Tài liệu ôn tập LSĐ/Trường đại học Nguyễn Tất Thành

Ba là, đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2045 hoạt động hiệu lực, hiệu quả phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong từng giai đoạn. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 46090862
Bài nhóm
Câu 1: Sự ra đời của ĐCS có vai trò như thế nào đối với việc thực hiện SMLS của
GCCN? Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong và đại
biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc mà còn là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong và đại
biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng phải vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người khẳng định: “Muốn
cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác - con đường cách mạng
sản”(2). Để thực hiện được mục tiêu đó, Người chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”(3). ĐCS Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo
nhân dân cùng một lúc phải làm tư sản cách mạng, làm dân tộc cách mạng và làm giai
cấp cách mạng. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do ĐCS
lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với giai cấp, dân tộc
và xã hội Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi
Đảng mới thành lập, đó là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”;... “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến”;... Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... giải phóng công nhân và nông dân
thoát khỏi ách tư bản; mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... đem lại mọi quyền lợi tự
do cho nhân dân”. Thực tiễn ở Việt Nam:
Trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân còn thiếu
thốn, Đảng đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước.
Những thành tựu to lớn sau hơn 30 năm đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh, quan hệ quốc tế... đã khẳng định tính đúng đắn, sáng
tạo trong vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi
nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch chống
phá, bị bao vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây
ra, Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của các
tầng lớp nhân dân lao động không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lòng tin của
quần chúng nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế được nâng cao. Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam
trở thành một trong những nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên tiến hành đổi mới thành công
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhân dân, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về ĐCS
Việt Nam - người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Từ thắng lợi của công
lOMoARcPSD| 46090862
cuộc đổi mới đất nước, có thể khẳng định rằng: đường lối lãnh đạo của Đảng, tư tưởng
Hồ Chí Minh là đúng đắn, sáng suốt và luôn được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, tin
tưởng. Đảng có đủ bản lĩnh, trí tuệ, năng lực lãnh đạo nhân dân Việt Nam không chỉ
giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, mà cả trong xây dựng và phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo
mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Câu 2: Phân tích vai trò của GCCN và tầng lớp trí thức ở Việt Nam trong quá trình
CNH - HĐH đất nước hiện nay?
Trong bối cảnh hiện nay, giai cấp công nhân trên toàn thế giới nói chung, giai cấp công
nhân Việt Nam nói riêng cần có một cái nhìn nhận thức đúng đắn về vai trò của họ; trong
sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vấn đề thời sự cấp bách và
lâu dài của Đảng và Nhà nước ta đề ra. Trên cơ sở Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày
28/01/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tiếp tục xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và Kết luận số 79-KL/TW,
ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị khoá XI về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số
20NQ/TW. Cụ thể, chúng ta cần nhận thức đúng đắn những vấn đề lý luận cũng như thực
tiễn về vai trò và sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam sau đây:
Thứ nhất: Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, được nền đại
công nghiệp rèn luyện, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh; từ
đó họ làm được cuộc cách mạng giành chính quyền, giải phóng con người, xây dựng
hội mới, xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân
mới là mục tiêu cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được sứ mạnh
này, giai cấp phải có chính đảng lãnh đạo, thông qua chính đảng của mình để đề ra cương
lĩnh cách mạng, đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp hình thức cách mạng đúng
đắn để cuốn hút các lực lượng khác đi theo mình để làm cách mạng đến thắng lợi cuối
cùng (nồng cốt là liên minh công, nông và tầng lớp trí thức).
Thứ hai: Trong điều kiện hiện nay, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ gắn liền với
quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ; đất nước ta trong tiến trình đổi mới, hội nhập,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì phải xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
ngang tầm với nhiệm vụ mới là một tất yếu khách quan. Để làm được việc này thì phải
xây dựng giai cấp công nhân có trình độ học vấn cao, chuyên môn nghề nghiệp giỏi, giác
ngộ về lợi ích giai cấp, vững vàng về chính trị tư tưởng và rèn luyện tác phong lao động
công nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật. Vì vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được khẳng định bằng chính sự lao động sáng tạo
của mỗi người công nhân và các tập thể lao động góp sức lại.
Thứ ba: Đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo động lực cho giai cấp công nhân
phát huy vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
lOMoARcPSD| 46090862
nay. Đây là giải pháp hết sức quan trọng, không thể thiếu được trong việc phát huy vai trò
của giai cấp công nhân, vì các chính sách đó sẽ tác động trực tiếp đến đời sống, việc làm,
sự hưởng thụ đời sống văn hoá, tinh thần của người công nhân; làm sao để người công
nhân thực sự phục vụ hết khả năng của mình cho xã hội, cho đất nước theo đúng vai trò,
sứ mệnh của họ đã đặt ra.
Thứ tư: Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị để xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp
công nhân, bởi giai cấp công nhân thông qua đảng của mình để sử dụng hệ thống chính
trị như một công cụ sắc bén hữu hiệu để thực hiện vai trò lịch sử của mình là xây dựng
đất nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó sự
vững mạnh và hiệu lực thực thi tốt của hệ thống chính trị là điều kiện cơ bản bảo đảm cho
giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình. Trong đổi mới
hệ thống chính trị cần quan tâm đến việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
Công đoàn, vì sức mạnh của giai cấp công nhân gắn liền với hoạt động và sự lớn mạnh
của Công đoàn Việt Nam theo dòng lịch sử.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu thế chung của toàn thế giới, là con đường tất yếu để
đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu thành một nước công nghiệp; đồng thời, là
phương thức, là điều kiện để giai cấp công nhân thực hiện vai trò, sứ mệnh của mình đối
với dân tộc và Tổ quốc. Để xứng đáng là lực lượng lãnh đạo, lực lượng cơ bản chủ yếu đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính tr
tư tưởng, có trình độ học vấn cao, chuyên môn nghiệp vụ giỏi là yêu cầu khách quan và
là đòi hỏi cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Câu 3: Vì sao Việt Nam chọn quá độ đi lên xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN?
Thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu đối với mọi nước đi lên CNXH. Bộ phận quan trọng
trong học thuyết của V.I.Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội là lý luận về thời kỳ quá đ
lên CNXH.Theo V.I.Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên CNXH là
do đặc điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách
mạng vô sản quy định .
Quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều dựa trên cơ sở chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ
trong lòng xã hội phong kiến. Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đến một trình độ nhất định, sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn của xã hội phong kiến, cáh
mạng tư sản sẽ nổ ra. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản chủ yếu chỉ là giải quyết về mặt
chính quyền Nhà nước, làm cho kiến trúc thượng tầng thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.
Cuộc cách mạng vô sản khác với các cuộc cách mạng khác ở chỗ :các cuộc cách mạng
trước đó giành được chính quyền là kết thúc cuộc cách mạng vì nó dựa trên chế độ chiếm
lOMoARcPSD| 46090862
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Còn cuộc cảch mạng vô sản giành được chính quyền mới
chỉ là bước đầu, còn vấn đề chủ yếu cơ bản hơn đó là giai cấp vô sản phải xây dựng một
xã hội mới, cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả về cơ sở hạ tầng lẫn kiến
trúc thượng tầng, cả về tồn tại xã hội và ý thức xã hội.Hơn nữa, sự phát triển của phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ lâu dài, không một lúc có thể hoàn thiện
được. Để phát triển của lực lượng sản xuất, tằg năng xuất lao động, xây dựng chế độ công
hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần phải có thời gian
tương đối lâu dài. Nói cách khác, tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…
* Lý luận của V.I.Lênin về con đường quá độ lên CNXH ở những nước chủ
nghĩa tư bản chưa phát triển.
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên khả năng những nước còn
đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa có thể chuyển thẳng lên hình thái
chế độ cộng sản chủ nghĩa và khả năng phát triển rút ngắn của các nước này bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa. Còn về nội dung thời kỳ quá độ đó như thế nào và nó có nhiệm vụ
cụ thể gì thì hai ông chưa đề cập tới. Đây chính là điểm phát triển của V.I.Lênin về cách
mạng Xã hội chủ nghĩa và về thời kỳ quá độ ở nhữnh nước tiền đề kinh tế cho cuộc cách
mạng ấy chưa chín muồi, cho dù ở nước đó chủ nghĩa tư bản phát triển ở mức trung bình
( như nước Nga năm 1917 ) .
Lý luận của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH ở các nước chưa có CNTB phát triển
bao gồm một số luận điểm cơ bản sau đây:
* Một là, luận điểm về việc giành lấy chính quyền làm điều kiện tiên quyết để xây
dựng tiền đề kinh tế cho CNXH.
Để phản đối cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917, những người theo Quốc tế II cho
rằng, nước Nga chưa nên làm cách mạng XHCN vì lực lượng sản xuất của nước Nga
chưa phát triển đầy đủ. V.I.Lênin chỉ ra rằng, luận điểm này là trái với phép biện chứng
cách mạng của chủ nghĩa Mác vì chủ nghĩa Mác cho rằng, tính quy luật chung của sự
phát triển trong lịch sử toàn thế giới không loại trừ, trái lại, còn bao hàm một số hình thức
phát triển đặc thù ở một số quốc gia riêng biệt. Như vậy, những người theo Quốc tế II
không thấy được thời kỳ cách mạng mới gắn với những mâu thuẫn gay gắt của CNTB thế
giới; không hiểu được tình thế cách mạng có thể xuất hiện ở nơi này hay nơi khác khiến
cho các dân tộc có thể bước vào cuộc chiến tranh để thoát khỏi CNTB và giành lấy sự
tiến bộ xã hội.từ đó V.I.Lênin nêu luận điểm: ở một nước kém phát triển có thể và cần
phải tạo ra nhưng điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH, bắt đầu bằng một cuộc cách
mạng thiết lập chính quyền công nông, thông qua chính quyền ấy mà tiến lên và đuổi kịp
dân tộc khác.
*Hai là,luận điểm về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá độ. Luận điểm này của
lOMoARcPSD| 46090862
V.I.Lênin được rút ra sau những sai lầm dẫn tới khủng hoảng kinh tế, chính trị ở nước
Nga Xô Viết sau nội chiến. Phân tích nguyên nhân khủng hoảng ở Nga, V.I.Lênin chỉ ra
rằng, đối với một nước mà CNTB chưa phát triển cao như nước Nga, không thể thực hiện
quá độ trực tiếp lên CNXH được mà phải trải qua “ một loạt những bước quá độ ”.
V.I.Lênin viết: “ nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay, chúng ta có thể nói rằng chúng
ta đang ở vào một thời điểm quá độ trong thời kỳ quá độ. Toàn bộ nền chuyên chính vô
sản là một thời kỳ quá độ nhưng hiện nay có thể nói rằng, chúng ta có cả một loạt thời kỳ
quá độ mới ”.
Luận điểm “một loạt những bước quá độ ” xây dựng CNXH ở một nước mà trình độ phát
triển kinh tế chưa chín muồi của V.I.Lênin bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
Không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải qua con đường gián tiếp chứ không thể “
quá vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn bị”.
Những bước quá độ ấy theo V.I.Lênin là chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin nói: “ Để chuẩn bị …việc chuyển sang chủ nghĩa cộng sản, thì cần thiết phải có
một loạt những bước quá độ như chủ nghĩa tư bbản nhà nước và chủ nghĩa xã hội ”.
Bước quá độ từ chủ nghĩa tư bảm nhà nước được thể hiện trong “ chính sách kinh tế ”
mới mà việc trao hàng háo được coi là “ đòn xeo chủ yếu ” cho nên cần có sự nhượng bộ
tạm thời và cục bộ đối với CNTB nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, từng
bước xã hội hoá sản xuất trong thực tế.
Câu 4: Phân tích các vấn đề đặt ra trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam? Theo Anh/Chị, Việt Nam cần làm gì để phát huy quyền làm chủ của nhân
dân?
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nấc thang, một trình độ cao trong lịch sử phát triển dân
chủ của nhân loại và cho đến nay, nó vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện ở
một số nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì thế, có thể nói, dân chủ xã hội chủ
nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới mẻ, cần được tiếp tục nghiên
cứu. Theo chúng tôi, dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện
đặt ra những vấn đề sau:
Thứ nhất, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tiếp thu và phát triển các giá trị nhân loại về
dân chủ, trong đó có dân chủ tư sản. Đây là một vấn đề rất quan trọng, vì con đường phát
triển của nước ta là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, cũng tức
là bỏ qua chế độ dân chủ tư sản. Song, cần phải khẳng định sự khác nhau về bản chất
giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản, đó là sự khác nhau căn bản giữa dân
chủ cho đa số nhân dân lao động và dân chủ cho thiểu số bóc lột. Do đó, trong quá trình
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần phải tham khảo thành quả dân chủ của nhân loại,
lOMoARcPSD| 46090862
nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Đó là những thành tựu, kinh nghiệm của
các nước phát triển về quản lý nhà nước, về thiết kế bộ máy tổ chức chính trị, bộ máy
quản lý nhà nước, về xây dựng nền hành chính công, về trách nhiệm xã hội của cá nhân...
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, không nên áp dụng một cách máy móc các hình thức dân
chủ của nước ngoài vào nước ta; phải dựa trên điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước
chế độ xã hội[1].
Thứ hai, dân chủ là một quá trình phát triển lâu dài, đồng thời là kết quả của sự phát triển
ý thức dân chủ và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân. Do đó, cần phải căn cứ và
tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước, không thể nóng vội, chủ quan. Phải thực hiện dân
chủ ở tất cả các cấp độ, từ cơ quan lãnh đạo cao nhất đến cơ sở, đặc biệt quan trọng là
dân chủ ở cơ sở. Phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, tìm tòi và hoàn thiện các hình
thức thực hiện dân chủ, cả dân chủ đại diện lẫn dân chủ trực tiếp. Kiên quyết đấu tranh
chống các biểu hiện lệch lạc, như dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ
đề gây rối, làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân và Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh phê
phán, bác bỏ các luận điệu sai trái về dân chủ, nhân quyền[2].
Thứ ba, coi trọng thực hiện đồng thời các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, do sự phát triển của công nghệ thông tin cũng
như trình độ dân trí được nâng cao đáng kể, cần quan tâm nhiều hơn đến việc thực hiện
dân chủ trực tiếp.
Thứ tư, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm
thực hiện bằng pháp luật. Tuy nhiên, đó mới chỉ là điều kiện cần. Để quyền làm chủ của
nhân dân được thực hiện một cách đích thực, không mang tính hình thức hoặc không bị
lợi dụng, vấn đề quan trọng là phải bảo đảm những điều kiện đủ. Rõ ràng, muốn thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách đích thực và ngày càng rộng rãi trong xã hội, còn
cần đến rất nhiều yếu tố. Ngoài ý thức và năng lực thực hiện dân chủ của các chủ thể, còn
cần có cơ chế thực hiện dân chủ phù hợp, hiệu quả. Theo đó, cần đẩy mạnh nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn và đúc rút kinh nghiệm thực hiện dân chủ nhằm xây dựng và hoàn
thiện cơ chế thực hiện dân chủ phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt
Nam.
Thứ năm, Đảng phải nêu gương trong việc thực hiện dân chủ. Tại Đại hội XII, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải
bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy dân chủ trong xã hội”[3].
Đây là quan điểm mới và đặc biệt quan trọng trong nhận thức của Đảng. Có thể nói, điều
kiện tiên quyết để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là sự nêu gương, đi tiên
phong của Đảng về thực hiện dân chủ. Bởi lẽ, “dân chủ trong Đảng quyết định dân chủ
trong tổ chức hoạt động của Nhà nước, gắn liền với dân chủ trong xã hội”[4]. Theo đó, có
thể nói, việc làm thế nào để Đảng thực sự như một biểu tượng về dân chủ và thực hành
lOMoARcPSD| 46090862
dân chủ là vấn đề cốt tử để thực hiện dân chủ trong xã hội với chất lượng và hiệu quả
ngày càng cao.
Việt Nam cần làm gì để phát huy quyền làm chủ của nhân dân ?
Thứ nhất, cần xây dựng Quy chế dân chủ trong Đảng. Mặc dù Đảng đã có Điều lệ, song
trong đó không bao quát hết các nội dung dân chủ trong Đảng. Cũng có ý kiến cho rằng
đã có Quy chế dân chủ cơ sở được áp dụng trong xã hội thì không cần phải có quy chế
dân chủ riêng trong Đảng. Tuy nhiên, ngoài tư cách công dân, đảng viên của Đảng còn có
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của người đảng viên. Hơn nữa, là lực lượng chính trị
tiên phong, đảm nhiệm trọng trách lãnh đạo Nhà nước và xã hội, trong đó có nhiệm vụ
lãnh đạo tổ chức thực hiện dân chủ trong hoạt động của Nhà nước và trong toàn xã hội,
Đảng phải đi đầu, phải nêu gương về thực hiện dân chủ trong nội bộ tổ chức và hoạt động
của Đảng. Vì vậy, cần xây dựng Quy chế dân chủ trong Đảng, xây dựng và hoàn thiện
các cơ chế bảo đảm dân chủ trong Đảng và trong xã hội, như cơ chế kiểm tra, giám sát
của nhân dân đối với Đảng; thể chế hóa quyền và trách nhiệm của Đảng trong xã hội; thể
chế hóa quan hệ giữa Đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị...
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của Đảng
và Nhà nước. Trong đó phải xác định rõ nhân dân được kiểm tra, giám sát các nội dung
gì; kiểm tra, giám sát các nội dung đó bằng các hình thức và phương pháp như thế nào;
việc giải trình, trả lời chất vấn của những người bị kiểm tra, giám sát trước nhân dân tiến
hành ra sao; nhân dân phản hồi kết quả kiểm tra, giám sát như thế nào...
Thứ ba, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với chủ trương, chính sách của Đảng và chính
quyền các cấp. Để làm được điều này, một mặt, cần có cơ chế bảo đảm tạo điều kiện
thuận lợi cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có thể tiếp cận các thông tin liên quan,
chất vấn những vấn đề hoặc những nội dung còn chưa rõ ràng...; mặt khác, cần nghiên
cứu và khẳng định quyền quyết định của nhân dân đối với những vấn đề liên quan trực
tiếp và mật thiết đến lợi ích của nhân dân.
Thứ tư, đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ và cải tiến công tác bầu cử. Cán bộ là gốc
của mọi công việc, trong đó có việc thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần hoàn thiện cơ chế dân
chủ trong công tác cán bộ, bảo đảm lựa chọn và bầu cử đúng, trúng những người có đủ
đức, đủ tài theo những tiêu chuẩn xác định vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước. Cơ cấu nhân sự đưa ra bầu phải có số dư, phải tranh cử qua trình bày chương trình
hành động...Công tác đánh giá, lựa chọn, quy hoạch, đào tạo cán bộ..., phải thật sự được
tiến hành một cách dân chủ, khách quan và minh bạch; xử lý nghiêm việc chạy chức chạy
quyền cả từ hai phía.
lOMoARcPSD| 46090862
Thứ năm, cần mở rộng quyền dân chủ của nhân dân ở cấp cơ sở và bảo đảm các hình
thức thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ trực tiếp. Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã yêu cầu phải thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân thực hiện quyền dân
chủ thông qua các cơ quan đại diện của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội. Với
hình thức dân chủ trực tiếp, mọi công dân có thể trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng
của mình một cách bình đẳng. Nó thể hiện sự tham gia trực tiếp, tích cực và chủ động của
người dân vào các hoạt động của Nhà nước trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa
và xã hội...
Thứ sáu, kiên trì và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Lý luận mácxít về dân
chủ và bài học kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng trong việc thực hiện dân chủ đã chỉ ra rằng, dân
chủ phải luôn gắn liền với tập trung. Nói cách khác, nguyên tắc tập trung dân chủ phải
được quán triệt cả trong nhận thức lẫn trong hành động; thực hiện nhất quán trong mọi
hoạt động của Đảng và Nhà nước, trên tất cả cáclĩnh vực của đời sống xã hội. Kết hợp
chặt chẽ tập trung với dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh và hiệu lực trong hoạt động
lãnh đạo của Đảng, tổ chức quản lý của Nhà nước. Không thể có dân chủ nếu không có
tập trung; tập trung mà không dựa trên dân chủ thì sẽ dẫn đến nguy cơ quan liêu, độc
đoán, chuyên quyền. Sự gắn kết, ràng buộc và chi phối lẫn nhau giữa tập trung và dân
chủ là sự đảm bảo để không dẫn tới tình trạng hoặc là chuyên quyền, độc đoán, hoặc là
cực đoan, quá trớn – những nguy cơ dẫn đến phản giá trị, phản phát triển.
Thứ bảy, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải gắn liền với việc tôn trọng và
thực hiện nghiêm pháp luật, giữ vững kỷ luật và kỷ cương xã hội, đề cao trách nhiệm
công dân. Sự tách rời giữa dân chủ với pháp luật sẽ dẫn đến những hệ quả khôn lường, đe
dọa ổn định chính trị và trật tự xã hội.Việc mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân phải gắn với việc đề cao và tăng cường pháp luật, kỷ cương. Đây là mối
quan hệ biện chứng: Thực hiện pháp luật nghiêm minh là yếu tố bảo đảm quyền dân ch
và làm chủ của nhân dân; đồng thời, quyền dân chủ và làm chủ của nhân dân được mở
rộng và phát huy sẽ càng làm cho pháp luật, kỷ cương trong xã hội được tôn trọng và
tăng cường. Chính vì vậy, Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: Phát huy dân chủ phải đi
liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương
và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình
thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Câu 5: Phân tích các vấn đề đặt ra trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở
Việt Nam. Theo Anh/Chị là thế nào để xây dựng nhà nước Việt Nam trong sạch,
vững mạnh
lOMoARcPSD| 46090862
Khái quát thực tiễn việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hoàn thiện qua nhiều
thời kỳ với đặc điểm, tính chất đặc thù Việt Nam, từng bước tiếp cận chuẩn mực, tinh hoa
nhân loại. Quá trình đó có nhiều giai đoạn chuyển đổi, từ Nhà nước chuyên chính vô sản
sang nhà nước Nhà nước có tính pháp quyền, đề cao vai trò của Hiến pháp và pháp luật.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tiếp tục được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992,
Hiến pháp sửa đổi năm 2001 và Hiến pháp 2013, cũng như các văn bản pháp luật của
Nhà nước và được triển khai thực hiện trên thực tế. Việc đổi mới được dựa trên ba trụ cột
cơ bản là : (i) Xây dựng và hoàn thiện một Nhà nước pháp quyền hiện đại được đổi mới
cả chất và lượng; (ii) Tạo dựng môi trường phát triển đầy đủ một nền kinh tế thị trường
hiện đại, hội nhập sâu rộng với quốc tế; (iii) Thiết lập một xã hội dân chủ phát triển ở
trình độ cao hơn, trong đó thượng tôn pháp luật, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của đất
nước là nguyên tắc chủ đạo, chi phối các mối quan hệ xã hội, xử lý hài hòa mối quan hệ
giữa Nhà nước với thị trường và xã hội.
Bộ máy nhà nước dần được được hoàn thiện theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả hơn, cơ chế vận hành có nhiều thay đổi so với trước đây, mối quan hệ giữa Quốc
hội, chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội thích ứng dần với xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Quốc hội có nhiều đổi mới trong tổ chức và hoạt động; chính phủ được
sắp xếp lại các đầu mối, tập trung làm tốt chức năng quản lý vĩ mô. Vai trò Nhà nước kiến
tạo phát triển theo hướng: (i) Đủ năng lực đóng vai trò hướng dẫn, giảm bớt việc tham
gia trực tiếp vào hoạt động phát triển kinh tế và xã hội, (ii) Nhà nước được cải cách về tổ
chức, cơ chế hoạt động theo hướng quản trị hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mối
quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương chuyển mạnh sang phân cấp, phân
quyền. Sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rành mạnh hơn. Tính công khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình ngày càng rõ hơn.
Hệ thống luật pháp được xây dựng và hoàn thiện đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế
thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên nhiều
phương diện, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đã thực hiện, tham gia sâu rộng nhiều
cam kết quốc tế, là thành viên có trách nhiệm, tin cậy của cộng đồng quốc tế. Quyền con
người, quyền công dân tiếp tục được cụ thể hóa bằng hệ thống luật pháp và đảm bảo thực
thi trên thực tế. Dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện của người dân được quanm và đảm
bảo trên thực tế. Các chủ thể trong xã hội bình đẳng trước pháp luật, được làm những
điều pháp luật không cấm.
lOMoARcPSD| 46090862
Từ những kết quả và hạn chế, có thể rút ra bài học kinh nghiệm trong xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như sau:
Một là, kiên định trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa của nhân loại, thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
không giáo điều, dập khuôn cũng không tùy tiện vô nguyên tắc
Hai là, phải thống nhất về nhận thức và tổ chức thực hiện, gắn bó chặt chẽ với xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, với nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong
từng giai đoạn.
Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển trong xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, đồng bộ, toàn diện, có bước đi,
hình thức phù hợp. Đấu tranh có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực cơ
hội, thù địch.
Bốn là, trong tổ chức và hoạt động, coi trọng xây dựng, hoàn thiện nền quản trị quốc gia
hiện đại, gắn kết chặt chẽ giữa pháp trị và đức trị trong tổ chức thực hiện. Tập trung hoàn
thiện thể chế phát triển, đi đôi với xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tinh gọn, chuyên
nghiệp, đề cao trách nhiệm, đạo đức công vụ.
Năm là, phải coi đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng,
phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội và
người dân, đảm bảo các nguyên tắc chỉ đạo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền hiện nay và các giai đoạn tiếp theo.
Đề xuất các giải pháp về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam thời gian tới:
Công cuộc đổi mới của Việt Nam tiếp tục đi vào chiều sâu, đất nước ta đã thu được nhiều
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử sau hơn 35 năm đổi mới. Nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN được phát triển theo hướng hiện đại, hội nhập sâu rộng, trên nhiều
lĩnh vực tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế. Bởi vậy, những kết quả có được nêu trên
một phần quan trọng là Việt Nam đã giải quyết thành công nhiều vấn đề, giải quyết tốt
các mối quan hệ lớn trong quá trình đổi mới, trong đó có quan hệ giữa đổi mới, ổn định
và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa phát triển kinh tế thị trường
và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân… Nhờ đó, đem
lại những kết quả to lớn, sự thống nhất cao, trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bước vào giai đoạn mới, sau thành công của Đại hội
XIII của Đảng, vấn đề về xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả có vị trí hết sức quan trọng, đặc biệt là hướng
lOMoARcPSD| 46090862
tới những mốc quan trọng của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, việc xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần tập trung vào
một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo sự thống nhất trong Đảng và toàn xã hội; tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội,
đảm bảo thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân
dân, thực hành dân chủ đi đôi với trách nhiệm, quyền và lợi ích của người dân.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, như
vấn đề về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong chế độ một Đảng, tính ưu việt, thực tiễn và đặc
thù Việt Nam; giá trị phổ quát và tính đặc thù trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam; quyền lực là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực trong điều kiện mới, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, đảm bảo tính công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình; Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền; mối
quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội
Ba là, đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2045 hoạt
động hiệu lực, hiệu quả phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong từng giai đoạn. Xây dựng nền quản trị quốc
gia hiện đại; tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý..Làm rõ thẩm quyền, trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Nâng cao tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, đạo đức công vụ cho cán bộ, công
chức. Đẩy mạnh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Bốn là, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nâng cao trách nhiệm
pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ
cương xã hội. Hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp như trưng cầu ý dân; lấy ý kiến
nhân dân; nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; vấn đề bãi miễn đại biểu dân cử
khi không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
dân chủ gián tiếp, như vấn đề bầu cử; mối quan hệ giữa nhân dân với các thiết chế đại
diện... Tiếp tục rà soát, hoàn thiện, nội luật hóa các luật, điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia hoặc ký kết..
Năm là, đổi mới mạnh mẽ hoạt động xây dựng pháp luật, hạn chế ủy quyền pháp luật,
quy định chế tài pháp luật phù hợp hơn; chú trọng xây dựng đầy đủ cơ chế bảo vệ Hiến
pháp. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân tham gia xây dựng pháp luật, coi
trọng hiệu quả thực thi pháp luật. Về lâu dài, phải xây dựng, hoàn thiện được một hệ
lOMoARcPSD| 46090862
thống pháp luật thể hiện đúng, đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm tính
toàn diện, đồng bộ, thống nhất, phù hợp, ổn định và khả thi. Nội dung luật phải đảm bảo
tính dân chủ, thúc đẩy tiến bộ xã hội, vì hạnh phúc con người. Việc tổ chức thi hành pháp
luật phải đảm bảo tinh thần thượng tôn pháp luật…
Câu 6: Phân tích đặc điểm dân tộc và quan điểm, chính sách giải quyết vấn đề dân
tộc ở Việt Nam hiện nay. Theo Anh/chị trong bối cảnh quốc tế hiện nay, Việt Nam
cần làm gì để vừa giữ vững độc lập dân tộc, vừa hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới?
Trong thực tế, nhiều chính sách, pháp luật về dân tộc, nhất là đối với đồng bào DTTS
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đã phát huy hiệu quả cao, thể hiện rõ ở các
thành tựu đạt được trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
Về kinh tế, vùng đồng bào DTTS có những bước phát triển tiến bộ rõ rệt, đời sống đồng
bào được nâng lên, diện mạo vùng DTTS khởi sắc với hệ thống kết cấu hạ tầng ngày
càng hoàn thiện. Các tuyến giao thông liên huyện, liên xã, đường tuần tra biên giới được
làm mới, mở rộng và nâng cấp. Đến năm 2015, vùng DTTS có 100% xã và 97,8% thôn
có điện, có 99,4% xã và 93,3% thôn có đường ô tô, gần 100% xã có trường tiểu học,
92,9% xã có trường trung học cơ sở, có 58,6% xã và 78,1% thôn có nhà văn hóa, 99,5%
xã có trạm y tế, gần 92% số xã có điện lưới quốc gia, 80% xã có công trình thuỷ lợi nhỏ,
65% xã có công trình phục vụ nước sinh hoạt(3). Nền kinh tế đã chuyển dịch theo hướng
sản xuất hàng hóa, phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, góp phần cải thiện, nâng
cao đời sống người dân. Tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng miền núi phía Bắc đạt hơn 10%,
miền Trung và Nam bộ 12%, Tây Nguyên là 12,5%. Mặt bằng thu nhập và điều kiện sinh
hoạt của đồng bào DTTS không ngừng được nâng cao, nhiều hộ đã vươn lên thoát nghèo
và có cuộc sống khá giả.
Về chính trị, quyền bình đẳng giữa các dân tộc theo quy định của Hiến pháp được thể
hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các dân tộc chung sống hòa hợp, đồng thuận,
tôn trọng, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau và đều tích cực tham gia vào quá trình phát triển
đất nước. Hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng DTTS thường xuyên được kiện toàn, hoạt
động ngày càng hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ người DTTS được
quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới. Theo kết quả khảo sát về công tác đào tạo cán bộ người DTTS, có 71,3% số người
DTTS được hỏi đánh giá tốt và khá tốt; về việc sử dụng cán bộ người DTTS, có 70,4%
đánh giá tốt và khá tốt(4). Trong đội ngũ cán bộ, tỷ lệ cán bộ người DTTS được cơ cấu ở
các cơ quan Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương ngày một tăng.
Về văn hóa, sự nghiệp phát triển văn hóa vùng đồng bào DTTS thu được nhiều kết quả.
Thiết chế văn hóa ngày càng hoàn thiện. Theo báo cáo khảo sát, hiện 100% số xã có bưu
điện, 44% số xã có nhà văn hóa; 62,5% số thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng; 15,9%
lOMoARcPSD| 46090862
hộ biết điệu múa truyền thống; 65,1% số hộ được nghe đài; 88,8% số hộ được xem
truyền hình; có 56,8% thôn, bản có hệ thống loa truyền thanh; 84,9% số hộ có tivi; 75,4%
hộ dân tộc thiểu số có điện thoại; 7,7% số hộ có máy vi tính; 6,5% số hộ có kết nối
internet(5). Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào DTTS được bảo tồn và phát
huy. Ý thức của đồng bào DTTS trong giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp, thực hiện
nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội và thực hiện tiêu chí xây dựng nông thôn
mới được nâng lên. Đánh giá về công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
của đồng bào DTTS, có 76,9% người DTTS được hỏi đánh giá công tác này đã được làm
tốt và khá tốt, 21,3% đánh giá chưa tốt và 1,9% khó đánh giá
Về phát triển xã hội, sự nghiệp giáo dục và chăm sóc sức khỏe đồng bào DTTS có bước
phát triển mới. Cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư nâng cấp, hệ thống trường phổ
thông dân tộc nội trú được củng cố, phát triển về quy mô và nâng cao chất lượng hoạt
động. Các chính sách về giáo dục, đào tạo, chế độ cho giáo viên và học sinh được thực
hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng đã tạo điều kiện nâng cao chất lượng dạy và học,
thu hút con em đồng bào DTTS đến trường.
Về quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội và quốc phòng, an ninh vùng DTTS cơ
bản được bảo đảm, quan hệ giữa các dân tộc được củng cố. Các hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch kịp thời được ngăn chặn, việc truyền đạo trái pháp luật được kiểm
soát, an ninh được duy trì, biên giới được bảo vệ. Có 36,1% người DTTS được hỏi cho
rằng việc đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng đồng bào DTTS thời gian qua được thực
hiện rất hiệu quả, 59,3% cho rằng khá hiệu quả, chỉ có 3,7% cho rằng không hiệu quả và
có 0,9% cho rằng khó đánh giá
Về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công tác dân tộc, đã tăng cường phối hợp với các đối
tác quốc tế trong việc nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm về công tác dân tộc; khuyến
khích việc giúp đỡ, hỗ trợ đầu tư phát triển vùng DTTS. Hoạt động tuyên truyền đối
ngoại, tổ chức giao lưu, kết nghĩa giữa nhân dân, chính quyền và lực lượng bảo vệ biên
giới của nước ta với các nước láng giềng được chú trọng, góp phần tăng cường đoàn kết,
hữu nghị hai bên biên giới, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển.
Việt Nam cần làm gì để vừa giữ vững độc lập dân tộc, vừa hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới?
Trong hội nhập quốc tế, Việt Nam nhất quán nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe
dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ
sở luật pháp quốc tế; kiên định lợi ích quốc gia là giá trị cốt lõi, là mục tiêu cao nhất
trong quán triệt, xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế luôn được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược tổng thể, có
lOMoARcPSD| 46090862
lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng của đất nước, theo tinh thần
“dĩ bất biến ứng vạn biến”. Giữ vững và thực hiện tốt phương châm đối ngoại đa phương
hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng
quốc tế. Đổi mới tư duy, chuyển mạnh từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác
quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế
hợp tác”. Tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia và coi đây là yếu tố quyết định thành
công của quá trình hội nhập quốc tế, đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc,
của văn hóa, con người Việt Nam, sức mạnh của thế trận quốc phòng toàn dân gắn với
thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động phát hiện, ngăn chặn từ sớm, từ xa các
nguy cơ; kiên định giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Nhạy bén trong nghiên
cứu nắm chắc tình hình, nâng cao năng lực dự báo, phục vụ đắc lực tiến trình hội nhập
quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Câu 7: Phân tích đặc điểm của tôn giáo và quan điểm, chính sách tôn giáo ở Việt
Nam. Mối quan hệ giữa dân tộc với tôn giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của mối quan
hệ đó đến sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước, đến độc lập, chủ quyền của Tổ
quốc?
Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến các hoạt động tôn giáo và ban
hành những chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động đúng
tôn chỉ mục đích và Hiến pháp, pháp luật. Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân
biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng
pháp luật. Những quan điểm nhất quán này đã được ghi nhận trong Hiến pháp, kể từ Hiến
pháp năm 1946 đến Hiến pháp 2013.
1. Trong các văn kiện của Đảng luôn nhất quán quan điểm: Tín ngưỡng, tôn giáo là một
nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là một bộ
phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt
tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật, bình đẳng trước pháp luật.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam (bổ sung, phát
triển 2011) - một văn kiện có giá trị pháp lý cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
ghi rõ: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn
giáo của Nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi
lOMoARcPSD| 46090862
hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn
hại đến lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân”.
Nghị quyết khẳng định tín ngưỡng và tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH Việt Nam. Đồng
bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng và Nhà nước Việt Nam
thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật được
bảo đảm. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy
định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Việc mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất
bản kinh sắc và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng
quy định của pháp luật được tạo điều kiện thuận lợi. Nghị quyết cũng chỉ rõ việc theo
đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp
pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan,
không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo và các cách
thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật v.v…
Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo của người dân. Tất cả những quyền của người dân về tôn giáo đều được Nhà
nước Việt Nam quy định rõ từ việc quản đạo, hành đạo, truyền đạo… Nơi thờ tự của các
tôn giáo được luật pháp Việt Nam bảo vệ. Tất nhiên, pháp luật Việt Nam cũng quy định
việc thành lập tổ chức tôn giáo phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép;
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải đúng quy định của pháp luật, phù hợp với đạo đức,
văn hóa và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, Nhà nước Việt Nam thực hiện quyền quản lý
xã hội của mình trên lãnh thổ Việt Nam ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có lĩnh vực tôn giáo. Để quản lý Nhà nước về tôn giáo thật sự có hiệu quả, phát huy
tác dụng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo của người dân, đương nhiên Nhà nước Việt Nam phải áp dụng các biện pháp
nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân
và đặc biệt là các hành động lợi dụng tôn giáo vì các mục đích khác nhau trái với Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam.
Quyền con người, quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam được bảo đảm ngày một tốt hơn; các
tôn giáo đã phát triển nhanh cả về số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự. Nếu như năm 2006, cả
nước mới có 6 tôn giáo và 16 tổ chức tôn giáo được công nhận và đăng ký hoạt động, thì
đến nay đã có 38 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau được công nhận (số liệu đến tháng
6/2020). Cả nước có khoảng trên 25 triệu tín đồ, trên 110 nghìn chức sắc, nhà tu hành (số
lOMoARcPSD| 46090862
liệu đến hết năm 2019). Các cơ sở thờ tự của các tôn giáo ngày càng được xây dựng
khang trang cùng nhiều cơ sở xã hội, từ thiện đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện
công tác xã hội. Các cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo với đủ các cấp học, như: Học viện
Phật giáo, Chủng viện Thiên chúa giáo và các trường cao đẳng, trung cấp của các tôn
giáo đã và đang hoạt động với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương. Các ấn
phẩm về tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong in ấn và phát hành.
Có thể nói, hòa chung với sự hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển mọi mặt của đất
nước, hoạt động tôn giáo ở Việt Nam ngày càng sôi động, những chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn giáo ngày càng cởi mở hơn, tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho các hoạt động tôn giáo.
Mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc là sự liên kết qua lại, sự vận động, biến đổi các
tôn giáo gắn liền với sự vận động, biến đổi của các vấn đề dân tộc, như vậy thể
thấy:
- Sự đoàn kết giữa tôn giáo và dân tộc trở thành xu thế nổi trội trong quá trình toàn
cầu hóa của Việt Nam hiện nay.Các tôn giáo tham gia tích cực vào khối đại đoàn kết dân
tộc , tích cực tham gia cáchoạt động chính trị-xã hội , tham gia xây dựng chính quyền các
cấp trên nền tảng của sự đoàn kết, hưởng ứng chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước
trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là vận động cử tri theo tôn giáo tham gia bẩu cử Đại
biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Tại Quốc hội khóa XIV, các Đại biểu Quốc
hội là chức sắc, chức việc tôn giáo đã tích cực tham gia góp ý vào nội dung của dự thảo
Luật tín ngưỡng, tôn giáo để Luật phù hợp với thực tiễn, góp phần vào thành công của
Luật tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua với tỷ lệ cao tại Quốc hội và đáp ứng kịp thời
nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng của người dân. Tại đợt bầu cử Đại biểu Quốc hội
khóa XV có tới 7 người là chức sắc, chức việc thuộc 3 tôn giáo: Phật giáo, Công giáo và
Cao Đài, từ đó cho thấy Các Đại biểu Quốc hội là chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn
giáo là những cánh tay nối dài, giúp đem tiếng nói của đông đảo nhân dân và tín đồ các
tôn giáo góp ý vào các nghị quyết và văn bản luật pháp quan trọng của Quốc hội.Tinh
thần đoàn kết giữa mối quan hệ tôn giáo và dân tộc cũng được chứng minh rõ rệt qua
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, tinh thần đó đã trở thành sức mạnh quật khởi để
dân tộc Việt Nam chiến thắng kẻ thù.về góc độ văn hoá, các tôn giáo tích cực hưởng ứng,
tham gia xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, xây dựng làng văn hoá, xã văn hoá, gia đình
văn hoá. Có thể thấy tôn giáo không ngừng bồi dưỡng đạo đức, tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộphận nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với xây dựng con
người mới, xã hội mới, các cấp uỷ Đảng và chính quyền cùng với Mặt trận Tổ quốc các
cấp và các đoàn thể tạo thuận lợi cho đồng bào theo các tôn giáo sinh hoạt tín ngưỡng tôn
giáo của mình.
lOMoARcPSD| 46090862
- Sự gắn liền giữa tôn giáo và dân tộc tạo bản sắc văn hóa trước xuthế toàn cầu
hóaNho giáo, học thuyết chính trị-xã hội, song khi được du nhập vào Việt Nam đã mang
màu sắc tôn giáo rõ nét. Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo cũng được du nhâp vào nước ta, bị
“dân tộc hóa”, 2 tôn giáo này cũng như một số tôn giáo khác dần đi vào tâm thức của
nhân dân ta, tạo ra những nét, những đặc điểm riêng cộng với vănhóa bản địa riêng ở nơi
đây đã tạo nên bản sắc văn hóa riêng chỉ nước ta mới có – đây là yếu tố quan trọng tạo
nên sức mạnh của dân tộc chống lại mưu đồ đồng hóa dân tộc hàng ngàn năm của
phương Bắc, giành lại độc lập dân tộc đồng thời cũng chống. Trước xu thế toàn cầu hoá
sự gắn kết giữa tôn giáo và dân tộc tạo nên bản sắc văn hoá vẫn là xu hướng cơ bản, song
có điều trong quá trình đó các tôn giáo cũng tự phải biến đổi mình để thích nghi, để tồn
tại, thậm chí phát triển theo yêu cầu xã hội tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
- Các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, tộc người nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết
dân tộcTrong giai đoạn hiện nay dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá, sự lợi dụng vấn
đề tôn giáo của các thế lực thù địch mang nội dung mới và tính chất phức tạp hơn nhiều.
Ở nước ta, từ sau năm 2001 các thế lực thù địch công khai ủng hộ, dựng lên cái gọi
"Nhà nước Đềga", "Tin Lành Đềga" nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa người Kinh và người
Thượng, chia rẽ và phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, và muốn tách Tây Nguyên ra khỏi
Tổ quốc Việt Nam. Mưu đồ này được dựng bởi những kịch bản tương tự như “Tổ quốc
của người Mông” với Tin Lành - Vàng Chứ ở các tỉnh miền núi phía Bắc, “Nhà nước
Khmer Crôm” gắn với Phật giáo Nam Tông ở khu vực Tây Nam Bộ. Tất cả nhằm chia rẽ,
gây mất đoàn kết dân tộc, tôn giáo trong một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo như nước
ta dẫn đến suy giảm và lụi tàn văn hóa ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống chính trị-xã
hội, cũng như ảnh hưởng đến thực hiện chủ trưởng chính sách của Đảng và nhà nước.
Câu 8: Phân tích sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của gia đình? Quan điểm của
nhóm về hiện tượng sống thử trước hôn nhân, mẹ đơn thân, vợ chồng đồng giới, ...
hiện nay?
Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình
Gia đình Viêt Nam ngày nay có thể được coi là “gia đình quá độ ” trong bước chuyển
biế từ xã hôi nông nghiệ p cổ truyền sang xã hộ i công nghiệ p hiệ n đại. Trong
quá trình này, sự giải thể của cấu trúc gia đình truyền thống và sự hình thành hình thái
mới là môt tất yếu.  Gia đình đơn hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ
biến ở các đô thị và cả ở nông thôn - thay thế cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai
trò chủ đạo trước đây.
Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số thành viên
trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể tồn tại đến ba bốn
lOMoARcPSD| 46090862
thế hê cùng chung sống dưới mộ t mái nhà thì hiệ n nay, quy mô gia đình hiệ n đại
đã ngày  càng được thu nhỏ lại. Gia đình Viêt Nam hiệ n đại chỉ có hai thế hệ cùng
sống chung: chạ m- con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như trước, cá biêt
còn có số ít gia  đình đơn thân, nhưng phổ biến nhất vẫn là loại hình gia đình hạt nhân
quy mô nhỏ.
Quy mô gia đình Viêt Nam ngày càng thu nhỏ, đáp ứng những nhu cầu và điều kiệ n của 
thời đại mới đặt ra. Sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuôc sống riêng tư của con 
người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống của gia đình
truyền thống. Sự biến đổi của gia đình cho thấy chính nó đang làm chức năng tích cực,
thay đổi chính bản thân gia đình và cũng là thay đổi hê thống xã hộ i, làm cho xã hộ
i trở  nên thích nghi và phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại mới.
Biến đổi các chức năng của gia đình
- Chức năng tái sản xuất ra con người
Với những thành tựu của y học hiên đại, hiệ n nay việ c sinh đẻ được các gia đình
tiến  hành môt cách chủ độ ng, tự giác khi xác định số lượng con cái và thời điểm sinh
con.  Hơn nữa, viêc sinh con còn chịu sự điều chỉnh bởi chính sách xã hộ i của Nhà
nước, tùy  theo tình hình dân số và nhu cầu về sức lao đông của xã hộ i. Ở nước ta,
từ những năm 70  và 80 của thế kỷ XX, Nhà nước đã tuyên truyền, phổ biến và áp dụng
rông rãi các  phương tiên và biệ n pháp kỹ thuậ t tránh thai và tiến hành kiểm soát
dân số thông qua  Cuôc vậ n độ ng sinh đẻ có kế hoạch, khuyến khích mỗi cặp vợ
chồng chỉ nên có từ 1 đến  2 con. Sang thâp niên đầu thế kỷ XXI, dân số Việ t Nam
đang chuyển sang giai đoạn giá  hóa. Để đảm bảo lợi ích của gia đình và sự phát triển bền
vững của xã hôi, thông điệ p  mới trong kế hoạch hóa gia đình là mỗi cặp vợ chồng nên
sinh đủ hai con.
Nếu như trước kia, do ảnh hưởng của phong tục, tâp quán và nhu cầu sản xuất nông 
nghiêp, trong gia đình Việ t Nam truyền thống, nhu cầu về con cái thể hiệ n trên ba
phương
diên: phải có con, càng đông con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối dõi thì
ngày  nay, nhu cầu ấy đã có những thay đổi căn bản: thể hiên ở việ c giảm mức sinh của
phụ nữ,  giảm số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có con trai của các cặp
vợ chồng. Trong gia đình hiên đại, sự bền vững của hôn nhân phụ thu c rất nhiều
vào các  yếu tố tâm lý, tình cảm, kinh tế, chứ không phải chỉ là các yếu tố có con hay
không có con, có con trai hay không có con trai như gia đình truyền thống.
Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dng
Xét môt cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đình đã có hai bước chuyển mang tính 
bước ngoặt: Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa, tức là từ môt đơn vị
kinh tế khép kín sản xuất để đáp ứng nhu cầu của gia đình thành đơn vị mà sản xuất chủ
lOMoARcPSD| 46090862
yếu để đáp ứng nhu cầu của người khác hay của xã hôi. Thứ hai, từ đơn vị kinh tế mà đặc
trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc gia thành tổ chức kinh tế
của nền kinh tế thị trường hiên đại đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu.
Hiên nay, kinh tế gia đình đang trở thành mộ t bộ phậ n quan trọng trong nền
kinh tế quốc  dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh hôi nhậ p kinh tế và cạnh tranh sản phẩm
hàng hóa với các  nước trong khu vực và trên thế giới, kinh tế gia đình gặp rất nhiều khó
khăn, trở ngại trong viêc chuyển sang hướng sản xuất kinh doanh hàng hóa theo hướng
chuyên sâu  trong kinh tế thị trường hiên đại. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình phần
lớn có quy mô  nhỏ, lao đông ít và tự sản xuất là chính.
Sự phát triển của kinh tế hàng hóa và nguồn thu nhâp bằng tiền của gia đình tăng lên làm 
cho gia đình trở thành môt đơn vị tiêu dùng quan trọng của xã hộ i. Các gia đình Việ
t Na đang tiến tới “tiêu dùng sản phẩm do người khác làm ra”, tức là sử dụng hàng hóa
và dịch vụ xã hôị
Biến đổi chức năng giáo dc (xã hội hóa)
Trong xã hôi Việ t Nam truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã hộ
i thì  ngày nay, giáo dục xã hôi bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những mục tiêu, 
những yêu cầu của giáo dục xã hôi cho giáo dục gia đình. Điểm tương đồng giữa giáo 
dục gia đình truyền thống và giáo dục của xã hôi mới là tiếp tục nhấn mạnh sự hy sinh 
của cá nhân cho công đồng.
Giáo dục gia đình hiên nay phát triển theo xu hướng sự đầu tư tài chính của gia đình cho 
giáo dục con cái tăng lên. Nôi dung giáo dục gia đình hiệ n nay không chỉ nặng v
giáo  dục đạo đức, ứng xử trong gia đình, dòng họ, làng xã, mà hướng đến giáo dục kiến
thức khoa học hiên đại, trang bị công cụ để con cái hòa nhậ p với thế giới.
Tuy nhiên, sự phát triển của hê thống giáo dục xã hộ i, cùng với sự phát triển kinh tế
hiệ n  nay, vai trò giáo dục của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm. Nhưng
sự gia tăng của các hiên tượng tiêu cực trong xã hộ i và trong nhà trường, làm cho sự
kỳ vọng và  niềm tin của các bâc cha mẹ vào hệ thống giáo dục xã hộ i trong việ
c rèn luyệ n đạo đức,  nhân cách cho con em của họ đã giảm đi rất nhiều so với trước
đây. Mâu thuẫn này là mô thực tế chưa có lời giải hữu hiêu ở Việ t Nam hiệ n nay.
Những tác độ ng trên đây làm giả sút đáng kể vai trò của gia đình trong thực hiên chức
năng xã hộ i hóa, giáo dục trẻ em ở  nước ta thời gian qua.
Hiên tượng trẻ em hư, bỏ học sớm, lang thang, nghiệ n hút ma túy, mại dâm… cũng
cho  thấy phần nào sự bất lực của xã hôi và sự bế tắc của mộ t số gia đình trong việ
c chăm sóc,  giáo dục trẻ em.
Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm
lOMoARcPSD| 46090862
Trong xã hôi hiệ n đại, độ bền vững của gia đình không chỉ phụ thuộ c vào
sự ràng buộ c  của các mối quan hê về trách nhiệ m, nghĩa vụ giữa vợ và chồng;
cha mẹ và con cái; sự h sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích gia đình, mà nó còn bị chi phối
bởi các mối quan hê hòa  hợp tình cảm giữa chồng và vợ; cha mẹ và con cái, sự đảm bảo
hạnh phúc cá nhân, sinh hoạt tự do, chính đáng của mỗi thành viên gia đình trong cuôc
sống chung.
Trong gia đình Viêt Nam hiệ n nay, nhu cầu thỏa mãn tâm lý - tình cảm đang tăng
lên, do  gia đình có xu hướng chuyển đổi từ chủ yếu là đơn vị kinh tế sang chủ yếu là đơn
vị tình cảm. Viêc thực hiệ n chức năng này là mộ t yếu tố rất quan trọng tác độ
ng đến sự tồn tại,  bền vững của hôn nhân và hạnh phúc gia đình, đặc biêt là việ c bảo
vệ chăm sóc trẻ em và
người cao tuổi, nhưng hiên nay, các gia đình đang đối mặt với
rất nhiều khó khăn, thách  thức. Đặc biêt, trong tương lai gần, khi mà tỷ lệ các gia đình
chỉ có mộ t con tăng lên thì  đời sống tâm lý - tình cảm của nhiều trẻ em và kể cả
người lớn cũng sẽ kém phong phú hơn, do thiếu đi tình cảm về anh, chị em trong cuôc
sống gia đình.
Tác đông của công nghiệ p hóa và toàn cầu hóa dẫn tới tình trạng phân hóa giàu nghèo 
sâu sắc, làm cho môt số hộ gia đình có cơ may mở rộ ng sản xuất, tích lũy tài sản, đất
đai,  tư liêu sản xuất thì trở nên giàu có, trong khi đại bộ phậ n các gia đình trở
thành lao độ ng  làm thuê do không có cơ hôi phát triển sản xuất, mất đất đai và các tư
liệ u sản xuất khác,  không có khả năng tích lũy tài sản, mở rông sản xuất. Nhà nước
cần có chính sách hỗ trợ  các hô nghèo, khắc phục khoảng cách giàu nghèo đang có xu
hướng ngày càng gia tăng.
Cùng với đó, vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi tâm lý truyền thống về vai trò của con trai,
tạo dựng quan niêm bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiệ m nuôi
dưỡng,  chăm sóc cha mẹ già và thờ phụng tổ tiên. Nhà nước cần có những giải pháp,
biên pháp  nhằm bảo đảm an toàn tình dục, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho
các thành viên sẽ là chủ gia đình tương lai; củng cố chức năng xã hôi hóa của gia đình,
xây dựng  những chuẩn mực và mô hình mới về giáo dục gia đình, xây dựng nôi dung
phương  pháp mới về giáo dục gia đình, giúp cho các bâc cha mẹ có định hướng trong
giáo dục và  hình thành nhân cách trẻ em; giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn giữa nhu cầu
tự do, tiến bô  của người phụ nữ hiên đại với trách nhiệ m làm dâu theo quan ni m
truyền thống, mâu  thuẫn về lợi ích giữa các thế hê, giữa cha mẹ và con cái. Nó đòi hỏi
phải hình thành  những chuẩn mực mới, bảo đảm sự hài hòa lợi ích giữa các thành viên
trong gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình và xã hôi.
Sự biến đổi quan hê gia đìn
-Biến đổi quan hê hôn nhân và quan hệ vợ chồng
| 1/24

Preview text:

lOMoAR cPSD| 46090862 Bài nhóm
Câu 1: Sự ra đời của ĐCS có vai trò như thế nào đối với việc thực hiện SMLS của
GCCN? Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng không chỉ là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong và đại
biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc mà còn là lãnh tụ chính trị, đội tiên phong và đại
biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng phải vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Người khẳng định: “Muốn
cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác - con đường cách mạng vô
sản”(2). Để thực hiện được mục tiêu đó, Người chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”(3). ĐCS Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo
nhân dân cùng một lúc phải làm tư sản cách mạng, làm dân tộc cách mạng và làm giai
cấp cách mạng. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do ĐCS
lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi
Đảng mới thành lập, đó là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”;... “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong
kiến”;... Làm cho nước Việt Nam được độc lập;... giải phóng công nhân và nông dân
thoát khỏi ách tư bản; mở mang công nghiệp và nông nghiệp;... đem lại mọi quyền lợi tự
do cho nhân dân”. Thực tiễn ở Việt Nam:
Trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân còn thiếu
thốn, Đảng đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước.
Những thành tựu to lớn sau hơn 30 năm đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh, quan hệ quốc tế... đã khẳng định tính đúng đắn, sáng
tạo trong vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi
nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch chống
phá, bị bao vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây
ra, Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của các
tầng lớp nhân dân lao động không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lòng tin của
quần chúng nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế được nâng cao. Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam
trở thành một trong những nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên tiến hành đổi mới thành công
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhân dân, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về ĐCS
Việt Nam - người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Từ thắng lợi của công lOMoAR cPSD| 46090862
cuộc đổi mới đất nước, có thể khẳng định rằng: đường lối lãnh đạo của Đảng, tư tưởng
Hồ Chí Minh là đúng đắn, sáng suốt và luôn được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, tin
tưởng. Đảng có đủ bản lĩnh, trí tuệ, năng lực lãnh đạo nhân dân Việt Nam không chỉ
giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, mà cả trong xây dựng và phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo
mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Câu 2: Phân tích vai trò của GCCN và tầng lớp trí thức ở Việt Nam trong quá trình
CNH - HĐH đất nước hiện nay?
Trong bối cảnh hiện nay, giai cấp công nhân trên toàn thế giới nói chung, giai cấp công
nhân Việt Nam nói riêng cần có một cái nhìn nhận thức đúng đắn về vai trò của họ; trong
sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vấn đề thời sự cấp bách và
lâu dài của Đảng và Nhà nước ta đề ra. Trên cơ sở Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày
28/01/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tiếp tục xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và Kết luận số 79-KL/TW,
ngày 25/12/2013 của Bộ Chính trị khoá XI về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số
20NQ/TW. Cụ thể, chúng ta cần nhận thức đúng đắn những vấn đề lý luận cũng như thực
tiễn về vai trò và sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam sau đây:
Thứ nhất: Giai cấp công nhân là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, được nền đại
công nghiệp rèn luyện, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh; từ
đó họ làm được cuộc cách mạng giành chính quyền, giải phóng con người, xây dựng xã
hội mới, xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân
mới là mục tiêu cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được sứ mạnh
này, giai cấp phải có chính đảng lãnh đạo, thông qua chính đảng của mình để đề ra cương
lĩnh cách mạng, đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp hình thức cách mạng đúng
đắn để cuốn hút các lực lượng khác đi theo mình để làm cách mạng đến thắng lợi cuối
cùng (nồng cốt là liên minh công, nông và tầng lớp trí thức).
Thứ hai: Trong điều kiện hiện nay, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ gắn liền với
quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ; đất nước ta trong tiến trình đổi mới, hội nhập,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì phải xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
ngang tầm với nhiệm vụ mới là một tất yếu khách quan. Để làm được việc này thì phải
xây dựng giai cấp công nhân có trình độ học vấn cao, chuyên môn nghề nghiệp giỏi, giác
ngộ về lợi ích giai cấp, vững vàng về chính trị tư tưởng và rèn luyện tác phong lao động
công nghiệp, có ý thức tổ chức kỷ luật. Vì vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được khẳng định bằng chính sự lao động sáng tạo
của mỗi người công nhân và các tập thể lao động góp sức lại.
Thứ ba: Đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo động lực cho giai cấp công nhân
phát huy vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện lOMoAR cPSD| 46090862
nay. Đây là giải pháp hết sức quan trọng, không thể thiếu được trong việc phát huy vai trò
của giai cấp công nhân, vì các chính sách đó sẽ tác động trực tiếp đến đời sống, việc làm,
sự hưởng thụ đời sống văn hoá, tinh thần của người công nhân; làm sao để người công
nhân thực sự phục vụ hết khả năng của mình cho xã hội, cho đất nước theo đúng vai trò,
sứ mệnh của họ đã đặt ra.
Thứ tư: Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị để xây dựng và phát huy vai trò của giai cấp
công nhân, bởi giai cấp công nhân thông qua đảng của mình để sử dụng hệ thống chính
trị như một công cụ sắc bén hữu hiệu để thực hiện vai trò lịch sử của mình là xây dựng
đất nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó sự
vững mạnh và hiệu lực thực thi tốt của hệ thống chính trị là điều kiện cơ bản bảo đảm cho
giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình. Trong đổi mới
hệ thống chính trị cần quan tâm đến việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
Công đoàn, vì sức mạnh của giai cấp công nhân gắn liền với hoạt động và sự lớn mạnh
của Công đoàn Việt Nam theo dòng lịch sử.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu thế chung của toàn thế giới, là con đường tất yếu để
đưa nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu thành một nước công nghiệp; đồng thời, là
phương thức, là điều kiện để giai cấp công nhân thực hiện vai trò, sứ mệnh của mình đối
với dân tộc và Tổ quốc. Để xứng đáng là lực lượng lãnh đạo, lực lượng cơ bản chủ yếu đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị
tư tưởng, có trình độ học vấn cao, chuyên môn nghiệp vụ giỏi là yêu cầu khách quan và
là đòi hỏi cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Câu 3: Vì sao Việt Nam chọn quá độ đi lên xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN?
Thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu đối với mọi nước đi lên CNXH. Bộ phận quan trọng
trong học thuyết của V.I.Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội là lý luận về thời kỳ quá độ
lên CNXH.Theo V.I.Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ quá độ lên CNXH là
do đặc điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách
mạng vô sản quy định .
Quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều dựa trên cơ sở chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể ra đời từ
trong lòng xã hội phong kiến. Sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đến một trình độ nhất định, sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn của xã hội phong kiến, cáh
mạng tư sản sẽ nổ ra. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản chủ yếu chỉ là giải quyết về mặt
chính quyền Nhà nước, làm cho kiến trúc thượng tầng thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.
Cuộc cách mạng vô sản khác với các cuộc cách mạng khác ở chỗ :các cuộc cách mạng
trước đó giành được chính quyền là kết thúc cuộc cách mạng vì nó dựa trên chế độ chiếm lOMoAR cPSD| 46090862
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Còn cuộc cảch mạng vô sản giành được chính quyền mới
chỉ là bước đầu, còn vấn đề chủ yếu cơ bản hơn đó là giai cấp vô sản phải xây dựng một
xã hội mới, cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả về cơ sở hạ tầng lẫn kiến
trúc thượng tầng, cả về tồn tại xã hội và ý thức xã hội.Hơn nữa, sự phát triển của phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ lâu dài, không một lúc có thể hoàn thiện
được. Để phát triển của lực lượng sản xuất, tằg năng xuất lao động, xây dựng chế độ công
hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần phải có thời gian
tương đối lâu dài. Nói cách khác, tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội… *
Lý luận của V.I.Lênin về con đường quá độ lên CNXH ở những nước chủ
nghĩa tư bản chưa phát triển.
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên khả năng những nước còn
đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa có thể chuyển thẳng lên hình thái
chế độ cộng sản chủ nghĩa và khả năng phát triển rút ngắn của các nước này bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa. Còn về nội dung thời kỳ quá độ đó như thế nào và nó có nhiệm vụ
cụ thể gì thì hai ông chưa đề cập tới. Đây chính là điểm phát triển của V.I.Lênin về cách
mạng Xã hội chủ nghĩa và về thời kỳ quá độ ở nhữnh nước tiền đề kinh tế cho cuộc cách
mạng ấy chưa chín muồi, cho dù ở nước đó chủ nghĩa tư bản phát triển ở mức trung bình
( như nước Nga năm 1917 ) .
Lý luận của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH ở các nước chưa có CNTB phát triển
bao gồm một số luận điểm cơ bản sau đây: *
Một là, luận điểm về việc giành lấy chính quyền làm điều kiện tiên quyết để xây
dựng tiền đề kinh tế cho CNXH.
Để phản đối cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917, những người theo Quốc tế II cho
rằng, nước Nga chưa nên làm cách mạng XHCN vì lực lượng sản xuất của nước Nga
chưa phát triển đầy đủ. V.I.Lênin chỉ ra rằng, luận điểm này là trái với phép biện chứng
cách mạng của chủ nghĩa Mác vì chủ nghĩa Mác cho rằng, tính quy luật chung của sự
phát triển trong lịch sử toàn thế giới không loại trừ, trái lại, còn bao hàm một số hình thức
phát triển đặc thù ở một số quốc gia riêng biệt. Như vậy, những người theo Quốc tế II
không thấy được thời kỳ cách mạng mới gắn với những mâu thuẫn gay gắt của CNTB thế
giới; không hiểu được tình thế cách mạng có thể xuất hiện ở nơi này hay nơi khác khiến
cho các dân tộc có thể bước vào cuộc chiến tranh để thoát khỏi CNTB và giành lấy sự
tiến bộ xã hội.từ đó V.I.Lênin nêu luận điểm: ở một nước kém phát triển có thể và cần
phải tạo ra nhưng điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH, bắt đầu bằng một cuộc cách
mạng thiết lập chính quyền công nông, thông qua chính quyền ấy mà tiến lên và đuổi kịp dân tộc khác.
*Hai là,luận điểm về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá độ. Luận điểm này của lOMoAR cPSD| 46090862
V.I.Lênin được rút ra sau những sai lầm dẫn tới khủng hoảng kinh tế, chính trị ở nước
Nga Xô Viết sau nội chiến. Phân tích nguyên nhân khủng hoảng ở Nga, V.I.Lênin chỉ ra
rằng, đối với một nước mà CNTB chưa phát triển cao như nước Nga, không thể thực hiện
quá độ trực tiếp lên CNXH được mà phải trải qua “ một loạt những bước quá độ ”.
V.I.Lênin viết: “ nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay, chúng ta có thể nói rằng chúng
ta đang ở vào một thời điểm quá độ trong thời kỳ quá độ. Toàn bộ nền chuyên chính vô
sản là một thời kỳ quá độ nhưng hiện nay có thể nói rằng, chúng ta có cả một loạt thời kỳ quá độ mới ”.
Luận điểm “một loạt những bước quá độ ” xây dựng CNXH ở một nước mà trình độ phát
triển kinh tế chưa chín muồi của V.I.Lênin bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
Không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải qua con đường gián tiếp chứ không thể “
quá vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn bị”.
Những bước quá độ ấy theo V.I.Lênin là chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin nói: “ Để chuẩn bị …việc chuyển sang chủ nghĩa cộng sản, thì cần thiết phải có
một loạt những bước quá độ như chủ nghĩa tư bbản nhà nước và chủ nghĩa xã hội ”.
Bước quá độ từ chủ nghĩa tư bảm nhà nước được thể hiện trong “ chính sách kinh tế ”
mới mà việc trao hàng háo được coi là “ đòn xeo chủ yếu ” cho nên cần có sự nhượng bộ
tạm thời và cục bộ đối với CNTB nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, từng
bước xã hội hoá sản xuất trong thực tế.
Câu 4: Phân tích các vấn đề đặt ra trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam? Theo Anh/Chị, Việt Nam cần làm gì để phát huy quyền làm chủ của nhân dân?
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nấc thang, một trình độ cao trong lịch sử phát triển dân
chủ của nhân loại và cho đến nay, nó vẫn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện ở
một số nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì thế, có thể nói, dân chủ xã hội chủ
nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới mẻ, cần được tiếp tục nghiên
cứu. Theo chúng tôi, dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện
đặt ra những vấn đề sau:
Thứ nhất, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tiếp thu và phát triển các giá trị nhân loại về
dân chủ, trong đó có dân chủ tư sản. Đây là một vấn đề rất quan trọng, vì con đường phát
triển của nước ta là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, cũng tức
là bỏ qua chế độ dân chủ tư sản. Song, cần phải khẳng định sự khác nhau về bản chất
giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản, đó là sự khác nhau căn bản giữa dân
chủ cho đa số nhân dân lao động và dân chủ cho thiểu số bóc lột. Do đó, trong quá trình
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần phải tham khảo thành quả dân chủ của nhân loại, lOMoAR cPSD| 46090862
nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Đó là những thành tựu, kinh nghiệm của
các nước phát triển về quản lý nhà nước, về thiết kế bộ máy tổ chức chính trị, bộ máy
quản lý nhà nước, về xây dựng nền hành chính công, về trách nhiệm xã hội của cá nhân...
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, không nên áp dụng một cách máy móc các hình thức dân
chủ của nước ngoài vào nước ta; phải dựa trên điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và chế độ xã hội[1].
Thứ hai, dân chủ là một quá trình phát triển lâu dài, đồng thời là kết quả của sự phát triển
ý thức dân chủ và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân. Do đó, cần phải căn cứ và
tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước, không thể nóng vội, chủ quan. Phải thực hiện dân
chủ ở tất cả các cấp độ, từ cơ quan lãnh đạo cao nhất đến cơ sở, đặc biệt quan trọng là
dân chủ ở cơ sở. Phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, tìm tòi và hoàn thiện các hình
thức thực hiện dân chủ, cả dân chủ đại diện lẫn dân chủ trực tiếp. Kiên quyết đấu tranh
chống các biểu hiện lệch lạc, như dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ
đề gây rối, làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân và Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh phê
phán, bác bỏ các luận điệu sai trái về dân chủ, nhân quyền[2].
Thứ ba, coi trọng thực hiện đồng thời các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, do sự phát triển của công nghệ thông tin cũng
như trình độ dân trí được nâng cao đáng kể, cần quan tâm nhiều hơn đến việc thực hiện dân chủ trực tiếp.
Thứ tư, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm
thực hiện bằng pháp luật. Tuy nhiên, đó mới chỉ là điều kiện cần. Để quyền làm chủ của
nhân dân được thực hiện một cách đích thực, không mang tính hình thức hoặc không bị
lợi dụng, vấn đề quan trọng là phải bảo đảm những điều kiện đủ. Rõ ràng, muốn thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa một cách đích thực và ngày càng rộng rãi trong xã hội, còn
cần đến rất nhiều yếu tố. Ngoài ý thức và năng lực thực hiện dân chủ của các chủ thể, còn
cần có cơ chế thực hiện dân chủ phù hợp, hiệu quả. Theo đó, cần đẩy mạnh nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn và đúc rút kinh nghiệm thực hiện dân chủ nhằm xây dựng và hoàn
thiện cơ chế thực hiện dân chủ phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.
Thứ năm, Đảng phải nêu gương trong việc thực hiện dân chủ. Tại Đại hội XII, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải
bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy dân chủ trong xã hội”[3].
Đây là quan điểm mới và đặc biệt quan trọng trong nhận thức của Đảng. Có thể nói, điều
kiện tiên quyết để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là sự nêu gương, đi tiên
phong của Đảng về thực hiện dân chủ. Bởi lẽ, “dân chủ trong Đảng quyết định dân chủ
trong tổ chức hoạt động của Nhà nước, gắn liền với dân chủ trong xã hội”[4]. Theo đó, có
thể nói, việc làm thế nào để Đảng thực sự như một biểu tượng về dân chủ và thực hành lOMoAR cPSD| 46090862
dân chủ là vấn đề cốt tử để thực hiện dân chủ trong xã hội với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao.
Việt Nam cần làm gì để phát huy quyền làm chủ của nhân dân ?
Thứ nhất, cần xây dựng Quy chế dân chủ trong Đảng. Mặc dù Đảng đã có Điều lệ, song
trong đó không bao quát hết các nội dung dân chủ trong Đảng. Cũng có ý kiến cho rằng
đã có Quy chế dân chủ cơ sở được áp dụng trong xã hội thì không cần phải có quy chế
dân chủ riêng trong Đảng. Tuy nhiên, ngoài tư cách công dân, đảng viên của Đảng còn có
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của người đảng viên. Hơn nữa, là lực lượng chính trị
tiên phong, đảm nhiệm trọng trách lãnh đạo Nhà nước và xã hội, trong đó có nhiệm vụ
lãnh đạo tổ chức thực hiện dân chủ trong hoạt động của Nhà nước và trong toàn xã hội,
Đảng phải đi đầu, phải nêu gương về thực hiện dân chủ trong nội bộ tổ chức và hoạt động
của Đảng. Vì vậy, cần xây dựng Quy chế dân chủ trong Đảng, xây dựng và hoàn thiện
các cơ chế bảo đảm dân chủ trong Đảng và trong xã hội, như cơ chế kiểm tra, giám sát
của nhân dân đối với Đảng; thể chế hóa quyền và trách nhiệm của Đảng trong xã hội; thể
chế hóa quan hệ giữa Đảng với các tổ chức trong hệ thống chính trị...
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của Đảng
và Nhà nước. Trong đó phải xác định rõ nhân dân được kiểm tra, giám sát các nội dung
gì; kiểm tra, giám sát các nội dung đó bằng các hình thức và phương pháp như thế nào;
việc giải trình, trả lời chất vấn của những người bị kiểm tra, giám sát trước nhân dân tiến
hành ra sao; nhân dân phản hồi kết quả kiểm tra, giám sát như thế nào...
Thứ ba, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với chủ trương, chính sách của Đảng và chính
quyền các cấp. Để làm được điều này, một mặt, cần có cơ chế bảo đảm tạo điều kiện
thuận lợi cho Mặt trận và các đoàn thể nhân dân có thể tiếp cận các thông tin liên quan,
chất vấn những vấn đề hoặc những nội dung còn chưa rõ ràng...; mặt khác, cần nghiên
cứu và khẳng định quyền quyết định của nhân dân đối với những vấn đề liên quan trực
tiếp và mật thiết đến lợi ích của nhân dân.
Thứ tư, đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ và cải tiến công tác bầu cử. Cán bộ là gốc
của mọi công việc, trong đó có việc thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần hoàn thiện cơ chế dân
chủ trong công tác cán bộ, bảo đảm lựa chọn và bầu cử đúng, trúng những người có đủ
đức, đủ tài theo những tiêu chuẩn xác định vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước. Cơ cấu nhân sự đưa ra bầu phải có số dư, phải tranh cử qua trình bày chương trình
hành động...Công tác đánh giá, lựa chọn, quy hoạch, đào tạo cán bộ..., phải thật sự được
tiến hành một cách dân chủ, khách quan và minh bạch; xử lý nghiêm việc chạy chức chạy quyền cả từ hai phía. lOMoAR cPSD| 46090862
Thứ năm, cần mở rộng quyền dân chủ của nhân dân ở cấp cơ sở và bảo đảm các hình
thức thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ trực tiếp. Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã yêu cầu phải thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân thực hiện quyền dân
chủ thông qua các cơ quan đại diện của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội. Với
hình thức dân chủ trực tiếp, mọi công dân có thể trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện vọng
của mình một cách bình đẳng. Nó thể hiện sự tham gia trực tiếp, tích cực và chủ động của
người dân vào các hoạt động của Nhà nước trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội...
Thứ sáu, kiên trì và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Lý luận mácxít về dân
chủ và bài học kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng trong việc thực hiện dân chủ đã chỉ ra rằng, dân
chủ phải luôn gắn liền với tập trung. Nói cách khác, nguyên tắc tập trung dân chủ phải
được quán triệt cả trong nhận thức lẫn trong hành động; thực hiện nhất quán trong mọi
hoạt động của Đảng và Nhà nước, trên tất cả cáclĩnh vực của đời sống xã hội. Kết hợp
chặt chẽ tập trung với dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh và hiệu lực trong hoạt động
lãnh đạo của Đảng, tổ chức quản lý của Nhà nước. Không thể có dân chủ nếu không có
tập trung; tập trung mà không dựa trên dân chủ thì sẽ dẫn đến nguy cơ quan liêu, độc
đoán, chuyên quyền. Sự gắn kết, ràng buộc và chi phối lẫn nhau giữa tập trung và dân
chủ là sự đảm bảo để không dẫn tới tình trạng hoặc là chuyên quyền, độc đoán, hoặc là
cực đoan, quá trớn – những nguy cơ dẫn đến phản giá trị, phản phát triển.
Thứ bảy, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải gắn liền với việc tôn trọng và
thực hiện nghiêm pháp luật, giữ vững kỷ luật và kỷ cương xã hội, đề cao trách nhiệm
công dân. Sự tách rời giữa dân chủ với pháp luật sẽ dẫn đến những hệ quả khôn lường, đe
dọa ổn định chính trị và trật tự xã hội.Việc mở rộng dân chủ và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân phải gắn với việc đề cao và tăng cường pháp luật, kỷ cương. Đây là mối
quan hệ biện chứng: Thực hiện pháp luật nghiêm minh là yếu tố bảo đảm quyền dân chủ
và làm chủ của nhân dân; đồng thời, quyền dân chủ và làm chủ của nhân dân được mở
rộng và phát huy sẽ càng làm cho pháp luật, kỷ cương trong xã hội được tôn trọng và
tăng cường. Chính vì vậy, Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: Phát huy dân chủ phải đi
liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương
và đề cao đạo đức xã hội. Phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình
thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Câu 5: Phân tích các vấn đề đặt ra trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở
Việt Nam. Theo Anh/Chị là thế nào để xây dựng nhà nước Việt Nam trong sạch, vững mạnh lOMoAR cPSD| 46090862
Khái quát thực tiễn việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hoàn thiện qua nhiều
thời kỳ với đặc điểm, tính chất đặc thù Việt Nam, từng bước tiếp cận chuẩn mực, tinh hoa
nhân loại. Quá trình đó có nhiều giai đoạn chuyển đổi, từ Nhà nước chuyên chính vô sản
sang nhà nước Nhà nước có tính pháp quyền, đề cao vai trò của Hiến pháp và pháp luật.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tiếp tục được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992,
Hiến pháp sửa đổi năm 2001 và Hiến pháp 2013, cũng như các văn bản pháp luật của
Nhà nước và được triển khai thực hiện trên thực tế. Việc đổi mới được dựa trên ba trụ cột
cơ bản là : (i) Xây dựng và hoàn thiện một Nhà nước pháp quyền hiện đại được đổi mới
cả chất và lượng; (ii) Tạo dựng môi trường phát triển đầy đủ một nền kinh tế thị trường
hiện đại, hội nhập sâu rộng với quốc tế; (iii) Thiết lập một xã hội dân chủ phát triển ở
trình độ cao hơn, trong đó thượng tôn pháp luật, phù hợp với đặc điểm, điều kiện của đất
nước là nguyên tắc chủ đạo, chi phối các mối quan hệ xã hội, xử lý hài hòa mối quan hệ
giữa Nhà nước với thị trường và xã hội.
Bộ máy nhà nước dần được được hoàn thiện theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả hơn, cơ chế vận hành có nhiều thay đổi so với trước đây, mối quan hệ giữa Quốc
hội, chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội thích ứng dần với xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Quốc hội có nhiều đổi mới trong tổ chức và hoạt động; chính phủ được
sắp xếp lại các đầu mối, tập trung làm tốt chức năng quản lý vĩ mô. Vai trò Nhà nước kiến
tạo phát triển theo hướng: (i) Đủ năng lực đóng vai trò hướng dẫn, giảm bớt việc tham
gia trực tiếp vào hoạt động phát triển kinh tế và xã hội, (ii) Nhà nước được cải cách về tổ
chức, cơ chế hoạt động theo hướng quản trị hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mối
quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương chuyển mạnh sang phân cấp, phân
quyền. Sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rành mạnh hơn. Tính công khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình ngày càng rõ hơn.
Hệ thống luật pháp được xây dựng và hoàn thiện đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế
thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên nhiều
phương diện, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đã thực hiện, tham gia sâu rộng nhiều
cam kết quốc tế, là thành viên có trách nhiệm, tin cậy của cộng đồng quốc tế. Quyền con
người, quyền công dân tiếp tục được cụ thể hóa bằng hệ thống luật pháp và đảm bảo thực
thi trên thực tế. Dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện của người dân được quan tâm và đảm
bảo trên thực tế. Các chủ thể trong xã hội bình đẳng trước pháp luật, được làm những
điều pháp luật không cấm. lOMoAR cPSD| 46090862
Từ những kết quả và hạn chế, có thể rút ra bài học kinh nghiệm trong xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như sau:
Một là, kiên định trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có
chọn lọc tinh hoa của nhân loại, thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
không giáo điều, dập khuôn cũng không tùy tiện vô nguyên tắc
Hai là, phải thống nhất về nhận thức và tổ chức thực hiện, gắn bó chặt chẽ với xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, với nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn.
Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển trong xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, đồng bộ, toàn diện, có bước đi,
hình thức phù hợp. Đấu tranh có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch.
Bốn là, trong tổ chức và hoạt động, coi trọng xây dựng, hoàn thiện nền quản trị quốc gia
hiện đại, gắn kết chặt chẽ giữa pháp trị và đức trị trong tổ chức thực hiện. Tập trung hoàn
thiện thể chế phát triển, đi đôi với xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tinh gọn, chuyên
nghiệp, đề cao trách nhiệm, đạo đức công vụ.
Năm là, phải coi đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng,
phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội và
người dân, đảm bảo các nguyên tắc chỉ đạo trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền hiện nay và các giai đoạn tiếp theo.
Đề xuất các giải pháp về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam thời gian tới:
Công cuộc đổi mới của Việt Nam tiếp tục đi vào chiều sâu, đất nước ta đã thu được nhiều
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử sau hơn 35 năm đổi mới. Nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN được phát triển theo hướng hiện đại, hội nhập sâu rộng, trên nhiều
lĩnh vực tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế. Bởi vậy, những kết quả có được nêu trên
một phần quan trọng là Việt Nam đã giải quyết thành công nhiều vấn đề, giải quyết tốt
các mối quan hệ lớn trong quá trình đổi mới, trong đó có quan hệ giữa đổi mới, ổn định
và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa phát triển kinh tế thị trường
và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân… Nhờ đó, đem
lại những kết quả to lớn, sự thống nhất cao, trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bước vào giai đoạn mới, sau thành công của Đại hội
XIII của Đảng, vấn đề về xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả có vị trí hết sức quan trọng, đặc biệt là hướng lOMoAR cPSD| 46090862
tới những mốc quan trọng của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, việc xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần tập trung vào
một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo sự thống nhất trong Đảng và toàn xã hội; tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội,
đảm bảo thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân
dân, thực hành dân chủ đi đôi với trách nhiệm, quyền và lợi ích của người dân.
Hai là, tiếp tục nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, như
vấn đề về dân chủ xã hội chủ nghĩa trong chế độ một Đảng, tính ưu việt, thực tiễn và đặc
thù Việt Nam; giá trị phổ quát và tính đặc thù trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam; quyền lực là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực trong điều kiện mới, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, đảm bảo tính công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình; Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền; mối
quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội…
Ba là, đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2045 hoạt
động hiệu lực, hiệu quả phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế trong từng giai đoạn. Xây dựng nền quản trị quốc
gia hiện đại; tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý..Làm rõ thẩm quyền, trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Nâng cao tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, đạo đức công vụ cho cán bộ, công
chức. Đẩy mạnh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Bốn là, tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Nâng cao trách nhiệm
pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ
cương xã hội. Hoàn thiện pháp luật về dân chủ trực tiếp như trưng cầu ý dân; lấy ý kiến
nhân dân; nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; vấn đề bãi miễn đại biểu dân cử
khi không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
dân chủ gián tiếp, như vấn đề bầu cử; mối quan hệ giữa nhân dân với các thiết chế đại
diện... Tiếp tục rà soát, hoàn thiện, nội luật hóa các luật, điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết..
Năm là, đổi mới mạnh mẽ hoạt động xây dựng pháp luật, hạn chế ủy quyền pháp luật,
quy định chế tài pháp luật phù hợp hơn; chú trọng xây dựng đầy đủ cơ chế bảo vệ Hiến
pháp. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân tham gia xây dựng pháp luật, coi
trọng hiệu quả thực thi pháp luật. Về lâu dài, phải xây dựng, hoàn thiện được một hệ lOMoAR cPSD| 46090862
thống pháp luật thể hiện đúng, đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm tính
toàn diện, đồng bộ, thống nhất, phù hợp, ổn định và khả thi. Nội dung luật phải đảm bảo
tính dân chủ, thúc đẩy tiến bộ xã hội, vì hạnh phúc con người. Việc tổ chức thi hành pháp
luật phải đảm bảo tinh thần thượng tôn pháp luật…
Câu 6: Phân tích đặc điểm dân tộc và quan điểm, chính sách giải quyết vấn đề dân
tộc ở Việt Nam hiện nay. Theo Anh/chị trong bối cảnh quốc tế hiện nay, Việt Nam
cần làm gì để vừa giữ vững độc lập dân tộc, vừa hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới?

Trong thực tế, nhiều chính sách, pháp luật về dân tộc, nhất là đối với đồng bào DTTS
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đã phát huy hiệu quả cao, thể hiện rõ ở các
thành tựu đạt được trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
Về kinh tế, vùng đồng bào DTTS có những bước phát triển tiến bộ rõ rệt, đời sống đồng
bào được nâng lên, diện mạo vùng DTTS khởi sắc với hệ thống kết cấu hạ tầng ngày
càng hoàn thiện. Các tuyến giao thông liên huyện, liên xã, đường tuần tra biên giới được
làm mới, mở rộng và nâng cấp. Đến năm 2015, vùng DTTS có 100% xã và 97,8% thôn
có điện, có 99,4% xã và 93,3% thôn có đường ô tô, gần 100% xã có trường tiểu học,
92,9% xã có trường trung học cơ sở, có 58,6% xã và 78,1% thôn có nhà văn hóa, 99,5%
xã có trạm y tế, gần 92% số xã có điện lưới quốc gia, 80% xã có công trình thuỷ lợi nhỏ,
65% xã có công trình phục vụ nước sinh hoạt(3). Nền kinh tế đã chuyển dịch theo hướng
sản xuất hàng hóa, phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, góp phần cải thiện, nâng
cao đời sống người dân. Tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng miền núi phía Bắc đạt hơn 10%,
miền Trung và Nam bộ 12%, Tây Nguyên là 12,5%. Mặt bằng thu nhập và điều kiện sinh
hoạt của đồng bào DTTS không ngừng được nâng cao, nhiều hộ đã vươn lên thoát nghèo
và có cuộc sống khá giả.
Về chính trị, quyền bình đẳng giữa các dân tộc theo quy định của Hiến pháp được thể
hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các dân tộc chung sống hòa hợp, đồng thuận,
tôn trọng, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau và đều tích cực tham gia vào quá trình phát triển
đất nước. Hệ thống chính trị cơ sở ở các vùng DTTS thường xuyên được kiện toàn, hoạt
động ngày càng hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ người DTTS được
quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới. Theo kết quả khảo sát về công tác đào tạo cán bộ người DTTS, có 71,3% số người
DTTS được hỏi đánh giá tốt và khá tốt; về việc sử dụng cán bộ người DTTS, có 70,4%
đánh giá tốt và khá tốt(4). Trong đội ngũ cán bộ, tỷ lệ cán bộ người DTTS được cơ cấu ở
các cơ quan Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương ngày một tăng.
Về văn hóa, sự nghiệp phát triển văn hóa vùng đồng bào DTTS thu được nhiều kết quả.
Thiết chế văn hóa ngày càng hoàn thiện. Theo báo cáo khảo sát, hiện 100% số xã có bưu
điện, 44% số xã có nhà văn hóa; 62,5% số thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng; 15,9% lOMoAR cPSD| 46090862
hộ biết điệu múa truyền thống; 65,1% số hộ được nghe đài; 88,8% số hộ được xem
truyền hình; có 56,8% thôn, bản có hệ thống loa truyền thanh; 84,9% số hộ có tivi; 75,4%
hộ dân tộc thiểu số có điện thoại; 7,7% số hộ có máy vi tính; 6,5% số hộ có kết nối
internet(5). Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào DTTS được bảo tồn và phát
huy. Ý thức của đồng bào DTTS trong giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp, thực hiện
nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội và thực hiện tiêu chí xây dựng nông thôn
mới được nâng lên. Đánh giá về công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
của đồng bào DTTS, có 76,9% người DTTS được hỏi đánh giá công tác này đã được làm
tốt và khá tốt, 21,3% đánh giá chưa tốt và 1,9% khó đánh giá
Về phát triển xã hội, sự nghiệp giáo dục và chăm sóc sức khỏe đồng bào DTTS có bước
phát triển mới. Cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư nâng cấp, hệ thống trường phổ
thông dân tộc nội trú được củng cố, phát triển về quy mô và nâng cao chất lượng hoạt
động. Các chính sách về giáo dục, đào tạo, chế độ cho giáo viên và học sinh được thực
hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng đã tạo điều kiện nâng cao chất lượng dạy và học,
thu hút con em đồng bào DTTS đến trường.
Về quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội và quốc phòng, an ninh vùng DTTS cơ
bản được bảo đảm, quan hệ giữa các dân tộc được củng cố. Các hoạt động chống phá của
các thế lực thù địch kịp thời được ngăn chặn, việc truyền đạo trái pháp luật được kiểm
soát, an ninh được duy trì, biên giới được bảo vệ. Có 36,1% người DTTS được hỏi cho
rằng việc đảm bảo an ninh, quốc phòng vùng đồng bào DTTS thời gian qua được thực
hiện rất hiệu quả, 59,3% cho rằng khá hiệu quả, chỉ có 3,7% cho rằng không hiệu quả và
có 0,9% cho rằng khó đánh giá
Về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công tác dân tộc, đã tăng cường phối hợp với các đối
tác quốc tế trong việc nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm về công tác dân tộc; khuyến
khích việc giúp đỡ, hỗ trợ đầu tư phát triển vùng DTTS. Hoạt động tuyên truyền đối
ngoại, tổ chức giao lưu, kết nghĩa giữa nhân dân, chính quyền và lực lượng bảo vệ biên
giới của nước ta với các nước láng giềng được chú trọng, góp phần tăng cường đoàn kết,
hữu nghị hai bên biên giới, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
Việt Nam cần làm gì để vừa giữ vững độc lập dân tộc, vừa hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới?
Trong hội nhập quốc tế, Việt Nam nhất quán nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe
dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ
sở luật pháp quốc tế; kiên định lợi ích quốc gia là giá trị cốt lõi, là mục tiêu cao nhất
trong quán triệt, xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế luôn được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược tổng thể, có lOMoAR cPSD| 46090862
lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng của đất nước, theo tinh thần
“dĩ bất biến ứng vạn biến”. Giữ vững và thực hiện tốt phương châm đối ngoại đa phương
hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng
quốc tế. Đổi mới tư duy, chuyển mạnh từ “mở rộng quan hệ, gia nhập và tham gia hợp tác
quốc tế” sang “chủ động đóng góp, tích cực khởi xướng và tham gia định hình các cơ chế
hợp tác”. Tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia và coi đây là yếu tố quyết định thành
công của quá trình hội nhập quốc tế, đó là sức mạnh được tạo nên từ sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân tộc,
của văn hóa, con người Việt Nam, sức mạnh của thế trận quốc phòng toàn dân gắn với
thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động phát hiện, ngăn chặn từ sớm, từ xa các
nguy cơ; kiên định giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc. Nhạy bén trong nghiên
cứu nắm chắc tình hình, nâng cao năng lực dự báo, phục vụ đắc lực tiến trình hội nhập
quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Câu 7: Phân tích đặc điểm của tôn giáo và quan điểm, chính sách tôn giáo ở Việt
Nam. Mối quan hệ giữa dân tộc với tôn giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của mối quan
hệ đó đến sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước, đến độc lập, chủ quyền của Tổ quốc?

Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến các hoạt động tôn giáo và ban
hành những chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động đúng
tôn chỉ mục đích và Hiến pháp, pháp luật. Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân
biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng
pháp luật. Những quan điểm nhất quán này đã được ghi nhận trong Hiến pháp, kể từ Hiến
pháp năm 1946 đến Hiến pháp 2013.
1. Trong các văn kiện của Đảng luôn nhất quán quan điểm: Tín ngưỡng, tôn giáo là một
nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là một bộ
phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và
đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt
tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật, bình đẳng trước pháp luật.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam (bổ sung, phát
triển 2011) - một văn kiện có giá trị pháp lý cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
ghi rõ: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn
giáo của Nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi lOMoAR cPSD| 46090862
hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm tổn
hại đến lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân”.
Nghị quyết khẳng định tín ngưỡng và tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân
dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đồng
bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc. Đảng và Nhà nước Việt Nam
thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật được
bảo đảm. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy
định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Việc mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất
bản kinh sắc và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng
quy định của pháp luật được tạo điều kiện thuận lợi. Nghị quyết cũng chỉ rõ việc theo
đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan,
không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo và các cách
thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật v.v…
Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo của người dân. Tất cả những quyền của người dân về tôn giáo đều được Nhà
nước Việt Nam quy định rõ từ việc quản đạo, hành đạo, truyền đạo… Nơi thờ tự của các
tôn giáo được luật pháp Việt Nam bảo vệ. Tất nhiên, pháp luật Việt Nam cũng quy định
việc thành lập tổ chức tôn giáo phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép;
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải đúng quy định của pháp luật, phù hợp với đạo đức,
văn hóa và thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới, Nhà nước Việt Nam thực hiện quyền quản lý
xã hội của mình trên lãnh thổ Việt Nam ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có lĩnh vực tôn giáo. Để quản lý Nhà nước về tôn giáo thật sự có hiệu quả, phát huy
tác dụng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo, sinh hoạt tín ngưỡng,
tôn giáo của người dân, đương nhiên Nhà nước Việt Nam phải áp dụng các biện pháp
nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân
và đặc biệt là các hành động lợi dụng tôn giáo vì các mục đích khác nhau trái với Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam.
Quyền con người, quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam được bảo đảm ngày một tốt hơn; các
tôn giáo đã phát triển nhanh cả về số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự. Nếu như năm 2006, cả
nước mới có 6 tôn giáo và 16 tổ chức tôn giáo được công nhận và đăng ký hoạt động, thì
đến nay đã có 38 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau được công nhận (số liệu đến tháng
6/2020). Cả nước có khoảng trên 25 triệu tín đồ, trên 110 nghìn chức sắc, nhà tu hành (số lOMoAR cPSD| 46090862
liệu đến hết năm 2019). Các cơ sở thờ tự của các tôn giáo ngày càng được xây dựng
khang trang cùng nhiều cơ sở xã hội, từ thiện đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện
công tác xã hội. Các cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo với đủ các cấp học, như: Học viện
Phật giáo, Chủng viện Thiên chúa giáo và các trường cao đẳng, trung cấp của các tôn
giáo đã và đang hoạt động với sự giúp đỡ của các cấp chính quyền địa phương. Các ấn
phẩm về tôn giáo được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong in ấn và phát hành.
Có thể nói, hòa chung với sự hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển mọi mặt của đất
nước, hoạt động tôn giáo ở Việt Nam ngày càng sôi động, những chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về tôn giáo ngày càng cởi mở hơn, tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho các hoạt động tôn giáo.
Mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc là sự liên kết qua lại, sự vận động, biến đổi các
tôn giáo gắn liền với sự vận động, biến đổi của các vấn đề dân tộc, như vậy có thể thấy:
-
Sự đoàn kết giữa tôn giáo và dân tộc trở thành xu thế nổi trội trong quá trình toàn
cầu hóa của Việt Nam hiện nay.Các tôn giáo tham gia tích cực vào khối đại đoàn kết dân
tộc , tích cực tham gia cáchoạt động chính trị-xã hội , tham gia xây dựng chính quyền các
cấp trên nền tảng của sự đoàn kết, hưởng ứng chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước
trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là vận động cử tri theo tôn giáo tham gia bẩu cử Đại
biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Tại Quốc hội khóa XIV, các Đại biểu Quốc
hội là chức sắc, chức việc tôn giáo đã tích cực tham gia góp ý vào nội dung của dự thảo
Luật tín ngưỡng, tôn giáo để Luật phù hợp với thực tiễn, góp phần vào thành công của
Luật tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua với tỷ lệ cao tại Quốc hội và đáp ứng kịp thời
nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng của người dân. Tại đợt bầu cử Đại biểu Quốc hội
khóa XV có tới 7 người là chức sắc, chức việc thuộc 3 tôn giáo: Phật giáo, Công giáo và
Cao Đài, từ đó cho thấy Các Đại biểu Quốc hội là chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn
giáo là những cánh tay nối dài, giúp đem tiếng nói của đông đảo nhân dân và tín đồ các
tôn giáo góp ý vào các nghị quyết và văn bản luật pháp quan trọng của Quốc hội.Tinh
thần đoàn kết giữa mối quan hệ tôn giáo và dân tộc cũng được chứng minh rõ rệt qua
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, tinh thần đó đã trở thành sức mạnh quật khởi để
dân tộc Việt Nam chiến thắng kẻ thù.về góc độ văn hoá, các tôn giáo tích cực hưởng ứng,
tham gia xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, xây dựng làng văn hoá, xã văn hoá, gia đình
văn hoá. Có thể thấy tôn giáo không ngừng bồi dưỡng đạo đức, tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộphận nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với xây dựng con
người mới, xã hội mới, các cấp uỷ Đảng và chính quyền cùng với Mặt trận Tổ quốc các
cấp và các đoàn thể tạo thuận lợi cho đồng bào theo các tôn giáo sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của mình. lOMoAR cPSD| 46090862 -
Sự gắn liền giữa tôn giáo và dân tộc tạo bản sắc văn hóa trước xuthế toàn cầu
hóaNho giáo, học thuyết chính trị-xã hội, song khi được du nhập vào Việt Nam đã mang
màu sắc tôn giáo rõ nét. Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo cũng được du nhâp vào nước ta, bị
“dân tộc hóa”, 2 tôn giáo này cũng như một số tôn giáo khác dần đi vào tâm thức của
nhân dân ta, tạo ra những nét, những đặc điểm riêng cộng với vănhóa bản địa riêng ở nơi
đây đã tạo nên bản sắc văn hóa riêng chỉ nước ta mới có – đây là yếu tố quan trọng tạo
nên sức mạnh của dân tộc chống lại mưu đồ đồng hóa dân tộc hàng ngàn năm của
phương Bắc, giành lại độc lập dân tộc đồng thời cũng chống. Trước xu thế toàn cầu hoá
sự gắn kết giữa tôn giáo và dân tộc tạo nên bản sắc văn hoá vẫn là xu hướng cơ bản, song
có điều trong quá trình đó các tôn giáo cũng tự phải biến đổi mình để thích nghi, để tồn
tại, thậm chí phát triển theo yêu cầu xã hội tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. -
Các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, tộc người nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết
dân tộcTrong giai đoạn hiện nay dưới tác động của xu thế toàn cầu hoá, sự lợi dụng vấn
đề tôn giáo của các thế lực thù địch mang nội dung mới và tính chất phức tạp hơn nhiều.
Ở nước ta, từ sau năm 2001 các thế lực thù địch công khai ủng hộ, dựng lên cái gọi là
"Nhà nước Đềga", "Tin Lành Đềga" nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa người Kinh và người
Thượng, chia rẽ và phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, và muốn tách Tây Nguyên ra khỏi
Tổ quốc Việt Nam. Mưu đồ này được dựng bởi những kịch bản tương tự như “Tổ quốc
của người Mông” với Tin Lành - Vàng Chứ ở các tỉnh miền núi phía Bắc, “Nhà nước
Khmer Crôm” gắn với Phật giáo Nam Tông ở khu vực Tây Nam Bộ. Tất cả nhằm chia rẽ,
gây mất đoàn kết dân tộc, tôn giáo trong một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo như nước
ta dẫn đến suy giảm và lụi tàn văn hóa ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống chính trị-xã
hội, cũng như ảnh hưởng đến thực hiện chủ trưởng chính sách của Đảng và nhà nước.
Câu 8: Phân tích sự biến đổi của gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và những vấn đề đặt ra từ sự biến đổi của gia đình? Quan điểm của
nhóm về hiện tượng sống thử trước hôn nhân, mẹ đơn thân, vợ chồng đồng giới, ... hiện nay?

Biến đổi quy mô, kết cấu của gia đình
Gia đình Viêt Nam ngày nay có thể được coi là “gia đình quá độ ” trong bước chuyển
biếṇ từ xã hôi nông nghiệ p cổ truyền sang xã hộ
i công nghiệ p hiệ n đại. Trong
quá trình này, sự̣ giải thể của cấu trúc gia đình truyền thống và sự hình thành hình thái
mới là môt tất yếu. ̣ Gia đình đơn hay còn gọi là gia đình hạt nhân đang trở nên rất phổ
biến ở các đô thị và cả ở nông thôn - thay thế cho kiểu gia đình truyền thống từng giữ vai
trò chủ đạo trước đây.
Quy mô gia đình ngày nay tồn tại xu hướng thu nhỏ hơn so với trước kia, số thành viên
trong gia đình trở nên ít đi. Nếu như gia đình truyền thống xưa có thể tồn tại đến ba bốn lOMoAR cPSD| 46090862
thế hê cùng chung sống dưới mộ t mái nhà thì hiệ
n nay, quy mô gia đình hiệ n đại
đã ngày ̣ càng được thu nhỏ lại. Gia đình Viêt Nam hiệ n đại chỉ có hai thế hệ cùng
sống chung: chạ mẹ - con cái, số con trong gia đình cũng không nhiều như trước, cá biêt
còn có số ít gia ̣ đình đơn thân, nhưng phổ biến nhất vẫn là loại hình gia đình hạt nhân quy mô nhỏ.
Quy mô gia đình Viêt Nam ngày càng thu nhỏ, đáp ứng những nhu cầu và điều kiệ n của ̣
thời đại mới đặt ra. Sự bình đẳng nam nữ được đề cao hơn, cuôc sống riêng tư của con ̣
người được tôn trọng hơn, tránh được những mâu thuẫn trong đời sống của gia đình
truyền thống. Sự biến đổi của gia đình cho thấy chính nó đang làm chức năng tích cực,
thay đổi chính bản thân gia đình và cũng là thay đổi hê thống xã hộ i, làm cho xã hộ
i trở ̣ nên thích nghi và phù hợp hơn với tình hình mới, thời đại mới.
Biến đổi các chức năng của gia đình
- Chức năng tái sản xuất ra con người
Với những thành tựu của y học hiên đại, hiệ n nay việ
c sinh đẻ được các gia đình
tiến ̣ hành môt cách chủ độ ng, tự giác khi xác định số lượng con cái và thời điểm sinh
con. ̣ Hơn nữa, viêc sinh con còn chịu sự điều chỉnh bởi chính sách xã hộ i của Nhà
nước, tùy ̣ theo tình hình dân số và nhu cầu về sức lao đông của xã hộ i. Ở nước ta,
từ những năm 70 ̣ và 80 của thế kỷ XX, Nhà nước đã tuyên truyền, phổ biến và áp dụng
rông rãi các ̣ phương tiên và biệ n pháp kỹ thuậ
t tránh thai và tiến hành kiểm soát
dân số thông qua ̣ Cuôc vậ n độ ng sinh đẻ có kế hoạch, khuyến khích mỗi cặp vợ
chồng chỉ nên có từ 1 đến ̣ 2 con. Sang thâp niên đầu thế kỷ XXI, dân số Việ t Nam
đang chuyển sang giai đoạn giá ̣ hóa. Để đảm bảo lợi ích của gia đình và sự phát triển bền
vững của xã hôi, thông điệ p ̣ mới trong kế hoạch hóa gia đình là mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con.
Nếu như trước kia, do ảnh hưởng của phong tục, tâp quán và nhu cầu sản xuất nông ̣
nghiêp, trong gia đình Việ t Nam truyền thống, nhu cầu về con cái thể hiệ n trên ba
phương ̣ diên: phải có con, càng đông con càng tốt và nhất thiết phải có con trai nối dõi thì
ngày ̣ nay, nhu cầu ấy đã có những thay đổi căn bản: thể hiên ở việ c giảm mức sinh của
phụ nữ, ̣ giảm số con mong muốn và giảm nhu cầu nhất thiết phải có con trai của các cặp
vợ chồng. Trong gia đình hiên đại, sự bền vững của hôn nhân phụ thuộ c rất nhiều
vào các ̣ yếu tố tâm lý, tình cảm, kinh tế, chứ không phải chỉ là các yếu tố có con hay
không có con, có con trai hay không có con trai như gia đình truyền thống.
Biến đổi chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dng
Xét môt cách khái quát, cho đến nay kinh tế gia đình đã có hai bước chuyển mang tính ̣
bước ngoặt: Thứ nhất, từ kinh tế tự cấp tự túc thành kinh tế hàng hóa, tức là từ môt đơn vị ̣
kinh tế khép kín sản xuất để đáp ứng nhu cầu của gia đình thành đơn vị mà sản xuất chủ lOMoAR cPSD| 46090862
yếu để đáp ứng nhu cầu của người khác hay của xã hôi. Thứ hai, từ đơn vị kinh tế mà đặc ̣
trưng là sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc gia thành tổ chức kinh tế
của nền kinh tế thị trường hiên đại đáp ứng nhu cầu của thị trường toàn cầu.̣
Hiên nay, kinh tế gia đình đang trở thành mộ
t bộ phậ n quan trọng trong nền
kinh tế quốc ̣ dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh hôi nhậ p kinh tế và cạnh tranh sản phẩm
hàng hóa với các ̣ nước trong khu vực và trên thế giới, kinh tế gia đình gặp rất nhiều khó
khăn, trở ngại trong viêc chuyển sang hướng sản xuất kinh doanh hàng hóa theo hướng
chuyên sâu ̣ trong kinh tế thị trường hiên đại. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình phần
lớn có quy mô ̣ nhỏ, lao đông ít và tự sản xuất là chính.̣
Sự phát triển của kinh tế hàng hóa và nguồn thu nhâp bằng tiền của gia đình tăng lên làm ̣
cho gia đình trở thành môt đơn vị tiêu dùng quan trọng của xã hộ i. Các gia đình Việ
t Naṃ đang tiến tới “tiêu dùng sản phẩm do người khác làm ra”, tức là sử dụng hàng hóa và dịch vụ xã hôị
Biến đổi chức năng giáo d甃⌀c (xã hội hóa) Trong xã hôi Việ
t Nam truyền thống, giáo dục gia đình là cơ sở của giáo dục xã hộ
i thì ̣ ngày nay, giáo dục xã hôi bao trùm lên giáo dục gia đình và đưa ra những mục tiêu, ̣
những yêu cầu của giáo dục xã hôi cho giáo dục gia đình. Điểm tương đồng giữa giáo ̣
dục gia đình truyền thống và giáo dục của xã hôi mới là tiếp tục nhấn mạnh sự hy sinh ̣
của cá nhân cho công đồng.̣
Giáo dục gia đình hiên nay phát triển theo xu hướng sự đầu tư tài chính của gia đình cho ̣
giáo dục con cái tăng lên. Nôi dung giáo dục gia đình hiệ
n nay không chỉ nặng về
giáo ̣ dục đạo đức, ứng xử trong gia đình, dòng họ, làng xã, mà hướng đến giáo dục kiến
thức khoa học hiên đại, trang bị công cụ để con cái hòa nhậ p với thế giới.̣
Tuy nhiên, sự phát triển của hê thống giáo dục xã hộ i, cùng với sự phát triển kinh tế hiệ
n ̣ nay, vai trò giáo dục của các chủ thể trong gia đình có xu hướng giảm. Nhưng
sự gia tăng của các hiên tượng tiêu cực trong xã hộ
i và trong nhà trường, làm cho sự
kỳ vọng và ̣ niềm tin của các bâc cha mẹ vào hệ thống giáo dục xã hộ i trong việ c rèn luyệ
n đạo đức, ̣ nhân cách cho con em của họ đã giảm đi rất nhiều so với trước
đây. Mâu thuẫn này là môṭ thực tế chưa có lời giải hữu hiêu ở Việ t Nam hiệ n nay.
Những tác độ ng trên đây làm giảṃ sút đáng kể vai trò của gia đình trong thực hiên chức
năng xã hộ i hóa, giáo dục trẻ em ở ̣ nước ta thời gian qua.
Hiên tượng trẻ em hư, bỏ học sớm, lang thang, nghiệ n hút ma túy, mại dâm… cũng
cho ̣ thấy phần nào sự bất lực của xã hôi và sự bế tắc của mộ t số gia đình trong việ
c chăm sóc, ̣ giáo dục trẻ em.
Biến đổi chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm lOMoAR cPSD| 46090862 Trong xã hôi hiệ n đại, độ
bền vững của gia đình không chỉ phụ thuộ c vào
sự ràng buộ c ̣ của các mối quan hê về trách nhiệ
m, nghĩa vụ giữa vợ và chồng;
cha mẹ và con cái; sự hỵ sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích gia đình, mà nó còn bị chi phối
bởi các mối quan hê hòa ̣ hợp tình cảm giữa chồng và vợ; cha mẹ và con cái, sự đảm bảo
hạnh phúc cá nhân, sinh hoạt tự do, chính đáng của mỗi thành viên gia đình trong cuôc sống chung.̣
Trong gia đình Viêt Nam hiệ
n nay, nhu cầu thỏa mãn tâm lý - tình cảm đang tăng
lên, do ̣ gia đình có xu hướng chuyển đổi từ chủ yếu là đơn vị kinh tế sang chủ yếu là đơn
vị tình cảm. Viêc thực hiệ n chức năng này là mộ
t yếu tố rất quan trọng tác độ
ng đến sự tồn tại, ̣ bền vững của hôn nhân và hạnh phúc gia đình, đặc biêt là việ c bảo vệ
chăm sóc trẻ em và ̣ người cao tuổi, nhưng hiên nay, các gia đình đang đối mặt với
rất nhiều khó khăn, thách ̣ thức. Đặc biêt, trong tương lai gần, khi mà tỷ lệ các gia đình chỉ có mộ
t con tăng lên thì ̣ đời sống tâm lý - tình cảm của nhiều trẻ em và kể cả
người lớn cũng sẽ kém phong phú hơn, do thiếu đi tình cảm về anh, chị em trong cuôc sống gia đình.̣
Tác đông của công nghiệ p hóa và toàn cầu hóa dẫn tới tình trạng phân hóa giàu nghèo ̣
sâu sắc, làm cho môt số hộ gia đình có cơ may mở rộ ng sản xuất, tích lũy tài sản, đất
đai, ̣ tư liêu sản xuất thì trở nên giàu có, trong khi đại bộ
phậ n các gia đình trở
thành lao độ ng ̣ làm thuê do không có cơ hôi phát triển sản xuất, mất đất đai và các tư liệ
u sản xuất khác, ̣ không có khả năng tích lũy tài sản, mở rông sản xuất. Nhà nước
cần có chính sách hỗ trợ ̣ các hô nghèo, khắc phục khoảng cách giàu nghèo đang có xu
hướng ngày càng gia tăng.
Cùng với đó, vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi tâm lý truyền thống về vai trò của con trai,
tạo dựng quan niêm bình đẳng giữa con trai và con gái trong trách nhiệ m nuôi
dưỡng, ̣ chăm sóc cha mẹ già và thờ phụng tổ tiên. Nhà nước cần có những giải pháp,
biên pháp ̣ nhằm bảo đảm an toàn tình dục, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho
các thành viên sẽ là chủ gia đình tương lai; củng cố chức năng xã hôi hóa của gia đình,
xây dựng ̣ những chuẩn mực và mô hình mới về giáo dục gia đình, xây dựng nôi dung và
phương ̣ pháp mới về giáo dục gia đình, giúp cho các bâc cha mẹ có định hướng trong
giáo dục và ̣ hình thành nhân cách trẻ em; giải quyết thỏa đáng mâu thuẫn giữa nhu cầu
tự do, tiến bô ̣ của người phụ nữ hiên đại với trách nhiệ m làm dâu theo quan niệ m
truyền thống, mâu ̣ thuẫn về lợi ích giữa các thế hê, giữa cha mẹ và con cái. Nó đòi hỏi
phải hình thành ̣ những chuẩn mực mới, bảo đảm sự hài hòa lợi ích giữa các thành viên
trong gia đình cũng như lợi ích giữa gia đình và xã hôi.̣
Sự biến đổi quan hê gia đìnḥ
-Biến đổi quan hê hôn nhân và quan hệ vợ chồng ̣