-
Thông tin
-
Quiz
Tâm lý Giáo dục tiểu học môn Tâm lý quản lý | Học viện Nông nghiệp Việt Nam
1.2. Đặc điểm tâm lý của HS lớp 31.2.1. Tiền đề cho sự phát triển tâm lý của HS lớp 3HS tiểu học lứa tuổi 8 – 9 tuổi, tức HS lớp 3 sẽ có nhiều biến đổi quan trọng trongcuộc sống, lao động cũng như học tập.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Tâm lý học đại cương (HVNN) 8 tài liệu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2 K tài liệu
Tâm lý Giáo dục tiểu học môn Tâm lý quản lý | Học viện Nông nghiệp Việt Nam
1.2. Đặc điểm tâm lý của HS lớp 31.2.1. Tiền đề cho sự phát triển tâm lý của HS lớp 3HS tiểu học lứa tuổi 8 – 9 tuổi, tức HS lớp 3 sẽ có nhiều biến đổi quan trọng trongcuộc sống, lao động cũng như học tập.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Môn: Tâm lý học đại cương (HVNN) 8 tài liệu
Trường: Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:








Tài liệu khác của Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45619127
1.2. Đặc điểm tâm lý của HS lớp 3
1.2.1. Tiền đề cho sự phát triển tâm lý của HS lớp 3
HS tiểu học lứa tuổi 8 – 9 tuổi, tức HS lớp 3 sẽ có nhiều biến đổi quan trọng trong
cuộc sống, lao động cũng như học tập. Do đó các đặc điểm về tâm lý như tri giác, tư duy,
tưởng tượng, trí nhớ, ngôn ngữ, chú ý cũng có những thay đổi cơ bản. Trong giai đoạn lớp
3, HS đã chạm mốc được khoảng giữa của cấp tiểu học. Nhìn chung, trong nhận thức của
HS lúc bấy giờ về học tập chưa phải là nhận thức trách nhiệm đối với xã hội mà đơn thuần
chỉ là học tập có động cơ mang ý nghĩ tình cảm như lời động viên từ phía gia đình hay khen
thưởng từ phía nhà trường. HS ở lứa tuổi này đã biết tìm hiểu các dấu hiệu đặc trưng cơ
bản cho sự vật, phân biệt các đặc điểm của các chi tiết nhưng phần kỹ thuật động tác lại
còn khá giản đơn. Tiền đề quan trọng nhất trong bước phát triển tâm lý của HS chính là
dựa vào các đặc điểm về thể chất như hệ thần kinh và các yếu tố liên quan, hay mức độ tập
trung kết hợp với tâm thế khi đến trường của HS. Ngoài ra, cuộc sống sinh hoạt và học tập
tại nhà trường cũng là yếu tố đầu ảnh hưởng vào quá trình phát triển tâm lý của HS tiểu học.
1.2.1.1. Đặc điểm phát triển thể chất của HS lớp 3
Vấn đề về thể chất có rất nhiều khía cạnh để đề cập vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình học tập của HS. Ở lứa tuổi này, HS sẽ phát triển tương đối đồng đều về thể lực nếu
đem ra đối chiếu, so sánh với nhau. Ngoài ra, HS đã có thể tiến hành những vận động cơ
bản của người như đi, đứng, chạy, nhảy, giữ thăng bằng,… một cách mềm mại, nhanh và
chính xác. Điều quan trọng mà người GV cần quan tâm nhắc nhở và điều chỉnh cho HS
chính là tư thế ngồi viết, cách cầm viết. Vì lứa tuổi này bộ xương của trẻ đang bước vào
giai đoạn cứng dần nhưng còn nhiều mô sụn phát triển chưa hoàn thiện, cân đối. Nếu như
trẻ ngồi sai tư thế có thể dẫn cong, vẹo, gù xương. Bên cạnh đó, GV cũng cân nhắc trong
việc thiết kế các hoạt động giảng dạy, tránh việc cho HS làm quá nhiều hay những công
việc đòi hỏi tính tỉ mỉ có thể gây mệt mỏi cho các em.
Giai đoạn này cũng là lúc hệ thần kinh của HS phát triển mạnh, đây là thời kỳ bộ não
các em đang từng bước phát triển về khối lượng, trọng lượng cũng như cấu tạo. Hệ thần
kinh của HS bắt đầu hình thành các phản xạ có điều kiện nhanh và nhiều. So với lứa tuổi lOMoAR cPSD| 45619127
trước, có thể nói rằng hai quá trình của hệ thần kinh là hưng phấn và ức chế đã đạt tới mức
độ cân bằng. Tuy nhiên, quá trình hưng phấn dường như vẫn còn mạnh mẽ nên dẫn đến
khả năng ức chế của hệ thần kinh có phần yếu thế hơn. Cả bộ óc và hệ thần kinh của HS
vẫn còn trong giai đoạn hoàn thiện nên dẫn đến việc các em dễ bị kích thích. GV cần phải
thật sự quan tâm đến vấn đề này để giúp các em rèn luyện cho mình tính tự chủ, kiên trì,
hạn chế tối đa việc mất tập trung trong lúc học vì các tác nhân bên ngoài. Việc sử dụng
hình phạt hay biện pháp răn đe cũng phải được chọn lọc một cách kỹ lưỡng tránh việc HS
bị tổn thương về tình cảm và ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát triển hệ thần kinh của các em.
1.2.1.2. Tâm lý sẵn sàng đi học
Khác với lứa tuổi mầm non hay đầu cấp tiểu học, HS lớp 3 đã giảm bớt đi nhiều tình
trạng nháo khóc khi đến lớp. Sự thích thú được đến trường và thích được học tập đã thể
hiện rõ nét trong hoạt động học tập, các em thích được tham gia vào các hoạt động mang
tính nghiêm chỉnh và được đánh giá bằng điểm số hay lời nhận xét của GV. Động cơ thúc
giục hoạt động của HS chính là được thu nhận những thao tác mới, cảm xúc mới, kiến thức – kỹ năng mới.
Thời gian tập trung của HS cũng dần có sự thay đổi rõ rệt, mức độ tập trung tương
đối cao từ 30 đến 35 phút, nghĩa là tương đương với một tiết học trên lớp. Tính tò mò ham
hiểu biết chuyển dần sang tính ham học, các em đã bắt đầu nhận biết được tầm quan trọng
của việc chấp hành các quy tắc nhà trường, chuẩn mực xã hội cũng như việc tự chủ trong
hành vi. Hoạt động tự đánh giá trong nhà trường đã hình thành cho các em kỹ năng kìm
chế tính hiếu động và bộc phát trong hành vi. Có thể nói rằng, đây chính là thời điểm chín
muồi trong quá trình lĩnh hội kiến thức của HS giúp các em có thể vững bước trong cuộc
sống mới – cuộc sống của nhà trường tiểu học.
1.2.1.3. Đặc điểm cuộc sống nhà trường tiểu học
Ở trường tiểu học, HS phải tiến hành hoạt động học – hoạt động chủ đạo khi các em
đến trường. Hoạt động học ở tiểu học đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển toàn diện
của học sinh, không chỉ về mặt tri thức mà còn về kỹ năng và nhân cách. Trong giai đoạn
này, học sinh chuyển từ hình thức học tập qua chơi đùa sang học tập có mục đích và hệ lOMoAR cPSD| 45619127
thống hơn. Các em bắt đầu làm quen với các môn học, thông qua đó rèn luyện khả năng tư
duy, quan sát và ghi nhớ. Đặc điểm nổi bật của hoạt động học ở tiểu học là tính trực quan,
sinh động, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, giúp trẻ dễ tiếp thu kiến thức. Bên cạnh đó,
học sinh tiểu học rất nhạy cảm với sự khen ngợi và động viên, do đó, phương pháp giảng
dạy cần linh hoạt, tạo hứng thú và khuyến khích sự tự tin. Ngoài ra, môi trường học tập
còn giúp trẻ hình thành các kỹ năng xã hội như làm việc nhóm, chia sẻ, và xây dựng mối
quan hệ bạn bè, góp phần vào sự phát triển nhân cách của các em.
Ngoài ra, các mối quan hệ ở trường tiểu học đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển tâm lý và xã hội của học sinh. Đầu tiên là mối quan hệ với bạn bè, nơi trẻ học cách
giao tiếp, hợp tác và chia sẻ. Đây là giai đoạn trẻ bắt đầu hình thành tình bạn đầu đời, trải
nghiệm cảm giác vui buồn, thậm chí xung đột, giúp phát triển kỹ năng giải quyết vấn đề và
đồng cảm. Mối quan hệ với thầy cô giáo cũng rất quan trọng, vì thầy cô không chỉ là người
truyền đạt kiến thức mà còn là hình mẫu về đạo đức và hành vi. Sự quan tâm, động viên từ
giáo viên sẽ giúp trẻ tự tin hơn trong học tập và cuộc sống. Ngoài ra, mối quan hệ với các
anh chị lớp lớn và các em nhỏ hơn cũng giúp học sinh tiểu học phát triển tinh thần trách
nhiệm và biết cách cư xử phù hợp trong các tình huống khác nhau. Những mối quan hệ này
tạo nên môi trường học đường lành mạnh, giúp trẻ trưởng thành và phát triển toàn diện.
1.3. Đặc điểm nhận thức của HS lớp 3
1.3.1. Tri giác
Tri giác là tên gọi cho quá trình phản ánh một cách trọn vẹn thuộc tính bên ngoài của
một sự vật, hiện tượng nào đó khi mà giác quan của của con người đang tiếp xúc với chúng.
Nhìn chung, tri giác chứa đựng toàn bộ những đặc điểm của nhận thức theo cảm tính. Nghĩa
là sẽ phản ánh một cách trực tiếp những thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng theo
hoạt động của các giác quan.
Khi đề cập đến tính tri giác của HS lớp 3, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng ở giai đoạn
này tri giác của các em vẫn mang tính không chủ định. HS khi tri nhận vào một đối tượng
nào đó thì sẽ có xu hướng tập trung vào một vài chi tiết nổi trội. Sau đó cho rằng kết quả
mà mình đã tri giác được chính là tất cả các thuộc tính bên ngoài của đối tượng đó. HS ở
lứa tuổi này khi tri giác vẫn còn mang theo tính xúc cảm. Các em tri giác đối tượng không lOMoAR cPSD| 45619127
dựa trên những bản chất của đối tượng, mà thường tri giác theo những gì gây ra cho các
em nhiều xúc cảm như màu sắc hay hình ảnh chuyển động mang tính mới lạ. HS sẽ có khả
năng tri giác những cái trực quan, sinh động, rực rỡ tốt hơn so với những hình ảnh tượng
trưng và mang tính sơ lược. Khả năng phân tích và tách các dấu hiệu, các chi tiết nhỏ của
đối tượng lúc này của HS đã đi theo hướng có mục đích, có tổ chức và sâu sắc hơn so với
lứa tuổi mầm non và cấp đầu tiểu học. Tuy nhiên, ở độ tuổi này các em cũng còn khá hạn
chế khi tri giác về không gian và thời gian. HS thường khó hình dung Trái Đất to như thế
nào hay các vi khuẩn thật sự nhỏ ra sao? Đặc biệt, khi nhắc đến các khái niệm thời gian
như “thế kỉ” và “ngày xưa” các em vẫn còn khá mơ hồ, chưa tri giác được một cách chính
xác. Nhưng đối với các đơn vị như “giờ”, “phút”, “tuần” thì HS tri giác tương đối khá rõ
ràng. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần đề cập đến vai trò của người GV trong quá trình phát
triển tri giác của HS. Họ không chỉ hướng dẫn cho HS những kỹ năng mà còn hướng dẫn
các em xem xét, không chỉ dạy trẻ nghe mà còn dạy trẻ biết lắng nghe, không chỉ cho trẻ
nhận biết hay gọi tên đối tượng mà còn dạy trẻ biết phát hiện ra những thuộc tính bản chất của đối tượng. 1.3.2. Tư duy
Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối
liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách
quan mà trước đó ta chưa biết. (Bùi Văn Huệ, Phan Thị Hạnh Mai, Nguyễn Xuân Thức, 2014, 102)
Đặc điểm nổi bật về tư duy của HS lứa tuổi này đã biết chuyển từ tính trực quan, cụ
thể sang tư duy trừu tượng, khái quát. Nếu các lớp đầu tiểu học phải tư duy dựa vào những
đặc điểm trực quan của đối tượng thì lúc này đây HS đã có thể thoát khỏi những tính chất
trực tiếp ấy. Các em dần dần có khả năng tư duy những điều khát quát, trừu tượng, có thể
phân tích đối tượng mà không cần đến những hành động thực tiễn đối với đối tượng đó.
HS có thể phân biệt các dấu hiệu, những đặc điểm khác nhau của đối tượng dưới dạng ngôn
ngữ và sắp xếp chúng vào những hệ thống nhất định. Tuy nhiên trẻ vẫn còn khó khăn tri
tiến hành tổng hợp. Về điều này H.Vallon cũng đã từng nói: “Trẻ thường có khả năng chia
cái toàn thể ra từng bộ phận hơn là thống nhất chúng tạo nên tổ hợp mới. lOMoAR cPSD| 45619127
Về hoạt động so sánh, HS vẫn chưa được hình thành một cách đầy đủ. Các em thường
tìm thấy những điểm giống nhau ở những đối tượng quen thuộc và điểm khác nhau đối với
những đối tượng xa lạ, chưa thể thực hiện đồng thời hay phát hiện ra cùng một lúc những
điểm giống và khác nhau giữa các đối tượng. Trừu tượng hóa và khái quát hóa cũng là một
hoạt động khó trong hoạt động tư duy của các em. Bởi kỹ năng phân biệt các dấu hiệu và
lấy ra các thuộc tính bản chất chưa có sẵn ở HS tiểu học mà sẽ được hình thành dần. Nhìn
chung, HS lớp 3 đã thoát khỏi sự biểu thị của dấu hiệu trực quan và ngày càng dựa nhiều
hơn vào những tri thức được hình thành trong quá trình học tập nên đã nhìn thấy những
dấu hiệu bản chất nhất của đối tượng và tách chúng ra khỏi các dấu hiệu không bản chất để
làm nên sự khái quát đúng đắn. Vì thế, với khái niệm “chim”, HS lớp 3 đã tách được những
dấu hiệu bản chất của khái niệm, mặc dù chưa hệ thống hóa được các dấu hiệu đó. Học
sinh lớp 4,5 mới có thể nêu được các dấu hiệu đó một cách có hệ thống. Đặc điểm tư duy
của HS tiểu học còn thể hiện rõ trong phán đoán và suy luận của các em. HS lớp 3 đã biết
dựa vào nhiều dấu hiệu cả bản chất lẫn không bản chất để phán đoán nên có tính giả định.
Hơn thế nữa, các em còn có thể chứng minh và lập luận cho phán đoán của mình. Khi suy
luận các em đã dựa trên các tài liệu bằng ngôn ngữ và trừu tượng hơn. Song việc suy luận
của các em sẽ dễ dàng hơn nếu có tài liệu trực quan làm chỗ dựa.
1.3.3. Tưởng tượng
Tưởng tượng là một quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có trong kinh
nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng
đã có. (Bùi Văn Huệ, Phan Thị Hạnh Mai, Nguyễn Xuân Thức, 2014, 102)
Tưởng tượng của HS tiểu học được hình thành và phát triển trong quá trình học tập
và sinh hoạt hàng ngày của các em. Khuynh hướng chủ yếu của HS trong quá trình này là
khi càng phát triển về mặt nhận thức các em có xu hướng hình thành cách phản ánh đối
tượng một cách đấy đủ và khách quan nhất dựa vào những tri thức đã lĩnh hội được.
Nghiên cứu cho thấy rằng hình ảnh tượng tưởng của HS lúc đầu còn phải dựa trên
những đối tượng cụ thể như truyện tranh, vật thật hay một trải nghiệm thực tế nào đó,
nhưng về sau các em sẽ dần tưởng tượng được theo cơ sở ngôn từ. Vì vậy, nếu trẻ lớp 1
tham gia tiết học kể chuyện có chủ đề “Kể về một chuyến đi mà các em đã từng trải lOMoAR cPSD| 45619127
nghiệm”, thì các em có xu hướng kể chính xác từng chi tiết một chuyến đi nào đó mà mình
đã từng được trải nghiệm. Trong khi đó, cùng với một chủ đề như thế thì HS lớp 3
sẽ biết thêm thắt vào câu chuyện của mình những chi tiết khác do các em tưởng tượng
nên hoặc kết hợp nhiều chuyến đi để hoàn thành bài làm của mình. Điều đó có thể chứng
minh một điều càng về sau các chi tiết trong hình ảnh tưởng tượng của HS càng chi tiết và
chặt chẽ bởi các em biết sắp xếp, kết hợp chúng một cách hợp lý và có hệ thống.
1.3.4. Trí nhớ
Trí nhớ là quá trình phản ánh tâm lý phản ánh những kinh nghiệm đã có của cá nhân
dưới hình thức biểu tượng bằng cách ghi nhớ, giữ gìn và làm xuất hiện lại những điều mà
con người đã trải qua. (Bùi Văn Huệ, Phan Thị Hạnh Mai, Nguyễn Xuân Thức, 2014, 102)
Trong độ tuổi từ 8 – 9 tuổi, nhìn chung, trí nhớ trực quan vẫn còn chiếm ưu thế hơn
so với trí nhớ từ ngữ – logic. HS sẽ dễ ghi nhớ và tái hiện lại được đối với những gì các em
được trực tiếp tác động hay tiếp xúc với nó. Còn những điều được nghe giảng giải hay nói
cụ thể hơn những thông tin bằng lời các em vẫn khó tái hiện hơn so với tài liệu trực quan.
Các nghiên cứu cho thấy rằng lứa tuổi này các em ghi nhớ rất tốt, đặc biệt là ghi nhớ
máy móc. Các em ghi nhớ qua việc học thuộc, thể hiện rõ nhất trong chương trình Toán
lớp 3 là các em học các bảng nhân 3, 4, 6, 7, 8, 9 hay trong môn Tiếng Việt là học thuộc
các bài chính tả nhớ viết. Việc học thuộc này chủ yếu các em học từng câu, từng chữ rập
khuôn theo văn bản chứ không hề chú ý việc diễn đạt lại theo cách hiểu của mình và cũng
không chú trọng đến việc hiểu nội dung hay ý nghĩa của văn bản đó.
1.3.5. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là quá trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ tiếng nói để giao tiếp, để truyền
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội – lịch sử hoặc kế hoạch hóa hoạt động của mình. Ngôn
ngữ có hai chức năng chính: công cụ của giao tiếp và công cụ của tư duy. (Bùi Văn Huệ,
Phan Thị Hạnh Mai, Nguyễn Xuân Thức, 2014, 102)
Các chức năng của ngôn ngữ nằm trong mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó,
chức năng thông báo (giao tiếp) là chức năng cơ bản nhất. Bởi vì, chỉ trong quá trình giao
tiếp, con người mới thu nhận được các tri thức mới về hiện thực, do đó mới điều chỉnh
được hành vi của mình cho thích hợp với hoàn cảnh sống. Thực chất, chức năng khái quát lOMoAR cPSD| 45619127
(nhận thức) cũng là một quá trình giao tiếp (giao tiếp với chính bản thân mình). Chức năng
chỉ nghĩa là điều kiện thực hiện hai chức năng trên. (Bùi Văn Huệ, Phan Thị Hạnh Mai,
Nguyễn Xuân Thức, 2014, 102)
Giai đoạn lớp 3, HS phát triển mạnh mẽ về ngữ âm, ngữ pháp cũng như từ vựng thông
qua các giờ học Tiếng Việt trên lớp. Vốn từ của các em lúc bấy giờ phát triển một cách
đáng kể do được tham gia vào các hoạt động học tập, từ việc hiểu nghĩa từ phải dựa vào
trực quan, khát quát đến trừu tượng hóa nghĩa của từ do có thể sử dụng được thành thạo từ
điển dành cho HS. Tuy nhiên, việc hiểu nghĩa của từ của HS vẫn còn tường minh trên câu
chữ, các em vẫn chưa thành thạo trong việc hiểu nghĩa bóng của từ. Do đó, HS vẫn còn
mắc khá nhiều lỗi trong khi nói hoặc trong khi viết.
Theo kết quả nghiên cứu, trẻ ở lứa tuổi này vẫn còn mắc khá nhiều lỗi trong Tập làm
văn. Nguyên nhân chính là do trẻ chưa biết chuyển hóa từ ngôn ngữ nói sang ngôn ngữ
viết, chưa biết đặt mình vào vị trí của người nghe – người đọc nên dẫn tới việc viết câu
chưa đúng, không biết dùng dấu câu phù hợp, dùng từ sai ngữ cảnh,… Tuy nhiên, nếu xét
về phương diện đọc thành tiếng thì trẻ ở lứa tuổi này hoàn toàn có thể đọc thành thạo một
văn bản. Mặt khác, do HS chưa nắm được các thủ thuật như từ nhấn mạnh, trật tự từ hay
dấu biểu cảm nên vấn đề đọc hiểu của các em vẫn còn khá hạn chế. 1.3.6. Chú ý
Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một hay một nhóm sự vật, hiện tượng, để định
hướng hoạt động, bảo đảm điều kiện thần kinh – tâm lý cần thiết cho hoạt động có tiến
hành hiệu quả. Chú ý không phải là một quá trình tâm lý mà là một trạng thái tâm lý luôn
đi kèm các hoạt động tâm lý khác (đặc biệt là hoạt động nhận thức), giúp cho các hoạt động
tâm lý đó diễn ra có kết quả, chẳng hạn ta vẫn thường nói: chăm chú nhìn, lắng tai nghe,
tập trung suy nghĩ,… Các hiện tượng chăm chú, lắng tai, tập trung,… là những biểu hiện
của chú ý. Chú ý không có đối tượng riêng, đối tượng của nó chính là đối tượng của hoạt
động tâm lý mà nó “đi kèm”. Vì thế chú ý được coi là “cái nền”, “cái phông” là điều kiện
của hoạt động có ý thức. (Bùi Văn Huệ, Phan Thị Hạnh Mai, Nguyễn Xuân Thức, 2014, 102) lOMoAR cPSD| 45619127
Khi nghiên cứu, các nhà khoa học cho rằng HS lớp 3 thường có chú ý không chủ định.
HS thường chú ý vào những gì mới mẻ, nhiều màu sắc hay vào những tài liệu học tập có
tính trực quan, sinh động. Mặt khác, đối với những gì không rõ ràng, không hiểu hoặc quá
quen thuộc, buồn chán thì HS không thể tập trung chú ý vào. Tuy nhiên, không phải đối
tượng nào cũng lí thú và hấp dẫn, GV cần rèn cho học sinh khả năng tập trung ngay cả khi
đối tượng không mang nhiều “màu sắc”. Có thể kết luận như vậy, vì trong học tập nhất
định có cả điều buồn tẻ nên các em cần phải làm quen chú ý đối với đối tượng không hứng
thú. Hạn chế lớn nhất của học sinh lứa tuổi này chính là quá trình ức chế của não bộ còn
yếu, vì thế các em thường có tình trạng bỏ sót từ trong câu hay quên lời dặn dò của GV cuối buổi học.
Sự phân phối chú ý của HS lớp 3 cũng cần phải đề cập đến, các em không thể một lúc
chú ý nhiều đối tượng. HS chỉ có thể viết hoặc chỉ có thể nghe GV giảng bài, chứ không
thể nào vừa viết kết hợp với nghe GV giảng bài. Nhưng chú ý có chủ định của HS hoàn
toàn có thể phát triển trong quá trình học tập, vì các hoạt động học tập đòi hỏi các em phải
chú ý có chủ định rất cao. Chú ý có chủ định càng phát triển thì kỹ năng, tinh thần làm việc
có trách nhiệm của trẻ càng nâng cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Văn Huệ, Phan Thị Hạnh Mai, Nguyễn Xuân Thức. (2014). Giáo trình Tâm lý học Tiểu
học. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.