






Preview text:
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
NHÓM 4: TÌNH TRẠNG XUẤT KHẨU GỖ TRONG NĂM 2022 VÀ 6 THÁNG
ĐẦU NĂM NĂM 2023 VÀ TRIỂN VỌNG I.
Thực trạng xuất khẩu gỗ trong năm 2022 và 6 tháng đầu năm năm 2023 1. Kết quả đạt được
- Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, trong thập niên qua, tăng trưởng xuất khẩu của ngành
gỗ và lâm sản luôn đạt 2 con số mỗi năm. Kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 5 trong các ngành hàng
xuất khẩu (chỉ sau điện thoại, linh kiện điện tử, thiết bị máy móc, da giày, dệt may); xuất khẩu
sang 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, giữ vị trí thứ nhất Đông Nam Á, thứ 2 Châu Á (sau Trung
Quốc) và thứ 5 trên thế giới (Trung Quốc, Đức, Ba Lan, Italia). Giá trị xuất siêu trung bình từ 8- 10 tỷ USD mỗi năm. - Năm
2022 mặc dù bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và cuộc chiến giữa Nga – Ukraine, kim
ngạch xuất khẩu G&SPG của Việt Nam vẫn đạt 15,67 tỷ USD, tăng 10,9% so với năm 2021.
Các thị trường xuất khẩu chính: Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt
được từ một số thị trường xuất khẩu chính trong năm 2022 bao gồm:
+ Thị trường Mỹ, Việt Nam xuất trên 8,48 tỷ USD gỗ và sản phẩm gỗ năm 2022, tăng 0,9% so
với năm 2021, chiếm 54,1% giá trị xuất khẩu G&SPG của Việt Nam từ tất cả các thị trường.
+ Thị trường Trung Quốc, xuất trên 2,17 tỷ USD, tăng 46% so với năm 2021, chiếm 13,8% giá
trị xuất khẩu G&SPG của Việt Nam từ tất cả các thị trường.
+ Thị trường Hàn Quốc, xuất trên 1,01 tỷ USD, chiếm 6,5% giá trị xuất khẩu G&SPG vào tất cả
các thị trường, tăng 16,5% so với năm 2021.
+ Thị trường EU_27 (không bao gồm Anh), xuất trên 645,71 triệu USD, chiếm 4,1% tổng giá trị
xuất khẩu, tăng 8% so với năm trước đó.
+ Thị trường Anh, xuất trên 232,92 triệu USD, giảm 8,5% so với năm trước đó, chiếm 1,5%
tổng giá trị xuất khẩu.
+ Thị trường Nhật Bản, xuất trên 1,89 tỷ USD, tăng 36% so với năm 2021, chiếm 12,08% giá trị
xuất khẩu G&SPGcủa cả Việt Nam.
Các mặt hàng xuất khẩu chính trong năm 2022 gồm:
+ Đồ gỗ (HS 9403), xuất 6,83 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm 2021, chiếm 43,6% tổng kim ngạch xuất khẩu G&SPG.
+ Ghế ngồi (HS 9401, xuất 2,98 tỷ USD, giảm 14,1%% so với năm 2021, chiếm 19% tổng kim
ngạch xuất khẩu G&SPG.
+ Dăm gỗ (HS 4401.22),( xuất 15,81 triệu tấn), đạt 2,78 tỷ USD, tăng 16,2% về lượng và 60,4%
về giá trị so với năm 2021. Kim ngạch xuất khẩu dăm năm 2022 chiếm 17,8% tổng giá trị xuất khẩu G&SPG.
+ Gỗ dán/gỗ ghép,(xuất 2,74 triệu m3), đạt 1,03 tỷ USD, giảm 5,1% về lượng và 4,3% về giá trị
so với năm 2021. Kim ngạch xuất khẩu năm 2022 chiếm 6,6% tổng kim ngạch xuất khẩu G&SPG.
+ Viên nén gỗ,( xuất 4,88 triệu tấn), đạt 787,1 triệu USD, tăng 39,4% về lượng và 90,6% về giá
trị so với năm 2021. Kim ngạch xuất khẩu năm 2022 chiếm 5% tổng kim ngạch xuất khẩu G&SPG.
+ Ván bóc, (xuất 1,05 triệu m3)`, đạt 175,91 triệu USD, giảm 47,9% về lượng và 19,1% về giá trị
so với 2021. Kim ngạch xuất khẩu năm 2022 chiếm 1,1% tổng kim ngạch xuất khẩu G&SPG.
-Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, 6 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu gỗ và sản phẩm
gỗ gặp rất nhiều khó khăn, hầu như tháng nào cũng sụt giảm về lượng lẫn giá trị
-Thống kê của Cục Lâm nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy giá trị xuất
khẩu lâm sản 6 tháng đầu năm 2023 đạt 6,42 tỉ USD, giảm 28,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ đạt 5,96 tỉ USD, giảm 29%; lâm sản ngoài gỗ 455,7 triệu USD, giảm 26,2%.
-Thực tế, xuất khẩu gỗ 6 tháng đầu năm vẫn có những nhóm hàng tăng trưởng đáng kể như: mặt
hàng ván sợi có kim ngạch xuất khẩu sang Ấn Độ tăng 3 lần so với cùng kỳ, đạt hơn 31,7 triệu
USD; sản phẩm dăm gỗ đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỉ USD, tăng 3%. Trung Quốc và Nhật
Bản vẫn là 2 thị trường chính tiêu thụ dăm gỗ xuất khẩu từ Việt Nam, trong đó xuất khẩu sang
Trung Quốc chiếm trên 70%. 2. Nguyên nhân
a) Sự tăng trưởng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ năm 2022
- Về tổng thể, việc mở cửa thị trường thương mại với các quốc gia thông qua một FTA (hiệp
định thương mại tự do) đã giúp tăng trưởng xuất khẩu đồ gỗ lên đáng kể. Thực tế, việc tham
gia các FTA đã giúp Việt Nam hoàn thiện các chính sách thông qua cắt giảm các thủ tục
không cần thiết, từ đó đã thúc đẩy xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường FTA.
- Tiếp đó, thuế nhập khẩu gỗ và nhập khẩu gỗ của các nước trong FTA giảm vô tình đã kích
cầu tiêu dùng ở đất nước sở tại, thúc đẩy nhập khẩu hàng đồ gỗ của Việt Nam. Hơn nữa, do
Việt Nam đã bắt đầu chú trọng đến nâng cao năng lực cung ứng nguyên liệu nội địa nên
nguồn cung sản xuất nguyên liệu gỗ trong nước tăng đã kéo theo thúc đẩy xuất khẩu đồ gỗ vào các thị trường FTA.
b) Sự sụt giảm giá trị xuất khẩu gỗ 6 tháng đầu năm nay
- Do lạm phát tăng cao (trên 8%) tại một số quốc gia xuất khẩu lâm sản chính của Việt Nam,
nên chính phủ các quốc gia này ban hành nhiều chính sách thắt chặt tiền tệ. Đồng thời, người
tiêu dùng thắt chặt chi tiêu, giảm mua sắm đối với các sản phẩm không thiết yếu, trong đó có
các sản phẩm được chế biến từ gỗ.
- Bên cạnh đó, xung đột địa chính trị (Nga - Ukraine) tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp như: chi phí logistics, giá gỗ
nguyên liệu, vật tư sản xuất đầu vào đều tăng
- Ngoài ra, xuất khẩu suy giảm còn do chính sách bảo hộ của các quốc gia đối với sản phẩm,
hàng hóa sản xuất trong nước, do vậy ảnh hưởng tới việc thương mại sản phẩm gỗ của Việt Nam. II.
Các hạn chế của ngành xuất khẩu gỗ trong năm 2022 và nửa đầu năm 2023
1. Hạn chế của ngành xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong năm 2022 và nửa đầu năm 2023
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu gỗ chậm lại, thậm chí giảm mạnh ở một số thị trường then chốt.
(VD: Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu gỗ lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới 44% tổng kim
ngạch xuất khẩu gỗ trong năm 2022. Tuy nhiên, xuất khẩu vào thị trường Mỹ giảm 8%
trong 6 tháng đầu năm 2023.
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu gỗ lớn thứ 2 của Việt Nam sau Mỹ. Xuất khẩu gỗ vào
Nhật giảm mạnh 25% trong 6 tháng đầu năm 2023.)
- Giá xuất khẩu giảm sút, làm suy giảm hiệu quả kinh doanh.
(Theo số liệu, giá xuất khẩu gỗ bình quân của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2023 giảm 5%
so với cùng kỳ năm 2022, còn 858 USD/m3 => Doanh nghiệp mất dần lợi thế cạnh tranh,
khó mở rộng thị trường và thu hút được đối tác nhập khẩu mới dẫn đến nhiều doanh
nghiệp gỗ phải thu hẹp sản xuất,bị lỗ hoặc phá sản)
- Áp lực cạnh tranh ngày càng tăng từ các nước trong khu vực có nguồn cung dồi dào.
(VD: Các nước như Indonesia, Malaysia, Thái Lan là những đối thủ cạnh tranh lớn của
ngành gỗ Việt Nam do có nguồn cung nguyên liệu dồi dào. Diện tích rừng trồng ở các
nước này rất lớn, ví dụ Indonesia có diện tích rừng trồng lên tới 10 triệu ha
=> Nguồn cung gỗ ổn định và rẻ hơn so với Việt Nam.
Các nước này cũng đầu tư công nghệ và thiết bị hiện đại để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm gỗ.
=> Giá thành sản xuất và xuất khẩu gỗ của thấp hơn so với Việt Nam, tạo áp lực cạnh
tranh về giá lên gỗ Việt Nam.)
- Các doanh nghiệp gỗ gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, xuất khẩu. (Về sản xuất:
• Thiếu hụt nguồn cung nguyên liệu gỗ
• Giá nguyên liệu đầu vào như gỗ rừng trồng, ván bóc tăng cao.
• Chi phí vận chuyển, điện năng tăng.
• Chi phí nhân công và các chi phí sản xuất khác leo thang. Về xuất khẩu:
• Xuất khẩu vào các thị trường lớn giảm mạnh.
• Gặp khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu khắt khe về pháp lý, môi trường.
• Thiếu container rỗng, tàu chở.
• Tỷ giá biến động mạnh làm mất lợi thế.) 2. Nguyên nhân:
- Thị trường xuất khẩu lớn suy thoái, nhu cầu giảm do tác động của lạm phát và khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
(Các thị trường nhập khẩu gỗ lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Nhật Bản đều chịu ảnh hưởng
nặng nề bởi lạm phát và rủi ro suy thoái kinh tế.
Lạm phát khiến giá cả hàng hóa và nguyên vật liệu tăng cao + Suy thoái kinh tế khiến thu
nhập và việc làm bị ảnh hưởng tiêu cực.
=> Người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu
=> Nhu cầu nhập khẩu nhiều mặt hàng giảm, trong đó có gỗ.
=> Xuất khẩu gỗ của Việt Nam vào các thị trường này bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
VD: Xuất khẩu gỗ vào Mỹ giảm 8%, vào Nhật giảm 25% trong 6 tháng đầu năm 2023.)
- Đứt gãy chuỗi cung ứng và sản xuất do tác động của đại dịch Covid-19.
(Do ảnh hưởng của covid 19, việc cách ly, hạn chế đi lại, giãn cách xã hội khiến hoạt động
vận chuyển, lưu thông hàng hóa bị đình trệ, ảnh hưởng tiêu cực tới chuỗi cung ứng + Thiếu
hụt lao động do dịch bệnh
=> Gây ra tình trạng đứt gãy trầm trọng trong chuỗi cung ứng, sản xuất và xuất khẩu gỗ của
Việt Nam trong thời gian dịch bệnh diễn biến phức tạp.)
- Giá nguyên vật liệu, xăng dầu, chi phí logistics tăng vọt.
( Giá nguyên liệu đầu vào như gỗ rừng trồng, ván bóc tăng 20-30% do nguồn cung khan hiếm.
- Giá xăng dầu thế giới tăng mạnh do nhu cầu phục hồi sau đại dịch và căng thẳng địa chính
trị. Giá xăng dầu trong nước cũng tăng theo.
- Chi phí vận chuyển container tăng gấp 3-4 lần so với trước đại dịch. Giá cước tàu biển cũng tăng cao.
=> Giá thành sản xuất và xuất khẩu gỗ của Việt Nam tăng lên 20-30%. Giảm sức cạnh tranh so với các nước.
=> Lợi nhuận ngành gỗ bị thu hẹp.)
- Biến động tỷ giá và lạm phát làm mất lợi thế cạnh tranh về giá.
( Tỷ giá VND/USD biến động mạnh trong năm 2022 và đầu năm 2023, tăng khoảng 3-4% so với các năm trước.
-Đồng USD mạnh lên khiến giá trị xuất khẩu bằng USD của hàng hóa Việt Nam bị giảm đi khi quy đổi sang VND.
-Trong khi đó, các đối thủ cạnh tranh như Indonesia, Thái Lan lại có đồng nội tệ yếu hơn nên
giá xuất khẩu họ rẻ hơn.
=> Làm giảm lợi thế cạnh tranh về giá thành sản xuất.
=> Gỗ Việt Nam bị mất dần lợi thế cạnh tranh về giá so với các nước trong khu vực.
III. Triển vọng của xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong tương lai
1. Triển vọng về nguồn cung cấp và sử dụng gỗ trong tương lai phụ thuộc vào một số yếu tố quan trọng:
a) Bền vững: Sự bền vững trong lĩnh vực lâm nghiệp trở thành một ưu tiên quan trọng.
Sử dụng kỹ thuật lâm nghiệp bền vững giúp duy trì nguồn cung cấp gỗ trong tương
lai mà không gây thiệt hại cho môi trường và rừng.
b) Thay thế: Sự phát triển của các vật liệu thay thế cho gỗ, chẳng hạn như vật liệu
composite và các loại nhựa kỹ thuật, có thể ảnh hưởng đến triển vọng của ngành công nghiệp gỗ.
c) Lăng kính xã hội: Nhận thức về quản lý rừng, bảo vệ môi trường và vấn đề xã hội
đang tác động đến việc sử dụng gỗ. Các chuỗi cung ứng đang phải đối mặt với áp lực
từ quy định và những nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến lương công nhân và quyền của cộng đồng.
d) Lăng kính xã hội: Nhận thức về quản lý rừng, bảo vệ môi trường và vấn đề xã hội
đang tác động đến việc sử dụng gỗ. Các chuỗi cung ứng đang phải đối mặt với áp lực
từ quy định và những nguy cơ tiềm ẩn liên quan đến lương công nhân và quyền của cộng đồng.
e) Tích hợp giá trị: Tích hợp giá trị, chẳng hạn như sản xuất sản phẩm gỗ cao cấp hoặc
gỗ có giá trị gia tăng, có thể tạo ra cơ hội cho ngành công nghiệp gỗ. Tuy nhiên, việc
duy trì nguồn cung cấp gỗ bền vững và bảo vệ môi trường cần được ưu tiên, và việc
quản lý tốt nguồn cung cấp gỗ có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo triển vọng
của ngành công nghiệp gỗ trong tương lai.
Ngành gỗ Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng trong tương lai, với tốc
độ tăng trưởng trung bình khoảng 7-8% trong giai đoạn 2023-2027.
*Các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng của ngành gỗ bao gồm: ( dự đoán triển vọng xuất khẩu
gỗ và sản phẩm gỗ cũng dựa vào các yếu tố sau)
-Nhu cầu gỗ và sản phẩm gỗ trên thế giới vẫn đang tăng lên, do sự gia tăng của dân số và thu nhập.
-Việt Nam có lợi thế về nguồn nguyên liệu gỗ dồi dào, giá cả cạnh tranh.
-Chính phủ Việt Nam đang có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển ngành gỗ.
-Tuy nhiên, ngành gỗ Việt Nam cũng đối mặt với một số thách thức, bao gồm:
-Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các quốc gia khác.
-Tình trạng khai thác gỗ trái phép, gây suy thoái tài nguyên rừng.
-Sự thay đổi của thị hiếu người tiêu dùng.
2. Cơ hội phát triển ngành gỗ công nghiệp
Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ
lớn nhất thế giới. Các sản phẩm chế biến gỗ của Việt Nam, bao gồm đồ nội thất, sàn gỗ, ván ép,
gỗ ghép, cửa sổ và cửa chính, đã có mặt trên thị trường quốc tế và được đánh giá cao về chất
lượng và giá cả cạnh tranh. Việc đầu tư vào các nhà máy chế biến gỗ tại Việt Nam có thể đem lại
lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư.
+ Cơ hội đầu tư trong sản xuất gỗ thông minh:
Sản xuất gỗ thông minh là một trong những xu hướng mới trong ngành công nghiệp gỗ. Sản
xuất gỗ thông minh bao gồm việc sử dụng các công nghệ tiên tiến như máy móc tự động hoá,
robot và trí tuệ nhân tạo để tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất. Cơ hội đầu tư trong sản xuất
gỗ thông minh đang ngày càng được quan tâm và nhiều doanh nghiệp đang đầu tư để áp dụng
các công nghệ này trong quy trình sản xuất.
+ Cơ hội Trong Việc đầu tư vào các sản phẩm gỗ cao cấp:
Sản phẩm gỗ cao cấp như đồ nội thất, sàn gỗ, cửa gỗ và các sản phẩm trang trí nội thất đang
được ưa chuộng và có giá trị kinh tế cao. Đầu tư vào sản xuất các sản phẩm gỗ cao cấp có thể
mang lại lợi nhuận cao và giá trị thương hiệu cho các doanh nghiệp.
3. Dự báo về ngành gỗ Việt Nam trong tương lai:
+ Ngành gỗ có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam, là một trong những ngành
xuất khẩu chủ lực. Với những giải pháp phù hợp, ngành gỗ Việt Nam có thể tiếp tục phát
triển bền vững trong tương lai.
+ Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam dự kiến đạt khoảng 25 tỷ USD vào năm 2027.
+ Ngành gỗ đóng góp khoảng 10% GDP và tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động.
Theo Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), giá trị xuất khẩu lâm sản 6
tháng đầu năm 2023 của Việt Nam ước đạt 6,42 tỷ USD, giảm gần 29% so với cùng kỳ năm
2022. Tuy nhiên, ngành gỗ vẫn lạc quan có thể cán mốc xuất khẩu 14 tỷ USD vào cuối năm khi
các doanh nghiệp bắt đầu đón thêm một số đơn hàng mới.
Trong 6 tháng đầu năm 2023, đơn hàng tại các doanh nghiệp trong ngành giảm trung bình 30%.
Tuy nhiên, trong tháng 7/2023, các doanh nghiệp trong ngành đã bắt đầu đón những đơn hàng
trở lại, phục vụ cho mùa mua sắm nội thất cuối năm của thị trường thế giới.
Cho rằng khó khăn giảm đơn hàng hiện nay của ngành gỗ chỉ là tạm thời, chuyên gia kinh tế
Phạm Phú Ngọc Trai nhận định, ngành nội thất Việt Nam có đủ dư địa để phát triển trong 5 đến 10 năm tới.
“So với mức phát triển GDP trung bình của toàn cầu, ở mức 3%, tốc độ tăng trưởng kép của
ngành nội thất thế giới là 4,5%, ngành chế biến gỗ Việt Nam phát triển trung bình 15,4%/năm là
một con số chứng tỏ vị thế và tiềm năng rất lớn”, ông Trai nói.
Thị trường xuất khẩu gỗ của Việt Nam cũng đang đứng trước cơ hội cung ứng sản phẩm cho một số nước Trung Đông.
Vậy tóm tắt lại, tuy có nhiều khó khăn, thử thách phía trước nhưng với những giải pháp
phù hợp, ngành gỗ Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển bền vững trong tương lai.