Tài liệu tham khảo - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - một trong hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Câu 1: Phân tích cơ sở lý luận quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin
Và sự vận dụng quan điểm toàn diện vào thực tiễn đời sống sinh viên.
(Cần lưu ý đảm bảo các nội dung sau đây:
Gợi ý: Quan điểm toàn diện được rút ra từ nội dung nào? Là phân tích nội dung nào rút ra ý nghĩa đó.
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là: …(nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - 0,5 điểm)
… Nội dung Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự vận dụng
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - một trong hai
nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng. Đây là một phạm trù của phép biện chứng
duy vật dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật
hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Chỉ trên cơ
sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri
thức của khoa học triết học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri
thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học được khái quát từ
tri thức của các khoa học khác và hoạt động của con người, nhất là tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội.
Phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến (1 điểm)
- Khái niệm về mối liên hệ: (thụt vào 1 ô)
Quan điểm siêu hình về mối liên hệ phổ biến là gì: (những nhà triết học siêu hình cho rằng
thế giới chúng ta bao la rộng lớn phong phú đa dạng tuy nhiên những svht trong tgioi tồn tại
độc lập, biệt lập, giữa chúng ko có mqh lẫn nhau, không có sự tác động qua lại lẫn nhau,...) -
Họ “chỉ nhìn thấy C Y chứ không nhìn thấy RỪNG”
Quan điểm biện chứng (Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin): các nhà biện chứng cho rằng
“mối liên hệ là sự quy định, tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật hiện
tượng trong thế giới” (không biệt lập mà có mqh lẫn nhau)
Ví dụ: Mối liên hệ giữa thầy và trò trong lớp học, mối liên hệ giữa động vật và thực vật, mối
liên hệ giữa dân tộc này và dân tộc khác
Cơ sở của mối liên hệ là tính thống nhất vật chất của thế giới (thống nhất với nhau ở tính vật
chất). Các sự vật, hiện tượng dù đa dạng và khác nhau đến mấy thì chúng chỉ là những dạng
tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là vật chất mà thôi. Ví dụ như ngay bản thân ý
thức vốn không phải là vật chất nhưng cũng chỉ là sự phát triển đến đỉnh cao của một thuộc
tính, của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người.
- Nội dung cơ bản của quan điểm toàn diện:
Quan điểm toàn diện: đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các
bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự
vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở
đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn đánh giá đúng và đầy đủ về một
con người, chúng ta cần nhìn nhận một cách toàn diện về bản thân người đó, những mối quan
hệ của người đó, cách người đó đối nhân xử thế với mọi người xung quanh, đánh giá nhiều
mặt, nhiều khía cạnh mới có thể đưa ra được cái nhìn nhận toàn vẹn và nhiều chiều nhất.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối liên hệ, phải biết
chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất
nhiên... để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành
động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện
xác định. Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù
hợp với từng con người. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở những không gian
khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù
hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, Trong 20 năm đổi mới Đảng ta không
những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên
hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện
pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện
mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta
phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử
thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.
Quan điểm lịch sử cụ thể: Đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật
phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra tồn
tại và phát triển. Một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này nhưng sẽ
không phải là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Chẳng hạn, thường thường trong các
định luật của hóa học bao giờ cũng có hai điều kiện: nhiệt độ và áp suất xác định. Nếu vượt
khỏi những điều kiện đó định luật sẽ không còn đúng nữa. Hay trong lịch sử triết học khi xem
xét các hệ thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó.
- Tính chất của mối liên hệ:
Tính khách quan: tự thân, vốn có của svht, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con
người. Muốn hay không thì cây vẫn hô hấp, trời vẫn mưa → Có tính khách quan, không phụ
thuộc ý chí của con người. Những sự tác động sẽ tạo ra thay đổi, ví dụ xung đột Nga và Châu
u làm giá xăng tăng → Phí sinh hoạt tăng và một loạt những giá cả khác tăng lên.
(Phải lý giải khách quan và ví dụ)
Tính phổ biến: ở đâu cũng có mối liên hệ, ở nhiều lĩnh vực, nhiều sự vật hiện tượng.
Để dễ …, chia là 3 lĩnh vực: Tự nhiên: ánh sáng,..
Xã hội: người với người…, cho vd
Tư duy con người: Thế hệ này với thế hệ khác … trên cơ sở kế thừa kiến thức của ông cha ta
- là mắt xích, tiếp nối về truyền thống văn hóa và tri thức mà thế giới này tiếp thu thệ khác để
kế thừa phát huy “Sợi chỉ đỏ xuyên suốt… “
Tính đa dạng, tính phong phú của các mlh: chia mối liên hệ thành các cặp: mlh bên trong và
bên ngoài, mlh cơ bản và ko cơ bản, mlh chủ yếu và thứ yếu, mlh trực tiếp và gián tiếp Ý nghĩa:
Trong nhận thức và thực tiễn, phải tôn trọng quy tắc toàn diện toàn diện và tại sao phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện> Vì nếu ko … không xem xét các yếu
tố và mlh thì sẽ nhận thức không đúng đắn và đầy đủ bản chất của svht dẫn đến nhận thức sai
lệch Ví dụ để biết 1 ng tốt hay xấu thì xem xét mlh bạn đó vs người xung quanh, mới đánh
giá bạn đó tốt hay tốt, còn nếu chỉ đánh giá qua 1 mối liên hệ sẽ dẫn đến sai lệch, khi tôn
trọng Nguyên tắc toàn diện thì sẽ chống lại Quan điểm phiến diện, cái nhìn 1 chiều.
Tôn trọng nguyên tắc lịch sử cụ thể, trong những không gian thời điểm hoàn cành đối tượng
khác nhau thì svht biểu hiện không giống nhau. Vì vậy, khi xem xét sự vật, hiện tượng phải
đặt sự vật hiện tượng vào đúng không gian, thời gian mà sự vật, hiện tượng tồn tại. Vd luật an
toàn giao thông, khi đi xe máy thì chỉ đc chở tối đa 1 người. Tuy nhiên, tùy thuộc vào thời
điểm hoàn cảnh cụ thể thì có nhận thức khác, vd khi cần chở người đi cấp cứu, uy hiếp đến
tính mạng thì được phép chở 3 để cứu người (lịch sử cụ thể, tùy vào đối tượng, thời điểm cụ
thể), hoặc chữa cháy phải vượt đèn đỏ
Nhận thức xã hội: Sinh viên cần nhận thức như nào, ko nên vội vã nghe 1 vấn đề gì đó mà
phải suy xét thật kĩ (viết 5 10 dòng không cần viết nhiều, đặc biệt phải có ví dụ)
Câu 2: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Để không bị phủ định đào
thải trong thời kỳ hội nhập qte, ac cần trang bị những phẩm chất đạo đức nào?
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của triết học Mác – Lênin.
Quy luật này nói lên chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng.
Khái niệm phủ định là gì? + đưa ví dụ (vd sự xã hội phong kiến phủ định xh chiếm hữu nô lệ,
xã hội tư bản phủ định xh phong kiến)
1.1. Nội dung quy luật phủ định của phủ định:
Quy luật phủ định của phủ định là quy luật nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ
định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch
trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn
giữ nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất
phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo
đường thẳng mà theo đường xoáy ốc.
1.2. Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định:
1. Định nghĩa về phủ định biện chứng:
– Trước khi tìm hiểu phủ định biện chứng là gì, ta cần hiểu thế nào là phủ định.
Phủ định là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng khác trong quá trình
vận động và phát triển.
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển
và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới.
Sự thay thế đó là phủ định. Phủ định là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự
vật. Không có phủ định, sự vật không phát triển được. Ví dụ:
+ Trong quá trình phát triển của các phương tiện giao thông, xe máy là sự phủ định đối với xe
đạp. Xê ô tô là sự phủ định đối với xe máy.
+ Trong sự phát triển của gia đình, con giỏi hơn cha tức là con đã phủ định cha. Ông cha ta
thường hay nói “con hơn cha là nhà có phúc” là ý như vậy.
có mấy loại ( 2 loại) : Phủ định siêu hình (sạch trơn) và Phủ định biện chứng
– Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con
đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất; sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn
được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động, phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật
mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó có nghĩa là sự phủ định là tiền đề,
điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng. Ví dụ:
+ Trong ngành sản xuất điện thoại thông minh, iPhone 11 là sự phủ định đối với iPhone X.
+ Khi gieo trồng, cây lúa là sự phủ định biện chứng đối với hạt thóc.
+ Trong chăn nuôi, con gà đập trứng ra đời là sự phủ định biện chứng đối với quả trứng.
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng:
Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
Đặc trưng, tính chất của phủ định:
Tính khách quan (không phụ thuộc ý chí con ng, mà tự thân, do năng lượng bên trong kết hợp
vs điều kiện bên ngoài) + đưa ví dụ (Người ta giúp đỡ bên ngoài mà ko có năng lực tiếp thu
thì không được, phải phát triển nội lực bên trong)
Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong
bản thân sự vật. Nguyên nhân đó chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật.
Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển. Vì thế, phủ định biện chứng
là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi
sự vật có phương thức phủ định riêng tùy thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng.
Phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí chủ quan của con người. Con người
chỉ có thể tác động mà cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm
vững quy luật phát triển của sự vật. Tính kế thừa
(vai trò của kế thừa)Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật nên
nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ. lưu giữ lại những đặc điểm của cái
cũ để làm tiền đề cho sự phát triển. (vd hạt giống mới ra đời thì phải kế thừa gen của hạt
giống cũ, con cái kế thừa gen ba mẹ)
Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thể từ hư vô. Cái mới ra đời là sự
phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ
và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt
mới phù hợp với hiện thực. Vd sự tiến hóa của loài người
kế thừa là nguồn gốc cơ sở của sự phát triển, kế thừa rút ngắn thời gian của sự phát triển. Vd
đi học kế thừa kiến thức ông thầy, ra ngoài cũng có kiến thức nhưng đến trường lớp và những
trung tâm đào tạo thì sẽ được những người thầy có kinh nghiệm truyền đạt lại sẽ rút ngắn
thời gian cho sự phát triển của bản thân (đây là vd về vai trò)
Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định những mặt tốt, tích cực và chỉ phủ
định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Ví dụ;
Trong bất kỳ loài sinh vật nào, các thế hệ con cái đều kế thừa những yếu tố tích cực của cha
mẹ và bỏ qua những yếu tố lạc hậu.
Chu kỳ của sự phủ định GĐ1 GĐ2
→ Trải qua ít nhất 2 lần phủ định thì sự vật hiện tượng mới ra đời.
Ví dụ: Chu kỳ của loài bướm: Vòng đời của loài bướm trải qua 4 giai đoạn, bao gồm: trứng,
ấu trùng, nhộng và trưởng thành. (Từ bướm mẹ đẻ trứng → trứng nở thành sâu (ấu trùng) →
Sâu tạo kén (nhộng) → Phá kén trở thành bướm trưởng thành. Tất cả con bướm đều sinh ra và lớn lên như thế.
Hoặc sự phát triển của đời mình: THCS là sự phủ định của TH, THPT là sự phủ định của
THCS ĐH là sự PĐ của THPT.
→ Như vậy, có thể thấy được, Phủ định của phủ định: Hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển:
Sự vật ra đời và tồn tại đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật ấy,
những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ. Khi đó, sự phủ định biện chứng
lần 1 diễn ra: Sự vật ban đầu không còn nữa mà bị thay thế bằng sự vật mới, trong đó những
nhân tố tích cực của sự vật ban đầu được giữ lại.
Tuy nhiên, sau một thời gian, sự vật mới ra đời ở trên lại bị phủ định bằng sự vật mới khác.
Đó là sự phủ định lần 2. Cứ thế tiếp tục, tùy vào sự vật sẽ có phủ định lần 3, lần 4…, lần n.
Sau 2 hoặc nhiều lần phủ định, sẽ có một sự vật mới dường như lặp lại (rất giống) với sự vật
ban đầu, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn với sự vật ban đầu đó, mà ở nấc thang cao
hơn; nó được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực đối với sự
phát triển tiếp tục của nó.
Sau 2 hoặc nhiều lần phủ định dẫn đến sự xuất hiện sự vật mới mà dường như lặp lại sự vật
ban đầu thì ta có một chu kỳ phát triển. Ở đây có sự phủ định của phủ định. Ví dụ:
+ Một quả trứng là sự khẳng định ban đầu (trong điều kiện được ấp) => Phủ định lần 1 tạo ra
gà mái con => Phủ định lần 2 (gà mái con lớn lên) sinh ra nhiều quả trứng.
+ Một hạt thóc là sự khẳng định ban đầu (được gieo trồng) => Phủ định lần 1 tạo ra cây lúa
=> Phủ định lần 2, cây lúa sinh ra nhiều hạt thóc.
Ở 2 ví dụ trên ta có một chu kỳ phát triển: Từ một quả trứng ban đầu đến nhiều quả trứng
mới. Từ một hạt thóc ban đầu đến nhiều hạt thóc mới. Từ một đến nhiều tức là có sự phát
triển lên nấc thang cao hơn. Đó là kết quả phủ định của phủ định.
– Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng là sự thống nhất giữa
loại bỏ, kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới.
Như thế, những lần phủ định biện chứng nối tiếp nhau sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không
ngừng, như việc sẽ ngày càng có nhiều quả trứng hơn, ngày càng có nhiều hạt thóc hơn.
– Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn.
Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập trong bản thân sự
vật. Các mặt đối lập ở đây là mặt khẳng định và mặt phủ định.
Phủ định lần 1 sẽ làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (như quả trứng ban
đầu đối lập với gà mái con; gà mái con là vật trung gian). Sau một hoặc nhiều lần phủ định
tiếp theo sẽ ra đời một sự vật mới đối lập với cái trung gian (nhiều quả trứng sinh ra đối lập với gà mái con).
Mà đối lập với cái trung gian nghĩa là dường như tương đồng với sự vật ban đầu, dường như
quay trở lại thời điểm xuất phát (như việc một quả trứng sinh ra nhiều quả trứng, một hạt thóc sinh ra nhiều hạt thóc).
Như thế ta thấy, đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định
của phủ định chính là sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn.
– Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là
điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo. Cứ thế, các chu kỳ phát triển cứ nối tiếp
nhau tạo thành sự phát triển, sự tiến lên vô cùng tận của thế giới, nhưng không phải theo
đường thẳng mà theo hình xoáy ốc.
– Sở dĩ nói “theo hình xoáy ốc” vì “hình xoáy ốc” đã biểu đạt được các đặc trưng của quá
trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất
tiến lên của sự phát triển.
Mỗi vòng mới của đường “xoáy ốc” thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời
dường như quay lại cái đã qua, lặp lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính
vô tận của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp lên cao.
Ý nghĩa của phủ định:
Quy luật phủ định của phủ định làm sáng tỏ chiều hướng vận động, phát triển của các sự vật
và có ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1. Cái mới nhất định sẽ xuất hiện từ cái cũ nhưng ta không được phủ sạch cãi cũ.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, ta cần lưu ý rằng cái mới nhất định sẽ thay thế cái
cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng cái lạc hậu. Cái mới ra đời từ cái cũ, kế thừa tất cả
những gì tích cực của cái cũ. Do đó, ta cần chống thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.
2. Chúng ta phải chủ động phát hiện, bồi dưỡng, thúc đẩy cái mới.
Trải qua nhiều lần phủ định cái mới ra đời, nhưng còn yếu, yếu nhưng đang trong quá trình
hoàn thiện để phát triển, ta phải tạo điều kiện cho nó
Trong thực tiễn, ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát
triển của cái mới. Mặc dù cái mới lúc đầu còn yếu ớt, ít ỏi, ta phải ra sức ủng hộ, bồi dưỡng,
phát huy cái mới, tạo điều kiện cho cái mới chiến thắng cái cũ.
Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta phải biết sàng lọc, gạn đục khơi trong, giữ lấy những
gì còn tích cực, có giá trị từ cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều kiện mới.
Chúng ta phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận, đánh giá quá khứ.
3. Phải khắc phục thái độ bảo thủ, loại bỏ những hủ tục trong xã hội.
Trong khi chống thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn quá khứ, chúng ta cũng phải
khắc phục thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại những cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử.
Chúng ta phải nhận thức rõ những cái lỗi thời, ví dụ như những hủ tục cũ trong việc cưới xin,
tang lễ, hội hè…, quan niệm “có nếp có tẻ” trong việc sinh con… sẽ gây ra nhiều tốn kém và
nhiễu nhương.VD: sinh viên mới ra trường → còn mới, nhưng đang trên đà hoàn thiện nếu có
sự chỉ bảo chỉ dạy tạo điều kiện, môi trường để có thể phát triển vươn lên. Còn nếu ko thì có
nghĩa nó không có sự kế thừa
Vận dụng: để ko bị đào thải thì phải xđ năng lực của mình là gì, đầu tư đúng năng lực để phát
huy tối đa năng lực, để phát huy tối đa thì phải siêng năng chăm chỉ có kế hoạch trong học
tập; cần phải kế thừa kiến thức thầy cô: đi học đầy đủ, chép bài nghiêm túc; học tập từ bạn
bè: tham gia clb; học tập trên mạng: đọc báo, đọc các kênh truyền thông; bên cạnh đó cần
chống lại tư duy lười biếng, ỷ lại vào ng khác; trang bị kỹ năng, ngoại ngữ để học tập tốt hơn.
—------------------------------------------------------------------------------------------
Thi đề ĐHQG, 2 câu, đề mở (làm hết, không được phép làm 1 câu câu kia bỏ)
Lỡ câu đó không biết, phân tích lý luận và nhận thức.
Vai trò của lý luận và nhận thức (khi không biết câu đó là gì thì lật sách ra ghi phần nó có,
sau đó mới hiểu theo ý nghĩa bản thân, viết càng dài càng tốt). Đó là quy tắc khi làm bài tự luận để mở 2 phần:
Phần lý thuyết (phần nội dung)
Phần vận dụng: phải từ 5 dòng trở đi. Cần cù trong học tập? cần cù sao? lên lớp nghe giảng,
về nhà làm bài tập, kiếm thêm tài liệu để học tập…
—-----------------------------------------------------------------------------------------------
Thầy liệt kê một số nội dung cơ bản trong nội dung thi triết học:
Thầy liệt kê nội dung chính của chương trình, chắc chắn sẽ ra nd này.
Câu 3: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Rút ra ý nghĩa
phương pháp luận và liên hệ.
Làm rõ khái niệm vật chất là gì? Ý thức là gì? (theo quan điểm Triết mác, vc là… )
Phân tích mqh biện chứng (sách có: phải có 2 ý cơ bản
1. Vật chất quyết định ý thức + phân tích ý này: vật chất là cơ sở nguồn gốc ý thức, ko có vật
chất sẽ không có ý thức, nên mọi … phải bắt nguồn từ vật chất, vật chất quyết định nội dung,
cách thức của ý thức, nên khi thay đổi môi trường sống, ý thức con người sẽ thay đổi theo, là
lý do tại sao ngày xưa phân biệt nam nữ, nay nam nữ bình quyền, ngày xưa gia trưởng nhất là
con trai cả thì h con ng bớt gia trưởng hơn, xưa ng phụ nữ sợ ng đàn ông, nay ng đàn ông
khiếp hãi vợ,..) (VC qđ YT, phân tích ra… )
2.YT tđ trở lại vc (ý thức đúng hành động đúng, ý thức sai hđ sai) Ý nghĩa:
1. Tôn trọng hiện thực khách quan(những suy nghĩ chủ quan có thể sai lầm)
2. Phải phát huy tính sáng tạo của con người (cần phải đầu tư vào con ng, học tập để trang bị
kiến thức, khi đã có nguyên vật liệu cành nhiều thì khả năng sáng tạo càng cao. vd càng nhiều
kiến thức nấu ăn càng sáng tạo nhiều món ăn ngon, lúc đó mới có đủ điều kiện và cơ sở để
sáng tạo. Đó là lý do tại sao các nc càng phát triển thì giáo dục càng hiện đại tiên tiến.
Câu 4: Phân tích vấn đề cơ bản của triết học:
Khái niệm: Vấn đề cơ bản của triết học: Là mqh giữa vật chất và ý thức
Nội dung vấn đề cơ bản triết học có 2 mặt: Mặt 1, mặt 2: VC và YT cái nào có trước cái nào
có sau? (VC có trước - chủ nghĩa DV (chất phác, siêu hình , bchứng (M-LN) , .. CNDT (CQ-
Kq) Con ng có khả năng nhận thức đc Thế giới hay ko? (có - phái khả tri, ko - bất khả tri)
Giải quyết vấn đề cơ bản triết học.
Câu 5: Phân tích nội dung nguyên lý về sự phát triển. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận Khái niệm :
Qđ siêu hình ( phát triển là gì? )
Qđ biện chứng (phát triển là gì?)
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát
quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
2.1. Tính khách quan của sự phát triển
– Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách khách
quan, độc lập với ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của con người có
nhận thức được hay không, có mong muốn hay không.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện tượng. Đó là sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện tượng.
Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.
– Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan của sự phát triển đã phủ
nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về sự phát triển.
Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu nhiên, phi vật
chất (thần linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng.
Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng im”, không phát
triển. Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng, kích thước…) mà
không có sự biến đổi về chất.
2.2. Tính phổ biến của sự phát triển
Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ hiện thực khách
quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.
Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì một trạng thái
cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.
2.3. Tính kế thừa của sự phát triển
Sự phát triển tạo ra cái mới phải trên cơ sở chọn lọc, kế thừa, giữ lại, cải tạo ít nhiều những
bộ phận, đặc điểm, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ; đồng thời cũng đào thải, loại bỏ
những gì tiêu cực, lạc hậu, không tích hợp của cái cũ. Đến lượt nó, cái mới này lại phát triển
thành cái mới khác trên cơ sở kế thừa như vậy.
Đó là quá trình phủ định biện chứng. Là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Quá trình này diễn ra vô cùng, vô tận theo hình xoáy trôn ốc.
2.4. Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển
Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại hình khác nhau.
Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng quy định sự phong phú
của phát triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau
tác động vào các sự vật, hiện tượng cũng làm cho sự phát triển của chúng khác nhau.
Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi
của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ ngày càng cao hơn…
Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội ngày càng lớn của con người.
Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn diện, đúng đắn hơn.
Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra
quan điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm này đòi hỏi:
Thứ nhất: Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.
– Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt, mà
còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư
duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
– Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối
hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là
nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa
chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Thứ hai: Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.
Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá trình biện chứng
đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như
một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước
thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta
gặp phải những sai lầm tai hại.
Thứ ba: Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật, hiện tượng.
– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi sự vật, hiện
tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự
vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn.
– Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù hợp, tìm
cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời
kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển.
Thứ tư: Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
– Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về
chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích
lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.
Câu 6: Phân tích nội dung quy luật lượng chất: Khái niệm: Chất là gì? Lượng là gì Nội dung
Lượng đủ → chất đổi (Độ, điểm nút, bước nhảy)
Chất mớới → Lướợng mớới → Chất mớới khác → …
Cứ như vậy sự vật hiện tượng Ý nghĩa:
Câu 7: Phân tích quy luật mâu thuẫn (quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập)
Quy luật mâu thuẫn là một trong những quy luật cơ bản trong phép biện chứng duy vật và
biện chứng duy vật lịch sử khẳng định về: mọi sự vật hay hiện tượng ở trong tự nhiên đều có
sự tồn tại và mâu thuẫn bên trong. Quy luật mâu thuẫn còn được gọi là quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập. Nội dung
Mọi sự vật hoặc hiện tượng đều chứa đựng những khuynh hướng, mặt đối lập, từ đó tạo thành
những mâu thuẫn trong bản thân chúng. Sự thống nhất và đấu tranh từ các mặt đối lập tạo ra
xung lực nội của sự vận động, phát triển, và dẫn tới mất đi cái cũ thay thế bưởi cái mới.
– Các khái niệm về mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, thống nhất, đấu tranh
+ Mặt đối lập: Mặt đối lập là những mặt mà có những thuộc tính, đặc điểm, những tính quy
định mà có khuynh hướng biến đổi trái ngược, tồn tại theo khách quan ở trong tự nhiên, tư suy và xã hội. Ví dụ:
Trong mỗi con người đều có mặt đối lập theo tự nhiên như hoạt động ăn và hoạt động bài tiết.
Đối với sinh vật sẽ có mặt đồng hóa và dị hóa, đối lập nhau.
+ Mâu thuẫn biện chứng: Mâu thuẫn biện chứng là một trạng thái mà mặt đối lập liên hệ,
chúng có tác động qua lại với nhau, theo đó mâu thuẫn biện chứng được tồn tại một cách
khách quan, phổ biến ở trong xã hội, tư duy và tự nhiên. Trong mâu thuẫn biện chứng tư duy
có sự phản ánh mâu thuẫn đối với hiện thực, nguồn gốc phát triển nhận thức.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập: là sự nương tựa với nhau, tồn tại nhưng không tách rời với
nhau của các mặt đối lập, tự tồn tại đó phải lấy sự tồn tại của mặt khác để làm tiền đề.
Sự thống nhất đó tạo lên những nhân tố “đồng nhất” của các mặt đối lập. Khi ở một mức độ
nào đó chúng sẽ có thể chuyển hóa cho nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng có biểu hiện tác động ngang nhau, đó chỉ là trạng thái
vận động khi có sự diễn ra căn bằng.
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại với nhau theo xu hướng là bài trừ, phủ
định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh các mặt đối lập vô cùng phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào mối quan
hệ qua lại của điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh và các mặt đối lập, tính chất.
– Mâu thuẫn là nguồn gốc sự vận động, sự phát triển
+ Sự thống nhất, đấu tranh các mặt đối lập chính là hai xu hướng tác động khác nhau mặt đối lập
Trong đó, hai xu hướng này tạo ra loại mâu thuẫn đặc biệt, từ đó mâu thuẫn biện chứng bao
gồm sự thống nhất và sự đấu tranh của mặt đối lập.
Trong quá trình phát triển và vận động thì sự thống nhất, đấu tranh của mặt đối lập không tách rời nhau.
+ Đấu tranh của mặt đối lập được quy định tất yếu về sự thay đổi các mặt đang tác động, làm mâu thuẫn phát triển.
Khi bắt đầu xuất hiện thì mâu thuẫn chỉ là một sự khác nhau cơ bản. Tuy nhiên theo khuynh
hướng trái ngược nhau thì sự khác nhau này càng lớn lên và rộng dẫn ra đến khi nào trở thành đối lập.
Khi hai mặt đối lập có sự xung đột gay gắt, đủ điều kiện thì sẽ tự chuyển hóa lẫn nhau và từ
đó mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ sự giải quyết theo hướng này mà thể thống nhất mới sẽ
thay thế thể thống nhất cũ hay sự vật mới thay cho sự vật cũ bị mất đi.
+ Sự phát triển là cuộc đấu tranh các mặt đối lập.
Ta đã thấy rằng khi có thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ có đấu tranh, đấu tranh và thống
nhất các mặt đối lập thì không thể tách rời khỏi nhau đối với mâu thuẫn biện chứng.
Sự vận động, phát triển là sự thống nhất trong tính ổn định và tính thay đổi, đấu tranh và
thống nhất các mặt đối lập quy định về tính thay đổi và tính ổn định sự vật. Do đó, mâu thuẫn
là nguồn gốc của phát triển và vận động. – Phân loại mâu thuẫn
+ Nếu dựa vào quan hệ của sự vật được xem xét, mâu thuẫn sẽ được phân loại thành mâu
thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Dựa vào ý nghĩa sự tồn tại, phát triển toàn bộ sự vật thì mâu thuẫn được chia làm mâu
thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
+ Dựa vào vai trò mâu thuẫn của sự tồn tại, phát triển sự vật ở 1 giai đoạn nhất định thì mâu
thuẫn phân loại là mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu.
+ Dựa vào tính chất của quan hệ lợi ích, mâu thuẫn chia làm mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Ý nghĩa
– Để nhận thức được bản chất của sự vật hoặc tìm ra phương hướng, giải pháp cho hoạt động
thực tiễn cần phải nghiên cứu mâu thuẫn sự vật.
– Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập hay quy luật mâu
thuẫn có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thực, hoạt động thực tiễn.
Bởi mâu thuẫn là động lực và cùng là nguồn gốc của sự vận động, phát triển, có tính khách quan phổ biến.
Ví dụ: Trong hoạt động bài tiết thì con người có hai hoạt động đối lập nhau: hoạt động ăn,
hoạt động bài tiết. Mặc dù chúng đối lập nhau nhưng lại không thể tách rời nhau và phụ thuộc
vào nhau, từ đó cho thấy hai hoạt động này có sự thống nhất với nhau.
Câu hỏi về quy luật mâu thuẫn
Xung quanh quy luật mâu thuẫn, có nhiều câu h
Câu 8: Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Khái niệm Nhận thức là gì Thực tiễn là gì Vai trò:
thực tiễn là cơ sở của NT, (đi 1 ngày đàng học 1 sàng khôn - đưa vd càng làm việc nhiều thì
càng có kinh nghiệm (kinh nghiệm là nhận thức)
TT là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý
TT là mục đích của nhận thức,
TT là động lực của NT (trong quá trình hđ tt thì có những tri thức mới chưa biết, nên để hiểu
những cái mới, giải đáp cái mới thì phải tìm hiểu thực tiễn. Vd đi rừng núi thấy cao quá → đo
độ cao của núi). Và khi tìm hiểu dc thì tri thức mới của con ng đc hình thành, lại là động lực để ta nghiên cứu) Nội dung Ý nghĩa
Vận dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào quá trình đổi mới ở Việt Nam
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép phát triển kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một tất yếu khách quan
khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung hòa và tồn tại nhiều thành phần
kinh tế là một tất yếu do lịch sử để lại song đưa chúng cùng tồn tại và phát triển mới là một
vấn đề nan giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân,
đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những
mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa
chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học về quán
triệt quan điểm thực tiễn – nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cơ bản
và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó khăn của
nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và
điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận
không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến
hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi
mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng kết
lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình đổi mới. Có
những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới
biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm phát, vấn đề
khoán trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm… Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ
không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định.
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan trọng.
Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta hiểu rõ sự vật hơn
nữa – đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm mà còn là bài học
của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ lý luận.
Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận của mình, cố
gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua năm bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp
với sự vận động của thực tiễn cuộc sống trong những hoàn cảnh và điều kiện mới
1. Bước chuyển thứ nhất:
Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hóa sở hữu xã hội (Nhà nước và
tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với sự phát triền của lực lượng
sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự phát triển sản xuất… sang tư duy mới. Xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự
thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân
phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy luật khách
quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ thuộc vào trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cho phù hợp . 2. Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế hoạch hóa tuyệt đối
với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích ứng với nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng Xã hội Chủ nghĩa 3. Bước chuyển thứ ba:
Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với phương thức
quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ toàn diện. 4. Bước chuyển thứ tư:
Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở một nước phải xuất
phát từ chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước đó. Và đây
cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan quy định nhận thức và những tìm tòi sáng
tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó cũng đồng thời một lần
nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối chính sách.
5. Bước chuyển thứ năm:
Đó là sự hình thành quan niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội những nhận thức mới về nhân tố con người.
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác – Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách mạng, lịch
sử xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những khuynh hướng cơ
bản của sự tiến hóa xã hội. Trong giai đoạn hiện nay của sự nghiệp xây dựng kinh tế xã hội
đòi hỏi phải nắm vững và vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin.
Để khắc phục những quan niệm lạc hậu trước đây cần chúng ta phải đẩy mạnh công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết có hệ thống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới. Có như vậy, lý luận mới thực hiện vai trò tích cực của mình đối với thực tiễn.
Đổi mới nhận thức lý luận và công tác lý luận là một quá trình phức tạp, đòi hỏi phải đấu
tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những quan niệm lý luận cũ. đồng thời, đấu tranh với
những tư tưởng, quan niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê
nin, phủ định sạch trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại: Đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ phận không thể
thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã hội nước ta hiện nay.
Điều đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận với thực tiễn mới có thể hành động đúng đắn và
phù hợp với quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền
đề và làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn chính là động lực, là cơ
sở của nhận thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục ngay những khiếm khuyết sai lầm song cũng
phải tìm ra giải pháp khắc phục để hạn chế sự sai sót và thiệt hại.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, cụ thể gồm:
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
Điều này có nghĩa là thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù
trực tiếp hay gián tiếp đối với người này hay người kia, thế hệ nay hay thế hệ khác, ở trình độ
kinh nghiệm hay lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những
thuộc tính, những tính quy luật để cho con người nhận thức chúng.
Sở dĩ như vậy, bởi con người quan hệ với hế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng
thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở con
người được hình thành và phát triển.
Ban đầu, con người thu nhận những tài liệu cảm tính. Sau đó, con người tiến hành so sánh,
phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa… để phản ánh bản chất, quy luật vận động
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì nhận thức dù về vấn đề khía cạnh hay ở lĩnh vực gì đi
chăng nữa thì cũng phải quay về phục vụ thực tiễn. Nhận thức mà không phục vụ thực tiễn thì
không phải là “nhận thức” theo đúng nghĩa.
Do vậy, kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ có ý nghĩa
thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn.
+ Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức.
Thực tiễn là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức là thực tiễn cung cấp năng lượng
nhiều nhất, nhanh chóng nhất giúp con người nhận thức ngày càng toàn diện và sâu sắc về thế giới.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả
bản thân mình, phát triển năng lực thể chất, trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi
sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc tri
thức của mình về thế giới.
Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Nhu cầu thực
tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, nó thúc đẩy sự
ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính vì chúng cần thiết cho
hoạt động thực tiễn của con người.
Thứ hai, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Theo các nhà kinh điển của triết học Mác – Lênin đã khẳng định: vấn đề tìm hiểu xem tư duy
con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là một vấn đề lý
luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý.
Tất nhiên, nhận thức khoa học có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic nhưng tiêu chuẩn
logic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn và xét đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Chúng ta cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng. Tiêu chuẩn
này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối:
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm
chân lý. Thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý.
+ Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà luôn
biến đổi và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người nên không
tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người thành những chân lý
tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt
được trước kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo,
tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn.
Câu 9: Phân tích con đường biện chứng của quá trình nhận thức
Theo triết học Mác – Lênin, nhận thức không phải là sự phản ánh thụ động, giản đơn, mà là
một quá trình biện chứng.
Theo Lênin: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan”.
Theo đó, con đường biện chứng của quá trình nhận thức gồm hai khâu sau:
+ Nhận thức cảm tính bao gồm: Cảm giác; Tri giác; Biểu tượng
+ Nhận thức lý tính bao gồm: Khái niệm; Phán đoán; Suy luận Cụ thể như sau:
– Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là những tri thức do các giác quan mang lại. Nét
đặc trưng cơ bản ở giai đoạn này là nhận thức được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với
thực tiễn thông qua các nấc thang cảm giác, tri giác, biểu tượng. Các thành phần của nhận thức cảm thức như sau:
+ Cảm giác là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của sự vật, hiện tượng lên các
giác quan của con người. Cảm giác phản ánh từng mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng
lẻ của sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc và nội dung của cảm giác là thế giới khách quan, còn
bản chất của cảm giác là hình ảnh chủ quan về thế giới đó.
+ Tri giác là sự tổng hợp của nhiều cảm giác riêng biệt vào một mối liên hệ thống nhất tạo
nên một hình ảnh tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng.
+ Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của các giác
quan và đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, trừu tượng và khả năng ghi nhận thông
tin của não người. Đây là nấc thang cao và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính; là
hình ảnh cảm tính tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng được lưu lại trong não người và
do tác động nào đó được tái hiện lại khi sự vật, hiện tượng không còn nằm trong tầm cảm
tính. Trong biểu tượng đã có những phản ánh gián tiếp về sự vật, hiện tượng và với biểu
tượng, con người đã có thể hình dung được sự khác nhau và mâu thuẫn nhưng chưa nắm
được sự chuyển hóa từ sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác. – Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính bắt nguồn từ trực quan sinh động và từ những lý luận truyền lại. Nhận thức
lý tính phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận thức. Các thành phần
của nhận thức lý tính bao gồm:
+ Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Khái niệm vừa có tính khách quan,
vừa có tính chủ quan khi phản ánh cả một tập hợp những thuộc tính cơ bản có tính bản chất
và chung nhất của sự vật, hiện tượng nhờ sự tổng hợp, khái quát biện chứng những thông tin
đã thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức
+ Phán đoán là hình thức tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ
định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng; là hình thức phản ánh mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào ý thức của con người tạo nên
vai trò của phán đoán là hình thức biểu hiện và diễn đạt các quy luật khách quan
+ Suy luận (suy lý) là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri
thức mới theo phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề
(suy luận là quá trình đi từ những phán đoán tiên đề đến một phán đoán mới). Suy luận có vai
trò quan trọng trong tư duy trừu tượng, bởi nó thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái
đã biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết. Khái niệm
Kn (Lênin) từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn đó là con đường biện chứng của nhận thức sách trang 274)
Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính)
Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) trang 24 Nội dung Ý nghĩa
(Từ câu 1-9 chương 2, chương 1)
Câu 10: Phân tích quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất (chương 3)
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp
Trong tác phẩm góp phần phê phán khoa kinh tế – chính trị năm 1859 C.Mác viết “Trong sự
sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất yếu không
phụ thuộc ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất. Những quy luật này phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Những quan hệ này phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ…” Người ta thường coi
tư tưởng này của Mác là tư tưởng về “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất”.
Cho đến nay hầu như quy luật này đã được khẳng định cũng như các nhà nghiên cứu triết học
Mác xít. Khái niệm “phù hợp” được hiểu với nghĩa chỉ phù hợp mới tốt, mới hợp quy luật,
không phù hợp là không tốt, là trái quy luật. Có nhiều vấn đề mà nhiều lĩnh vực đặt ra với từ
“phù hợp” này. Các mối quan hệ trong sản xuất bao gồm nhiều dạng thức khác nhau mà nhìn
một cách tổng quát thì đó là những dạng quan hệ sản xuất và dạng những lực lượng sản xuất
từ đó hình thành những mối lien hệ chủ yếu cơ bản là mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Nhưng mối liên hệ giữa hai yêu tố cơ bản này là
gì? Phù hợp hay không phù hợp. Thống nhất hay mâu thuẫn? Trước hết cần xác định khái
niệm phù hợp với các ý nghĩa sau.
– Phù hợp là sự cân bằng, sự thống nhất giữa các mặt đối lập hay “sự yên tính” giữa các mặt.
– Phù hợp là một xu hướng mà những dao động không cân bằng sẽ đạt tới.
Trong phép biện chứng sự cân bằng chỉ là tạm thời và sự không cân bằng là tuyệt đối. Chính
đây là nguồn gốc tạo nên sự vận động và phát triển . Ta biết rằng trong phép biện chứng cái
tương đối không tách khỏi cái tuyệt đối nghĩa là giữa chúng không có mặt giới hạn xác định.
Nếu chúng ta nhìn nhận một cách khác có thể hiểu sự cân bằng như một sự đứng im, còn sự
không cân bằng có thể hiểu như sự vận động. Tức sự cân bằng trong sản xuất chỉ là tạm thời
còn không cân bằng không phù hợp giữa chúng là tuyệt đối. Chỉ có thể quan niệm được sự
phát triển chừng nào người ta thừa nhận tính chân lý vĩnh hằng của sự vận động. Cũng vì vậy
chỉ có thể quan niệm được sự phát triển chừng nào người ta thừa nhận, nhận thức được sự
phát triển trong mâu thuẫn của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chừng nào ta thừa
nhận tính vĩnh viễn không phù hợp giữa chúng.
Từ những lý luận đó đi đến thực tại nước ta cũng vậy với quá trình phát triển lịch sử lâu dài
của mình từ thời đồ đá đến nay thời văn minh hiện đại. Nước ta đi từ sự không phù hợp hay
sự lạc hậu từ trước lên đến nay nền văn minh đất nước. Tuy nhiên quá trình vận động và phát
triển của sản xuất là quá trình đi từ sự không phù hợp đến sự phù hợp, nhưng trạng thái phù
hợp chỉ là sự tạm thời, ngắn ngủi, ý muốn tạo nên sự phù hợp vĩnh hằng giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất là trái tự nhiên, là thủ tiêu cái không thủ tiêu được, tức là sự vận động.
Tóm lại, có thể nói thực chất của quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất là quy luật mâu thuẫn. Sự phù hợp giữa chúng chỉ là một cái trục, chỉ là trạng thái
yên tĩnh tạm thời, còn sự vận động, dao động sự mâu thuẫn là vĩnh viễn chỉ có khái niệm mâu
thuẫn mới đủ khả năng vạch ra động lực của sự phát triển mới có thể cho ta hiểu được sự vận
động của quy luật kinh tế.
Câu 11: Phân tích mqh biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do đó, cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định.
2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về
kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản xuất nào thống
trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế
quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà nước, pháp
luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải thích từ chính nó, bởi vì,
chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định.
Những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản
trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế-xã hội và rõ
rệt hơn khi chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác. Sự biến
mất của một kiến trúc thượng tầng không diễn ra một cách nhanh chóng, có những yếu tố của
kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế của nó đã bị tiêu diệt. Có
những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới sử dụng để xây
dựng kiến trúc thượng tầng mới.
Do đó, tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp
trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác.
2.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng
xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra
nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư
tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác
dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa vào
chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Ăngghen
viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế”. Các bộ phận
khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến