






Preview text:
lOMoAR cPSD| 61601590
TÂM LÝ HỌC GHESTAN (TLH CẤU TRÚC)
Tâm lý học Ghestan (tiếng Đức Gestalt là hình ảnh, cấu trúc), là một trong
những xu hướng có ảnh hưởng và gây hứng thú nhiều nhất trong thời kỳ khủng
hoảng, là phản ứng chống lại chủ nghĩa nguyên tử, máy móc và các dạng biểu
hiện của tâm lý học liên tưởng. Ảnh hưởng đến trường phái tâm lý học này là
các tư tưởng triết học cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX và việc giải quyết vấn đề
về tính trọn vẹn của tâm lý học và triết học Đức. Người đầu tiên dùng khái niệm
Ghestan là Erenphels vào 1890 trong tác phẩm về chất lượng của hình thức
khi nghiên cứu tri giác. Cái cớ trực tiếp để Erenphels tiếp tục nghiên cứu về tri
giác là quan điểm của E.Makhơ về tri giác giai điệu và tri giác các hình thức
hình học, cho rằng cảm giác giai điệu hay các hình thức âm thanh không phụ
thuộc vào cảm giác của từng âm riêng lẻ, vì các âm riêng lẻ trong trường hợp
dịch chuyển giai điệu sang âm độ khác vẫn được bảo tồn, kiểu như bản thân
cảm giác là những yếu tố rất giản đơn và không tách rời nhau. Sự kiện trên,
theo Erenphels là không cần phân tích đặc biệt. Ông tìm ra ở đó dấu hiệu đặc
biệt Ghestan - thuộc tính dịch chuyển: giai điệu vẫn là nó như vốn có, cả khi
chuyển nó từ âm độ này sang âm độ khác. Ghestan hình vuông luôn được gìn
giữ, không phụ thuộc vào kích cỡ, vị trí, màu sắc của các yếu tố cấu thành. Tuy
nhiên, học thuyết Ghestan không được Erenphels phát triển, ông đi theo nghiên
cứu trên quan điểm về chủ nghĩa liên tưởng.
Lịch sử nghiên cứu của Tâm lý học Ghestan bắt đầu từ việc xuất bản
công trình của Véchaimơ (1880 - 1943) Nghiên cứu thực nghiệm tri giác vận
động (1912). Khi thực nghiệm, người bị nghiên cứu được lần lượt xem hai kích
thích ánh sáng qua hai khe nhỏ khác nhau 20 độ – 30 độ (một kích thích chiếu
thẳng, hoặc chiếu nghiêng; gọi là kích thích A, kích thích còn lại chiếu ngang
gọi là kích thích B). Giữa hai kích thích tạo thành một góc 20 độ – 30 độ. Nếu
khoảng thời gian giữa A và B rất lớn thì hai kích thích được phân biệt rất rõ, cái
nọ kế tiếp cái kia. Khi kích thích được phát ra kế tiếp nhau quá nhanh thì nghiệm
thể chỉ nhìn thấy có góc sáng. Ở tốc độ trung bình có thể thấy được đường
thẳng thứ nhất (ở tư thế nghiêng hay thẳng đứng) được chuyển thành tư thế lOMoAR cPSD| 61601590
ngang. Sự vận hành liên tục như thế làm cho nghiệm thể không thể phân biệt
được sự di chuyển của nó trong thực tế, thậm chí ngay cả khi đưa ra cho
nghiệm viên những mệnh lệnh đặc biệt.
Bản thân sự kiện di chuyển liên tục của ánh sáng như Véchaimơ nói đến
không phải là mới. Cái mới ẩn chứa trong cách lý giải sự kiện đó. Theo ông, khi
hưng phấn tại điểm A nào đó trên não thì lập tức xung quanh điểm đó sẽ có một
vùng chịu ảnh hưởng tác động của kích thích. Nếu từ A hưng phấn truyền sang
B thì giữa A và B sẽ xuất hiện vòng khâu khép kín và trong thời gian ngắn đó
hưng phấn truyền từ A sang B. Tư tưởng của Véchaimơ là điểm khởi phát để
phát triển tâm lý học của Ghestan.
Tiếp theo, đặc biệt vào những năm 20, ở Béclin đã hình thành trường
phái tâm lý học Ghestan do Véchaimơ đứng đầu.
V.Côlơ (1887 - 1967) cho rằng, thế giới vật lý cũng như tâm lý đều phải
tuân theo quy luật Ghestan. Nói cách khác, tất cả các quá trình thực tế đều diễn
ra chịu sự chi phối của quy luật Ghestan. Để giải thích các hiện tượng tâm lý
cần phải tìm ra cấu trúc tương ứng trên não, các cấu trúc này được giải thích
trên cơ sở trường điện từ của vật lý. Ông đặt giả thiết cho rằng, sự tồn tại của
các trường điện từ trong não xuất hiện, do ảnh hưởng của kích thích đồng dạng
với cấu trúc hình ảnh của đồ vật. Nguyên tắc đồng dạng của Ghestan là biểu
thị sự thống nhất về cấu trúc của thế giới vật lý, sinh lý và tâm lý. Trong đó, tâm
lý là tái sản phẩm có cấu trúc chính xác thuộc các tổ chức năng động của các
quá trình não tương ứng.
Côlơ đã làm thí nghiệm nghiên cứu để tìm hiểu xem tri giác trọn vẹn hay
tri giác yếu tố là tiên quyết: Con vật được dạy để chọn màu sáng hơn từ hai
màu tối. Sau đó, thay hai màu tối thành hai màu sáng, con vật vẫn tiếp tục chọn
màu sáng hơn từ hai màu mới được thay, mặc dù trước đây nó không được
dạy. Như vậy ở con vật vẫn giữ quan hệ giữa màu sáng và màu tối trong thực
nghiệm sau, nghĩa là quan hệ đó chứ không phải chất lượng là chỉ số tuyệt đối
quyết định sự lựa chọn. Suy ra, yếu tố thành phần chỉ có ý nghĩa khi nó nằm lOMoAR cPSD| 61601590
trong một cấu trúc xác định với tư cách là một thành viên. Tính trọn vẹn - đấy
không phải là cấu trúc cao siêu, không phải là sản phẩm của trí tuệ hay sự tổng
hợp sáng tạo. Từ năm 1917, Côlơ đã phát triển nguyên tắc cấu trúc để lý giải
về tư duy (trong tác phẩm Nghiên cứu tư duy ở vượn người).
Cốpca (1886 - 1941) đã sử dụng nguyên tắc cấu trúc để giải thích các
yếu tố phát triển tâm lý, từ đó xây dựng học thuyết phát triển tâm lý dưới góc
độ cá thể và chủng loài phát sinh. Sự phát triển thể hiện sự phức tạp hóa động
thái các hình thức hành vi sơ đẳng, ở sự hình thành các cấu trúc ngày càng
phức tạp hơn cũng như ở sự hình thành quan hệ giữa các cấu trúc đó. Thế giới
của trẻ sơ sinh, trong chừng mực nào đó đã được Ghestan hóa. Những cấu
trúc ở trẻ sơ sinh còn chưa liên quan với nhau, chúng như những phân tử rời
rạc, tồn tại không phụ thuộc vào nhau. Nhưng cùng với sự phát triển, chúng sẽ
liên kết và quan hệ với nhau.
Năm 1921, Véchaimơ, Cốpca và Côlơ - những người sáng lập ra tâm lý
học Ghestan đã cùng cho ra đời Tạp chí Các nghiên cứu Tâm lý học, đăng tải
các nghiên cứu thực nghiệm của trường phái Ghestan. Cũng ở thời kỳ này, ảnh
hưởng của Ghestan với tâm lý học thế giới đã bắt đầu có ý nghĩa quan trọng
và các bài báo tổng quan của Véchaimơ Về tâm lý học Ghestan (1921), đề học
thuyết Ghestan (1925). Vào năm 1926, K.Lêvin cho đăng bài Sự chủ định, ý chí
và như cầu. Đó là những kết quả nghiên cứu thực nghiệm về hành động ý chí.
Những nghiên cứu của Ghestan được tiếp tục đến năm 1930, trước khi
chủ nghĩa phát xít xuất hiện ở Đức. Sau đó, Véchaimơ, Cốpca và Lêvin di tản
sang Mỹ. Những nghiên cứu trong thời kỳ này rất ít. Vào những năm 1959, sự
quan tâm đến tâm lý học Ghestan suy giảm nhưng thời gian sau đó, tình hình
đã được cải thiện. Côlơ trong bài báo Tâm lý học Ghestan hôm nay đã nói đến
ảnh hưởng của tâm lý học Ghestan với sự phát triển tâm lý học ở Mỹ qua các
công trình, học thuyết về việc học của Tôman. Thời gian cuối, các nước Tây Âu
và các tổ chức khác nhau ở Mỹ đã quan tâm rất nhiều đến tâm lý học Ghestan,
biểu hiện là vào năm 1978 đã thành lập Hội Tâm lý học thế giới với tên gọi “Học
thuyết Ghestan và phụ trương của nó”. lOMoAR cPSD| 61601590
Vấn đề trung tâm của tâm lý học Ghestan là vấn đề trọn vẹn và tiếp cận
trọn vẹn trong nghiên cứu tâm lý học. Tâm lý học Ghestan theo như Véchaimơ
không phải là sự vay mượn về lý thuyết mà phát sinh từ những nhu cầu nghiên
cứu con người cụ thể, nhu cầu mang tính kinh nghiệm. Ảnh hưởng lớn đến tâm
lý học Ghestan là triết học của Cantơ, của Mác và của Crusơ. Tâm lý học
Ghestan phát triển trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên,
đặc biệt là vật lý. Tâm lý học Ghestan không chấp nhận phương pháp tự quan
sát có phân tích. Họ cho rằng, phân tích là sự tiếp tục, còn tri giác là cái đầu
tiên đưa lại hình ảnh trọn vẹn.
Ngay từ đầu, tâm lý học Ghestan đã phủ nhận rằng, tự giác có nguồn gốc
từ cảm giác. Theo họ, cảm giác chỉ là những ghi nhận. được xây dựng trong
các tác phẩm và các phòng thực nghiệm tâm lý học. Tâm lý học Ghestan là tâm
lý học cấu trúc. Để chứng minh quan điểm của mình, các nhà tâm lý học
Ghestan đã làm những thí nghiệm rất đơn giản, chủ yếu là để chứng minh tính
trọn vẹn ban đầu. Ví dụ: họ đưa ra các dấu chấm... (thí nghiệm Véchaimơ).
Người bị thực nghiệm thường liên kết những dấu chấm vào thành nhóm, giữa
các nhóm cách nhau một khoảng. Người bị thực nghiệm không nhìn thấy từng
dấu chấm mà chỉ nhìn thấy chúng thành từng nhóm hai dấu chấm. Thí nghiệm
này cùng kết quả thực nghiệm khác cho thấy cái đầu tiên trong tri giác là cái
trọn vẹn, các yếu tố của trường thị giác được liên kết thành cấu trúc tri giác
theo một số đặc điểm của đối tượng. Chẳng hạn, sự giống nhau của các yếu
tố, tính khép kín, tính cân đối. Tâm lý học Ghestan cho rằng, hình ảnh trọn vẹn
là cấu trúc năng động và được hình thành theo những quy luật riêng. Trong
trường thị giác, khi tri giác, các năng lượng liên kết và chống đối cùng hoạt
động, các năng lượng liên kết hướng tới liên kết các yếu tố lại với nhau và
mang ý nghĩa trọng tâm, vì chức năng của nó là tích hợp. Chính những năng
lượng liên kết này sẽ giải thích quy luật nảy sinh cấu trúc khi tri giác. Còn các
năng lượng chống đối lại nhằm hướng tới các trường không tích hợp. lOMoAR cPSD| 61601590
Hoạt động tri giác có nhiều hình thức: khép kín các hình còn hở, sai lệch
(ảo giác), v.v... Tâm lý học Ghestan đã đưa ra một số các quy luật của tri giác đó là: -
Quy luật phông và hình: theo quy luật này, trường thị giác được
táchthành phông và hình vì hình bao giờ cũng khép kín, có tính sống động, rõ
ràng, gần với chúng ta về mặt không gian, định khu chính xác trong không gian
và giữ vị trí chính trong trường thị giác. Phông cũng có chức năng của nó,
phông là cái chung mà hình nằm trên đó, phông có cảm giác nằm phía sau hình
và định khu không rõ ràng trong không gian.
Quy luật về hướng tới hình ảnh đẹp: biểu thị ở việc tổ chức tri giác theo
cách sắp xếp trật tự bên trong. Khi các hình thể kích thích không đồng nhất thì
hướng tri giác là đi đến một hình ảnh đẹp, đơn giản hóa việc tri giác. Điều này
được minh chứng ở ví dụ dưới đây:
Hình 1: Tri giác như là một hình tứ giác bị chia ra bởi đường cắt bên trong.
Hình 2: Như là hai hình độc lập liên kết với nhau bởi một cạnh bên.
Theo Cốpca, kết quả thu được như trên là do, ở trường hợp một, cấu
trúc tứ giác rõ hơn là hai hình nhỏ, trong khi ở trường hợp hai thì ngược lại. -
Quy luật bổ sung đến trọn vẹn: nếu như hình thể chưa khép kín thì
khitri giác ta vẫn nhận thấy chúng trọn vẹn.
Ví dụ như hình trên: từ các dấu chấm vẫn được tri giác là hình tam giác.
Cấu trúc là sự phản ánh trực tiếp vào ý thức của các quá trình sinh lý
trong não, nảy sinh khi có tác động từ bên ngoài dưới dạng các xung hướng
tâm đi đến vỏ não. Ở đây, các quy luật sinh lý được giải thích bằng các định
luật của trường điện tử.
Ví dụ: Việc phân tách trường thị giác thành hình và nền được lý giải do
kết quả hình thành trong não hai trường tích điện khác nhau, giữa chúng nảy
sinh năng lượng điện chuyển động. Các quá trình này đồng dạng với hiện tượng lOMoAR cPSD| 61601590
tri giác các hình thể trên nền phông xác định. Các nhà tâm lý Ghestan đã giữ
quan điểm song hành để nghiên cứu quan hệ cái tâm lý và não trong đó hành
động của não được giải thích theo kiểu vật lý của Cantơ.
Tư duy cũng là một vấn đề được tâm lý học Ghestan quan tâm. Theo
Côlơ, giải bài tập trí tuệ là quá trình liên kết lại các yếu tố của một trường không
gian trước đó không liên hệ với nhau thành một cấu trúc tương ứng với tình
huống có vấn đề. Việc cải tổ cấu trúc này diễn ra đột ngột, và là kết quả của sự
bừng hiểu (với điều kiện tất cả các yếu tố cần thiết để giải quyết vấn đề nằm
bên trong trường thị giác của con vật). Véchaimơ đã phổ biến quy luật này để
nghiên cứu tư duy con người. Điều kiện để cấu trúc lại tình huống theo
Véchaimơ là biết gạt bỏ những kinh nghiệm không phù hợp với tình huống của
nhiệm vụ vốn đã hình thành và củng cố trong quá khứ. Tuy tư duy là một quá
trình thống nhất, song cũng chia làm ba pha: xác định nhiệm vụ từ những điều
đã cho; phân nhóm, tổ chức lại, cấu trúc là các thao tác không có liên quan đến
nhiệm vụ đã xác định; tìm cấu trúc theo con đường bừng hiểu.
Một trong các vấn đề nghiên cứu của tâm lý Ghestan là nhu cầu, ý chí...
K.Lêvin (1890 – 1947) là người nghiên cứu những vấn đề nêu trên của tâm lý
học trong trường phái Tâm lý học Ghestan. Ông cho rằng nhu cầu là cơ sở của
tính tích cực ở bất kỳ hình thức hoạt động nào (tư duy, trí nhớ hay hành vi).
Nhu cầu là khát vọng, là xu hướng thực thi một mục đích nào đó đặt ra
trước chủ thể. Để phân biệt khái niệm nhu cầu của mình với các khái niệm về
nhu cầu mang tính sinh học, mà trước đó hay được các tác giả khác đề cập,
Lêvin gọi chúng là nhu cầu lượng tử. Nhu cầu này sẽ hình thành trong nhân
cách một hệ thống luôn có xu hướng phóng điện. Lúc phóng điện cũng là lúc
diễn ra sự thỏa mãn nhu cầu. Vì thế, học thuyết của Lêvin được gọi là “thuyết
năng động của nhân cách”. Sự phóng điện của nhu cầu được thực thi trong
những hoàn cảnh nhất định, mà Lêvin gọi là trường tâm lý. Mỗi đồ vật trong
trường tâm lý không chỉ có những đặc điểm vật lý mà còn luôn nằm trong mối
quan hệ nào đó với những nhu cầu của chủ thể. Chính nhu cầu quyết định đồ
vật này thì có đặc điểm thúc đẩy hành động, có giá trị dương tính, còn đồ vật lOMoAR cPSD| 61601590
khác không thúc đẩy hành động, có giá trị âm tính. Như vậy, trong trường tâm
lý có các đồ vật với giá trị âm - dương tính khác nhau theo quan hệ với nhu
cầu. Sự thống nhất giữa nhân cách và môi trường được Lêvin gọi là “không
gian cuộc sống”. Cấu trúc và động thái của nó được biểu hiện ở sự phụ thuộc
qua lại, ở sự cân bằng, ở sức mạnh. Không gian của cuộc sống có những thuộc
tính: mức độ hiện thực, tính viễn cảnh của thời gian. Chính khái niệm viễn cảnh
thời gian đã giúp cho Lêvin giải thích những mong đợi, biểu tượng về tương lai,
về quá khứ trong mối liên quan hiện tại. Cùng với nhu cầu lượng tử. Ông đã
nghiên cứu vấn đề hoàn thành mục đích và hành vi có mục đích. Những nghiên
cứu này đã đưa vào tâm lý học tổ hợp các khái niệm quan trọng, đặc trưng cho
hành vi, liên quan đến việc đạt mục đích: cấu trúc của mục đích, các mức độ
vươn tới đích của cá thể.
Lêvin đã để lại những tư tưởng để trên cơ sở đó các nhà nghiên cứu đã
xây dựng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm về trí nhớ, về nhu cầu, về nhân cách.
K.Lêvin còn làm phong phú thêm cho tâm lý học bằng một loạt các
phương pháp và thủ pháp mới. Đây là phương pháp tạm đình chỉ hoạt động,
phương pháp ghi nhớ những hành động đã kết thúc và chưa kết thúc, phương
pháp thay thế, phương pháp nghiên cứu tìm ra mức độ vươn tới, phương pháp
gây chán nản. Những phương pháp do ông soạn thảo đến nay vẫn còn được
sử dụng. Trong thời gian ở Mỹ, K.Lêvin đã từ bỏ nghiên cứu những vấn đề về
Tâm lý cá thể mà chuyển sang nghiên cứu về quan hệ liên nhân cách.
Tóm lại, cùng với xây dựng về lý luận các phương pháp nghiên cứu thực
nghiệm là những thành tựu, đánh dấu mốc quan trọng trong hoạt động của tâm
lý học Ghestan. Tuy nhiên, việc sử dụng một nguyên lý chung nguyên lý cấu
trúc ở cả quá trình bản năng lẫn quá trình trí tuệ đã không cho phép thấy được
sự khác nhau cơ bản giữa động vật và con người.