cảnh nào để có những lời nói và hành vi phù hợp. Ví dụ như khi giao
tiếp với người lớn thì ta cần có thái độ tôn trọng, lễ phép. Còn khi ta trò chuyện với bạn bè thì có
thể thoải mái hơn trong cách diễn đạt, dùng từ.
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải xem xét việc học trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn
khác nhau. Chẳng hạn như ta có một người bạn tính cách không tốt, không hòa đồng với bạn bè
nên ta không thích chơi với bạn. Nhưng sau một thời gian, người bạn đó có sự thay đổi để bản
thân tốt lên, hòa hợp với mọi người xung quanh thì ta cần có một cái nhìn khác, đối xử khác đi
với bạn, không thể chỉ nhớ đến cái xấu của bạn trước đây mà còn phải nhìn nhận những phát
triển tích cực.
Hay khi học ở bậc THCS - THPT, chúng ta đa số lệ thuộc vào gia đình, được ba mẹ chăm lo về
nhiều thứ. Nhưng khi bước chân vào ngưỡng cửa đại học, chúng ta phải sống xa nhà, rời xa sự
chăm sóc của ba mẹ, đồng nghĩa với việc phải thay đổi bản thân, phải tự mình lo liệu nhiều thứ
và rèn luyện tính tự lập cũng như hòa đồng để sống trong môi trường mới.
*Do đó, việc áp dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể không những giúp ta
nhìn nhận đúng đắn bản chất của sự vật, hiện tượng xung quanh mà còn giúp ta có những mối
quan hệ tốt đẹp hơn với mọi người.
3. Trong giáo dục Việt Nam:
Vận dụng quan điểm toàn diện, trong quá trình đổi mới giáo dục, chúng ta vẫn phải xác định rõ
mối liên hệ cơ bản vẫn là mối liên hệ giữa người học và tri thức, giáo dục thành công là khi
người học nắm bắt được tri thức và tri thức tác động tích cực lên tư duy của con người. Đồng
thời cũng phải đặt nó trong mối liên hệ khác như giữa mối liên hệ giữa học sinh với giáo viên,
giữa học sinh với nhà trường, giữa tri thức và công việc tương lai của học sinh,...
Bên cạnh đó, chúng ta cần tránh đánh giá sự vật một cách siêu hình, phiến diện, chỉ nhìn một vài
mặt, một liên hệ đã đi đến liên kết luận bản chất sự vật đó. Chúng ta không thể đánh giá một học
sinh là yếu kém khi em ấy đạt điểm số thấp ở các bài thi môn tự nhiên, cần biết rằng mỗi người
có một thế mạnh riêng nên chúng ta phải đồng thời xem xét ở các môn học khác em ấy biểu hiện
như thế nào. Mỗi sinh sẽ giỏi các môn khác nhau văn học, hội họa, âm nhạc,... Nên trong quá
trình học mỗi học sinh sẽ có mối liên hệ chủ yếu với các môn khác nhau, vì thế không thể đòi hỏi
một học sinh phải giỏi tất cả các môn.
lOMoARcPSD| 61601608
Ngoài ra trong bối cảnh hiện nay, thời kì khoa học công nghệ đang trên đà phát triển mạnh cùng
với xu hướng hội nhập quốc tế. Giáo dục lại có mối liên hệ mật thiết với kinh tế, với công cuộc
hiện đại hóa đất nước nên giáo dục cần phải chú trọng nâng cao kĩ năng người học nhất là về hai
mảng ngôn ngữ và công nghệ, cũng với đào khả năng làm việc chuyên nghiệp, mang tính quốc
tế. Để đảm bảo mối liên hệ giữa kiến thức, kĩ năng của người học với khả năng làm việc sau này.
Để phát triển giáo dục được tuân theo mối quan hệ phổ biến, Đảng và nhà nước đã đường lối
chỉ đạo như sau:
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn
dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội.
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp
thiết; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các
cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học;
đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ
quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo
dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp
ứng yêu cầu số lượng.
- Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực
và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết
hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và
giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục và đào tạo.
- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo
dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào
tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng
xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và
đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Tóm lại, nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đã giúp nhà nước, và các cá nhân liên quan đến giáo
dục hiểu rõ tầm quan trọng của việc chú ý các mối liên hệ liên quan tới việc phát triển nền giáo
dục của đất nước. Từ đó mà chúng ta biết được, ở thời điểm nào cần chú trọng vào yếu tố nào để
phát triển giáo dục hiệu quả nhất.
lOMoARcPSD| 61601608
Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể, khi xem xét ngành giáo dục của nước ta, Đảng và Nhà
nước đã đề ra ba cuộc cải cách tương ứng với từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, các tính chất đặc thù
của tình hình nước nhà khi đó. Cuộc cải cách giáo dục thứ nhất (năm 1950), nhằm xây dựng nền
giáo dục dân chủ nhân dân. Trong điều kiện Việt Nam vừa giành được độc lập lại phải đối phó
với nạn ngoại xâm, sau năm 1945 nhiệm vụ "chống giặc dốt" được đặt ngang hàng với nhiệm vụ
chống giặc đói và giặc ngoại xâm; chính sách giáo dục khi đó là tập trung xoá nạn mù chữ, dùng
tiếng Việt dạy và học ở tất cả các bậc học, xoá mọi tàn tích của chủ nghĩa thực dân trong nội
dung giáo dục, tiếp tục duy trì và phát triển giáo dục.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (năm 1956) nhằm phục vụ cho việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau khi Miền Bắc được giải phóng, Việt
Nam tiến hành cải cách giáo dục nhằm phát triển mạnh mẽ quy mô giáo dục, xây dựng một nền
giáo dục phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược (xây dựng Miền Bắc, thống nhất nước nhà). Giáo dục
được phát triển mạnh, hệ thống giáo dục quốc dân được xây dựng hoàn chỉnh; nội dung và
phương pháp giáo dục được cải tiến theo phương hướng cơ bản, hiện đại, Việt Nam.
Năm 1979, cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba được thực hành để xây dựng nền giáo dục chuyển
từ dân chủ nhân dân sang xã hội chủ nghĩa khi cả nước thống nhất. Đó một nền giáo dục quốc
dân thống nhất phù hợp với chiến lược tái thiết và phát triển đất nước.
Như vậy, căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước mà Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chính
sách cải cách phù hợp, nhằm phát triển giáo dục nước nhà.
4. Trong công cuộc đổi mới Việt Nam
Vận dụng mối liên hệ phổ biến trong công cuộc đổi mới đất nước đầu tiên cần quán triệt quan
điểm toàn diện:
Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ, kể cả
những mắt khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định. Vì vây, trong
công đổi mới, xây dựng đất nươc Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả lĩnh vực của đời sống
xã hội (kinh tế, chính trị, xã hội văn hóa, tư tưởng…) chứ không ở riêng một lĩnh vực nào. Như
Đại hội VII của Đảng nêu kinh nghiệm bước đầu đổi mới “Một là giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, hai là đổi mới toàn diện, đồng bộ và cách làm phù hợp”. Thực
hiện cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội. Trên từng
lĩnh vực nội dung mới bao gồm nhiều mặt cơ chế, chính sách tổ chức, cán bộ, phong cách và lề
lối làm việc.
Hai là, yêu cầu của quan điểm toàn diện là phải phân tích một cách toàn diện, vai trò của từng
mặt, từng mối liên hệ, phân biệt cái nào là cái cơ bản, là cái chủ yếu.Vận dụng quan điểm toàn
diện vào sự nghiệp đổi mới của nước ta, Đảng ta cũng đồng thời nhấn mạnh đổi mới tư duy lý
luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá và đổi mới kinh tế là trọng tâm. Trong
Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước
ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước;
lOMoARcPSD| 61601608
bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã
hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm
quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.
Ba là, quan điểm toàn diện yêu cầu trong hoạt động thực tiễn, muốn cải tạo sự vật phải thực hiện
đồngbộ nhiều giải pháp; phải xác định đúng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ đối với sự vận
động, phát triển của sự vật. Chống lại quan điểm phiến diện một chiều, chủ nghĩa chiết trung và
thuật ngụy biện. Không phải ngẫu nhiên mà Đại hội XIII của Đảng khẳng định “Tiếp tục phát
triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó,
phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”. Hay, tinh thần “Hoàn thiện
toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”...
Đồng thời, vận dụng triệt để nguyên lí lịch sử - cụ thể, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, để xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: “Kiên định
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực
tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội kiên định đường lối đổi
mới”.
Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, Đảng ta đã
rút ra một số bài học, trong đó có bài học thứ nhất là: “trong quá trình đổi mới phải chủ động,
không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp
với Việt Nam”(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII).
Thực tiễn cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không tuân theo những công thức có sẵn,
bất biến, mà chúng được vận dụng linh hoạt, luôn đổi mới để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
của mỗi nước và tình hình quốc tế. Ngày nay, tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp
đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ cần được giải quyết. Hơn bao giờ hết,
chúng ta cần nắm vững phép biện chứng duy vật, mài sắc tư duy biện chứng, vận dụng các
nguyên tắc phương pháp luận của nó để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay.
CÂU 2.2: NGUYÊN LÍ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
*Vị trí, vai trò của nguyên lí phát triển:
Vị trí: là 1 trong 2 nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Vai trò: Nguyên về mối liên hệ phổ biến cùng với nguyên về sự phát triển 2 nguyên
tính chất bao trùm toàn bộ phép biện chứng duy vật.
lOMoARcPSD| 61601608
*Nội dung
Khái niệm phát triển: Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật,
hiện tượng theo khuynh hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Ví dụ: Sự tiến hóa từ vượn, vượn người sang người, quá trình thay thế lẫn nhau của các thế hệ kỹ
thuật theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn *Các tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan: Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật, hiện tượng,
không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản thân sự vật, hiện
tượng luôn nằm trong quá trình phát triển. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân
của sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận
động của sự vật. Nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển một cách khách quan và không phụ thuộc
vào ý thức của con người.
(Ví dụ: Quá trình phát sinh một giống loài mới hoàn toàn diễn ra một cách khách quan theo quy
luật tiến hoá của giới tự nhiên. Con người muốn sáng tạo một giống loài mới thì cũng phải nhận
thức và làm theo quy luật đó.)
- Tính phổ biến: Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực
tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn
đến sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan.
(Ví dụ: Trong giới tự nhiên: Khả năng thích nghi trước môi trường mới của giới động thực vật,
sự tiến hóa từ đơn giản tới phức tạp, từ đơn bào tới đa bào, ngày càng xuất hiện nhiều loài động
thực vật với mức độ tiến hóa cao hơn)
- Tính kế thừa: Sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ định sạch
trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ. Sự vật hiện tượng mới ra đời
từ sự vật hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư vô. Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ
sở chọn lọc, giữ lại, cải tạo ít nhiều những bộ phận, đăc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái
cũ; đồn thời cũng đào thải loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu không thích hợp của cái cũ.
Ví dụ: Mác và Lênin không thể sáng tạo ra chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng
nếu không có sự kế thừa, bổ sung và phát triển từ ba nguồn gốc lý luận: Triết học cổ điển Đức,
kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tự phát. Từ đó xây dựng nên ba bộ phận xã
hội của chủ nghĩa Mác.
- Tính đa dạng, phong phú: Tính đa dạng và phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào
không gian và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó. Tuy sự phát triển
diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá
trình phát triển không giống nhau.
lOMoARcPSD| 61601608
(Ví dụ: Hai cây ổi cùng một giống nhưng thời gian ra quả, chất lượng quả khác nhau do điều
kiện sống và được chăm sóc của hai cây là chênh lệch nhau. Hay như các bạn sinh viên trong
cùng một lớp, mỗi bạn có năng lực tư duy khác nhau, điểm mạnh, điểm yếu khác nhau.)
nghĩa phương pháp luận:
Quan điểm phát triển yêu cầu:
Thứ nhất, khi nghiên cứu cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đối của nó
để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, nhà còn dự báo được khuynh hướng phát triển
trong tương lai.
Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn
đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp
để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển
chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu tố tích
cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải đặt nó:
+ Thứ nhất, trong từng điều kiện lịch sử - cụ thể.
+ Thứ hai, trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định.
+ Thứ ba, trong từng mối quan hệ nhất định.
VẬN DỤNG
1. Trong học tập
Trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay thế kỉ XXI, học là việc vô cùng quan trọng
đối với học sinh, sinh viên để phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Với sự vận động đi lên của
toàn hội thì sinh viên cần phải biết nắm chắc sở luận của quan điểm phát triển, để từ đó
có thể vận dụng một cách tối ưu, sáng tạo và hợp lý.
Đầu tiên, các cá nhân trong học tập cần phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của
sự vật, không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như
những biến đổi có tính chất thụt lùi. Chúng ta cần nắm rõ chương trình học, những điều cần thiết
khi theo ngành học đó và cũng phải thấy rõ khuynh hướng phát triển của chuyên ngành theo học
trong tương lai, tìm hiểu về các yêu cầu của xã hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên
cứu. hội hiện tại tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân, nâng cao tri thức
lOMoARcPSD| 61601608
cho phù hợp với nhu cầu của hội. Trong quá trình phát triển của mỗi nhân thể định hướng
cho bản thân mình vận dụng tính kế thừa của nguyên lý về sự phát triển trong cuộc sống, học tập
của sinh viên. Ngày nay chúng ta là công dân toàn cầu, việc học thêm các ngoại ngữ, áp dụng các
phần mềm, máy móc của nước ngoài trong học tập là điều cần thiết. Cần đặt ngành nghề đó trong
sự phát triển đi lên của toàn hội để từ đó cần kịp thời bổ sung những khía cạnh, những yếu tố
còn thiếu cho bản thân mình. Cuộc sống luôn luôn thay đổi chúng ta không thể chỉ sống cho hiện
tại cần phải liên tục cập nhật những “khuynh hướng” phát triển của đời sống.
Quá trình phát triển được chia ra nhiều giai đoạn, lúc sinh viên sẽ cảm thấy quá trình học tập
không chút tiến triển, dậm chân tại chỗ thì chúng ta tránh bi quan, tránh những suy nghĩ tiêu
cực. Mỗi người một thước đo cuộc sống khác nhau không thể từ đó áp vào bản thân mình
rồi cảm thấy tự ti, áp lực cùng trang lứa. Chẳng hạn, sinh viên thành tích không tốt trong một
bài kiểm tra đánh giá, nhưng trong quá trình học tập rèn luyện đã nỗ lực hết mình, cải thiện bản
thân không chỉ vì điều đó mà thái độ tiêu cực, đánh giá thấp bản thân để rồi từ bỏ. Quá trình ấy
cần được tiến hành từng bước từng bước, cần có thời gian để hoàn thiện bản thân, vì thế cần xem
xét kĩ lưỡng rồi mới đưa ra đánh giá cho bản thân mình.
Khi học cũng đừng vội vàng, nóng vội thay đổi sang ch học khác con đường khác khi chưa kiên
trì đủ lâu với phương pháp hiện tại.
Ngoài ra, sinh viên nhận diện và phê phán quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến trong nhận thức
hành động. Để ngăn chặn sinh viên cần rèn luyện ý thức tự chủ, độc lập ham học hỏi tiếp thu các
tưởng, văn hóa, khoa học công nghệ tiến bộ một cách chọn lọc phù hợp với văn hóa của dân
tộc. Chúng ta cần bỏ đi những phương pháp cũ, những tư duy lạc hậu. Không phải lúc nào thì lựa
chọn và việc chúng ta làm luôn luôn đúng. Sinh viên cần lắng nghe các ý kiến phải hồi từ bạn bè,
thầy cô, … Cần đổi mới phương pháp để có thể tiếp thu được nhiều nhất lượng kiến thức của bài
học và đúc kết cho mình những kiến thức cô đọng sau mỗi buổi học.
- Quan điểm lịch sử, cụ thể:
+ Ở bậc đại học, chương trình đào tạo, phương pháp dạy học, môi trường và điều kiện học,…
nhiều thay đổi, yêu cầu ta phải thay đổi để thích ứng với môi trường mới.
+ Đầu tiên là tự học: Khio đại học, không còn việc “thầy đọc trò chép”, mà đòi hỏi sinh viên tự
tìm kiếm giải quyết vấn đề được đặt ra. Từ đó quá trình nhận thức của sinh viên ngày càng phát
triển, phát huy khả năng sáng tạo, tìm tòi, có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn.
+ Tiếp theo, khiêm tốn, học hỏi mọi người luôn tìm tòi để thể nâng cao kiến thức cho bản
thân vì sự vật hiện tượng là vô hạn và phong phú
+ Kế tiếp, học có hệ thống. Mỗi học phần chứa một lượng kiến thức nhất định, và mối liên hệ
với nhau. Do đó sinh viên cần xác định được các tính chất đặc thù của mỗi phần để hệ thống chuỗi
kiến thức một cách rõ ràng, chuẩn xác.
lOMoARcPSD| 61601608
+ (Việc giao lưu, tham gia câu lạc bộ tạo mối quan hệ tốt với bạn bè, thầy cô cũng điều cần
thiết. Trong môi trường đại học, thường xuyên làm việc nhóm giúp phát triển trong học tập cũng
như các kỹ năng mềm. Kết nối với thầy kết nối với tri thức, ta sẽ khắc phục được lỗ hổng
trong học tập và tình thầy trò khăng khít.)
+ Chúng ta cần phải xem xét việc học trong sự vận động, phát triển từng giai đoạn khác nhau.
Ví dụ như sinh viên năm nhất, chúng ta nên chú trọng vào học tập, đến năm hai, năm ba, chúng
ta nên phân bố thời gian để rèn các kĩ năng mềm hoặc làm thêm để thêm kinh nghiệm thực tiễn.
+ sinh viên, việc vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể giúp ta phát triển, hoàn thiện bản thân
hơn, rèn luyện phẩm chất, học hỏi từ bạn xã hội, đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của hội
hiện nay, để xã hội tiếp tục phát triển trong tương lai.
+ Chúng ta cần phải xem xét việc học trong sự vận động, phát triển từng giai đoạn khác nhau.
Ví dụ như sinh viên năm nhất, chúng ta nên chú trọng vào học tập, đến năm hai, năm ba, chúng
ta nên phân bố thời gian để rèn các kĩ năng mềm hoặc làm thêm để thêm kinh nghiệm thực tiễn.
sinh viên, việc vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể giúp ta phát triển, hoàn thiện bản thân hơn,
rèn luyện phẩm chất, học hỏi từ bạn hội, đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của hội hiện
nay, để xã hội tiếp tục phát triển trong tương lai.
2. Trong cuộc sống
Để bản thân phát triển hơn theo hướng tính cực và phù hợp với sự vận động đi lên của toàn xã hội
thì sinh viên cần phải biết nắm chắc sở luận của quan điểm phát triển, để từ đó thể vận
dụng một cách tối ưu, sáng tạo và hợp lý.
Đầu tiên, cuộc sống mỗi sinh viên chúng ta đều đang vận động, biến đổi không ngừng. Mỗi ngày
chúng ta không ngừng tích lũy những kiến thức mới, kinh nghiệm mới, cũng như thay đổi hoàn
thiện tư duy, thói quen, nhân cách của bản thân
Hai là, các cá nhân trong học tập cần phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của sự
vật, không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những
biến đổi tính chất thụt lùi. Chúng ta cần nắm rõ xã hội hiện nay cần con người tố chất, đạo
đức như thế nào để định hướng phát triển bản thân trong tương lai. Xã hội đang cần những người
năng động, dễ dàng thích nghi khi điều kiện thay đổi. Để được như vậy sinh viên cần tích cực
tham gia các hoạt động phong trào, các CLB để tích lũy nhiều kinh nghiệm thực tế, biết cách ứng
biến khi gặp trở ngại. Đồng thời chúng ta cũng phải bổ sung những khía cạnh còn thiếu sót của
bản thân như giao tiếp kém thì phải biết rèn luyện, hay tiêu sài phung phí thì phải học cách tiết
kiệm hơn, làm sao để chi tiêu hiệu quả.
Ba là, quá trình phát triển được chia ra nhiều giai đoạn, khi mới lên thành phố mới nhiều sinh viên
không quen với nhịp sống nơi đây, không quen đường xá, đồ ăn, thức uống, khi đó cần chú trọng
tìm cách hòa nhập với môi trường sống xung quanh. Thời gian đầu mới tự đi học thì chúng ta có
lOMoARcPSD| 61601608
thể đi xe buýt, nhưng nếu sau này việc làm thêm, muốn thuận tiện di chuyển thì sinh viên cần
tập lái xe….
Bốn là, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, vội vàng xóa bỏ cái cũ, tạo ra cái mới khi chưa đủ
điều kiện chín muồi. Chúng ta không nên vội vàng tìm kiếm việc làm khi không rõ mục đích của
việc đó gì, lợi ích từ việc đó. Cần suy ngthấu đáo lựa chọn công việc phù hợp với
bản thân như vậy làm việc mới có giá trị và giúp chúng ta tích lũy kinh nghiêm.
Năm là, cần chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, cứ khăng khăng giữ cái cũ, Chúng ta cần bỏ đi những
phương pháp cũ, những duy lạc hậu. Không phải lúc nào thì lựa chọn việc chúng ta làm luôn
luôn đúng. Sinh viên cần lắng nghe các ý kiến phải hồi từ bạn bè, gia đình, thầy cô,… để thay đổi,
hoàn thiện đời sống của mình.
- Quan điểm lịch sử, cụ thể:
Chúng ta áp dụng quan điểm lịch sử, cụ thể trong giao tiếp hằng ngày với mọi người xung quanh.
Tùy trường hợp cụ thể ta có những cách ứng xkhác nhau cho phù hợp, ta phải biết mình đang
ở trong hoàn cảnh nào để có những lời nói và hành vi phù hợp. Ví dụ như khi giao tiếp với người
lớn thì ta cần thái độ tôn trọng, lễ phép. Còn khi ta trò chuyện với bạn thì thể thoải mái
hơn trong cách diễn đạt, dùng từ.
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải xem xét việc học trong sự vận động, phát triển từng giai đoạn
khác nhau. Chẳng hạn như ta một người bạn tính cách không tốt, không hòa đồng với bạn
nên ta không thích chơi với bạn.
Nhưng sau một thời gian, người bạn đó có sự thay đổi để bản thân tốt lên, hòa hợp với mọi người
xung quanh thì ta cần có một cái nhìn khác, đối xử khác đi với bạn, không thể chỉ nhớ đến cái xấu
của bạn trước đây mà còn phải nhìn nhận những phát triển tích cực.
3. Trong công cuộc đổi mới đất nước
Vận dụng nguyên tắc phát triển vào việc nhận thức về đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển của thời đại và điều kiện cụ
thể của nước ta, trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần th XII Đảng ta đã xác định mục tiêu
tổng quát: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc
và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động tích cực hội nhập
quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực trên thế
giới”
lOMoARcPSD| 61601608
Ngoài ra cần phân chia quá trình phát triển thành các giai đoạn, để vạch ra đặc điểm từng giai đoạn
từ đó đề ra các giải pháp phù hợp . Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng c định mục tiêu cụ thể
cho từng giai đoạn:
Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: nước
đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp
Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: nước đang phát triển, công nghiệp hiện
đại, thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao .Mục tiêu trên của Đảng
dựa trên nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa và bổ sung phù hợp với những thay đổi trong từng giai
đoạn phát
triển của đất nước, đồng thời nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước những chuẩn
mực phát triển chung của thế giới.
Để chống lại quan điểm chủ quan, duy ý chí, vội vàng xóa bỏ cái cũ cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền chính sách, luật pháp, Nhà nước phải tổ chức quá trình chuyển sang con đường phát triển
bền vững, gồm các hoạt động như huy động toàn dân tham gia thực hiện phát triển bền vững, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện phát triển bền vững và hợp tác
vì sự phát triển bền vững.
Cuối cùng, để chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ gây cản trở sự phát triển nhà ớc cần phát huy những
thành quả đạt được, thời gian tới cần tiếp tục đổi mới hình tổ chức, hình thức, phương thức
hoạt động của quan nnước Trung ương địa phương nhằm hướng tới một bộ máy nhà
nước tinh gọn, hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của các lĩnh vực xã hội.
Đồng thời, vận dụng triệt để nguyên lịch sử - cụ thể, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, Đảngta khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: “Kiên định chủ
nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ CMinh, vận dụng sáng tạo phát triển phù hợp với thực tiễn
Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội kiên định đường lối đổi mới”.
Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, Đảng ta đã
rút ra một số bài học, trong đó bài học thứ nhất là: “trong quá trình đổi mới phải chủ động,
không ngừng sáng tạo trên sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, vận dụng
sáng tạo phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, ởng Hồ Chí Minh, kế thừa phát huy truyền
thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt
Nam”(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII).
Thực tiễn cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa hội không tuân theo những công thức sẵn,
bất biến, chúng được vận dụng linh hoạt, luôn đổi mới để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
của mỗi nước và tình hình quốc tế. Ngày nay, tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601608 Mục lục
CÂU 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC: ............................................. 1
CÂU 2.1: NGUYÊN LÍ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN ............................................................................. 7
CÂU 2.2: NGUYÊN LÍ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN.......................................................................................... 14
CÂU 3: QUY LUẬT TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN NHỮNG ................................. 22
THAY ĐỔI VỀ CHẤT ............................................................................................................................... 22
CÂU 4: QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP ............................ 28
CÂU 5: QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH.................................................................................. 34
CÂU 6: VAI TRÒ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC ......................................................................... 40
CÂU 7: QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT .................................. 47
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT .................................................................................................. 47
CÂU 8: QUY LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ ......................................... 57
TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG .............................................................................................. 57
CÂU 9: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI LÀ MỘT .................................. 60
QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN (Sách chuyên đề trang 192,193,198-201) ........................................ 60
CÂU 10: TÍNH TẤT YẾU, VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA ĐẤU TRANH GIAI .................................. 63
CẤP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .................................................................................................... 63
CÂU 11: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý............................................ 67
THỨC XÃ HỘI .......................................................................................................................................... 67
CÂU 12: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON ........................................... 70
NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI .................................................................................................... 70
TÀI LIỆU MÔN TRIẾT HỌC
CÂU 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC:
*Khái niệm về vật chất của V.I. Lenin: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
*Khái niệm ý thức: Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ
óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
*Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết
định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người. lOMoAR cPSD| 61601608
Biểu hiện mối quan hệ này trong đời sống xã hội, đó là tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, tức
là lĩnh vực vật chất quyết định lĩnh vực ý thức, cụ thể hơn trong đời sống xã hội thì nhân tố vật
chất quyết định nhân tố ý thức. Nhân tố vật chất bao gồm: Điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống,
điều kiện khách quan, quy luật khách quan, khả năng khách quan,...
Nhân tố ý thức bao gồm: Tư tưởng, quan điểm, lý luận, đường lối, chính sách, mục tiêu, phương
hướng, biện pháp, giải pháp, cách thức hành động,...
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Vật chất tồn tại khách quan và là nguồn gốc sinh ra
ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não người trong quá trình phản
ánh hiện thực khách quan.
(Ví dụ: “Có thực mới vực được đạo”, “Có bột mới gột nên hồ”)
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Nội dung của ý thức mang tính khách quan, do thế giới
khách quan quy định. Sở dĩ ý thức có nội dung vì ý thức phản ánh hiện thực khách quan.
(Ví dụ: Câu chuyện cậu bé sống trong rừng cùng bầy sói không được tiếp xúc với loài người thì
hành động của cậu sau khi trở về xã hội cũng chỉ giống như những con sói.)
+ Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Bản chất sáng tạo và bản chất xã hội của ý thức cũng
phải dựa trên những tiền đề vật chất nhất định. Do đó, sự phản ánh năng động, sáng tạo của ý thức
xuất phát từ thế giới khách quan, từ hoạt động thực tiễn của con người.
(Ví dụ: Tục ngữ có câu “Cái khó ló cái khôn”)
+ Vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức: Tri thức và các yếu tố của ý thức
đều dựa trên sự phản ánh vật chất. Sự vận động, phát triển của ý thức gắn liền với sự phát triển
của quá trình vật chất.
(Ví dụ: Dưới sự phát triển của lao động và sản xuất, công cụ lao động bằng kim loại ra đời thay
thế công cụ lao động bằng đá.)
 Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
+ Tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào
trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra, ý thức không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất.
+ Tự bản thân ý thức không thể có sức mạnh để tác động vào vật chất. Muốn có sức mạnh để tác
động vào vật chất thì ý thức phải được thâm nhập vào con người và tổ chức thực hiện trong thực
tiễn. Chính ý thức quyết định thành công hay thất bại của con người trong thực tiễn.
(Ví dụ: Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể
giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ.) lOMoAR cPSD| 61601608
+ Vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người. Nếu ý thức
phản ánh phù hợp với vật chất thì nó sẽ thúc đẩy các quá trình vật chất phát triển. Ngược lại, nếu
ý thức phản ánh không phù hợp với vật chất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các quá trình vật chất.
(Ví dụ: Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 10000 độ C thì con người tạo ra các nhà
máy gang thép để sản xuất các loại thép với đủ các kích cỡ chủng loại, chứ không phải kích thước thủ công xưa.)
+ Xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn. Tuy nhiên, ý thức không thể vượt
quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan
và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
(Ví dụ: Ý thức học tập của các em học sinh vùng sâu vùng xa tuy rất tốt nhưng do điều kiện vật
chất còn khó khăn, mức độ tiếp cận thông tin của các em còn khá yếu.) *Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên tắc tính
khách quan; trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành
động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động chủ
quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí; cũng như là bệnh bảo thủ, trì trệ.
Thứ tư, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh
thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. VẬN DỤNG 1. Trong học tập
Các nhân tố vật chất tác động đến sinh viên là điều kiện, hoàn cảnh gia đình, điều kiện khách quan
của môi trường học, năng lực học tập của chính sinh viên đó,… Nhiều sinh viên phải sống xa gia
đình, không còn được giáo viên quan tâm, nhắc nhở như lúc còn học cấp 3, phải làm quen lại với
bạn bè và môi trường học tập mới, dẫn đến sinh viên cần phải có những mục tiêu phù hợp, đề ra
những biện pháp cụ thể để vượt qua khó khăn và đạt được kết quả cao trong học tập.
Trước tiên về tri thức, chúng ta cần nhận thức được sự khác biệt giữa việc học đại học và học phổ
thông từ đó tìm kiếm phương pháp học tập hiệu quả, cũng như chủ động tự học, biết cách sắp xếp
thời gian linh hoạt hơn. Sinh viên cần tìm hiểu bài trước khi đến lớp, chủ động trao đổi thêm với
thầy cô, bạn bè về những phần kiến thức mà mình chưa hiểu, cũng như cố gắng tích lũy kiến thức
để có thể hoàn thành tốt những bài tập được giao. Về yếu tố tình cảm, sinh viên có thể tự tạo cho lOMoAR cPSD| 61601608
mình hứng thú với môn học qua việc tìm hiểu những điểm thú vị, giúp ích của môn học đối với
công việc hay cuộc sống của chúng ta sau này, từ đó cảm thấy thích học và trở nên thoải mái hơn
trong quá trình tiếp thu kiến thức. Ngoài ra sinh viên phải luôn giữ niềm tin vào những việc mình
đang làm, vào ngành mình đã chọn để không bị lạc lõng, mất phương hướng trong học tập. Chúng
ta cũng cần có ý chí kiên định để vượt qua mọi khó khăn, cám dỗ để có thể thành công trong quá trình tích lũy tri thức.
Bên cạnh đó, mỗi sinh viên cần phải đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành động theo
các quy luật mang tính khách quan, thể hiện qua một số hành động như: đi học đúng giờ, tham dự
các tiết học đầy đủ, tuân theo nội quy của nhà trường đồng thời làm theo những lời mà giảng viên hướng dẫn,…
Ngoài ra, sinh viên cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ. Cụ
thể là cần phải tiếp thu có chọn lọc những ý kiến mới, việc hôm nay không nên để ngày mai, không
chủ quan trước mọi tình huống, phải biết lắng nghe và tiếp thu sự góp ý của người khác.
Trong việc học tập, sinh viên cần phải xem xét đồng thời các nhân tố vật chất lẫn nhân tố ý thức.
Ví dụ đối với việc đăng ký học phần, sinh viên cần phải tính đến năng lực học tập của bản thân,
điều kiện tài chính của gia đình, cân nhắc quỹ thời gian, không đăng ký học phần một cách tràn
lan với mục đích tốt nghiệp sớm tránh trường hợp học không theo kịp, dẫn đến hao phí tiền bạc,
thời gian, công sức mà kết quả lại không được như ý muốn. 2. Trong cuộc sống
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ căn bản mà chúng ta cần phải xác
định để có thể đưa ra quyết định đúng đắn cho mỗi hành động của mình. Trong cuộc sống ta luôn
chịu sự tác động của vật chất và ý thức. Đối với cuộc sống sinh viên vật chất có thể là điều kiện,
hoàn cảnh gia đình, môi trường (con người mà sinh viên tiếp xúc, văn hóa, nề nếp của gia đình,
nội quy trường học…). Vật chất là quyết định ý thức nên ta phải tôn trọng và tuân theo những quy
luật khách quan đó. Sinh viên cần phải xác định rõ những nhân tố vật chất ảnh hưởng đến cuộc
sống của bản thân, từ đó đưa ra những cách sống phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình, đồng
thời vẫn đảm bảo việc học tập ở trường.
Mặt khác, do ý thức tác động trở lại vật chất mà ta phải phát huy tính năng động chủ quan của ý
thức, bao gồm: Về tri thức, ta phải nhận thức được hoàn cảnh của gia đình, nhận thức được giá trị
của bản thân, mình giỏi gì, mình thích gì, mình làm được gì, từ đó tìm cho mình con đường đúng
đắn để đi, để vươn lên khỏi hoàn cảnh khó khăn. Về tình cảm, khi ta đã dùng tri thức để hiểu bản
thân mình thì ta đã biết được đam mê của chính mình, từ đó ta xây dựng nên ước mơ, sự yêu thích,
để làm động lực bước đi trên con đường mình đã chọn. Một khi đã chọn, là ta có niềm tin sẽ thành
công, niềm tin vào ước mơ đó sẽ là ngọn đèn soi cho chúng ta không bị trệt khỏi con đường đúng
đắn mà mình đã đặt ra. Ngoài ra ta phải dùng ý chí để làm sức mạnh, kiên trì đến cùng, không bị
khó khăn trước mắt mà từ bỏ ước mơ, để thành công. lOMoAR cPSD| 61601608
Ta cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, cũng phải tuân theo quy luật khách quan, nếu ta
cố gắng quá vượt qua khỏi mức chịu đựng của cơ thể thì chúng ta phải nghỉ ngơi, không thể coi
thường sức khỏe. Đồng thời phải chống lại bệnh bảo thủ trì trệ, loại bỏ tư tưởng đổ lỗi cho hoàn
cảnh mà không nỗ lực cố gắng, hạ thấp tính tích cực của ý thức.
Và cuối cùng trong cuộc sống ta cần phải xem xét đồng thời các nhân tố vật chất lẫn tinh thần. Ví
dụ nếu như sinh viên muốn đi làm thêm để có thể kiếm tiền trang trải cho cuộc sống của mình thì
sinh viên cần phải cân nhắc đến các yếu tố như điều kiện, hoàn cảnh làm việc, mức lương cũng
như năng lực của bản thân và khả năng sắp xếp thời gian của mình để tránh việc dành quá nhiều
thời gian làm thêm mà ảnh hưởng đến việc học trong trường.
3. Trong công cuộc đổi mới
Vì vật chất quyết định ý thức nên Đảng luôn tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan:
Đảng đã nắm bắt và nghiên cứu thấu đáo bối cảnh quốc tế, tình hình thế giới, khu vực tác động
đến Việt Nam nhằm đề ra những sách lược sát, đúng, kịp thời, bảo đảm sự phát triển của đất nước.
Cụ thể là trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển nhanh, bền vững, Đảng đã thực hiện tốt xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại
cả về kinh tế và xã hội, tập trung đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, các nền tảng số
như: mạng 5G, trí tuệ nhân tạo (AI),…
Để có được những chủ trương, đường lối đúng đắn và kịp thời đó là nhờ tinh thần chủ động, sáng
tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đường
lối đổi mới đó là kết quả của sự khảo nghiệm thực tiễn và đổi mới tư duy lý luận; là bước phát
triển có ý nghĩ trong nhận thức và hành động của Đảng với những chủ trương, đường lối mang tính đột phá.
Đảng ta vẫn lấy chủ nghĩa Mác - Lê-Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho mọi hành động, cho sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bản thân sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của
nhân tố chủ quan, của tính năng động, sáng tạo. Mà trước hết là tri thức, là những phát minh vĩ
đại, những đường lối chính sách đúng đắn có tính chất quyết thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Thêm vào đó là tình cảm, là niềm tin của người dân vào các chính sách, đường lối do Đảng đề ra.
Và còn là khối đại đoàn kết toàn dân và đó còn là ý chí, nhiệt tình, quyết tâm thực hiện cho được
xã hội xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp
sáng tạo vĩ đại của Đảng, Nhà nước, nhân dân. Không có ý chí, hoài bão lớn, nghị lực lớn thì
không thể thực hiện được những nhiệm vụ trọng đại của dân tộc. Vấn đề là ở chỗ mọi nhiệt tình
và ý chí cách mạng hiện nay phải gắn liền với tri thức, hiểu biết, đặt trên cơ sở khoa học, sự phát
triển tiềm lực trí tuệ của cả dân tộc.
Trong quá trình đổi mới, chúng ta cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, cũng như bảo thủ, trì
trệ. Cũng như trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã khẳng định: “phải
đấu tranh chống cái cũ, chống bảo thủ trì trệ, chống giáo điều rập khuôn, chống chủ quan nóng lOMoAR cPSD| 61601608
vội, chống tha hóa biến chất, chống những thói quen lỗi thời dai dẳng. Đây là cuộc đấu tranh cách
mạng gian khổ diễn ra trên mọi lĩnh vực và trong bản thân từng người chúng ta”
Ngoài ra, khi xem xét các hiện tượng kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng đã luôn cân nhắc đến
nhân tố vật chất lẫn nhân tố ý thức như xem xét tình hình thế giới và khu vực, các chính sách kinh
tế - xã hội hiện hành và đặc biệt là tình hình nước Việt Nam ở thời điểm đó để có thể đưa ra những
đường lối, chủ trương phù hợp nhất cho công cuộc đổi mới của đất nước. 4. Trong giáo dục
Vật chất quyết định ý thức nên ta phải tôn trọng nguyên tắc khách quan, trong hoạt động thực tiễn
cần phải xuất phát từ thực tế khách quan. Thật vậy, trước xu hướng của xã hội hiện nay là hội nhập
quốc tế, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và sự phát triển nhanh chóng của khoa học – kĩ thuật, chương trình giáo dục
cũ khó đáp ứng yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới. Đứng trước điều kiện khách quan đó,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra những giải pháp cụ thể thông qua việc ban hành Chương trình
giáo dục phổ thông 2018.
Mặt khác, do ý thức tác động trở lại vật chất nên BGD&ĐT đã chú ý đề cao nhận thức của giáo
viên và học sinh về chương trình mới để phát huy tính năng động chủ quan của ý thức.
Cụ thể, về tri thức, giáo viên và học sinh cần nắm được tinh thần của chương trình giáo dục mới,
từ đó biết đổi mới sáng tạo để phù hợp với nội dung chương trình. Còn về mặt tình cảm, các nhà
lãnh đạo phải luôn dành sự quan tâm cho nền giáo dục nước nhà và từ đó đề ra những chính sách
giáo dục, phát hiện sai lầm kịp thời để hoàn thiện cũng như đưa giáo dục nước nhà ngày càng phát
triển. Mỗi giáo viên với tình yêu dành cho nghề giáo, tình cảm cho học sinh sẽ luôn sẵn sàng, cố
gắng tiếp thu những cái mới trong giáo dục và cải thiện bài giảng nhằm truyền đạt kiến thức hiệu
quả nhất cho học sinh của mình. Cần xây dựng cho học sinh cần niềm yêu thích việc học có như
vậy đứng trước những cái thay đổi thay vì lo sợ, các em sẽ cảm thấy hào hứng tìm tòi, học hỏi sự
mới mẻ trong nó. Về ý chí, sự thay đổi bao giờ cũng mang đến nhiều khó khăn, thách thức, vì thế
cần thầy và trò cần phải cố gắng, nỗ lực thích nghi với sự thay đổi, trau dồi kiến thức, kỹ năng để
làm việc và học tập hiệu quả hơn. Trong giáo dục, chúng ta cần chống lại sự chủ quan, duy ý chí
cũng như không được bảo thủ, trì trệ. Cụ thể, chúng ta cần phải khắc phục bất cập về chất lượng,
số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, trình độ
chuyên môn của một bộ phận nhà giáo còn yếu, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới, chưa đáp
ứng được yêu cầu dạy và học theo định hướng phát triển năng lực. Đã làm ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng giáo dục.
Và luôn xem xét giáo dục trong cả điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan. Đảm bảo chất
lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu của kinh tế xã hội và phát triển dựa trên các yếu tố chủ quan như
cơ sở vật chất, truyền thống và chính trị của đất nước. lOMoAR cPSD| 61601608
CÂU 2.1: NGUYÊN LÍ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
*Vai trò, vị trí của nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
Vị trí: 1 trong 2 nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Vai trò: Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến cùng với nguyên lí về sự phát triển là 2 nguyên lí có
tính chất bao trùm toàn bộ phép biện chứng duy vật. *Nội dung
Khái niệm mối liên hệ: Mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc, quy
định lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành nên
sự vật, hiện tượng; giữa các sư vật, hiện tượng với nhau; giữa sự vật, hiện tượng với môi trường;
mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ kéo theo sự biến đổi của sự vật, hiện tượng khác.
(Ví dụ: Quá trình cung - cầu trên thị trường, mối liên hệ giữa con người và môi trường sống, mối
liên hệ giữa môi trường và nên kinh tế.)
*Tính chất mối liên hệ  Tính khách quan:
+ Tính khách quan của mối liên hệ xuất phát từ tính thống nhất của vật chất thế giới. Các sự vật,
hiện tượng trong thế giới dù đa dạng, muôn hình, muôn vẻ như thế nào đi chăng nữa thì chúng
cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất, kể cả ý thức con người cũng vậy.
+ Đây là mối liên hệ vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do sự áp đặt từ
bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản thân các
sự vật, hiện tượng hay các mặt, bộ phận trong một sự vật, hiện tượng luôn luôn chứa đựng các mối
liên hệ. Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn
của mình để đạt được hiệu quả cao nhất.
(Ví dụ: sự vận động của tự nhiên mưa, bão, lũ lụt…hay sự vận động của xã hội. Con người cũng
phải chịu sự tác động của những người xung quanh, của tự nhiên, xã hội.)  Tính phổ biến:
+ Tính phổ biến của mối liên hệ xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới vật chất. Mỗi
sự vật hiện tượng là một hệ thống có cấu trúc nội tại. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại một
cách cô lập, biệt lâp với các sự vật hiện tượng khác. Bản thân sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể thống nhất.
+ Mối liên hệ có trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình, có cả trong tự nhiên,
xã hội và tư duy con người. lOMoAR cPSD| 61601608
(Ví dụ: Cây muốn sống thì phải trao đổi chất, quang hợp. Con người muốn tồn tại và phát triển
phải tham gia vào các quá trình sản xuất vật chất… và trong quá trình này con người còn phải tham
gia vào các hoạt động khác…)  Tính đa dạng phong phú:
+ Tính da dạng, phong phú của mối liên hệ xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình của muôn vẻ của
thế giới vật chất. Trong thế giới có nhiều kiểu mối liên hệ mà mỗi kiểu có đặc điểm riêng, vị trí,
vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
+ Sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối
liên hệ biểu hiện khác nhau như liên hệ bên trong – liên hệ bên ngoài, mối liên hệ cơ bản – mối
liên hệ không cơ bản, mối quan hệ chủ yếu – mối quan hệ thứ yếu, …
Ví dụ: Liên hệ giữa mặt trời và trái đất, liên hệ hữu cơ – vô cơ – chất sống, liên hệ thực vật với động vật…
*Ý nghĩa phương pháp luận:
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải xem xét tất cả các mặt các mối liên hệ, kể cả
những mặt khấu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định. V. I. Lênin
viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao qua và nghiên cứu tất cả các mặt các
mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó.
Hai là, trong vô vàn các mới liên hệ, trước hết cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, tức
là xem xét một cách có trọng tâm, trọng điểm, nhờ đó nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Ba là, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tương thì cần phải đối chiếu với các mối liên
hệ còn lại để tránh mắc sai lầm trong nhận thức.
Bốn là, chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều (chi thấy một mặt mà không thấy
nhiều mặt, chỉ thấy một mối liên hệ mà không thấy các mối liên hệ khác).
Năm là, chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải (coi mọi mối liên hệ như nhau), có nghĩa là
chống lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
Sáu là, chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu tành cái chủ yếu, quy cái không cơ bản thành
cái cơ bản; bằng lý lẽ, lập luận tưởng rằng có lý, nhưng thật chất là vô lý.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
Thứ nhất, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh lịch sử -
cụ thể; trong điều kiện, môi trường cụ thể, trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định;
trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ tọa độ nhất định… lOMoAR cPSD| 61601608
Thứ hai, cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác nhau phải
giải quyết trong thực tiễn.
Thứ ba, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể nhất
định, như theo V. I. Lênin, “phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”, đó là “bản chất” và “linh hồn
sống” của chủ nghĩa Mác. VẬN DỤNG 1. Trong học tập:
Quan điểm toàn diện:
Việc vận dụng quan điểm toàn diện trong học tập giúp sinh viên có định hướng sâu và cao hơn
trong việc học để ngày càng phát triển và hoàn thiện bản thân.
Đặt việc học vào các mối liên hệ khác nhau: cần học cái gì, học như nào, khi nào học, áp dụng
như nào, áp dụng vào đâu,... Từ đó ta có thể rút ra mối quan hệ giữa những điều ta học được để
tạo nên một hệ thống kiến thức cần thiết cho quá trình học tập. Ví dụ như trong việc học Toán thì
có những kiến thức mà Toán không làm rõ, chỉ khái quát vấn đề, trong khi các môn khác lại tập
trung làm rõ vấn đề đó thì ta phải tìm hiểu sâu sắc hơn và tiếp thu những ý kiến khác nhau có
được kiến thức phù hợp.
Trong quá trình học tập chúng ta cũng cần phải những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu để học một
cách có trọng tâm, trọng điểm. Cụ thể trong cả quá trình học tập, chúng ta xác định mối liên hệ
cơ bản đó chính là phương pháp học tập của bản thân. Phương pháp học tập ảnh hưởng rất nhiều
đến việc chúng ta tiếp thu kiến thức cũng như có thể hoàn thành tốt một môn học bất kì. Ngoài
ra, sức khỏe là mối quan hệ cơ bản và tác động trực tiếp lên mỗi người chúng ta nên sinh viên
còn cần chú ý rèn luyện thể chất để có đủ sức khỏe hoàn thành các môn học trường. Còn trong
từng giai đoạn học tập, chúng ta rút ra mối liên hệ chủ yếu đó là xác định những học phần quan
trọng và dành nhiều thời gian hơn cho những học phần đó.
Bên cạnh đó, chúng ta cần tránh đánh giá sự vật một cách siêu hình, phiến diện, chỉ nhìn một vài
mặt, một liên hệ đã đi đến liên kết luận bản chất sự vật đó. Chẳng hạn như ta đánh giá một môn
học là không cần thiết vì nó không liên quan đến chuyên ngành nhưng thật chất nó cung cấp cho
ta những kỹ năng cần thiệt cho công việc sau. Mỗi sinh viên cũng cần chống lại thuật ngụy biện,
không đổ lỗi cho thầy cô, nhà trường khi kết quả học tập kém.
Quan điểm lịch sử, cụ thể:
Ở bậc đại học, chương trình đào tạo, phương pháp dạy học, môi trường và điều kiện học,… có
nhiều thay đổi, yêu cầu ta phải thay đổi để thích ứng với môi trường mới.
Đầu tiên là tự học: Khi vào đại học, không còn việc “thầy đọc trò chép”, mà đòi hỏi sinh viên tự
tìm kiếm và giải quyết vấn đề được đặt ra. Từ đó quá trình nhận thức của sinh viên ngày càng
phát triển, phát huy khả năng sáng tạo, tìm tòi, có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn. lOMoAR cPSD| 61601608
Tiếp theo, khiêm tốn, học hỏi mọi người và luôn tìm tòi để có thể nâng cao kiến thức cho bản thân
vì sự vật hiện tượng là vô hạn và phong phú.
Kế tiếp, học có hệ thống. Mỗi học phần chứa một lượng kiến thức nhất định, và có mối liên hệ
với nhau. Do đó sinh viên cần xác định được các tính chất đặc thù của mỗi phần để hệ thống
chuỗi kiến thức một cách rõ ràng, chuẩn xác.
(Việc giao lưu, tham gia câu lạc bộ và tạo mối quan hệ tốt với bạn bè, thầy cô cũng là điều cần thiết.
Trong môi trường đại học, thường xuyên làm việc nhóm giúp phát triển trong học tập cũng như các kỹ
năng mềm. Kết nối với thầy cô là kết nối với tri thức, ta sẽ khắc phục được lỗ hổng trong học tập và
tình thầy trò khăng khít.)
Chúng ta cần phải xem xét việc học trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn khác nhau. Ví
dụ như là sinh viên năm nhất, chúng ta nên chú trọng vào học tập, đến năm hai, năm ba, chúng ta
nên phân bố thời gian để rèn các kĩ năng mềm hoặc làm thêm để có thêm kinh nghiệm thực tiễn.
*Do đó, là sinh viên, việc vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể giúp ta
phát triển, hoàn thiện bản thân hơn, rèn luyện phẩm chất, học hỏi từ bạn bè và xã hội, đáp ứng
được nhu cầu, lợi ích của xã hội hiện nay, để xã hội tiếp tục phát triển trong tương lai.
2. Trong cuộc sống:
Quan điểm toàn diện:
Quan điểm toàn diện giúp ta biết rằng khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng nào đó, phải
xem xét một cách toàn diện, mọi mặt của một vấn đề để hiểu được bản chất của sự vật hiện
tượng, không nhìn bề ngoài mà phán xét hay kết luận.
Trong cuộc sống hiện nay, mối liên hệ cơ bản chủ yếu chính là mối liên hệ giữa người với người.
Mỗi cá nhân sẽ tác động qua lại với người họ tiếp xúc, từ đó bộc lộ tính cách, bản chất con người họ.
Cụ thể hơn trong cuộc sống hằng ngày khi chúng ta giao tiếp, khi đánh giá một người bạn mới
quen phải xem xét nhiều mặt: thể lực, trí lực, phẩm chất, học tập, đoàn thể...; nhiều mối liên hệ
giữa người đó với thầy cô, nhân viên, bạn bè, chủ nhà trọ;gia đình... giữa các mặt, mối liên hệ đó
tác động qua lại, phải có cái nhìn bao quát chỉnh thể đó, rối từ đó rút ra bạn đó là người như thế
nào. Chứ không thể chỉ thông qua cách bạn đó ăn nói mà vội đánh giá.
Hoặc ví dụ với những bạn vừa vào một môi trường mới, rất dễ dàng để chúng ta ấn tượng hay bị
cuốn hút về ngoại hình, tính cách của các bạn khác. Tuy nhiên ta chỉ dựa vào đó mà đánh giá cả
một con người thì đánh giá đó là hoàn toàn sai lầm, vì đó chỉ là cách đánh giá phiến diện. Tính lOMoAR cPSD| 61601608
cách và ngoại hình là hai mặt khác nhau nên ta không thể vội vàng kết luận được một người có
ngoại hình tốt là có tính cách tốt được vì đó chỉ nhìn vào một mặt. Mà quá trình đánh giá người
khác là một quá trình lâu dài và toàn diện bởi khi ta tiếp xúc về mọi mặt của họ và chỉ khi ta tiếp
xúc đủ lâu thì ta sẽ thấy rõ được bản chất thật sự của họ.
Quan điểm lịch sử, cụ thể:
Chúng ta áp dụng quan điểm lịch sử, cụ thể trong giao tiếp hằng ngày với mọi người xung
quanh. Tùy trường hợp cụ thể mà ta có những cách ứng xử khác nhau cho phù hợp, ta phải biết
mình đang ở trong hoàn cảnh nào để có những lời nói và hành vi phù hợp. Ví dụ như khi giao
tiếp với người lớn thì ta cần có thái độ tôn trọng, lễ phép. Còn khi ta trò chuyện với bạn bè thì có
thể thoải mái hơn trong cách diễn đạt, dùng từ.
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải xem xét việc học trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn
khác nhau. Chẳng hạn như ta có một người bạn tính cách không tốt, không hòa đồng với bạn bè
nên ta không thích chơi với bạn. Nhưng sau một thời gian, người bạn đó có sự thay đổi để bản
thân tốt lên, hòa hợp với mọi người xung quanh thì ta cần có một cái nhìn khác, đối xử khác đi
với bạn, không thể chỉ nhớ đến cái xấu của bạn trước đây mà còn phải nhìn nhận những phát triển tích cực.
Hay khi học ở bậc THCS - THPT, chúng ta đa số lệ thuộc vào gia đình, được ba mẹ chăm lo về
nhiều thứ. Nhưng khi bước chân vào ngưỡng cửa đại học, chúng ta phải sống xa nhà, rời xa sự
chăm sóc của ba mẹ, đồng nghĩa với việc phải thay đổi bản thân, phải tự mình lo liệu nhiều thứ
và rèn luyện tính tự lập cũng như hòa đồng để sống trong môi trường mới.
*Do đó, việc áp dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể không những giúp ta
nhìn nhận đúng đắn bản chất của sự vật, hiện tượng xung quanh mà còn giúp ta có những mối
quan hệ tốt đẹp hơn với mọi người.
3. Trong giáo dục Việt Nam:
Vận dụng quan điểm toàn diện, trong quá trình đổi mới giáo dục, chúng ta vẫn phải xác định rõ
mối liên hệ cơ bản vẫn là mối liên hệ giữa người học và tri thức, giáo dục thành công là khi
người học nắm bắt được tri thức và tri thức tác động tích cực lên tư duy của con người. Đồng
thời cũng phải đặt nó trong mối liên hệ khác như giữa mối liên hệ giữa học sinh với giáo viên,
giữa học sinh với nhà trường, giữa tri thức và công việc tương lai của học sinh,...
Bên cạnh đó, chúng ta cần tránh đánh giá sự vật một cách siêu hình, phiến diện, chỉ nhìn một vài
mặt, một liên hệ đã đi đến liên kết luận bản chất sự vật đó. Chúng ta không thể đánh giá một học
sinh là yếu kém khi em ấy đạt điểm số thấp ở các bài thi môn tự nhiên, cần biết rằng mỗi người
có một thế mạnh riêng nên chúng ta phải đồng thời xem xét ở các môn học khác em ấy biểu hiện
như thế nào. Mỗi sinh sẽ giỏi các môn khác nhau văn học, hội họa, âm nhạc,... Nên trong quá
trình học mỗi học sinh sẽ có mối liên hệ chủ yếu với các môn khác nhau, vì thế không thể đòi hỏi
một học sinh phải giỏi tất cả các môn. lOMoAR cPSD| 61601608
Ngoài ra trong bối cảnh hiện nay, thời kì khoa học công nghệ đang trên đà phát triển mạnh cùng
với xu hướng hội nhập quốc tế. Giáo dục lại có mối liên hệ mật thiết với kinh tế, với công cuộc
hiện đại hóa đất nước nên giáo dục cần phải chú trọng nâng cao kĩ năng người học nhất là về hai
mảng ngôn ngữ và công nghệ, cũng với đào khả năng làm việc chuyên nghiệp, mang tính quốc
tế. Để đảm bảo mối liên hệ giữa kiến thức, kĩ năng của người học với khả năng làm việc sau này.
Để phát triển giáo dục được tuân theo mối quan hệ phổ biến, Đảng và nhà nước đã có đường lối chỉ đạo như sau:
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn
dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp
thiết; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các
cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học;
đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ
quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo
dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp
ứng yêu cầu số lượng.
- Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực
và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết
hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và
giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục và đào tạo.
- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo
dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào
tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng
xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và
đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Tóm lại, nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đã giúp nhà nước, và các cá nhân liên quan đến giáo
dục hiểu rõ tầm quan trọng của việc chú ý các mối liên hệ liên quan tới việc phát triển nền giáo
dục của đất nước. Từ đó mà chúng ta biết được, ở thời điểm nào cần chú trọng vào yếu tố nào để
phát triển giáo dục hiệu quả nhất. lOMoAR cPSD| 61601608
Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể, khi xem xét ngành giáo dục của nước ta, Đảng và Nhà
nước đã đề ra ba cuộc cải cách tương ứng với từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, các tính chất đặc thù
của tình hình nước nhà khi đó. Cuộc cải cách giáo dục thứ nhất (năm 1950), nhằm xây dựng nền
giáo dục dân chủ nhân dân. Trong điều kiện Việt Nam vừa giành được độc lập lại phải đối phó
với nạn ngoại xâm, sau năm 1945 nhiệm vụ "chống giặc dốt" được đặt ngang hàng với nhiệm vụ
chống giặc đói và giặc ngoại xâm; chính sách giáo dục khi đó là tập trung xoá nạn mù chữ, dùng
tiếng Việt dạy và học ở tất cả các bậc học, xoá mọi tàn tích của chủ nghĩa thực dân trong nội
dung giáo dục, tiếp tục duy trì và phát triển giáo dục.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (năm 1956) nhằm phục vụ cho việc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau khi Miền Bắc được giải phóng, Việt
Nam tiến hành cải cách giáo dục nhằm phát triển mạnh mẽ quy mô giáo dục, xây dựng một nền
giáo dục phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược (xây dựng Miền Bắc, thống nhất nước nhà). Giáo dục
được phát triển mạnh, hệ thống giáo dục quốc dân được xây dựng hoàn chỉnh; nội dung và
phương pháp giáo dục được cải tiến theo phương hướng cơ bản, hiện đại, Việt Nam.
Năm 1979, cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba được thực hành để xây dựng nền giáo dục chuyển
từ dân chủ nhân dân sang xã hội chủ nghĩa khi cả nước thống nhất. Đó một nền giáo dục quốc
dân thống nhất phù hợp với chiến lược tái thiết và phát triển đất nước.
Như vậy, căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước mà Đảng và Nhà nước đã đưa ra những chính
sách cải cách phù hợp, nhằm phát triển giáo dục nước nhà.
4. Trong công cuộc đổi mới Việt Nam
Vận dụng mối liên hệ phổ biến trong công cuộc đổi mới đất nước đầu tiên cần quán triệt quan điểm toàn diện:
Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ, kể cả
những mắt khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định. Vì vây, trong
công đổi mới, xây dựng đất nươc Đảng ta đưa ra những đổi mới trên tất cả lĩnh vực của đời sống
xã hội (kinh tế, chính trị, xã hội văn hóa, tư tưởng…) chứ không ở riêng một lĩnh vực nào. Như
Đại hội VII của Đảng nêu kinh nghiệm bước đầu đổi mới “Một là giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, hai là đổi mới toàn diện, đồng bộ và cách làm phù hợp”. Thực
hiện cho thấy đổi mới là cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội. Trên từng
lĩnh vực nội dung mới bao gồm nhiều mặt cơ chế, chính sách tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối làm việc.
Hai là, yêu cầu của quan điểm toàn diện là phải phân tích một cách toàn diện, vai trò của từng
mặt, từng mối liên hệ, phân biệt cái nào là cái cơ bản, là cái chủ yếu.Vận dụng quan điểm toàn
diện vào sự nghiệp đổi mới của nước ta, Đảng ta cũng đồng thời nhấn mạnh đổi mới tư duy lý
luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá và đổi mới kinh tế là trọng tâm. Trong
Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước
ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; lOMoAR cPSD| 61601608
bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã
hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm
quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”.
Ba là, quan điểm toàn diện yêu cầu trong hoạt động thực tiễn, muốn cải tạo sự vật phải thực hiện
đồngbộ nhiều giải pháp; phải xác định đúng vị trí, vai trò của từng mối liên hệ đối với sự vận
động, phát triển của sự vật. Chống lại quan điểm phiến diện một chiều, chủ nghĩa chiết trung và
thuật ngụy biện. Không phải ngẫu nhiên mà Đại hội XIII của Đảng khẳng định “Tiếp tục phát
triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó,
phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”. Hay, tinh thần “Hoàn thiện
toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”...
Đồng thời, vận dụng triệt để nguyên lí lịch sử - cụ thể, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, để xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: “Kiên định
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực
tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội kiên định đường lối đổi mới”.
Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, Đảng ta đã
rút ra một số bài học, trong đó có bài học thứ nhất là: “trong quá trình đổi mới phải chủ động,
không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp
với Việt Nam”(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII).
Thực tiễn cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không tuân theo những công thức có sẵn,
bất biến, mà chúng được vận dụng linh hoạt, luôn đổi mới để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
của mỗi nước và tình hình quốc tế. Ngày nay, tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp
đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ cần được giải quyết. Hơn bao giờ hết,
chúng ta cần nắm vững phép biện chứng duy vật, mài sắc tư duy biện chứng, vận dụng các
nguyên tắc phương pháp luận của nó để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
CÂU 2.2: NGUYÊN LÍ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
*Vị trí, vai trò của nguyên lí phát triển:
Vị trí: là 1 trong 2 nguyên lí cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Vai trò: Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến cùng với nguyên lí về sự phát triển là 2 nguyên lí có
tính chất bao trùm toàn bộ phép biện chứng duy vật. lOMoAR cPSD| 61601608 *Nội dung
Khái niệm phát triển: Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật,
hiện tượng theo khuynh hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Ví dụ: Sự tiến hóa từ vượn, vượn người sang người, quá trình thay thế lẫn nhau của các thế hệ kỹ
thuật theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn *Các tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan: Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật, hiện tượng,
không phụ thuộc vào ý thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản thân sự vật, hiện
tượng luôn nằm trong quá trình phát triển. Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân
của sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận
động của sự vật. Nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển một cách khách quan và không phụ thuộc
vào ý thức của con người.
(Ví dụ: Quá trình phát sinh một giống loài mới hoàn toàn diễn ra một cách khách quan theo quy
luật tiến hoá của giới tự nhiên. Con người muốn sáng tạo một giống loài mới thì cũng phải nhận
thức và làm theo quy luật đó.)
- Tính phổ biến: Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực
tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn
đến sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan.
(Ví dụ: Trong giới tự nhiên: Khả năng thích nghi trước môi trường mới của giới động thực vật,
sự tiến hóa từ đơn giản tới phức tạp, từ đơn bào tới đa bào, ngày càng xuất hiện nhiều loài động
thực vật với mức độ tiến hóa cao hơn)
- Tính kế thừa: Sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối, phủ định sạch
trơn, đoạn tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ. Sự vật hiện tượng mới ra đời
từ sự vật hiện tượng cũ, chứ không phải ra đời từ hư vô. Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ
sở chọn lọc, giữ lại, cải tạo ít nhiều những bộ phận, đăc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái
cũ; đồn thời cũng đào thải loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu không thích hợp của cái cũ.
Ví dụ: Mác và Lênin không thể sáng tạo ra chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng
nếu không có sự kế thừa, bổ sung và phát triển từ ba nguồn gốc lý luận: Triết học cổ điển Đức,
kinh tế chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tự phát. Từ đó xây dựng nên ba bộ phận xã
hội của chủ nghĩa Mác.
- Tính đa dạng, phong phú: Tính đa dạng và phong phú của sự phát triển còn phụ thuộc vào
không gian và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó. Tuy sự phát triển
diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá
trình phát triển không giống nhau. lOMoAR cPSD| 61601608
(Ví dụ: Hai cây ổi cùng một giống nhưng thời gian ra quả, chất lượng quả khác nhau do điều
kiện sống và được chăm sóc của hai cây là chênh lệch nhau. Hay như các bạn sinh viên trong
cùng một lớp, mỗi bạn có năng lực tư duy khác nhau, điểm mạnh, điểm yếu khác nhau.)
nghĩa phương pháp luận:

Quan điểm phát triển yêu cầu:
Thứ nhất, khi nghiên cứu cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đối của nó
để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, nhà còn dự báo được khuynh hướng phát triển trong tương lai.
Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn
có đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp
để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển
chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
Thứ tư, trong quá trình thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu tố tích
cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải đặt nó:
+ Thứ nhất, trong từng điều kiện lịch sử - cụ thể.
+ Thứ hai, trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định.
+ Thứ ba, trong từng mối quan hệ nhất định. VẬN DỤNG 1. Trong học tập
Trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay thế kỉ XXI, học là việc vô cùng quan trọng
đối với học sinh, sinh viên để phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Với sự vận động đi lên của
toàn xã hội thì sinh viên cần phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm phát triển, để từ đó
có thể vận dụng một cách tối ưu, sáng tạo và hợp lý.
Đầu tiên, các cá nhân trong học tập cần phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của
sự vật, không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như
những biến đổi có tính chất thụt lùi. Chúng ta cần nắm rõ chương trình học, những điều cần thiết
khi theo ngành học đó và cũng phải thấy rõ khuynh hướng phát triển của chuyên ngành theo học
trong tương lai, tìm hiểu về các yêu cầu của xã hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên
cứu. Xã hội hiện tại và tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân, nâng cao tri thức lOMoAR cPSD| 61601608
cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Trong quá trình phát triển của mỗi cá nhân có thể định hướng
cho bản thân mình vận dụng tính kế thừa của nguyên lý về sự phát triển trong cuộc sống, học tập
của sinh viên. Ngày nay chúng ta là công dân toàn cầu, việc học thêm các ngoại ngữ, áp dụng các
phần mềm, máy móc của nước ngoài trong học tập là điều cần thiết. Cần đặt ngành nghề đó trong
sự phát triển đi lên của toàn xã hội để từ đó cần kịp thời bổ sung những khía cạnh, những yếu tố
còn thiếu cho bản thân mình. Cuộc sống luôn luôn thay đổi chúng ta không thể chỉ sống cho hiện
tại cần phải liên tục cập nhật những “khuynh hướng” phát triển của đời sống.
Quá trình phát triển được chia ra nhiều giai đoạn, có lúc sinh viên sẽ cảm thấy quá trình học tập
không có chút tiến triển, dậm chân tại chỗ thì chúng ta tránh bi quan, tránh những suy nghĩ tiêu
cực. Mỗi người có một thước đo cuộc sống khác nhau không thể từ đó mà áp vào bản thân mình
rồi cảm thấy tự ti, áp lực cùng trang lứa. Chẳng hạn, sinh viên có thành tích không tốt trong một
bài kiểm tra đánh giá, nhưng trong quá trình học tập rèn luyện đã nỗ lực hết mình, cải thiện bản
thân không chỉ vì điều đó mà có thái độ tiêu cực, đánh giá thấp bản thân để rồi từ bỏ. Quá trình ấy
cần được tiến hành từng bước từng bước, cần có thời gian để hoàn thiện bản thân, vì thế cần xem
xét kĩ lưỡng rồi mới đưa ra đánh giá cho bản thân mình.
Khi học cũng đừng vội vàng, nóng vội thay đổi sang cách học khác con đường khác khi chưa kiên
trì đủ lâu với phương pháp hiện tại.
Ngoài ra, sinh viên nhận diện và phê phán quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến trong nhận thức và
hành động. Để ngăn chặn sinh viên cần rèn luyện ý thức tự chủ, độc lập ham học hỏi tiếp thu các
tư tưởng, văn hóa, khoa học công nghệ tiến bộ một cách chọn lọc phù hợp với văn hóa của dân
tộc. Chúng ta cần bỏ đi những phương pháp cũ, những tư duy lạc hậu. Không phải lúc nào thì lựa
chọn và việc chúng ta làm luôn luôn đúng. Sinh viên cần lắng nghe các ý kiến phải hồi từ bạn bè,
thầy cô, … Cần đổi mới phương pháp để có thể tiếp thu được nhiều nhất lượng kiến thức của bài
học và đúc kết cho mình những kiến thức cô đọng sau mỗi buổi học.
- Quan điểm lịch sử, cụ thể:
+ Ở bậc đại học, chương trình đào tạo, phương pháp dạy học, môi trường và điều kiện học,… có
nhiều thay đổi, yêu cầu ta phải thay đổi để thích ứng với môi trường mới.
+ Đầu tiên là tự học: Khi vào đại học, không còn việc “thầy đọc trò chép”, mà đòi hỏi sinh viên tự
tìm kiếm và giải quyết vấn đề được đặt ra. Từ đó quá trình nhận thức của sinh viên ngày càng phát
triển, phát huy khả năng sáng tạo, tìm tòi, có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn.
+ Tiếp theo, khiêm tốn, học hỏi mọi người và luôn tìm tòi để có thể nâng cao kiến thức cho bản
thân vì sự vật hiện tượng là vô hạn và phong phú
+ Kế tiếp, học có hệ thống. Mỗi học phần chứa một lượng kiến thức nhất định, và có mối liên hệ
với nhau. Do đó sinh viên cần xác định được các tính chất đặc thù của mỗi phần để hệ thống chuỗi
kiến thức một cách rõ ràng, chuẩn xác. lOMoAR cPSD| 61601608
+ (Việc giao lưu, tham gia câu lạc bộ và tạo mối quan hệ tốt với bạn bè, thầy cô cũng là điều cần
thiết. Trong môi trường đại học, thường xuyên làm việc nhóm giúp phát triển trong học tập cũng
như các kỹ năng mềm. Kết nối với thầy cô là kết nối với tri thức, ta sẽ khắc phục được lỗ hổng
trong học tập và tình thầy trò khăng khít.)
+ Chúng ta cần phải xem xét việc học trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn khác nhau.
Ví dụ như là sinh viên năm nhất, chúng ta nên chú trọng vào học tập, đến năm hai, năm ba, chúng
ta nên phân bố thời gian để rèn các kĩ năng mềm hoặc làm thêm để có thêm kinh nghiệm thực tiễn.
+ Là sinh viên, việc vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể giúp ta phát triển, hoàn thiện bản thân
hơn, rèn luyện phẩm chất, học hỏi từ bạn bè và xã hội, đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của xã hội
hiện nay, để xã hội tiếp tục phát triển trong tương lai.
+ Chúng ta cần phải xem xét việc học trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn khác nhau.
Ví dụ như là sinh viên năm nhất, chúng ta nên chú trọng vào học tập, đến năm hai, năm ba, chúng
ta nên phân bố thời gian để rèn các kĩ năng mềm hoặc làm thêm để có thêm kinh nghiệm thực tiễn.
Là sinh viên, việc vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể giúp ta phát triển, hoàn thiện bản thân hơn,
rèn luyện phẩm chất, học hỏi từ bạn bè và xã hội, đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của xã hội hiện
nay, để xã hội tiếp tục phát triển trong tương lai.
2. Trong cuộc sống
Để bản thân phát triển hơn theo hướng tính cực và phù hợp với sự vận động đi lên của toàn xã hội
thì sinh viên cần phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm phát triển, để từ đó có thể vận
dụng một cách tối ưu, sáng tạo và hợp lý.
Đầu tiên, cuộc sống mỗi sinh viên chúng ta đều đang vận động, biến đổi không ngừng. Mỗi ngày
chúng ta không ngừng tích lũy những kiến thức mới, kinh nghiệm mới, cũng như thay đổi và hoàn
thiện tư duy, thói quen, nhân cách của bản thân
Hai là, các cá nhân trong học tập cần phải thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của sự
vật, không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng như những
biến đổi có tính chất thụt lùi. Chúng ta cần nắm rõ xã hội hiện nay cần con người có tố chất, đạo
đức như thế nào để định hướng phát triển bản thân trong tương lai. Xã hội đang cần những người
năng động, dễ dàng thích nghi khi điều kiện thay đổi. Để được như vậy sinh viên cần tích cực
tham gia các hoạt động phong trào, các CLB để tích lũy nhiều kinh nghiệm thực tế, biết cách ứng
biến khi gặp trở ngại. Đồng thời chúng ta cũng phải bổ sung những khía cạnh còn thiếu sót của
bản thân như giao tiếp kém thì phải biết rèn luyện, hay tiêu sài phung phí thì phải học cách tiết
kiệm hơn, làm sao để chi tiêu hiệu quả.
Ba là, quá trình phát triển được chia ra nhiều giai đoạn, khi mới lên thành phố mới nhiều sinh viên
không quen với nhịp sống nơi đây, không quen đường xá, đồ ăn, thức uống, khi đó cần chú trọng
tìm cách hòa nhập với môi trường sống xung quanh. Thời gian đầu mới tự đi học thì chúng ta có lOMoAR cPSD| 61601608
thể đi xe buýt, nhưng nếu sau này có việc làm thêm, muốn thuận tiện di chuyển thì sinh viên cần tập lái xe….
Bốn là, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, vội vàng xóa bỏ cái cũ, tạo ra cái mới khi chưa đủ
điều kiện chín muồi. Chúng ta không nên vội vàng tìm kiếm việc làm khi không rõ mục đích của
việc đó là gì, và lợi ích gì từ việc đó. Cần suy nghĩ thấu đáo và lựa chọn công việc phù hợp với
bản thân như vậy làm việc mới có giá trị và giúp chúng ta tích lũy kinh nghiêm.
Năm là, cần chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, cứ khăng khăng giữ cái cũ, Chúng ta cần bỏ đi những
phương pháp cũ, những tư duy lạc hậu. Không phải lúc nào thì lựa chọn và việc chúng ta làm luôn
luôn đúng. Sinh viên cần lắng nghe các ý kiến phải hồi từ bạn bè, gia đình, thầy cô,… để thay đổi,
hoàn thiện đời sống của mình.
- Quan điểm lịch sử, cụ thể:
Chúng ta áp dụng quan điểm lịch sử, cụ thể trong giao tiếp hằng ngày với mọi người xung quanh.
Tùy trường hợp cụ thể mà ta có những cách ứng xử khác nhau cho phù hợp, ta phải biết mình đang
ở trong hoàn cảnh nào để có những lời nói và hành vi phù hợp. Ví dụ như khi giao tiếp với người
lớn thì ta cần có thái độ tôn trọng, lễ phép. Còn khi ta trò chuyện với bạn bè thì có thể thoải mái
hơn trong cách diễn đạt, dùng từ.
Bên cạnh đó, chúng ta cần phải xem xét việc học trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn
khác nhau. Chẳng hạn như ta có một người bạn tính cách không tốt, không hòa đồng với bạn bè
nên ta không thích chơi với bạn.
Nhưng sau một thời gian, người bạn đó có sự thay đổi để bản thân tốt lên, hòa hợp với mọi người
xung quanh thì ta cần có một cái nhìn khác, đối xử khác đi với bạn, không thể chỉ nhớ đến cái xấu
của bạn trước đây mà còn phải nhìn nhận những phát triển tích cực.
3. Trong công cuộc đổi mới đất nước
Vận dụng nguyên tắc phát triển vào việc nhận thức về đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở phân tích xu hướng phát triển của thời đại và điều kiện cụ
thể của nước ta, trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII Đảng ta đã xác định mục tiêu
tổng quát: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc
và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới” lOMoAR cPSD| 61601608
Ngoài ra cần phân chia quá trình phát triển thành các giai đoạn, để vạch ra đặc điểm từng giai đoạn
từ đó đề ra các giải pháp phù hợp . Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn:
Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước
đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp
Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện
đại, thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao .Mục tiêu trên của Đảng
dựa trên nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa và bổ sung phù hợp với những thay đổi trong từng giai đoạn phát
triển của đất nước, đồng thời nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước và những chuẩn
mực phát triển chung của thế giới.
Để chống lại quan điểm chủ quan, duy ý chí, vội vàng xóa bỏ cái cũ cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền chính sách, luật pháp, Nhà nước phải tổ chức quá trình chuyển sang con đường phát triển
bền vững, gồm các hoạt động như huy động toàn dân tham gia thực hiện phát triển bền vững, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện phát triển bền vững và hợp tác
vì sự phát triển bền vững.
Cuối cùng, để chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ gây cản trở sự phát triển nhà nước cần phát huy những
thành quả đạt được, thời gian tới cần tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức, hình thức, phương thức
hoạt động của cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương nhằm hướng tới một bộ máy nhà
nước tinh gọn, hiệu quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của các lĩnh vực xã hội.
Đồng thời, vận dụng triệt để nguyên lí lịch sử - cụ thể, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con
đường xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, Đảngta khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: “Kiên định chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn
Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội kiên định đường lối đổi mới”.
Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, Đảng ta đã
rút ra một số bài học, trong đó có bài học thứ nhất là: “trong quá trình đổi mới phải chủ động,
không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền
thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt
Nam”(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII).
Thực tiễn cho thấy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không tuân theo những công thức có sẵn,
bất biến, mà chúng được vận dụng linh hoạt, luôn đổi mới để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
của mỗi nước và tình hình quốc tế. Ngày nay, tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp