Tài liệu rút gọn triết học - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

1. Khái lược về triết học Triết học ra đời sớm vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI (tr. CN) và đạt được thành tựu rực rỡ ở các nền triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

CHƯƠNG I TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG :
XÃ HỘI
A. PHẦN LÝ THUYẾT
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
Triết học ra đời sớm vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI (tr. CN) và đạt được thành tựu
rực rỡ các nền triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
a. Nguồn gốc của triết học
- Nguồn gốc nhận thức: Triết học không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của con
người, nó chỉ ra đời khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất
định cho phép khái quát được những hiểu biết riêng lẻ, rời rạc thành một hệ thống những
quan điểm và quan niệm chung về thế giới. Như vậy, triết học chỉ ra đời khi tư duy, nhận
thức của con người đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ để xây thống hóa
dựng nên các học thuyết lý luận.
- Nguồn gốc xã hội: Triết học xuất hiện khi xã hội loài người chuyển sang chế độ chiếm
hữu nô lệ, là xã hội đầu tiên có sự phân chia giai cấp, lao động trí óc tách khỏi lao động
chân tay, đội ngũ trí thức xuất hiện, khi đó xã hội có một số người chuyên làm “nghề”
triết học để giải thích thế giới theo lợi ích của một giai cấp nhất định. Điều đó cho thấy,
chính tầng lớp lao động trí óc đã sản sinh ra triết học, ngay khi mới ra đời, triết học đã
mang tính giai cấp sâu sắc, phản ánh và bảo vệ lợi ích của những giai cấp nhất định trong
xã hội.
b. Khái niệm triết học
- Ở phương Đông: Theo người Trung Quốc, “triết” có nghĩa là “trí”, là “sáng suốt” để chỉ
sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng về thế giới. Theo người Ấn Độ, triết học có nghĩa là
darshana - chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến
lẽ phải.
- Ở phương Tây: Theo chữ Hy Lạp, triết học là “philosophia”, có nghĩa là “tình yêu sự
thông thái”, nhà triết học là nhà thông thái vì họ có khả năng làm sáng tỏ bản chất của sự
vật, hiện tượng bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Triết học ra đời cả ở
phương Đông và phương Tây, mặc dù khác nhau về quan niệm nhưng nhìn chung đều coi
triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâ u sắc thế giới, đi sâu nắm được bản chất
của sự vật, hiện tượng. Theo quan điểm mác xít, triết học là hệ thống tri thức lý luận
chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Như vậy, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, xem xét
thế giới trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong tự
nhiên, xã hội và bản thân con người.
c. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch s
Trong quá trình phát triển, đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi theo từng giai đoạn
lịch sử:
- Thời kỳ cổ đại: Tri thức của loài người còn ít nên chưa có sự phân chia giữa triết học với
các khoa học khác. Triết học Hy Lạp cổ đại các tri khi mới hình thành không độc lập với
thức khoa học, mà thực chất là đồng nhất với chúng để hình thành nên môn khoa học tổng
hợp. Các nhà triết học đầu tiên ở Hy Lạp đồng thời cũng là các nhà khoa học, như
Thalets, Pithagore... Triết học đặt nhiệm vụ tìm hiểu và giải thích tự nhiên, xem xét thế
giới như một chỉnh thể. Trong nền triết học tự nhiên, các khoa học nói chung bị đẩy
xuống vị trí thứ yếu và bị chi phối bởi triết học. Do đó, đối tượng nghiên cứu của triết học
là mọi lĩnh vực tri thức, nhưng còn sơ khai, trực quan cảm tính. Đây là nguyên nhân sâu
xa nảy sinh quan niệm về sau xem “ Triết học là khoa học của các khoa học”.
- Thời kỳ trung cổ ở Tây Âu: Quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, triết học trở thành “nô lệ” của thần học. học chỉ là lý giải và Nhiệm vụ của triết
chứng minh tính đúng đắn của các nội dung trong Kinh Thánh, luận giải và thuyết phục
con người tin tưởng vào Chúa Trời. Nền triết học tự nhiên bị thay thế bằng nền triết
học kinh viện.
- Thế kỷ XV – XVI: cùng với sự phát triển của các môn khoa học tự nhiên, đồng thời là sự
phục hồi của tư tưởng triết học duy vật thời kỳ cổ đại. Triết học dần tách khỏi thần học và
các khoa học cụ thể, phát triển thành các bộ môn riêng biệt với các học thuyết về bản thể
luận, vũ trụ luận, nhận thức luận...
- XVIII: Thế kỷ XVII – triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học tự nhiên thực
nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Sự phát triển của triết học duy vật thời kỳ này đạt đến đỉnh
cao ở các quốc gia là Anh, Pháp, Hà Lan.
- - Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX: sự phát triển của khoa học cụ thể và những thành tựu
mà nó đạt được đã làm phá sản tham vọng của các nhà triết học muốn biến triết học thành
“Khoa học của mọi khoa học”, trong đó triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng
mang tham vọng đó.
- Những năm 40 của thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đoạn tuyệt với quan niệm sai lầm
xem triết học là “Khoa học của mọi khoa học”, xác định đối tượng nghiên cứu của triết
học là tiếp tục giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy
vật biện chứng, nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy .
d. Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan
* Chức năng thế giới quan: Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của
con người về thế giới, về bản thân con người, về vị trí, vai trò của con người trong thế
giới đó .
- Về nguồn gốc của thế giới quan: Thế giới quan ra đời từ cuộc sống hiện thực của con
người. Bởi vì, con người không thể sống tách khỏi thế giới sự vật hiện tượng. Trong quá
trình tồn tại và phát triển của con người, hàng loạt câu hỏi được đặt ra để tìm câu trả lời:
thế giới này do đâu mà có? Bản chất của thế giới là gì? Sự biến đổi của nó tác động gì
đến con người? Có thần linh, ma quỷ không...? Từ đó, các quan niệm về thế giới quan
được hình thành.
- Về cấu trúc: Thế giới quan được cấu thành từ hai yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin.
Tuy nhiên, bản thân tri thức chưa phải là thế giới quan, chỉ khi nào tri thức biến thành
niềm tin của con người thì tri thức đó mới trở thành thế giới quan.
- Những hình thức cơ bản của thế giới quan:
+ Thế giới quan huyền thoại (thần thoại) có nội dung pha trộn một cách không tự giác
giữa thực và ảo, nó đặc trưng cho tư duy, nhận thức của người nguyên thủy về thế giới,
được phản ánh qua các câu chuyện thần thoại. Thế giới quan huyền thoại thể hiện đậm nét
trí tưởng tượng của “tư duy nguyên thủy” tư duy chứa đựng sự pha trộn một cách không -
tự giác giữa thực và ảo, giữa người và thần. Theo Ph. Ăngghen nhận định, thế giới quan
huyền thoại là kết quả tất yếu của trình độ nhận thức thấp, khi con người chưa hiểu về
nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới nên họ đã nh ân
cách hóa, nhân hình hóa, nhân tính hóa chúng thành các vị thần hoặc bán thần trong thần
thoại .
+ Thế giới quan tôn giáo biểu hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu
nhiên đối với thế giới, con người, được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn,
sùng bái lực lượng siêu nhiên. Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin
cao hơn lý trí, trong đó niềm tin vào một thế giới khác hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người
sẽ đến sau khi chết giữ vai trò chủ đạo. V. I. Lênin đã cho rằng: “Sự bất lực của giai cấp
bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc
đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của con người dã man trong
cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ vào những phép
màu...” .
+ Thế giới quan triết học được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua hệ thống các khái
niệm, các phạm trù, các quy luật. Thế giới quan triết học chỉ hình thành khi nhận thức của
con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa cũng như khi con
người ý thức được sự cần thiết phải có sự định hướng về tư tưởng, nhận thức để chỉ đạo
hoạt động thực tiễn. Thế giới quan triết học được phân chia thành thế giới quan duy tâm
(là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần và thừa nhận vai trò quyết
định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất); thế giới quan duy vật (là thế giới
quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất
đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của
con người trong cuộc sống hiện thực). Tương ứng với ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa
duy vật là (chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật
biện chứng) là ba hình thức cơ bản của thế giới quan (thế giới quan duy vật chất phác, thế
giới quan duy vật siêu hình và thế giới quan duy vật biện chứng). Thế giới quan duy vật
biện chứng có vai trò giúp con người có cơ sở khoa học để nhận thức bản chất của tự
nhiên, xã hội và tư duy, từ đó hình thành quan điểm khoa học để định hướng mọi hoạt
động của con người. Ngoài ra, triết học còn có vai trò phương pháp luận: Định hướng con
người trong việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng phương ạt động pháp trong ho
nhận thức và thực tiễn. Các cấp độ của phương pháp luận: phương pháp luận ngành;
phương pháp luận chung; phương pháp luận chung nhất. Trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn, không được xem thường hoặc tuyệt đối hóa phương pháp luận triết học. Nếu
xem thường phương pháp luận triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, mất phương hướng,
thiếu chủ động, sáng tạo trong hoạt động. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của phương
pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng
phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mỗi người tránh được những sai lầm như chủ
quan, duy ý chí và phương pháp tư duy máy móc, siêu hình gây ra.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
a. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Tất cả các sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực chỉ có thể hoặc là hiện tượng vật
chất, tồn tại bên ngoài ý thức con người hoặc là hiện tượng tinh thần, tồn tại trong ý thức
con người. Vật vật chất và ý thức có quan hệ với nhau như thế nào, cái nào có trước, cái
nào có sau, cái nào quy định cái nào? Theo Ph. Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi
triết học, đặc biệt là triết học hiện đại đó là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn
tại”. Đây cũng là cơ sở để phân chia các trường phái triết học khác nhau trong lịch sử.
* Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất (Bản thể luận): Giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào? Tùy cách giải đáp câu hỏi này mà các học thuyết triết học đã
được chia ra thành hai trào lưu cơ bản đó là ch nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, thế giới vật chất tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức con người, không do ai sáng tạo ra; ý thức là sự phản ánh
thế giới khách quan vào bộ óc con người, không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật
chất; bản chất của tồn tại là vật chất, vật chất quyết định ý thức... Chủ nghĩa duy vật có
lịch sử phát triển lâu dài với nhiều hình thức Hình thức đầu tiên của nó là chủ khác nhau.
nghĩa duy vật chất phác thời cổ Hình thức phát triển tiếp theo là chủ nghĩa duy vật đại.
máy móc, siêu hình thế kỷ XVII – XVIII. Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác, Ph.
Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX và được V. I. Lênin kế thừa và phát
triển, là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật, có mối quan hệ chặt chẽ với
các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng cũng như với sự phát triển của khoa
học và thực tiễn xã hội.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tinh thần, ý thức có trước và là cơ sở tồn tại của giới tự
nhiên, của vật chất; ý thức, tinh thần quyết định vật chất; bản chất của tồn tại là ý thức,
tinh thần. Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai trường phái chủ yếu là chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, cảm giác,
ý thức con người là cái có trước, cái quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng ở
bên ngoài. Các sự vật, hiện tượng chỉ là “phức hợp của những cảm giác”; những màu sắc,
mùi vị, những đặc tính khác nhau của sự vật chẳng qua chỉ là những cảm giác của con
người. Do phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ
nhận luôn cả tính quy luật của các sự vật, hiện tượng và như thế, tất yếu dẫn đến chủ
nghĩa duy ngã phát từ cái tôi). Chủ nghĩa duy tâm khách (ngã là tôi - là chủ nghĩa xuất
quan cho rằng, ý thức, ý niệm là cái có trước thế giới vật chất. Cái thực thể tinh thần tồn
tại một cách “khách quan”, không phụ thuộc vào con người và loài người, nó quyết định
sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội đều là hiện thân của ý niệm. Nhìn chung, cả hai hình thái của chủ nghĩa duy tâm
tuy biểu hiện khác nhau, nhưng về cơ bản lại giống nhau, bằng cách này hay cách khác
đều phủ nhận nguồn gốc khách quan của thế giới tự nhiên, của vật chất, nghĩa là đều thừa
nhận tinh thần, ý thức sáng tạo ra thế giới. Ở điểm này, chủ nghĩa duy tâm gần gũi với tôn
giáo và “tựu trung bao giờ cũng vẫn bênh vực hay ủng hộ tôn giáo” . Nguồn gốc nhận thức
của chủ nghĩa duy tâm đó là sự tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, tinh thần, như V.I. Lênin
đã khẳng định “Chủ nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự thổi
phồng, bơm to) phiến diện, thái quá... của một trong những đặc trưng, của một trong
những mặt, của một trong những khía cạnh của nhận thức thành một cái tuyệt đối, tách rời
khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa” Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy
tâm là sự hình thành và phát triển các giai cấp đối lập nhau về lợi ích; là sự xuất hiện phân
công giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Sau khi tách khỏi lao động chân tay, lao
động trí óc có vị trí độc lập tương đối và trở thành đặc quyền của các giai cấp bóc lột. Vì
thế các nhà tư tưởng của giai cấp đó thường có thái độ coi thường lao động chân tay
ngộ nhận rằng chính lao động trí óc quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Những
sai lầm, lệch lạc trên đây của thế giới quan duy tâm đã bị các thế lực phản động lợi dụng,
khai thác nhằm biện hộ và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
+ Ngoà i hai trường phái duy vật và duy tâm, trong triết học còn có trường phái nhị nguyên
luận. Trường Phái này cho rằng cả vật chất ý thức, tinh thần đều tồn tại song song và
độc lập với nhau, trong đó nguyên thể vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, nguyên thể
tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Tuy nhiên, xét đến cùng, phái nhị nguyên cũng
rơi vào chủ nghĩa duy tâm vì nó thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó, không
phụ thuộc vào vật chất.
- Mặt thứ hai (Nhận thức luận): Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không? Những nhà tư tưởng khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới
(thuộc trường phái có thể biết - “khả tri luận”). Những nhà triết học cho rằng, con người
không thể hiểu biết thế giới (thuộc trường phái không thể biết “bất khả tri luận”). - Thuyết
không thể biết đã bị phê phán gay gắt bởi chính thực tiễn đời sống xã hội cũng như sự
phát triển của khoa học. Ngoài ra còn có trường phái Hoài nghi luận. Như vậy, bất kỳ một
học thuyết, một hệ thống triết học nào cũng đều phải giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học.
b. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
+ Chủ nghĩa duy vật: vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Chủ
nghĩa duy vật có 3 hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật
siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy tâm: ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất. chủ
nghĩa duy tâm có 2 hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy
tâm chủ quan.
- duy tâm: Nguyên nhân của sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
+ Chủ nghĩa duy vật: có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời
thường gắn liền với lợi ích của các giai cấp tiến bộ trong lịch sử.
+ Chủ nghĩa duy tâm: tuyệt đối hoá một mặt của quá trình nhận thức và thường gắn với
lợi ích của các giai cấp bóc lột trong lịch sử.
c. Thuyết có thể biết (khả tri) và thuyết không thể biết ( bất khả tri)
+ Những người thuộc trường phái khả tri: Con người hoàn toàn có khả năng nhận thức
được thế giới
+ Những người thuộc trường phái bất khả tri cho rằng: Con người không thể có khả năng
nhận thức thế giới
+ Thuyết Hoài nghi luận: Nghi ngờ khả năng nhận thức của con người
3. Biện chứng và siêu hình
a. Khái niệm biện chứng và siêu hình
Biện chứng: Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và
vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã
hội và tư duy . Biện chứng được chia thành biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan. Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ
quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con người
(biện chứng của tư duy). , Như vậy, khái niệm biện chứng dùng với nghĩa vừa là lý luận
đồng thời là phương pháp khảo sát, phản ánh đối tượng trong trạng thái liên hệ, ràng
buộc, tác động qua lại và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng.
* Phương pháp siêu hình :
- kh Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra ỏi chỉnh thể.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về
số lượng bởi nguyên nhân bên ngoài đối tượng. Phương pháp siêu hình làm cho con người
“chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những
sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và
sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà
quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ: muốn nhận thức một đối tượng nào trước hết
con người cũng phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng
thái độc lập, không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Song phương
pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời rạc
và ngưng đọng như phương pháp siêu hình quan niệm.
* Phương pháp biện chứng:
- rang Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ, ảnh hưởng, buộc nhau.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi.
- Khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về cả lượng và chất của các
sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là sự đấu tranh của các mặt đối lập để
giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng. Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư
duy mềm dẻo, linh hoạt, phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp
biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Phương pháp biện chứng phản ánh “biện chứng khách quan” trong sự vận động, phát triển
của thế giới. Lý luận triết học của phương pháp đó được gọi là “phép biện chứng”. Phép
biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống
các nguyên pháp lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương
luận của nhận thức và thực tiễn.
b. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
- Các hình thức lịch sử của phép biện chứng trong lịch sử: Phép biện chứng đã có lịch sử
phát triển trên 2.000 năm từ thời cổ đại phương Đông và phương Tây, với ba hình thức cơ
bản (cũng là thể hiện ba trình độ phát triển của phép biện chứng trong lịch sử triết học):
+ Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong
lịch sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung
Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học
Trung Quốc là “biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ
biến trong vũ trụ) và “ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi
của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ân Độ, biểu hiện
rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”,
“vô thường”, “nhân duyên”... Tiêu biểu cho phép biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại
những quan điểm biện chứng của Heraclit.
+ Phép biện chứng duy tâm được khởi đầu từ những quan điểm biện chứng trong triết học
của I. Kantơ và đạt tới đỉnh cao trong triết học của Ph. Hêghen. Ph. Hêghen đã nghiên cứu
và phát triển các tư tưởng biện chứng thời cổ đại lên một trình độ mới - trình độ lý luận
sâu sắc và có tính hệ thông chặt chẽ, trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát triển.
Tuy nhiên, phép biện chứng trong triết học của Ph. Hêghen là phép biện chứng được xây
dựng trên lập trường duy tâm (duy tâm khách quan) nên hệ thống lý luận này chưa phản
ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các mốì liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận này, bản thân biện chứng của các quá trình trong
giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha hoá của bản chất biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”.
+ Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức phát triển cao
nhất của phép biện chứng. Nó được xây dựng trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý
trong lịch sử phép biện chứng, đặc biệt là kế thừa những giá trị hợp lý và khắc phục
những hạn chế trong phép biện chứng của Ph. Hêghen; đồng thời phát triển phép biện
chứng trên cơ sở thực tiễn mới, nhờ đó làm cho phép biện chứng đạt đến trình độ hoàn bị
trên lập trường duy vật mới.
II. TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC –
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác Lênin
* Chủ nghĩa Mác – Lênin: là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác,
Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX và được V.I.Lênin bảo vệ, phát
triển trong điều kiện lịch sử mới. Trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và
tổng kết thực tiễn thời đại, chủ nghĩa Mác Lênin là hệ thống lý luận khoa học phản ánh -
những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy;
những quy luật kinh tế của sự vận động của ch nghĩa tư bản và sự chuyển biến từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng của -
chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và
thực tiễn cách mạng, là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng
nhân dân lao động và tiến tới giải phóng toàn nhân loại khỏi áp bức, bóc lột.
* Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác – Chủ nghĩa Mác Lênin - Lênin bao
gồm hệ thống tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực, trong đó có ba bộ phận lý luận quan
trọng nhất là:
- - Triết học Mác Lênin: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự
vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; có vai trò là thế giới quan và phương
pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
- - Kinh tế chính trị Mác Lênin: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật kinh tế của
quá trình ra đời, phát triển và suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; sự ra
đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ba bộ phận lý luận này có sự thống nhất chặt chẽ,
làm cơ sở, tiền đề cho nhau và đều có chung mục đích là giải phóng giai cấp vô sả n, nhân
dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
a. Những điều kiện lịch sử của ra đời triết học Mác – Lênin
* Điều kiện kinh tế xã hội-
- cách Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện
mạng công nghiệp. Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, làm cho phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc ở nhiều nước Châu Âu như Anh, Pháp,
Đức… mặt khác những mâu thuẫn xã hội cũng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt:
+ Về mặt kinh tế: mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất
với tính chất tư nhân của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Về mặt xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
- - Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách một lực lượng chính trị
xã hội độc lập.
+ Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời, lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến.
+ Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản vốn man tính chất đối kháng ngày g
càng phát triển, thể hiện bằng những cuộc đấu tranh giai cấp ở khắp nơi như Anh, Pháp,
Đức, Ý …Tuy nhiên những c đấu tranh tự phát này đều thất bại do không có đường lối cuộ
khoa học, chưa có lực lượng dẫn dắt và chưa tập hợp được đông đảo lực lượng tham
gia
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời chủ nghĩa
Mác: Thực tiễn xã hội nói chung, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản, đòi hỏi
phải được soi sáng bởi lý luận mới, tiến bộ và cách mạng. Chủ nhĩa Mác Lênin ra đời -
trong thời điểm này là một tất yếu lịch sử, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đó.
* Những tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác - Lênin
- Tiền đề lý luận:
+ Triết học cổ điển Đức: C.Mác đã kế thừa và cải biến những hạt nhân hợp lý trong phép
biện chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc để hình
thành nên phép biện chứng duy vật.
+ Kinh t ế chính trị học cổ điển Anh: C.Mác kế thừa những yếu tố khoa học trong lý luận
về giá trị lao động và những tư tưởng tiến bộ về quá trình sản xuất vật chất, về những quy
luật kinh tế khách quan của A. g Smit và Đ. Ricacđô; đồng thời chỉ ra những hạn chế tron
học thuyết của các ông và giải quyết những bế tắc mà bản thân các nhà kinh tế chính trị
học cổ điển Anh đã không thể vượt qua. Trên cơ sở đó, C.Mác đã xây dựng nên lý luận về
giá trị thặng dư, luận chứng cho bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nguồn gốc dẫn đến
sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa cộng sản.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp: với những đại biểu tiêu biểu như H. Xanhximông,
S. Phuriê, R. Ôoen. Tinh thần nhân đạo, sự phê phán những bất công của chủ nghĩa tư
bản, những quan niệm s về đặc trưng của xã hội tương lai trong học thuyết của các âu sắc
ông là một trong những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Tiền đề khoa học tự nhiên: Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác còn dựa trên
những thành tựu khoa học tự nhiên. Vào thế kỷ XIX, khoa học tự nhiện thời kỳ này của
phát triển mạnh mẽ, đặc biệt có ba công trình khoa học vĩ đại:
+ Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng chứng minh sự chuyển hoá và bảo toàn
của các hình thức vận động của vật chất, vật chất không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên
mất đi mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
+ Học thuyết tiến hoá chứng minh nguyên lý phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin, mọi
sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, đều có phát triển từ thấp đến quá trình phát sinh,
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ hiện tượng đến bản chất.
+ Học thuyết tế bào chứng minh tính thống nhất của toàn bộ sự sống, thế giới vô cùng
phong phú, đa dạng nhưng đều thống nhất ở tính vật chất của nó. Những phát minh trên
đã chứng minh tính khoa học đúng đắn của thế giới quan duy vật biện chứng và phương
pháp luận biện chứng duy vật.
b. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của Triết học Mác – Lênin
- Quá trình chuyển biến tư tưởng của C. Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
- Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng duy vật lịch sử ( từ
năm 1844 đến năm 1848)
- Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết học
c. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác Ph.Ăngghen thực
hiện
- Mác và Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của tư duy nhân
loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triệt để.
- Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong
lịch sử phát triển của triết học, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên “hoàn bị và mở
rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người,
chủ nghĩa duy vậy lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Đó
cuộc cách mạng thật sự trong triết học xã hội, yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng
mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học.
- Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, giai cấp tiến bộ và cách
mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và sự
phát triển xã hội. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo
nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác.
- Vai trò cách mạng to lớn của triết học Mác được nâng cao còn vì sự thống nhất tính
khoa học với tính cách mạng trong bản thân lý luận của nó. Sự thống nhất hữu cơ chủ
nghĩa duy vật với phép biện chứng làm cho triết học mácxít mang tính cách mạng sâu sắc
nhất. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học mác xít chính là ở sự gắn bó mật thiết với -
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản cách mạng, với quần chúng nhân dân đông
đảo.
d. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển Triết học Mác
Trong khi lãnh đạo công cuộc xây dựng những cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội, Lênin
tiếp tục có những đóng góp mới quan trọng vào việc phát triển triết học Mác. Để bảo vệ
chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin không chỉ phê phán không khoan nhượng đối với mọi kẻ thù
của chủ nghĩa Mác, mà còn kịch liệt phê phán những người nhân danh lý luận của Mác
trên lời nói nhưng thực tế là chủ nghĩa xét lại, hoặc ít ra đã xa rời học thuyết của Mác.
Đồng thời, Lênin chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng và dựa vào những
thành quả mới nhất của khoa học để bổ sung, phát triển di sản lý luận mà Mác và
Ăngghen để lại. Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là cụ thể, có khi V.I.Lênin
đã phải thay đổi một cách căn bản đối với một quan niệm nào đó của mình về chủ nghĩa
xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều. Chính vì thế mà một
giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đã
gắn liền với tên tuổi của V.I.Lênin và được gọi là Lênin nói riêng, chủ triết học Mác -
nghĩa Mác - Lênin nói chung.
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác
a. Khái niệm triết học Mác - Lênin
Triết học Mác -Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác Lênin, được -
C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập vào giữa thế kỷ thứ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển.
Triết học Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt
với những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra
đời của triết học lịch sử tư tưởng loài Mác - Lênin là một cuộc cách mạng thực sự trong
người, trong lịch sử triết học. Triết học Mác – là hệ thống quan điểm duy vật biện Lênin
chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách -
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để nhận thức và cải tạo thế giới.
b. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
Tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện
chứng và nghiên cứu những quy luật vận động phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội
và của tư duy. Với việc xác định đối tượng nghiên cứu như vậy, triết học Mác - Lênin có
đối tượng nghiên cứu khác với các khoa học cụ thể. Các khoa học cụ thể nghiên cứu
những quy luật trong các lĩnh vực riêng biệt của tự nhiên, xã hội hoặc tư duy, còn triết
học Mác Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất, phổ biến nhất, tác động đến cả -
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy có đối tượng nghiên cứu khác nhau nhưng giữa
triết học Mác
- cho nhau. Các Lênin và các khoa học cụ thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, bổ sung
khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới, làm tiền đề,
cơ sở cho sự phát triển triết học. Các khoa học cụ thể tuy có đối tượng và chức năng riêng
của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan và một phương pháp luận triết học
nhất định.
c. Chức năng của triết học Mác – Lênin
- Chức năng thế giới quan: Triết học Mác Lênin mang lại thế giới quan duy vật biện -
chứng, là hạt nhân thế giới quan khoa học và cách mạng. Hệ thống quan điểm khoa học,
duy vật biện chứng về thế giới là nhân tố định hướng con người nhận thức đúng đắn thế
giới hiện thực, nắm được bản chất của tự nhiên, xã hội và tư duy, giúp con người hình
thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Như vậy, thế giới quan cũng đóng
vai trò phương pháp luận. Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học
để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất
khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân trong hệ tư tưởng
của giai cuộc cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong
đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản động, phòng, chống chiến lược “Diễn
biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay.
- - Chức năng phương pháp luận: Triết học Mác Lênin thực hiện chức năng phương pháp
luận chung nhất cho nhận thức và thực tiễn, trang bị cho con người hệ thống những
nguyên tắc, quy tắc, yêu cầu cũng như hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật để làm
công cụ nhận thức, giúp con người phát triển tư duy khoa học. Tuy nhiên, triết học Mác -
Lênin không phải là “chìa khóa vạn năng” có thể giải quyết được mọi vấn đề. Để đem lại
hiệu quả trong nhận thức và hành động, cùng với tri thức triết học, con người cần phải có
tri thức khoa học, công nghệ cụ thể và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
3. Vai trò của triết học Mác Lênin trong đời sống và trong sự-
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
- ng cho Triết học Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạ
con người trong nhận thức và thực tiễn
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách
mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội
24
trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát
tiển mạnh mẽ
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
B. PHẦN BÀI TẬP
1. Các trường phái triết học trong lịch sử được phân chia dựa trên cơ sở chủ yếu nào?
Phân tích nội dung cơ bản của các trường phái đó?
2. Triết học Mác – Lênin có vai trò gì trong đời sống xã hội hiện nay? Liên hệ với sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam? Liên hệ với bản thân?
3. Phân tích sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác trào cách mạng thế Lênin đối với phong
giới, đặc biệt đối với Việt Nam?
4. Khoa học tự nhiên ảnh hưởng như thế nào đối với các hình thức phát triển của chủ
nghĩa duy vật trong lịch sử?
5. Phân tích vai trò của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với ra đời của chủ sự
nghĩa Mác – Lênin?
CHƯƠNG II CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG:
A. PHẦN LÝ THUYẾT
I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất là phạm trù nền tảng của thế giới quan duy vật, bởi thế giới quan duy vật là thế
giới quan được xác lập trên cơ sở thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất.
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về vật chất
- Quan điểm của các nhà triết học duy vật thời kỳ cổ đại: Khuynh hướng chung của các
nhà triết học duy vật cổ đại là đi tìm bản nguyên vật chất đầu tiên và coi đó là nguyên tố
đầu tiên tạo ra mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, chẳng hạn ở Phương Tây, Talét quan
niệm vật chất là nước; Anaximen quan niệm vật chất là không khí; Hêraclít quan niệm vật
chất là lửa... Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong học thuyết vật chất
là thuyết nguyên tử của các nhà duy vật là Lơxip và Đêmôcrít. Các ông cho rằng, nguyên
tử là những hạt vật chất nhỏ nhất không thể phân chia được. Một số nhà triết học duy tâm
cho rằng, vật chất và các dạng của vật chất đều do ý thức sinh ra, do ý thức quyết định.
Phương Đông, có quan niệm vật chất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ… Nhìn chung, những
quan niệm về vật chất thời kỳ này còn sơ khai, trực quan, cảm tính, chưa đầy đủ, triệt để
do trình độ con người còn hạn chế, khoa học kĩ thuật chưa phát triển.
- - Thế kỷ XVII XVIII, khoa học tự nhiên phát triển và đạt được nhiều thành tựu mới
trong việc nghiên cứu thế giới khách quan (cơ học, inh vật học...). toán học, vật lý học, s
Tuy vậy, những quan niệm siêu hình vẫn chi phối những hiểu biết triết học về thế giới:
Nguyên tử vẫn tiếp tục được coi là phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia; vận
động của vật chất chỉ được coi là vận động cơ học, nguồn gốc của vận động nằm
ngoài sự vật, hiện tượng.
b. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sự phá
sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vật lý học hiện đại phát triển, nhất là vật lý học vi mô đã
có những phát hiện mới về cấu trúc của vật chất... làm biến đổi sâu sắc quan niệm về
nguyên tử: 1895: Rơnghen tìm ra tia Một loại sóng điện từ có bước sóng cực ngắn; X -
1896: Beccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. Như vậy, quan niệm về sự bất biến của
nguyên tử trước đây là không chính xác; 1897: Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng
minh rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử... Những phát
hiện nói trên của vật lý học đã bác bỏ quan niệm vật trước siêu hình của chủ nghĩa duy
Mác về vật chất, Ttừ đó dẫn đến cuộc khủng hoảng về thế giới quan của các nhà vật lý
học... Trước tình thế này, chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng để tuyên truyền quan điểm duy
tâm: tuyên bố vật chất “tiêu tan”, “biến mất”. Trong bối cảnh đó, V. I.nin đã đưa ra
một định nghĩa mới về vật chất. m lại: Quan niệm của các nhà duy vật trước Mác về
vật chất tuy có những ưu điểm nhất định trong việc giải thích cơ sở vật chất của sự tồn tại
của giới tự nhiên nhưng về căn bản vẫn còn nhiều hạn chế như: g hiểu chính xác bản khôn
chất của các hiện tượng ý thức cũng như mối quan hệ giữa ý thức với vật chất; không
đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề xã hội... Những hạn chế đó tất yếu
dẫn đến quan điểm duy vật không triệt để (khi giải quyết những vấn đề về giới tự nhiên,
họ đứng trên lập trường duy vật, nhưng khi giải quyết những vấn đề xã hội họ đã trượt
sang quan điểm duy tâm)
c. Quan niệm của Triết học Mác – Lênin về vật * Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán, V.I.Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác” .
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất: phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của
khoa học tự nhiên về cấu tạo và thuộc tính của các dạng vật chất cụ thể. Vật chất với tư
cách là phạm trù triết học chỉ vật chất nói chung, vô cùng, vô tận, không sinh ra, không
mất đi; còn các dạng vật chất cụ thể do các khoa học cụ thể nghiên cứu có giới hạn, có
sinh ra, có mất đi. Vì vậy, không thể quy vật chất về các sự vật cụ thể.
- Thứ hai: thuộc tính chung của vật chất là “thực tại khách quan”, vật chất là cái tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức. Ý thức chỉ là sự phản ánh của
vật chất, do đó, ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao đ ó là
não người.
- Thứ ba: vật chất tồn tại thông qua các dạng cụ thể của vật chất, gây nên cảm giác ở con
người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên các giác quan của con người; con người có
thể nhận biết một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
- Thứ nhất: bằng việc tìm ra thuộc tính chung nhất, phổ biến nhất của vật chất là thuộc
tính tồn tại khách quan, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục được quan niệm duy
tâm và quan niệm của chủ nghĩa duy vật cũ về vật chất.
- Thứ hai: thông qua định nghĩa vật chất, Lênin đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
trên lập trường duy vật và khả tri: vật chất có trước, ý thức có sau và con người có thể
nhận thức được thế giới khách quan.
- Thứ ba: định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã định hướng cho các nhà khoa học tự nhiên
trong việc tìm kiếm, khám phá ra những dạng những cấu trúc vật chất mới...
- Thứ tư: định nghĩa vật chất của V.I.Lênin là cơ sở để định hướng cho quan điểm duy vật
khi nhận thức các vấn đề xã hội.
d. Các hình thức tồn tại của vật chất
* Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ph.Ăngghen định nghĩa: Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho
đến tư duy. Như vậy, vận động theo quan điểm duy vật biện chứng không bị quy về hình
thức giản đơn là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không mà chỉ mọi sự biến đổi gian,
nói chung. Với cách hiểu như thế, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, nhờ vận
động và thông qua vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật
chất là tự thân vận động; là tuyệt đối, vĩnh viễn.
- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất:
+ Vận động cơ giới.
+ Vận động vật lý.
+ Vận động hoá.
+ Vận động sinh vật.
+ Vận động xã hội.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, các hình thức vận động của vật chất không tách rời
nhau mà có mối quan hệ mật thiết với nhau: thứ nhất, các hình thức vận động được sắp
xếp theo thứ tự từ thấp đến cao; thứ hai, hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở hình
thức vận động thấp hơn, bao hàm hình thức vận động thấp nhưng không có chiều ngược
lại; thứ ba, các hình thức vận động có thể chuyển hoá cho nhau.
* Vận động và đứng im:
+ Đứng im là trạng thái vận động đặc biệt, là sự vận động trong trạng thái cân bằng chưa
làm thay đổi về chất, hình dáng, kết cấu của sự vật.
+ Đứng im là tương đối, tạm thời vì đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định,
đứng im chỉ xảy ra khi xét ở một hình thức vận động xác định.
* Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất
- Không gian: kích thước chiếm chỗ của vật (dài, rộng, cao).
- Thời gian: độ dài tồn tại, mức độ diễn biến (lâu, mau, nhanh, chậm).
Vật chất và không gian, thời gian tồn tại không tách rời nhau, không có vật chất tồn tại
ngoài không gian, thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật chất.
Vì là những hình thức tồn tại của vật chất, nên không gian và thời gian có tính khách
quan, tính vĩnh cửu, vô tận; không gian có 3 chiều, thời gian có 1 chiều.
e. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, thế giới thống nhất ở tính tinh thần, ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thế giới thống nhất ở tính vật chất, thể
hiện:
+ Chỉ có duy nhất thế giới vật chất tồn tại, vô hạn, vĩnh viễn
+ Thế giới sự vật, hiện tượng vô cùng phong phú, đa dạng nhưng luôn có mối quan hệ, tác
động biện chứng với nhau và g nhất ở tính vật chất của nó. thốn
+ Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến đổi, phát triển không ngừng
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: ý thức là sản phẩm và là thuộc tính
của một dạng vật chất có tổ chức cao là não người; là sự phản ánh chủ động, tích cực,
sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn.
a. Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức ra đời cùng với sự ra đời của
con người và xã hội loài người, gồm hai nguồn gốc sau:
Nguồn gốc tự nhiên (điều kiện cần- nguồn gốc gián tiếp): Bộ óc người và sự phản ánh thế
giới khách quan vào bộ óc người
- Bộ óc người: ý thức là thuộc tính, chức năng của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ
óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất sản sinh ra ý thức. Do đó, khi bộ óc con người
càng hoàn thiện thì năng lực tư duy, ý thức càng phong phú và sâu sắc. Ngược lại, khi bộ
óc con người bị tổn thương thì năng lực tư duy, ý thức, cũng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.
- Sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc người:
+ Phản ánh là thuộc tính của mọi dạng vật chất.
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. u tạo vật chất khác nhau sẽ có khả Cấ
năng phản ánh khác nhau. Do đó, có thể phân chia các hình thức phản ánh của vật chất từ
thấp đến cao như sau:
+ Ở giới tự nhiên vô sinh: Phản ánh vật lý, hóa học (sự phản ánh thụ động, chưa có tính
chọn lọc).
+ Ở giới tự nhiên hữu sinh: Phản ánh sinh học (tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ,
tâm lý).
+ Ý thức: là hình thức phản ánh cao nhất của giới tự nhiên hữu sinh.
=> Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người. Ý thức gắn liền
với con người và không thể tách rời đời sống hội của loài người.
* Nguồn gốc xã hội (điều kiện đủ nguồn gốc trực tiếp): Lao động và ngôn ngữ-
- Lao động và vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức
+ Lao động (lao động sản xuất vật chất) là quá trình con người dụng công cụ lao động sử
tác động vào tự nhiên để cải biến tự nhiên tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình.
+ Vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức:
Thứ nhất: lao động đã giải phóng con người khỏi thế giới động vật, giúp con người có khả
năng sáng tạo ra công cụ lao động và sử dụng những công cụ ấy phục vụ mục đích sống
của mình.
Thứ hai: lao động đã giúp con người tìm ra lửa và nấu chín thức ăn, giúp cho bộ não con
người ngày càng phát triển và hoàn thiện về mặt sinh học.
Thứ ba: nhờ lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, m cho thế giới
khách quan bộc lộ những thuộc tính, đặc điểm, qua đó con người có thể nhận thức được,
từ đó năng lực tư duy trừu tượng của con người ngày càng phát triển.
Thứ tư: lao động dẫn tới sự hình thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ, một mặt là kết quả của lao
động, mặt khác lại là nhân tố tích cực tác động đến quá trình lao động và phát triển ý thức
của con người.
- Ngôn ngữ và vai trò của ngôn ngữ đối với sự hình thành ý thức
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức.
+ Vai trò của ngôn ngữ: Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là công cụ để thể
hiện, truyền đạt tư tưởng, kinh nghiệm của con người. Ngôn ngữ giúp con người phản ánh
khái quát những thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Như vậy, cùng với lao động là ngôn ngữ, là hai yếu tố chủ yếu và trực tiếp nhất làm cho ý
thức hình thành và phát triển.
b. Bản chất của ý thức
Có thể phân tích bản chất của ý thức dựa trên ba đặc trưng sau đây:
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức phản ánh thế giới khách
quan nhưng nó đã bị cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người, chịu sự tác
động của các yếu tố như: nhu cầu, tâm tư, tình cảm, kinh nghiệm, tri thức...
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan: ý thức phản ánh thế giới
khách quan không rập khuôn, máy móc mà trên cơ sở tiếp nhận, xử lý thông tin có chọn
lọc, định hướng; đồng thời ý thức không chỉ là sự phản ánh thông tin bề ngoài của thế giới
sự vật hiện tượng khái quát bản chất, quy luật của thế giới. mà còn
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội: sự ra đời, phát triển của ý thức
gắn liền với hoạt động lao động của con người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy
luật tự nhiên mà còn bởi các quy ật xã hội. lu
c. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau.
Xét theo chiều ngang, ý thức gồm ba yếu tố cơ bản sau:
- Tri thức: Là toàn bộ những hiểu biết của con người về tự nhiên và xã hội, là kết quả của
quá trình con người nhận thức, phản ánh thế giới hiện thực. Do đó, tri thức, hiểu biết của
con người về thế giới sự vật hiện tượng càng nhiều bao nhiêu thì ý thức càng sâu sắc bấy
nhiêu.
- Tình cảm: Là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong mối quan hệ của
mình với sự vật hiện tượng và đối với bản thân mình.
- Ý chí: Là khả năng huy động sức mạnh của bản thân để vượt qua những cản trở trong
quá trình thực hiện mục đích của con người. Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có quan hệ
biện chứng với nhau, trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Tri thức là phương thức
tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng sự phát triển và mức độ biểu hiện của
các yếu tố khác. Ý thức nếu thiếu tri thức thì chỉ là niềm tin mù quáng. Ngược lại, nếu tri
thức không biến thành tình cảm, niềm tin và ý chí thì bản thân nó cũng không có vai trò gì
đối với đời sống hiện thực.
Nếu xét theo chiều dọc, ý thức gồm 3 yếu tố cơ bản sau:
- Tự ý thức: Là quá trình con người tự nhận thức bản thân mình như một thực thể độc lập
có cảm giác, tư duy, hành vi đạo đức và vị trí trong xã hội khi phản ánh thế giới khách
quan.
- Tiềm thức: Là những hoạt động tâm lý diễn ra không nằm trong sự kiểm soát của chủ
thể. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã
gần như trở thành bản năng, kỹ ng nằm trong tầng sâu của ý thức, là ý thức dưới dạng
tiềm tàng.
- Vô thức: Là hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi của
lý trí mà ý thức không kiểm soát được. Mỗi hiện tượng vô thức có vùng hoạt động, vai trò
riêng, song tất cả đều có một chức năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động
thần kinh vượt ngưỡng.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy tâm đã trừu tượng hóa ý thức, tinh thần vốn có của con người thành một
lực lượng thần bí, tách khỏi con người hiện thực. Họ coi ý thức, tinh thần là tồn tại duy
nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao,
biểu hiện khác của ý thức, tinh thần, là tính thứ hai do ý thức, tinh thần sinh ra. Trên thực
tế, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của tôn giáo. Mọi con đường mà chủ nghĩa duy tâm
mở ra đều dẫn con người đến với thần học, với “đường sáng thế”. Trong thực tế, những
người theo chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ
quan, dẫn đến duy ý chí, có những hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình lại tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều
vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của
ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt
động thực tiễn an. Do vậy, những người theo chủ nghĩa duy vật cải tạo hiện thực khách qu
siêu hình đã phạm nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ “khách quan chủ nghĩa”,
thụ động, trông chờ không đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn .
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Vai trò của vật chất đối với ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định
ý thức. Khoa học hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; thế
giới vật chất là cái có trước, gười và ý thức của con người là cái có sau, là sản còn con n
phẩm của một quá trình tiến hóa lâu dài trong thế giới. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt
động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động
của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc
người. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được phân tích ở những điểm cơ bản
sau:
+ Vật chất giữ vai trò là nguồn gốc, cơ sở và điều kiện quyết định quá trình hình thành
của ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức (mọi nội dung của ý thức, suy đến cùng đều chỉ
là sự phản ánh đối với thực tế khách quan).
+ Vật chất quyết định hình thức biểu hiện cũng như sự biến đổi và phát triển của ý thức.
Vì hình thức biểu hiện và sự biến đổi của ý thức phụ thuộc vào quy luật sinh học, quy luật
xã hội, môi trường sống... thuộc lĩnh vực vật chất.
+ Vật chất là điều kiện để hiện thực hóa ý thức, tư tưởng
- Tác động trở lại của ý thức đối với vật chất: Ý thức không hoàn toàn thụ động mà có
tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với thế giới vật chất. Bởi vì, bản chất của ý
thức mang tính năng động, sáng tạo, ý thức là ý thức của con người, chỉ có con người mới
có ý thức nên nói tới vai trò của ý thức đối với vật chất chính là nói đến vai trò của con
người.
+ Ý thức chỉ đạo, hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn (ý thức trang bị cho con
người tri thức về thực tại khách quan), giúp con người xác định được: mục tiêu, phương
hướng, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ... để đạt được mục tiêu của mình. Như
vậy, ý thức đã thể hiện sự tác động đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người.
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tác động tích cực: Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
mạng, có nghị lực... thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan,
vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, cải tạo được thế
giới...
Tác động tiêu cực: Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật
khách quan thì định hướng hành động của con người đi ngược lại các quy luật khách
quan, hành động đó sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động thực tiễn...
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất còn phụ thuộc trình độ phản ánh của vào
ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của
con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động
theo định hướng của ý thức.
Như vậy, khẳng định tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh thần, về thực chất là để
khẳng định vai trò to lớn của con người chủ thể có ý thức. Bằng việc định hướng cho -
hoạt động của con người, ý thức là một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát
triển của xã hội.
Lưu ý, nhấn mạnh vai trò của ý thức trong sự tác động trở lại vật chất không có nghĩa là
thừa nhận ý thức quyết định vật chất.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng rút ra ý nghĩa phương pháp luận: trong mọi hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
+ Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan:
Điều đó đòi hỏi con người trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ thực tế khách
quan để nhận thức, xác định mục đích, kế hoạch, các biện pháp cụ thể...; không được lấy
ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy tình cảm l àm điểm xuất phát
cho chiến lược, sách lược...
+ Phát huy tính năng động chủ quan:
Điều này đòi hỏi con người phải không ngừng học tập, nắm vững tri thức khoa học để có
thể nắm bắt bản chất, quy luật của thế giới khách quan; không ngừng tu dưỡng đạo đức,
trau dồi tình cảm; rèn luyện ý chí để có thể vượt qua mọi khó khăn, thử thách; tránh sự ỷ
lại, thụ động, bảo thủ...
Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của triết học Mác – Lênin trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở khoa học để vận dụng vào giải quyết mối quan hệ
giữa khách quan và chủ quan, nhưng không đồng nhất vật chất và ý thức với khách quan
và chủ quan.
- Vai trò của yếu tố khách quan đối với nhân tố chủ quan:
+ Trong mối quan hệ giữa yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan hì suy đến cùng, yếu tố t
khách quan bao giờ cũng là cơ sở, tiền đề và giữ vai trò quyết định nhân tố chủ quan. Bởi
vì, các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan, không những luôn tồn tại độc lập
không lệ thuộc vào chủ thể, luôn buộc chủ thể phải tính đến trước tiên trong mọi hoạt
động, mà còn là cội nguồn làm nảy sinh mọi tri thức, tình cảm, ý chí và nguyện vọng của
chủ thể.
+ Yếu tố khách quan quy định nội dung và sự vận động biến đổi của nhân tố chủ quan.
Giữa các chủ thể có sự khác nhau là ở tính năn động chủ quan trong nhận thức và hành g
động. Nhưng giới hạn của tính năng động ấy cũng do khách quan quy định. Chủ thể
không thể tùy tiện đặt ra cho mình những nhiệm vụ, không thể tự mình sáng tạo ra những
mục tiêu, phương pháp khi mà quy luật khách quan không cho phép, khi mà điều kiện
chưa chín muồi.
- Vai trò của nhân tố chủ quan đối với yếu tố khách quan:
+ Đề cập đến vai trò của nhân tố chủ quan là nói đến vai trò của con người trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn để cải biến và thống trị thế giới.
+ Con người có thể biến các quy luật, các điều kiện và các khả năng khách quan vốn tồn
tại và vận động dưới dạng các “xu hướng có thể” thành hiện thực theo hướng thỏa mãn tốt
nhất nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Bằng cách đó, con người có thể thúc đẩy nhanh hơn tiến
trình biến khả năng thành hiện thực.
+ Con người có thể điều chỉnh hình thức tác động của quy luật khách quan và kết hợp một
cách khéo léo sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật theo hướng phục vụ tốt nhất cho
mục đích của mình.
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật
a. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
- Biện chứng: chỉ sự liên hệ, tác động qua lại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan từ tự nhiên, xã hội đến tư duy. Biện chứng bao gồm biện
chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
- Phép biện chứng: là phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ và sự
phát triển.
- Phép siêu hình: là phương pháp nhận thức sự vật hiện tượng trong trạng thái biệt lập,
tĩnh tại với một tư duy cứng nhắc, "chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn
thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại..mà không nhìn
thấy sự phát sinh và tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh.. mà quên
mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ thấy cây mà không thấy rừng"
+ Biện chứng khách quan: là biện chứng của thế giới vật chất.
+ Biện chứng chủ quan: sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong ý thức của con
người.
b. Khái n iệm phép biện chứng duy vật
Có thể định nghĩa khái quát phép biện chứng duy vật: “là môn khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của
tư duy”.
Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
- Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, phép biện chứng duy vật được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy vật.
+ Thứ hai, phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng, do đó nó không chỉ dừng lại ở giải thích thế giới mà còn là
công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Phép biện chứng duy vật đóng vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong triết học
Mác - Lênin, là phương pháp luận cho hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động thực
tiễn.
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
a. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong
thế giới.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng để chỉ những mối liên hệ tồn tại (được dùng
thể hiện) ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới. Như vậy, khái niệm mối liên hệ phổ biến
được dùng với hai nghĩa cơ bản đó là dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ; dung
để chỉ sự khái quát những mối liên hệ có tính chất phổ biến nhất như mối liên hệ giữa
nguyên nhân và kết quả, bản chất và hiện tượng...
- Có thể tóm tắt nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến như sau: Không có sự vật,
hiện tượng nào tồn tại cô lập, tách rời khỏi những sự vật, hiện tượng khác mà chúng luôn
nằm trong mối liên hệ đa dạng trong quá trình tồn tại và chuyển hóa của mình. Tính chất
của các mối liên hệ
- Tính khách quan của các mối liên hệ: Mối liên hệ (sự quy định, tác động và chuyển hóa
lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của các sự
vật, hiện tượng, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay do đấng
siêu nhiên tạo ra. Chỉ có liên hệ với nhau, sự vật, hiện tượng mới tồn tại, vận động, phát
triển. Ví dụ như mối liên hệ trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường (đồng hóa và dị
hóa); mối liên hệ giữa cung và cầu hàng hóa trên thị trường...
- Tính phổ biến của các mối liên hệ:
+ Không chỉ có các sự vật, hiện tượng liên hệ với nhau, mà các yếu tố, bộ phận cấu thành
chúng cũng liên hệ với nhau. Không phải chỉ có các thời kỳ trong một giai đoạn, các giai
đoạn trong một quá trình liên hệ với nhau, mà giữa các quá trình cũng liên hệ với nhau
trong sự vận động và phát triển của thế giới.
+ Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội lẫn tư duy, các sự vật, hiện tượng cũng
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, điều đó cho thấy, sự vật, hiện tượng nào cũng có mối
liên hệ, không gian, thời gian nào cũng có mối liên hệ.
- Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ: Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình khác
nhau t hì mối liên hệ cũng khác nhau; một sự vật, hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác
nhau (bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và
thứ yếu...), chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật, hiện
tượng đó; một mối liên hệ trong điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì tính chất, vai trò cũng
khác nhau... Do đó, “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.
Ví dụ 1: để đánh giá công trình xây dựng có đảm bảo chất lượng hay không phải được
xem xét trên nhiều phương diện, tiêu chí như độ cao, thiết kế, hệ thống phòng cháy chữa
cháy, hệ thống xử lý rác thải, hệ thống nước…
Ví dụ 2: để đánh giá tìm hiểu bản chất con người thông qua các mối quan hệ của họ với
gia đình, anh chị em, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp, con cái, nghề nghiệp, với xã hội…
- Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần có nguyên tắc
toàn diện:
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét nó trong tất cả các mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các bộ phận... hợp thành của chính sự vật, hiện tượng
đó và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng
khác để từ đó có cái nhìn chỉnh thể về sự vật, hiện tượng.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta cần phải biết phân biệt vai trò của các mối liên
hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, bản chất, tất yếu, từ đó tách ra và tập trung
xem xét các mối liên hệ cơ bản có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của sự
vật, hiện tượng.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta phải tính đến mọi khả năng vận động, phát
triển của nó để tránh tuyệt đối hóa một khả năng nào đó, từ đó có cái nhìn tổng thể về sự
phát triển của sự vật, hiện tượng và có thể lựa chọn khả năng tốt nhất.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta cũng cần xem xét sự vật trong mối quan hệ
với nhu cầu thực tiễn, từ đó vận dụng có hiệu quả những hiểu biết về sự vật vào giải quyết
các vấn đề do nhu cầu thực tiễn đặt ra để đem lại hiệu quả nhất.
* Nguyên lý về sự phát triển
Theo quan điểm duy vật biện chứng: phát triển là quá trình vận động của sự vật theo
| 1/60

Preview text:

CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI A. PHẦN LÝ THUYẾT
I. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
Triết học ra đời sớm vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI (tr. CN) và đạt được thành tựu rực rỡ ở c
ác nền triết học Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
a. Nguồn gốc của triết học
- Nguồn gốc nhận thức: Triết học không xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của con
người, nó chỉ ra đời khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất
định cho phép khái quát được những hiểu biết riêng lẻ, rời rạc thành một hệ thống những
quan điểm và quan niệm chung về thế giới. Như vậy, triết học chỉ ra đời khi tư duy, nhận
thức của con người đạt đến trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa, hệ thống hóa để xây
dựng nên các học thuyết lý luận.
- Nguồn gốc xã hội: Triết học xuất hiện khi xã hội loài người chuyển sang chế độ chiếm
hữu nô lệ, là xã hội đầu tiên có sự phân chia giai cấp, lao động trí óc tách khỏi lao động
chân tay, đội ngũ trí thức xuất hiện, khi đó xã hội có một số người chuyên làm “nghề”
triết học để giải thích thế giới theo lợi ích của một giai cấp nhất định. Điều đó cho thấy,
chính tầng lớp lao động trí óc đã sản sinh ra triết học, ngay khi mới ra đời, triết học đã
mang tính giai cấp sâu sắc, phản ánh và bảo vệ lợi ích của những giai cấp nhất định trong xã hội. b. Khái niệm triết học
- Ở phương Đông: Theo người Trung Quốc, “triết” có nghĩa là “trí”, là “sáng suốt” để chỉ
sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng về thế giới. Theo người Ấn Độ, triết học có nghĩa là
darshana - chiêm ngưỡng dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến lẽ phải.
- Ở phương Tây: Theo chữ Hy Lạp, triết học là “philosophia”, có nghĩa là “tình yêu sự
thông thái”, nhà triết học là nhà thông thái vì họ có khả năng làm sáng tỏ bản chất của sự
vật, hiện tượng bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Triết học ra đời cả ở
phương Đông và phương Tây, mặc dù khác nhau về quan niệm nhưng nhìn chung đều coi
triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc thế giới, đi sâu nắm được bản chất
của sự vật, hiện tượng. Theo quan điểm mác xít, triết học là hệ thống tri thức lý luận
chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Như vậy, tất cả các hệ thống triết học đều là hệ thống tri thức có tính khái quát, xem xét
thế giới trong tính chỉnh thể của nó, tìm ra quy luật chi phối trong chỉnh thể đó, trong tự
nhiên, xã hội và bản thân con người.
c. Vấn đề đối tượng của triết học trong lịch sử
Trong quá trình phát triển, đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử:
- Thời kỳ cổ đại: Tri thức của loài người còn ít nên chưa có sự phân chia giữa triết học với
các khoa học khác. Triết học Hy Lạp cổ đại khi mới hình thành không độc lập với các tri
thức khoa học, mà thực chất là đồng nhất với chúng để hình thành nên môn khoa học tổng
hợp. Các nhà triết học đầu tiên ở Hy Lạp đồng thời cũng là các nhà khoa học, như
Thalets, Pithagore... Triết học đặt nhiệm vụ tìm hiểu và giải thích tự nhiên, xem xét thế
giới như một chỉnh thể. Trong nền triết học tự nhiên, các khoa học nói chung bị đẩy
xuống vị trí thứ yếu và bị chi phối bởi triết học. Do đó, đối tượng nghiên cứu của triết học
là mọi lĩnh vực tri thức, nhưng còn sơ khai, trực quan cảm tính. Đây là nguyên nhân sâu
xa nảy sinh quan niệm về sau xem “Triết học là khoa học của các khoa học”.
- Thời kỳ trung cổ ở Tây Âu: Quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, triết học trở thành “nô lệ” của thần học. Nhiệm vụ của triết học chỉ là lý giải và
chứng minh tính đúng đắn của các nội dung trong Kinh Thánh, luận giải và thuyết phục
con người tin tưởng vào Chúa Trời. Nền triết học tự nhiên bị thay thế bằng nền triết học kinh viện.
- Thế kỷ XV – XVI: cùng với sự phát triển của các môn khoa học tự nhiên, đồng thời là sự
phục hồi của tư tưởng triết học duy vật thời kỳ cổ đại. Triết học dần tách khỏi thần học và
các khoa học cụ thể, phát triển thành các bộ môn riêng biệt với các học thuyết về bản thể
luận, vũ trụ luận, nhận thức luận...
- Thế kỷ XVII – XVIII: triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học tự nhiên thực
nghiệm đã phát triển nhanh chóng và đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Sự phát triển của triết học duy vật thời kỳ này đạt đến đỉnh
cao ở các quốc gia là Anh, Pháp, Hà Lan.
- Cuối thế kỷ XVIII -
đầu thế kỷ XIX: sự phát triển của khoa học cụ thể và những thành tựu
mà nó đạt được đã làm phá sản tham vọng của các nhà triết học muốn biến triết học thành
“Khoa học của mọi khoa học”, trong đó triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng mang tham vọng đó.
- Những năm 40 của thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời đoạn tuyệt với quan niệm sai lầm
xem triết học là “Khoa học của mọi khoa học”, xác định đối tượng nghiên cứu của triết
học là tiếp tục giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy
vật biện chứng, nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy .
d. Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan
* Chức năng thế giới quan: Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của
con người về thế giới, về bản thân con người, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó .
- Về nguồn gốc của thế giới quan: Thế giới quan ra đời từ cuộc sống hiện thực của con
người. Bởi vì, con người không thể sống tách khỏi thế giới sự vật hiện tượng. Trong quá
trình tồn tại và phát triển của con người, hàng loạt câu hỏi được đặt ra để tìm câu trả lời:
thế giới này do đâu mà có? Bản chất của thế giới là gì? Sự biến đổi của nó tác động gì
đến con người? Có thần linh, ma quỷ không...? Từ đó, các quan niệm về thế giới quan được hình thành.
- Về cấu trúc: Thế giới quan được cấu thành từ hai yếu tố cơ bản là tri thức và niềm tin.
Tuy nhiên, bản thân tri thức chưa phải là thế giới quan, chỉ khi nào tri thức biến thành
niềm tin của con người thì tri thức đó mới trở thành thế giới quan.
- Những hình thức cơ bản của thế giới quan:
+ Thế giới quan huyền thoại (thần thoại) có nội dung pha trộn một cách không tự giác
giữa thực và ảo, nó đặc trưng cho tư duy, nhận thức của người nguyên thủy về thế giới,
được phản ánh qua các câu chuyện thần thoại. Thế giới quan huyền thoại thể hiện đậm nét
trí tưởng tượng của “tư duy nguyên thủy” - tư duy chứa đựng sự pha trộn một cách không
tự giác giữa thực và ảo, giữa người và thần. Theo Ph. Ăngghen nhận định, thế giới quan
huyền thoại là kết quả tất yếu của trình độ nhận thức thấp, khi con người chưa hiểu về
nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất của sự vật, hiện tượng trong thế giới nên họ đã nhân
cách hóa, nhân hình hóa, nhân tính hóa chúng thành các vị thần hoặc bán thần trong thần thoại .
+ Thế giới quan tôn giáo biểu hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu
nhiên đối với thế giới, con người, được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn,
sùng bái lực lượng siêu nhiên. Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin
cao hơn lý trí, trong đó niềm tin vào một thế giới khác hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người
sẽ đến sau khi chết giữ vai trò chủ đạo. V. I. Lênin đã cho rằng: “Sự bất lực của giai cấp
bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc
đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của con người dã man trong
cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ vào những phép màu...” .
+ Thế giới quan triết học được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua hệ thống các khái
niệm, các phạm trù, các quy luật. Thế giới quan triết học chỉ hình thành khi nhận thức của
con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa cũng như khi con
người ý thức được sự cần thiết phải có sự định hướng về tư tưởng, nhận thức để chỉ đạo
hoạt động thực tiễn. Thế giới quan triết học được phân chia thành thế giới quan duy tâm
(là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần và thừa nhận vai trò quyết
định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất); thế giới quan duy vật (là thế giới
quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất
đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của
con người trong cuộc sống hiện thực). Tương ứng với ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa
duy vật là (chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình, chủ nghĩa duy vật
biện chứng) là ba hình thức cơ bản của thế giới quan (thế giới quan duy vật chất phác, thế
giới quan duy vật siêu hình và thế giới quan duy vật biện chứng). Thế giới quan duy vật
biện chứng có vai trò giúp con người có cơ sở khoa học để nhận thức bản chất của tự
nhiên, xã hội và tư duy, từ đó hình thành quan điểm khoa học để định hướng mọi hoạt
động của con người. Ngoài ra, triết học còn có vai trò phương pháp luận: Định hướng con
người trong việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng phương pháp trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn. Các cấp độ của phương pháp luận: phương pháp luận ngành;
phương pháp luận chung; phương pháp luận chung nhất. Trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn, không được xem thường hoặc tuyệt đối hóa phương pháp luận triết học. Nếu
xem thường phương pháp luận triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, mất phương hướng,
thiếu chủ động, sáng tạo trong hoạt động. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của phương
pháp luận triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều và dễ bị vấp váp, thất bại. Bồi dưỡng
phương pháp luận duy vật biện chứng giúp mỗi người tránh được những sai lầm như chủ
quan, duy ý chí và phương pháp tư duy máy móc, siêu hình gây ra.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
a. Nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Tất cả các sự vật hiện tượng trong thế giới hiện thực chỉ có thể hoặc là hiện tượng vật
chất, tồn tại bên ngoài ý thức con người hoặc là hiện tượng tinh thần, tồn tại trong ý thức
con người. Vật vật chất và ý thức có quan hệ với nhau như thế nào, cái nào có trước, cái
nào có sau, cái nào quy định cái nào? Theo Ph. Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi
triết học, đặc biệt là triết học hiện đại đó là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn
tại”. Đây cũng là cơ sở để phân chia các trường phái triết học khác nhau trong lịch sử.
* Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
- Mặt thứ nhất (Bản thể luận): Giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào? Tùy cách giải đáp câu hỏi này mà các học thuyết triết học đã
được chia ra thành hai trào lưu cơ bản đó là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, thế giới vật chất tồn tại
khách quan, độc lập với ý thức con người, không do ai sáng tạo ra; ý thức là sự phản ánh
thế giới khách quan vào bộ óc con người, không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật
chất; bản chất của tồn tại là vật chất, vật chất quyết định ý thức... Chủ nghĩa duy vật có
lịch sử phát triển lâu dài với nhiều hình thức khác nhau. Hình thức đầu tiên của nó là chủ
nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại. Hình thức phát triển tiếp theo là chủ nghĩa duy vật
máy móc, siêu hình thế kỷ XVII – XVIII. Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác, Ph.
Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX và được V. I. Lênin kế thừa và phát
triển, là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật, có mối quan hệ chặt chẽ với
các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng cũng như với sự phát triển của khoa
học và thực tiễn xã hội.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng, tinh thần, ý thức có trước và là cơ sở tồn tại của giới tự
nhiên, của vật chất; ý thức, tinh thần quyết định vật chất; bản chất của tồn tại là ý thức,
tinh thần. Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai trường phái chủ yếu là chủ nghĩa duy tâm chủ
quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, cảm giác,
ý thức con người là cái có trước, cái quyết định sự tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng ở
bên ngoài. Các sự vật, hiện tượng chỉ là “phức hợp của những cảm giác”; những màu sắc,
mùi vị, những đặc tính khác nhau của sự vật chẳng qua chỉ là những cảm giác của con
người. Do phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, chủ nghĩa duy tâm chủ quan phủ
nhận luôn cả tính quy luật của các sự vật, hiện tượng và như thế, tất yếu dẫn đến chủ
nghĩa duy ngã (ngã là tôi - là chủ nghĩa xuất p
hát từ cái tôi). Chủ nghĩa duy tâm khách
quan cho rằng, ý thức, ý niệm là cái có trước thế giới vật chất. Cái thực thể tinh thần tồn
tại một cách “khách quan”, không phụ thuộc vào con người và loài người, nó quyết định
sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội đều là hiện thân của ý niệm. Nhìn chung, cả hai hình thái của chủ nghĩa duy tâm
tuy biểu hiện khác nhau, nhưng về cơ bản lại giống nhau, bằng cách này hay cách khác
đều phủ nhận nguồn gốc khách quan của thế giới tự nhiên, của vật chất, nghĩa là đều thừa
nhận tinh thần, ý thức sáng tạo ra thế giới. Ở điểm này, chủ nghĩa duy tâm gần gũi với tôn
giáo và “tựu trung bao giờ cũng vẫn bênh vực hay ủng hộ tôn giáo”. Nguồn gốc nhận thức
của chủ nghĩa duy tâm đó là sự tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, tinh thần, như V.I. Lênin
đã khẳng định “Chủ nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự thổi
phồng, bơm to) phiến diện, thái quá... của một trong những đặc trưng, của một trong
những mặt, của một trong những khía cạnh của nhận thức thành một cái tuyệt đối, tách rời
khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa” Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy
tâm là sự hình thành và phát triển các giai cấp đối lập nhau về lợi ích; là sự xuất hiện phân
công giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Sau khi tách khỏi lao động chân tay, lao
động trí óc có vị trí độc lập tương đối và trở thành đặc quyền của các giai cấp bóc lột. Vì
thế các nhà tư tưởng của giai cấp đó thường có thái độ coi thường lao động chân tay và
ngộ nhận rằng chính lao động trí óc quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Những
sai lầm, lệch lạc trên đây của thế giới quan duy tâm đã bị các thế lực phản động lợi dụng,
khai thác nhằm biện hộ và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
+ Ngoài hai trường phái duy vật và duy tâm, trong triết học còn có trường phái nhị nguyên
luận. Trường Phái này cho rằng cả vật chất và ý thức, tinh thần đều tồn tại song song và
độc lập với nhau, trong đó nguyên thể vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, nguyên thể
tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Tuy nhiên, xét đến cùng, phái nhị nguyên cũng
rơi vào chủ nghĩa duy tâm vì nó thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó, không
phụ thuộc vào vật chất.
- Mặt thứ hai (Nhận thức luận): Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không? Những nhà tư tưởng khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới
(thuộc trường phái có thể biết - “khả tri luận”). Những nhà triết học cho rằng, con người
không thể hiểu biết thế giới (thuộc trường phái không thể biết - “bất khả tri luận”). Thuyết
không thể biết đã bị phê phán gay gắt bởi chính thực tiễn đời sống xã hội cũng như sự
phát triển của khoa học. Ngoài ra còn có trường phái Hoài nghi luận. Như vậy, bất kỳ một
học thuyết, một hệ thống triết học nào cũng đều phải giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
b. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
+ Chủ nghĩa duy vật: vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Chủ
nghĩa duy vật có 3 hình thức cơ bản là: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật
siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy tâm: ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất. chủ
nghĩa duy tâm có 2 hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
- Nguyên nhân của sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm:
+ Chủ nghĩa duy vật: có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời
thường gắn liền với lợi ích của các giai cấp tiến bộ trong lịch sử.
+ Chủ nghĩa duy tâm: tuyệt đối hoá một mặt của quá trình nhận thức và thường gắn với
lợi ích của các giai cấp bóc lột trong lịch sử.
c. Thuyết có thể biết (khả tri) và thuyết không thể biết ( bất khả tri )
+ Những người thuộc trường phái khả tri: Con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới
+ Những người thuộc trường phái bất khả tri cho rằng: Con người không thể có khả năng nhận thức thế giới
+ Thuyết Hoài nghi luận: Nghi ngờ khả năng nhận thức của con người
3. Biện chứng và siêu hình
a. Khái niệm biện chứng và siêu hình
• Biện chứng: Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và
vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã
hội và tư duy . Biện chứng được chia thành biện chứng khách quan và biện chứng chủ
quan. Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ
quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con người
(biện chứng của tư duy). Như vậy, khái niệm biện chứng dùng với nghĩa vừa là lý luận,
đồng thời là phương pháp khảo sát, phản ánh đối tượng trong trạng thái liên hệ, ràng
buộc, tác động qua lại và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng.
* Phương pháp siêu hình :
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi chỉnh thể.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về
số lượng bởi nguyên nhân bên ngoài đối tượng. Phương pháp siêu hình làm cho con người
“chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những
sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và
sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà
quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ: muốn nhận thức một đối tượng nào trước hết
con người cũng phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng
thái độc lập, không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định. Song phương
pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định bởi hiện thực không rời rạc
và ngưng đọng như phương pháp siêu hình quan niệm.
* Phương pháp biện chứng:
- Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ, ảnh hưởng, rang buộc nhau.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi.
- Khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về cả lượng và chất của các
sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là sự đấu tranh của các mặt đối lập để
giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng. Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư
duy mềm dẻo, linh hoạt, phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp
biện chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
Phương pháp biện chứng phản ánh “biện chứng khách quan” trong sự vận động, phát triển
của thế giới. Lý luận triết học của phương pháp đó được gọi là “phép biện chứng”. Phép
biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống
các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp
luận của nhận thức và thực tiễn.
b. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử
- Các hình thức lịch sử của phép biện chứng trong lịch sử: Phép biện chứng đã có lịch sử
phát triển trên 2.000 năm từ thời cổ đại phương Đông và phương Tây, với ba hình thức cơ
bản (cũng là thể hiện ba trình độ phát triển của phép biện chứng trong lịch sử triết học):
+ Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong
lịch sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung
Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học
Trung Quốc là “biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ
biến trong vũ trụ) và “ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi
của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ân Độ, biểu hiện
rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”,
“vô thường”, “nhân duyên”... Tiêu biểu cho phép biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại
là những quan điểm biện chứng của Heraclit.
+ Phép biện chứng duy tâm được khởi đầu từ những quan điểm biện chứng trong triết học
của I. Kantơ và đạt tới đỉnh cao trong triết học của Ph. Hêghen. Ph. Hêghen đã nghiên cứu
và phát triển các tư tưởng biện chứng thời cổ đại lên một trình độ mới - trình độ lý luận
sâu sắc và có tính hệ thông chặt chẽ, trong đó trung tâm là học thuyết về sự phát triển.
Tuy nhiên, phép biện chứng trong triết học của Ph. Hêghen là phép biện chứng được xây
dựng trên lập trường duy tâm (duy tâm khách quan) nên hệ thống lý luận này chưa phản
ánh đúng đắn bức tranh hiện thực của các mốì liên hệ phổ biến và sự phát triển trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Theo lý luận này, bản thân biện chứng của các quá trình trong
giới tự nhiên và xã hội chỉ là sự tha hoá của bản chất biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”.
+ Phép biện chứng duy vật do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình thức phát triển cao
nhất của phép biện chứng. Nó được xây dựng trên cơ sở kế thừa những giá trị hợp lý
trong lịch sử phép biện chứng, đặc biệt là kế thừa những giá trị hợp lý và khắc phục
những hạn chế trong phép biện chứng của Ph. Hêghen; đồng thời phát triển phép biện
chứng trên cơ sở thực tiễn mới, nhờ đó làm cho phép biện chứng đạt đến trình độ hoàn bị
trên lập trường duy vật mới.
II. TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Sự ra đời và phát triển của triết học Mác Lênin
* Chủ nghĩa Mác – Lênin: là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác,
Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX và được V.I.Lênin bảo vệ, phát
triển trong điều kiện lịch sử mới. Trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và
tổng kết thực tiễn thời đại, chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận khoa học phản ánh
những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy;
những quy luật kinh tế của sự vận động của chủ nghĩa tư bản và sự chuyển biến từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng của
chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và
thực tiễn cách mạng, là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng
nhân dân lao động và tiến tới giải phóng toàn nhân loại khỏi áp bức, bóc lột.
* Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác – Lênin Chủ nghĩa Mác - Lênin bao
gồm hệ thống tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực, trong đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất là:
- Triết học Mác - Lênin: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự
vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; có vai trò là thế giới quan và phương
pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật kinh tế của
quá trình ra đời, phát triển và suy tàn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; sự ra
đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học: là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ba bộ phận lý luận này có sự thống nhất chặt chẽ,
làm cơ sở, tiền đề cho nhau và đều có chung mục đích là giải phóng giai cấp vô sản, nhân
dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
a. Những điều kiện lịch sử của ra đời triết học Mác – Lênin
* Điều kiện kinh tế - xã hội
- Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách
mạng công nghiệp. Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp, làm cho phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc ở nhiều nước Châu Âu như Anh, Pháp,
Đức… mặt khác những mâu thuẫn xã hội cũng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt:
+ Về mặt kinh tế: mâu thuẫn giữa tính xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất
với tính chất tư nhân của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Về mặt xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản
- Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tư cách một lực lượng chính trị - xã hội độc lập.
+ Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời, lớn lên cùng với sự hình thành và phát triển
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến.
+ Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản vốn mang tính chất đối kháng ngày
càng phát triển, thể hiện bằng những cuộc đấu tranh giai cấp ở khắp nơi như Anh, Pháp,
Đức, Ý …Tuy nhiên những cuộc đấu tranh tự phát này đều thất bại do không có đường lối
khoa học, chưa có lực lượng dẫn dắt và chưa tập hợp được đông đảo lực lượng tham gia
- Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu nhất cho sự ra đời chủ nghĩa
Mác: Thực tiễn xã hội nói chung, nhất là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản, đòi hỏi
phải được soi sáng bởi lý luận mới, tiến bộ và cách mạng. Chủ nhĩa Mác - Lênin ra đời
trong thời điểm này là một tất yếu lịch sử, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đó.
* Những tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác - Lênin
- Tiền đề lý luận:
+ Triết học cổ điển Đức: C.Mác đã kế thừa và cải biến những hạt nhân hợp lý trong phép
biện chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc để hình
thành nên phép biện chứng duy vật.
+ Kinh tế chính trị học cổ điển Anh: C.Mác kế thừa những yếu tố khoa học trong lý luận
về giá trị lao động và những tư tưởng tiến bộ về quá trình sản xuất vật chất, về những quy
luật kinh tế khách quan của A. Smit và Đ. Ricacđô; đồng thời chỉ ra những hạn chế trong
học thuyết của các ông và giải quyết những bế tắc mà bản thân các nhà kinh tế chính trị
học cổ điển Anh đã không thể vượt qua. Trên cơ sở đó, C.Mác đã xây dựng nên lý luận về
giá trị thặng dư, luận chứng cho bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, nguồn gốc dẫn đến
sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa cộng sản.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp: với những đại biểu tiêu biểu như H. Xanhximông,
S. Phuriê, R. Ôoen. Tinh thần nhân đạo, sự phê phán những bất công của chủ nghĩa tư
bản, những quan niệm sâu sắc về đặc trưng của xã hội tương lai trong học thuyết của các
ông là một trong những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Tiền đề khoa học tự nhiên: Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác còn dựa trên
những thành tựu của khoa học tự nhiên. Vào thế kỷ XIX, khoa học tự nhiện thời kỳ này
phát triển mạnh mẽ, đặc biệt có ba công trình khoa học vĩ đại:
+ Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng chứng minh sự chuyển hoá và bảo toàn
của các hình thức vận động của vật chất, vật chất không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên
mất đi mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
+ Học thuyết tiến hoá chứng minh nguyên lý phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin, mọi
sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, đều có quá trình phát sinh, phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ hiện tượng đến bản chất.
+ Học thuyết tế bào chứng minh tính thống nhất của toàn bộ sự sống, thế giới vô cùng
phong phú, đa dạng nhưng đều thống nhất ở tính vật chất của nó. Những phát minh trên
đã chứng minh tính khoa học đúng đắn của thế giới quan duy vật biện chứng và phương
pháp luận biện chứng duy vật.
b. Những thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành và phát triển của Triết học Mác – Lênin
- Quá trình chuyển biến tư tưởng của C. Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
- Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử ( từ năm 1844 đến năm 1848)
- Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết học
c. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện
- Mác và Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thàn h tựu của tư duy nhân
loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triệt để.
- Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong
lịch sử phát triển của triết học, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên “hoàn bị và mở
rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người,
chủ nghĩa duy vậy lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Đó là
cuộc cách mạng thật sự trong triết học xã hội, yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng
mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học.
- Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, giai cấp tiến bộ và cách
mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và sự
phát triển xã hội. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo
nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác.
- Vai trò cách mạng to lớn của triết học Mác được nâng cao còn vì sự thống nhất tính
khoa học với tính cách mạng trong bản thân lý luận của nó. Sự thống nhất hữu cơ chủ
nghĩa duy vật với phép biện chứng làm cho triết học mácxít mang tính cách mạng sâu sắc
nhất. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học mác- xít chính là ở sự gắn bó mật thiết với
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản cách mạng, với quần chúng nhân dân đông đảo.
d. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển Triết học Mác
Trong khi lãnh đạo công cuộc xây dựng những cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội, Lênin
tiếp tục có những đóng góp mới quan trọng vào việc phát triển triết học Mác. Để bảo vệ
chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin không chỉ phê phán không khoan nhượng đối với mọi kẻ thù
của chủ nghĩa Mác, mà còn kịch liệt phê phán những người nhân danh lý luận của Mác
trên lời nói nhưng thực tế là chủ nghĩa xét lại, hoặc ít ra đã xa rời học thuyết của Mác.
Đồng thời, Lênin chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng và dựa vào những
thành quả mới nhất của khoa học để bổ sung, phát triển di sản lý luận mà Mác và
Ăngghen để lại. Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là cụ thể, có khi V.I.Lênin
đã phải thay đổi một cách căn bản đối với một quan niệm nào đó của mình về chủ nghĩa
xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều. Chính vì thế mà một
giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng đã
gắn liền với tên tuổi của V.I.Lênin và được gọi là triết học Mác - Lênin nói riêng, chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung.
2. Đối tượng và chức năng của triết học Mác
a. Khái niệm triết học Mác - Lênin
Triết học Mác -Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác - Lênin, được
C.Mác, Ph.Ăngghen sáng lập vào giữa thế kỷ thứ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển.
Triết học Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt
với những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra
đời của triết học Mác - Lênin là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng loài
người, trong lịch sử triết học. Triết học Mác – Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện
chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy - thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để nhận thức và cải tạo thế giới.
b. Đối tượng của triết học Mác – Lênin
Tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện
chứng và nghiên cứu những quy luật vận động phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội
và của tư duy. Với việc xác định đối tượng nghiên cứu như vậy, triết học Mác - Lênin có
đối tượng nghiên cứu khác với các khoa học cụ thể. Các khoa học cụ thể nghiên cứu
những quy luật trong các lĩnh vực riêng biệt của tự nhiên, xã hội hoặc tư duy, còn triết
học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất, phổ biến nhất, tác động đến cả
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Tuy có đối tượng nghiên cứu khác nhau nhưng giữa triết học Mác
- Lênin và các khoa học cụ thể có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho nhau. Các
khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới, làm tiền đề,
cơ sở cho sự phát triển triết học. Các khoa học cụ thể tuy có đối tượng và chức năng riêng
của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan và một phương pháp luận triết học nhất định.
c. Chức năng của triết học Mác – Lênin
-
Chức năng thế giới quan: Triết học Mác - Lênin mang lại thế giới quan duy vật biện
chứng, là hạt nhân thế giới quan khoa học và cách mạng. Hệ thống quan điểm khoa học,
duy vật biện chứng về thế giới là nhân tố định hướng con người nhận thức đúng đắn thế
giới hiện thực, nắm được bản chất của tự nhiên, xã hội và tư duy, giúp con người hình
thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Như vậy, thế giới quan cũng đóng
vai trò phương pháp luận. Thế giới quan duy vật biện chứng có vai trò là cơ sở khoa học
để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất
khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân trong hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc
đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản động, phòng, chống chiến lược “Diễn
biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay.
- Chức năng phương pháp luận: Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng phương pháp
luận chung nhất cho nhận thức và thực tiễn, trang bị cho con người hệ thống những
nguyên tắc, quy tắc, yêu cầu cũng như hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật để làm
công cụ nhận thức, giúp con người phát triển tư duy khoa học. Tuy nhiên, triết học Mác -
Lênin không phải là “chìa khóa vạn năng” có thể giải quyết được mọi vấn đề. Để đem lại
hiệu quả trong nhận thức và hành động, cùng với tri thức triết học, con người cần phải có
tri thức khoa học, công nghệ cụ thể và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn.
3. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống và trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
- Triết học Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho
con người trong nhận thức và thực tiễn
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách
mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội 24
trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát tiển mạnh mẽ
- Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam B. PHẦN BÀI TẬP
1. Các trường phái triết học trong lịch sử được phân chia dựa trên cơ sở chủ yếu nào?
Phân tích nội dung cơ bản của các trường phái đó?
2. Triết học Mác – Lênin có vai trò gì trong đời sống xã hội hiện nay? Liên hệ với sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam? Liên hệ với bản thân?
3. Phân tích sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với phong trào cách mạng thế
giới, đặc biệt đối với Việt Nam?
4. Khoa học tự nhiên ảnh hưởng như thế nào đối với các hình thức phát triển của chủ
nghĩa duy vật trong lịch sử?
5. Phân tích vai trò của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đối với sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin?
CHƯƠNG II: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG A. PHẦN LÝ THUYẾT
I. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất là phạm trù nền tảng của thế giới quan duy vật, bởi thế giới quan duy vật là thế
giới quan được xác lập trên cơ sở thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất.
a. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về vật chất
- Quan điểm của các nhà triết học duy vật thời kỳ cổ đại: Khuynh hướng chung của các
nhà triết học duy vật cổ đại là đi tìm bản nguyên vật chất đầu tiên và coi đó là nguyên tố
đầu tiên tạo ra mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, chẳng hạn ở Phương Tây, Talét quan
niệm vật chất là nước; Anaximen quan niệm vật chất là không khí; Hêraclít quan niệm vật
chất là lửa... Thành quả vĩ đại nhất của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong học thuyết vật chất
là thuyết nguyên tử của các nhà duy vật là Lơxip và Đêmôcrít. Các ông cho rằng, nguyên
tử là những hạt vật chất nhỏ nhất không thể phân chia được. Một số nhà triết học duy tâm
cho rằng, vật chất và các dạng của vật chất đều do ý thức sinh ra, do ý thức quyết định. Ở
Phương Đông, có quan niệm vật chất là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ… Nhìn chung, những
quan niệm về vật chất thời kỳ này còn sơ khai, trực quan, cảm tính, chưa đầy đủ, triệt để
do trình độ con người còn hạn chế, khoa học kĩ thuật chưa phát triển.
- Thế kỷ XVII - XVIII, khoa học tự nhiên phát triển và đạt được nhiều thành tựu mới
trong việc nghiên cứu thế giới khách quan (cơ học, toán học, vật lý học, sinh vật học...).
Tuy vậy, những quan niệm siêu hình vẫn chi phối những hiểu biết triết học về thế giới:
Nguyên tử vẫn tiếp tục được coi là phần tử vật chất nhỏ nhất, không thể phân chia; vận
động của vật chất chỉ được coi là vận động cơ học, nguồn gốc của vận động nằm
ngoài sự vật, hiện tượng.
b. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sự phá
sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vật lý học hiện đại phát triển, nhất là vật lý học vi mô đã
có những phát hiện mới về cấu trúc của vật chất... làm biến đổi sâu sắc quan niệm về
nguyên tử: 1895: Rơnghen tìm ra tia X - Một loại sóng điện từ có bước sóng cực ngắn;
1896: Beccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ. Như vậy, quan niệm về sự bất biến của
nguyên tử trước đây là không chính xác; 1897: Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng
minh rằng điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử... Những phát
hiện nói trên của vật lý học đã bác bỏ quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy vật trước
Mác về vật chất, Ttừ đó dẫn đến cuộc khủng hoảng về thế giới quan của các nhà vật lý
học... Trước tình thế này, chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng để tuyên truyền quan điểm duy
tâm: tuyên bố vật chất “tiêu tan”, “biến mất”. Trong bối cảnh đó, V. I. Lênin đã đưa ra
một định nghĩa mới về vật chất. Tóm lại: Quan niệm của các nhà duy vật trước Mác về
vật chất tuy có những ưu điểm nhất định trong việc giải thích cơ sở vật chất của sự tồn tại
của giới tự nhiên nhưng về căn bản vẫn còn nhiều hạn chế như: không hiểu chính xác bản
chất của các hiện tượng ý thức cũng như mối quan hệ giữa ý thức với vật chất; không
đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề xã hội... Những hạn chế đó tất yếu
dẫn đến quan điểm duy vật không triệt để (khi giải quyết những vấn đề về giới tự nhiên,
họ đứng trên lập trường duy vật, nhưng khi giải quyết những vấn đề xã hội họ đã trượt sang quan điểm duy tâm)
c. Quan niệm của Triết học Mác – Lênin về vật * Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán
, V.I.Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác” .
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất: phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan niệm của
khoa học tự nhiên về cấu tạo và thuộc tính của các dạng vật chất cụ thể. Vật chất với tư
cách là phạm trù triết học chỉ vật chất nói chung, vô cùng, vô tận, không sinh ra, không
mất đi; còn các dạng vật chất cụ thể do các khoa học cụ thể nghiên cứu có giới hạn, có
sinh ra, có mất đi. Vì vậy, không thể quy vật chất về các sự vật cụ thể.
- Thứ hai: thuộc tính chung của vật chất là “thực tại khách quan”, vật chất là cái tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức. Ý thức chỉ là sự phản ánh của
vật chất, do đó, ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao đó là não người.
- Thứ ba: vật chất tồn tại thông qua các dạng cụ thể của vật chất, gây nên cảm giác ở con
người khi trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lên các giác quan của con người; con người có
thể nhận biết một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
- Thứ nhất: bằng việc tìm ra thuộc tính chung nhất, phổ biến nhất của vật chất là thuộc
tính tồn tại khách quan, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục được quan niệm duy
tâm và quan niệm của chủ nghĩa duy vật cũ về vật chất.
- Thứ hai: thông qua định nghĩa vật chất, Lênin đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
trên lập trường duy vật và khả tri: vật chất có trước, ý thức có sau và con người có thể
nhận thức được thế giới khách quan.
- Thứ ba: định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã định hướng cho các nhà khoa học tự nhiên
trong việc tìm kiếm, khám phá ra những dạng và những cấu trúc vật chất mới...
- Thứ tư: định nghĩa vật chất của V.I.Lênin là cơ sở để định hướng cho quan điểm duy vật
khi nhận thức các vấn đề xã hội.
d. Các hình thức tồn tại của vật chất
* Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Ph.Ăngghen định nghĩa: Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho
đến tư duy. Như vậy, vận động theo quan điểm duy vật biện chứng không bị quy về hình
thức giản đơn là sự di chuyển vị trí của vật thể trong không gian, mà chỉ mọi sự biến đổi
nói chung. Với cách hiểu như thế, vận động là phương thức tồn tại của vật chất, nhờ vận
động và thông qua vận động mà vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật
chất là tự thân vận động; là tuyệt đối, vĩnh viễn.
- Những hình thức vận động cơ bản của vật chất: + Vận động cơ giới. + Vận động vật lý. + Vận động hoá. + Vận động sinh vật. + Vận động xã hội.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, các hình thức vận động của vật chất không tách rời
nhau mà có mối quan hệ mật thiết với nhau: thứ nhất, các hình thức vận động được sắp
xếp theo thứ tự từ thấp đến cao; thứ hai, hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở hình
thức vận động thấp hơn, bao hàm hình thức vận động thấp nhưng không có chiều ngược
lại; thứ ba, các hình thức vận động có thể chuyển hoá cho nhau.
* Vận động và đứng im:
+ Đứng im là trạng thái vận động đặc biệt, là sự vận động trong trạng thái cân bằng chưa
làm thay đổi về chất, hình dáng, kết cấu của sự vật.
+ Đứng im là tương đối, tạm thời vì đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định,
đứng im chỉ xảy ra khi xét ở một hình thức vận động xác định.
* Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất
- Không gian: kích thước chiếm chỗ của vật (dài, rộng, cao).
- Thời gian: độ dài tồn tại, mức độ diễn biến (lâu, mau, nhanh, chậm).
Vật chất và không gian, thời gian tồn tại không tách rời nhau, không có vật chất tồn tại
ngoài không gian, thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật chất.
Vì là những hình thức tồn tại của vật chất, nên không gian và thời gian có tính khách
quan, tính vĩnh cửu, vô tận; không gian có 3 chiều, thời gian có 1 chiều.
e. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, thế giới thống nhất ở tính tinh thần, ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thế giới thống nhất ở tính vật chất, thể hiện:
+ Chỉ có duy nhất thế giới vật chất tồn tại, vô hạn, vĩnh viễn
+ Thế giới sự vật, hiện tượng vô cùng phong phú, đa dạng nhưng luôn có mối quan hệ, tác
động biện chứng với nhau và thống nhất ở tính vật chất của nó.
+ Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến đổi, phát triển không ngừng
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: ý thức là sản phẩm và là thuộc tính
của một dạng vật chất có tổ chức cao là não người; là sự phản ánh chủ động, tích cực,
sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn.
a. Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức ra đời cùng với sự ra đời của
con người và xã hội loài người, gồm hai nguồn gốc sau:
Nguồn gốc tự nhiên (điều kiện cần- nguồn gốc gián tiếp): Bộ óc người và sự phản ánh thế
giới khách quan vào bộ óc người
- Bộ óc người: ý thức là thuộc tính, chức năng của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ
óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất sản sinh ra ý thức. Do đó, khi bộ óc con người
càng hoàn thiện thì năng lực tư duy, ý thức càng phong phú và sâu sắc. Ngược lại, khi bộ
óc con người bị tổn thương thì năng lực tư duy, ý thức, cũng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.
- Sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc người:
+ Phản ánh là thuộc tính của mọi dạng vật chất.
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. C u
ấ tạo vật chất khác nhau sẽ có khả
năng phản ánh khác nhau. Do đó, có thể phân chia các hình thức phản ánh của vật chất từ thấp đến cao như sau:
+ Ở giới tự nhiên vô sinh: Phản ánh vật lý, hóa học (sự phản ánh thụ động, chưa có tính chọn lọc).
+ Ở giới tự nhiên hữu sinh: Phản ánh sinh học (tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ, tâm lý).
+ Ý thức: là hình thức phản ánh cao nhất của giới tự nhiên hữu sinh.
=> Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con người. Ý thức gắn liền
với con người và không thể tách rời đời sống xã hội của loài người.
* Nguồn gốc xã hội (điều kiện đủ- nguồn gốc trực tiếp): Lao động và ngôn ngữ
- Lao động và vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức
+ Lao động (lao động sản xuất vật chất) là quá trình con người sử dụng công cụ lao động
tác động vào tự nhiên để cải biến tự nhiên tạo ra sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình.
+ Vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức:
Thứ nhất: lao động đã giải phóng con người khỏi thế giới động vật, giúp con người có khả
năng sáng tạo ra công cụ lao động và sử dụng những công cụ ấy phục vụ mục đích sống của mình.
Thứ hai: lao động đã giúp con người tìm ra lửa và nấu chín thức ăn, giúp cho bộ não con
người ngày càng phát triển và hoàn thiện về mặt sinh học.
Thứ ba: nhờ lao động, con người tác động vào thế giới khách quan, làm cho thế giới
khách quan bộc lộ những thuộc tính, đặc điểm, qua đó con người có thể nhận thức được,
từ đó năng lực tư duy trừu tượng của con người ngày càng phát triển.
Thứ tư: lao động dẫn tới sự hình thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ, một mặt là kết quả của lao
động, mặt khác lại là nhân tố tích cực tác động đến quá trình lao động và phát triển ý thức của con người.
- Ngôn ngữ và vai trò của ngôn ngữ đối với sự hình thành ý thức
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức.
+ Vai trò của ngôn ngữ: Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là công cụ để thể
hiện, truyền đạt tư tưởng, kinh nghiệm của con người. Ngôn ngữ giúp con người phản ánh
khái quát những thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Như vậy, cùng với lao động là ngôn ngữ, là hai yếu tố chủ yếu và trực tiếp nhất làm cho ý
thức hình thành và phát triển.
b. Bản chất của ý thức
Có thể phân tích bản chất của ý thức dựa trên ba đặc trưng sau đây:
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức phản ánh thế giới khách
quan nhưng nó đã bị cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người, chịu sự tác
động của các yếu tố như: nhu cầu, tâm tư, tình cảm, kinh nghiệm, tri thức...
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan: ý thức phản ánh thế giới
khách quan không rập khuôn, máy móc mà trên cơ sở tiếp nhận, xử lý thông tin có chọn
lọc, định hướng; đồng thời ý thức không chỉ là sự phản ánh thông tin bề ngoài của thế giới
sự vật hiện tượng mà còn khái quát bản chất, quy luật của thế giới.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội: sự ra đời, phát triển của ý thức
gắn liền với hoạt động lao động của con người, chịu sự chi phối không chỉ của các quy
luật tự nhiên mà còn bởi các quy luật xã hội.
c. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau.
Xét theo chiều ngang, ý thức gồm ba yếu tố cơ bản sau:
- Tri thức: Là toàn bộ những hiểu biết của con người về tự nhiên và xã hội, là kết quả của
quá trình con người nhận thức, phản ánh thế giới hiện thực. Do đó, tri thức, hiểu biết của
con người về thế giới sự vật hiện tượng càng nhiều bao nhiêu thì ý thức càng sâu sắc bấy nhiêu.
- Tình cảm: Là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong mối quan hệ của
mình với sự vật hiện tượng và đối với bản thân mình .
- Ý chí: Là khả năng huy động sức mạnh của bản thân để vượt qua những cản trở trong
quá trình thực hiện mục đích của con người. Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có quan hệ
biện chứng với nhau, trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Tri thức là phương thức
tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng sự phát triển và mức độ biểu hiện của
các yếu tố khác. Ý thức nếu thiếu tri thức thì chỉ là niềm tin mù quáng. Ngược lại, nếu tri
thức không biến thành tình cảm, niềm tin và ý chí thì bản thân nó cũng không có vai trò gì
đối với đời sống hiện thực.
Nếu xét theo chiều dọc, ý thức gồm 3 yếu tố cơ bản sau:
- Tự ý thức: Là quá trình con người tự nhận thức bản thân mình như một thực thể độc lập
có cảm giác, tư duy, hành vi đạo đức và vị trí trong xã hội khi phản ánh thế giới khách quan.
- Tiềm thức: Là những hoạt động tâm lý diễn ra không nằm trong sự kiểm soát của chủ
thể. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã
gần như trở thành bản năng, kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.
- Vô thức: Là hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi của
lý trí mà ý thức không kiểm soát được. Mỗi hiện tượng vô thức có vùng hoạt động, vai trò
riêng, song tất cả đều có một chức năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động
thần kinh vượt ngưỡng.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
a. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
- Chủ nghĩa duy tâm đã trừu tượng hóa ý thức, tinh thần vốn có của con người thành một
lực lượng thần bí, tách khỏi con người hiện thực. Họ coi ý thức, tinh thần là tồn tại duy
nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao,
biểu hiện khác của ý thức, tinh thần, là tính thứ hai do ý thức, tinh thần sinh ra. Trên thực
tế, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của tôn giáo. Mọi con đường mà chủ nghĩa duy tâm
mở ra đều dẫn con người đến với thần học, với “đường sáng thế”. Trong thực tế, những
người theo chủ nghĩa duy tâm phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ
quan, dẫn đến duy ý chí, có những hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình lại tuyệt đối hóa yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một chiều
vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của
ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt
động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Do vậy, những người theo chủ nghĩa duy vật
siêu hình đã phạm nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ “khách quan chủ nghĩa”,
thụ động, trông chờ không đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn .
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Vai trò của vật chất đối với ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định
ý thức. Khoa học hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; thế
giới vật chất là cái có trước, còn con người và ý thức của con người là cái có sau, là sản
phẩm của một quá trình tiến hóa lâu dài trong thế giới. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt
động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động
của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc
người. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được phân tích ở những điểm cơ bản sau:
+ Vật chất giữ vai trò là nguồn gốc, cơ sở và điều kiện quyết định quá trình hình thành của ý thức.
+ Vật chất quyết định nội dung của ý thức (mọi nội dung của ý thức, suy đến cùng đều chỉ
là sự phản ánh đối với thực tế khách quan).
+ Vật chất quyết định hình thức biểu hiện cũng như sự biến đổi và phát triển của ý thức.
Vì hình thức biểu hiện và sự biến đổi của ý thức phụ thuộc vào quy luật sinh học, quy luật
xã hội, môi trường sống... thuộc lĩnh vực vật chất.
+ Vật chất là điều kiện để hiện thực hóa ý thức, tư tưởng
- Tác động trở lại của ý thức đối với vật chất: Ý thức không hoàn toàn thụ động mà có
tính độc lập tương đối tác động trở lại đối với thế giới vật chất. Bởi vì, bản chất của ý
thức mang tính năng động, sáng tạo, ý thức là ý thức của con người, chỉ có con người mới
có ý thức nên nói tới vai trò của ý thức đối với vật chất chính là nói đến vai trò của co n người.
+ Ý thức chỉ đạo, hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn (ý thức trang bị cho con
người tri thức về thực tại khách quan), giúp con người xác định được: mục tiêu, phương
hướng, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ... để đạt được mục tiêu của mình. Như
vậy, ý thức đã thể hiện sự tác động đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tác động tích cực: Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
mạng, có nghị lực... thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan,
vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, cải tạo được thế giới...
Tác động tiêu cực: Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật
khách quan thì định hướng hành động của con người đi ngược lại các quy luật khách
quan, hành động đó sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động thực tiễn...
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất còn phụ thuộc vào trình độ phản ánh của
ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của
con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động
theo định hướng của ý thức.
Như vậy, khẳng định tính năng động, sáng tạo của ý thức, tinh thần, về thực chất là để
khẳng định vai trò to lớn của con người - chủ thể có ý thức. Bằng việc định hướng cho
hoạt động của con người, ý thức là một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Lưu ý, nhấn mạnh vai trò của ý thức trong sự tác động trở lại vật chất không có nghĩa là
thừa nhận ý thức quyết định vật chất.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng rút ra ý nghĩa phương pháp luận: trong mọi hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan,
đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
+ Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan:
Điều đó đòi hỏi con người trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ thực tế khách
quan để nhận thức, xác định mục đích, kế hoạch, các biện pháp cụ thể...; không được lấy
ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy tình cảm làm điểm xuất phát
cho chiến lược, sách lược...
+ Phát huy tính năng động chủ quan:
Điều này đòi hỏi con người phải không ngừng học tập, nắm vững tri thức khoa học để có
thể nắm bắt bản chất, quy luật của thế giới khách quan; không ngừng tu dưỡng đạo đức,
trau dồi tình cảm; rèn luyện ý chí để có thể vượt qua mọi khó khăn, thử thách; tránh sự ỷ
lại, thụ động, bảo thủ...
Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của triết học Mác – Lênin trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở khoa học để vận dụng vào giải quyết mối quan hệ
giữa khách quan và chủ quan, nhưng không đồng nhất vật chất và ý thức với khách quan và chủ quan.
- Vai trò của yếu tố khách quan đối với nhân tố chủ quan:
+ Trong mối quan hệ giữa yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan thì suy đến cùng, yếu tố
khách quan bao giờ cũng là cơ sở, tiền đề và giữ vai trò quyết định nhân tố chủ quan. Bởi
vì, các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan, không những luôn tồn tại độc lập
không lệ thuộc vào chủ thể, luôn buộc chủ thể phải tính đến trước tiên trong mọi hoạt
động, mà còn là cội nguồn làm nảy sinh mọi tri thức, tình cảm, ý chí và nguyện vọng của chủ thể.
+ Yếu tố khách quan quy định nội dung và sự vận động biến đổi của nhân tố chủ quan.
Giữa các chủ thể có sự khác nhau là ở tính năng động chủ quan trong nhận thức và hành
động. Nhưng giới hạn của tính năng động ấy cũng do khách quan quy định. Chủ thể
không thể tùy tiện đặt ra cho mình những nhiệm vụ, không thể tự mình sáng tạo ra những
mục tiêu, phương pháp khi mà quy luật khách quan không cho phép, khi mà điều kiện chưa chín muồi.
- Vai trò của nhân tố chủ quan đối với yếu tố khách quan:
+ Đề cập đến vai trò của nhân tố chủ quan là nói đến vai trò của con người trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn để cải biến và thống trị thế giới.
+ Con người có thể biến các quy luật, các điều kiện và các khả năng khách quan vốn tồn
tại và vận động dưới dạng các “xu hướng có thể” thành hiện thực theo hướng thỏa mãn tốt
nhất nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Bằng cách đó, con người có thể thúc đẩy nhanh hơn tiến
trình biến khả năng thành hiện thực.
+ Con người có thể điều chỉnh hình thức tác động của quy luật khách quan và kết hợp một
cách khéo léo sự tác động tổng hợp của nhiều quy luật theo hướng phục vụ tốt nhất cho mục đích của mình.
II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật
a. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan
- Biện chứng: chỉ sự liên hệ, tác động qua lại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan từ tự nhiên, xã hội đến tư duy. Biện chứng bao gồm biện
chứng khách quan và biện chứng chủ quan.
- Phép biện chứng: là phương pháp nhận thức sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ và sự phát triển.
- Phép siêu hình: là phương pháp nhận thức sự vật hiện tượng trong trạng thái biệt lập,
tĩnh tại với một tư duy cứng nhắc, "chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn
thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại..mà không nhìn
thấy sự phát sinh và tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh.. mà quên
mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ thấy cây mà không thấy rừng"
+ Biện chứng khách quan: là biện chứng của thế giới vật chất.
+ Biện chứng chủ quan: sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong ý thức của con người.
b. Khái n
iệm phép biện chứng duy vật
Có thể định nghĩa khái quát phép biện chứng duy vật: “là môn khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
- Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, phép biện chứng duy vật được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy vật.
+ Thứ hai, phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng, do đó nó không chỉ dừng lại ở giải thích thế giới mà còn là
công cụ để nhận thức và cải tạo thế giới.
- Phép biện chứng duy vật đóng vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong triết học
Mác - Lênin, là phương pháp luận cho hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.
2. Nội dung của phép biện chứng duy vật
a. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật
* Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
- Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự
vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ những mối liên hệ tồn tại (được
thể hiện) ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới. Như vậy, khái niệm mối liên hệ phổ biến
được dùng với hai nghĩa cơ bản đó là dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ; dung
để chỉ sự khái quát những mối liên hệ có tính chất phổ biến nhất như mối liên hệ giữa
nguyên nhân và kết quả, bản chất và hiện tượng...
- Có thể tóm tắt nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến như sau: Không có sự vật,
hiện tượng nào tồn tại cô lập, tách rời khỏi những sự vật, hiện tượng khác mà chúng luôn
nằm trong mối liên hệ đa dạng trong quá trình tồn tại và chuyển hóa của mình. Tính chất của các mối liên hệ
- Tính khách quan của các mối liên hệ: Mối liên hệ (sự quy định, tác động và chuyển hóa
lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của các sự
vật, hiện tượng, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay do đấng
siêu nhiên tạo ra. Chỉ có liên hệ với nhau, sự vật, hiện tượng mới tồn tại, vận động, phát
triển. Ví dụ như mối liên hệ trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường (đồng hóa và dị
hóa); mối liên hệ giữa cung và cầu hàng hóa trên thị trường...
- Tính phổ biến của các mối liên hệ:
+ Không chỉ có các sự vật, hiện tượng liên hệ với nhau, mà các yếu tố, bộ phận cấu thành
chúng cũng liên hệ với nhau. Không phải chỉ có các thời kỳ trong một giai đoạn, các giai
đoạn trong một quá trình liên hệ với nhau, mà giữa các quá trình cũng liên hệ với nhau
trong sự vận động và phát triển của thế giới.
+ Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội lẫn tư duy, các sự vật, hiện tượng cũng
liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, điều đó cho thấy, sự vật, hiện tượng nào cũng có mối
liên hệ, không gian, thời gian nào cũng có mối liên hệ.
- Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ: Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình khác
nhau thì mối liên hệ cũng khác nhau; một sự vật, hiện tượng có nhiều mối liên hệ khác
nhau (bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và
thứ yếu...), chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật, hiện
tượng đó; một mối liên hệ trong điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì tính chất, vai trò cũng
khác nhau... Do đó, “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”.
Ví dụ 1: để đánh giá công trình xây dựng có đảm bảo chất lượng hay không phải được
xem xét trên nhiều phương diện, tiêu chí như độ cao, thiết kế, hệ thống phòng cháy chữa
cháy, hệ thống xử lý rác thải, hệ thống nước…
Ví dụ 2: để đánh giá tìm hiểu bản chất con người thông qua các mối quan hệ của họ với
gia đình, anh chị em, cha mẹ, bạn bè, đồng nghiệp, con cái, nghề nghiệp, với xã hội…
- Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần có nguyên tắc toàn diện:
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét nó trong tất cả các mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các bộ phận... hợp thành của chính sự vật, hiện tượng
đó và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng
khác để từ đó có cái nhìn chỉnh thể về sự vật, hiện tượng.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta cần phải biết phân biệt vai trò của các mối liên
hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, bản chất, tất yếu, từ đó tách ra và tập trung
xem xét các mối liên hệ cơ bản có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta phải tính đến mọi khả năng vận động, phát
triển của nó để tránh tuyệt đối hóa một khả năng nào đó, từ đó có cái nhìn tổng thể về sự
phát triển của sự vật, hiện tượng và có thể lựa chọn khả năng tốt nhất.
+ Khi xem xét sự vật, hiện tượng, chúng ta cũng cần xem xét sự vật trong mối quan hệ
với nhu cầu thực tiễn, từ đó vận dụng có hiệu quả những hiểu biết về sự vật vào giải quyết
các vấn đề do nhu cầu thực tiễn đặt ra để đem lại hiệu quả nhất.
* Nguyên lý về sự phát triển
Theo quan điểm duy vật biện chứng: phát triển là quá trình vận động của sự vật theo