lOMoARcPSD| 59062190
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
76
NHẬN THỨC BẢN THÂN VÀ ỨNG DỤNG TRONG GIÁO DỤC SELF-
KNOWLEDGE AND ITS APPLICATIONS IN EDUCATION
Đỗ Mạnh Cường
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM
TÓM TẮT
Nhận thức về mình sự kiện cơ bản điều kiện thiết yếu để con người sống đúng bản
chất của mình và thể hiện một đời sống ý thức, tự do và có trách nhiệm. Biết mình là yếu tố
nền tảng để hiểu biết và tương tác với thế giới bên ngoài. Không có nhận thức đúng về mình
thì cũng không thể nhận thức tương tác thích hợp với người khác thế giới xung
quanh. Nhận thức ấy bắt đầu ngay từ giây phút hiện hữu đầu tiên nhưng cần được tiếp
tục phát triển qua tất cả các giai đoạn của cuộc đời. vậy giáo dục một vai trò quyết
định trong tiến trình nhận thức bản thân này. Bài viết này dựa trên một số thuyết tâm
xã hội học vững chắc về nhận thức bản thân và thảo luận về các ứng dụng thực tiễn của nó
trong giáo dục.
Từ khoá: nhận thức, nhận thức bất nhất, tự nhận thức, thái độ, hành vi
ABSTRACT
Self-knowledge is a human fact and a fundamental condition for human beings to fulfill their
human calling. It enables them to live a conscious, free and responsible life. ‘Know oneself
is also a basic premise to know and interact with the world. Without a proper knowledge of
the self, it is impossible to know the other properly. Although self-knowledge may appear at
the first moment of a human existence, it needs to be developed through all the phases of a
human life. Hence the vital role of education in the process of self cognition.The paper starts
from some widely recognized psychosocial theories on the subject and then discusses its
various applications in education.
Keywords: cognition, cognitive dissonance, self-perception, attitude, behavior
I. KHÁM PHÁ BẢN THÂN
Con người không chỉ khả năng biết,
nhận thức về thế giới các sự vật xung
quanh. Con người cũng khả năng nhận
thức về các tưởng, niềm tin, thái độ, cảm
xúc trạng thái bên trong của mình. Đó
nhận thức bản thân hay tự nhận thức.
Nhận thức bản thân một sự kiện của con
người một đòi hỏi thiết yếu để con
người thể hiện một đời sống ý thức, tự do và
trách nhiệm. Nhà triết học Hi Lạp Socrate
cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận
thức bản thân qua hai câu nói bất hủ: “Hãy
biết mình!” “Cuộc đời không tra vấn thì
không đáng sống!”
Nhưng sự nhận thức này xảy ra như thế
nào? phải một trực giác, một sự hiểu
biết trực tiếp của chủ thể, hay dựa trên các
quan sát của chủ thvề các hành vi của chính
mình? Mức độ chính xác hay sai lầm của nó
thế nào? Các quan sát của chủ thể về các
hành vi của mình khác với nhận xét của
một người quan sát bên ngoài về cùng những
hành vi ấy không? v.v…
Đây những vấn đề vừa thuộc phạm vi
triết học vừa thuộc phạm vi tâm lý xã hội.
lOMoARcPSD| 59062190
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
77
Bài này sẽ tập trung vào phạm vi thứ hai này,
dựa trên một số lý thuyết đã được nhìn nhận
rộng rãi qua các phân tích về thái độ và hành
vi con người, và được ứng dụng trong nhiều
phạm vi của đời sống, cách riêng trong lãnh
vực giáo dục con người.
Từ trước đến nay, đã rất nhiều phân
tích thảo luận về chủ đề này. Tuy nhiên,
trước khi khoa tâm học thực nghiệm
vào cuối thế kỷ 19, các phân tích ấy chủ yếu
đều giới hạn trong lãnh vực triết siêu
hình. Thậm chí chính các nhà tâm lý học lúc
đầu cũng chỉ phân tích chúng thuần túy dưới
khía cạnh thuyết triết học, đặc biệt bằng
phương pháp nội quan. Có lẽ Skinner (1945,
1953, 1957) người đầu tiên coi chúng
những vấn đề thực sự của tâm học khi ông
sử dụng thuyết hành vi triệt để của ông để
phân tích các ‘skiện riêng tư’ vai trò của
chúng trong một khoa học về hành vi con
người. Từ đó trở đi, các nhà tâm học đã
bắt đầu đưa ra các thuyết dựa trên các
bằng chứng thực nghiệm.
Trong lãnh vực tâm hội, hai
thuyết quan trọng tìm cách cắt nghĩa nhận
thức của con người về hành vi của chính
mình: Thuyết nhận thức bất nhất (theory of
cognitive dissonance) thuyết tự nhận thức
(theory of self-perception). Đây hai
thuyết đã góp phần rất lớn cho nhận thức của
con người về hành vi thái độ của mình,
được ứng dụng để làm thay đổi hành vi hay
thái độ của con người trong rất nhiều lãnh
vực, đặc biệt trong giáo dục.
1. Thuyết nhận thức bất nhất
Năm 1957, Leon Festinger đề ra lý thuyết
nhận thức bất nhất, thuyết này đã làm
thay đổi cái nhìn của các nhà tâm học v
các hành vi các quyết định của chủ thể.
Về bản, thuyết nhận thức bất nhất khá đơn
giản. khởi sự từ ý tưởng về các nhận thức.
Nhận thức c sự hiểu biết về các tưởng,
niềm tin, giá trị, thái độ, hành vi, hay cảm
xúc, v.v… của một chủ thể. dụ, “Tôi thích
ăn sôcôla” là một nhận thức. “Tôi là người”,
“Tôi đói”, v.v… cũng những nhận thức.
Chúng ta có vô số nhận thức trong đầu óc.
Festinger phân ch mối tương quan giữa
các nhận thức với nhau. Ông phân biệt ba
loại tương quan:
a) Các nhận thức không liên quan với
nhau, dụ: “Tôi thích ăn sôcôla” “tôi
thông minh”.
b) Các nhận thức tương quan hòa
hợp nhau, dụ: “Tôi không hút thuốc” và
“hút thuốc có hại cho sức khỏe”.
c) Các nhận thức xung khắc nhau,
dụ: “Tôi sợ béo phì” “Tôi thích ăn
sôcôla”.
Để tránh ý tiêu cực của từ xung khắc
(inconsistent), Festinger dùng hai t mang
tính trung lập bất nhất (dissonant)
thuần nhất (consonant).
Nhận thức bất nhất (cognitive
dissonance) tình trạng một chủ thể
cùng một lúc hai nhận thức không hòa hợp
với nhau: khi hành vi của họ không nhất
quán với thái độ của họ, hay khi các hành vi
của họ không a hợp với nhau. dụ, một
người nhận thức rõ ràng hút thuốc hại cho
sức khỏe (=thái độ) vẫn tiếp tục hút thuốc
(=hành vi). Hay một người tích cực hoạt
động bảo vệ môi trường nhưng đồng thời bỏ
phiếu cho một ứng cử viên không quan tâm
tới môi trường.
Thuyết nhận thức bất nhất dựa trên ý
tưởng bản người ta không thích
những nhận thức bất nhất. Khi một người
nhận thấy hành vi của mình không nhất quán
với các thái độ của nh, thuyết nhận thức
bất nhất dự báo người ấy sẽ trải nghiệm một
sức ép, một động lực hay một kích ứng
(arousal) thúc đẩy họ giảm thiểu hay xóa bỏ
sự xung khắc để tạo một cảm giác cân bằng.
lOMoARcPSD| 59062190
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
78
Mức độ bất nhất cao hay thấp tuỳ thuộc 2
yếu tố sau đây: (a) tỉ lệ tương đối giữa các
yếu tố thuần nhất các yếu tố bất nhất;
(b) tầm quan trọng của các yếu tố hay vấn đề
liên quan. Theo Festinger & Carlsmith
(1969), để đánh giá mức độ bất nhất, phải
lưu ý tới cả các nhận thức bất nhất các
nhận thức thuần nhất. Nếu gọi tổng số các
bất nhất là D và tổng số các thuần nhất là C,
chúng ta có thể có tổng mức độ bất nhất là D
chia cho D cộng C [D/D+C]. (tr. 204)
Theo Festinger (1957) Aronson
(1969), người ta thể giảm thiểu hay a
bỏ xung khắc bằng các cách sau đây:
1. Bỏ hay thay đổi một trong hai nhận
thức xung khắc; ví dụ, bỏ hút thuốc.
2. Tìm các thông tin mới để biện minh
cho hành vi xung khắc. dụ người nghiện
thuốc thể tìm kiếm các bằng chứng cho
thấy hút thuốc cũng những cái lợi như
giúp giảm cân, tỉnh táo, giảm stress, v.v…
Festinger gọi đó chọn lọc thông tin
(selective exposure) có lợi để biện minh cho
hành vi của mình.
3. Người ta thể coi nhẹ sự xung
khắc, cho rằng nó thực sự không quan trọng.
4. Người gặp nh trạng nhận thức bất
nhất cũng thể sử dụng các chế gián
tiếp. Thay trực tiếp nhắm vào việc giảm
thiểu xung khắc, họ thể tìm cách cải thiện
sự tự tin của mình bất chấp sự bất nhất giữa
hành vi và thái độ. Họ có thể nhấn mạnh các
phẩm chất tích cực của họ mà sự xung khắc
có thể đe dọa.
Thí nghiệm: Sự ưng thuận gượng ép
(forced-compliance)
Điều xảy ra khi chú ng ta làm một hành
vi không nhất quán với thái độ hay niềm tin
của mình?
Trong thuyết nhận thức bất nhất của
Festinger (1957), hai hệ luận bản sau
đây:
1) Nếu một người được thuyết phục hay
dụ dỗ làm hay nói một điều ngược với ý
kiến riêng của họ, họ sẽ khuynh hướng
thay đổi ý kiến cho hợp với điều họ đã
làm hay nói.
2) Sức ép đthuyết phục hành vi công
khai càng mạnh thì khuynh hướng thay đổi
nói trên càng yếu.
Festinger Carlsmith (1959) làm một thí
nghiệm đã trở thành kinh điển trong m
học để kiểm chứng hai hệ luận trên đây
cắt nghĩa sự thay đổi thái độ trong tình trạng
nhận thức bất nhất. Các kết quả của nghiên
cứu này ủng hộ các phát biểu của lý thuyết.
Các nhà nghiên cứu yêu cầu một số khách
thể m đi làm lại nhiều lần một công việc rất
nhàm chán trong một khoảng thời gian khá
lâu, với mục đích xem thái độ của những
người ấy thay đổi sau khi trải nghiệm tình
trạng bất nhất hay không, nhưng không cho
các khách thnày biết mục tiêu nghiên cứu
này. Sau khi làm xong công việc nhàm chán
ấy, các khách thể này được yêu cầu giúp
người thí nghiệm thuyết phục một khách thể
khác tham gia vào cuộc nghiên cứu mà mình
vừa thực hiện. Nhà nghiên cứu hứa cho một
số khách thể này mỗi người $1 để thuyết
phục một khách thể khác đồng ý làm công
việc này; một số người khác được hứa s
nhận được $20 để thuyết phục một người
khác tham gia. Thực ra họ được yêu cầu
nói dối để thuyết phục một người khác rằng
công việc rất thú vị trong khi chính họ thực
sự cảm thấy công việc nhàm chán. Sau đó họ
được yêu cầu cho biết họ cảm thấy công việc
có thú vị thật không. Những người được hứa
thưởng $20 cho rằng công việc rất nhàm
chán, trong khi những người được thưởng $1
trả lời rằng họ thấy công việc quả thực thú
vị.
Điểm trọng tâm của thí nghiệm chỗ
này: Khi các chủ thể trong cuộc thí nghiệm
tìm cách thuyết phục một chủ thể khác rằng
công việc mình đã làm rất thú vị, lúc ấy xảy
lOMoARcPSD| 59062190
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
79
ra tình trạng nhận thức bất nhất: tôi thấy
công việc nhàm chán nhưng lại nói với người
khác rằng công việc ấy thú vị. c phần
thưởng được hứa khác nhau ($1 $20), nên
người ta dự đoán rằng cách giải quyết hành
vi bất nhất của họ cũng khác nhau. Người
được hứa $20 luận rằng: “Tôi nói công
việc thú vị không phải thật sự thú vị
nhưng vì tôi được hứa thưởng $20,” nghĩa
thái độ người ấy không thay đổi. Người được
hứa $1 thì luận: “Được thưởng $1 quả
không đáng để tôi nói dối, nhưng tôi thấy
công việc quả thực thú vị,’ nghĩa sự
thay đổi thái độ. Tóm lại, khi người ta thể
biện minh cho hành vi bằng một do quan
trọng (được thưởng $20), thì hành vi của họ
được giải dễ dàng, nên không còn tình
trạng nhận thức bất nhất. Còn khi không thể
biện minh cho hành vi của mình bằng một lý
do tầm thường ($1), thì người ta càng dễ thay
đổi thái độ đối với công việc ấy.
Nói cách khác, nguyên tắc bản của sự
ưng thuận gượng ép là: Khi làm một công
việc ngược với thái độ của mình không
đủ do để biện minh cho hành vi ấy, thì
người ta càng dễ thay đổi thái độ.
Tóm lại, theo thuyết nhận thức bất nhất,
mọi con người đều có khuynh hướng duy trì
một nh trạng nhất quán trong nhận thức bản
thân, nên khi có sự xung khắc giữa các hành
động với thái độ bản của mình, họ sẽ rơi
vào một tâm trạng khó chịu, căng thẳng tạo
thành một động lực hay sự kích ứng
(arousal) để giảm thiểu hay loại trừ sự xung
khắc ấy. Tuy nhiên, ng theo thuyết này, qui
trình giảm thiểu bất nhất không có mục đích
xóa bỏ hoàn toàn mọi sự xung khắc, nhưng
chỉ xóa bỏ những sự xung khắc nào liên
quan tới nhận thức bản của chủ thể
thôi.
2. Thuyết tự nhận thức
Daryl J. Bem (1972) đưa ra một cách cắt
nghĩa khác về qui trình phát triển của nhận
thức bản thân sự hình thành các thái độ,
gọi thuyết tự nhận thức. Khác với các quan
niệm phổ biến hơn cho rằng các thái độ
quyết định hành vi, thuyết của Bem giả
thiết rằng hành vi tạo nên các thái độ. Trong
khi thuyết nhận thức bất nhất cắt nghĩa sự
thay đổi thái độ hay hành vi dựa trên các kích
thích bên ngoài hay các động lực hay kích
ứng bên trong thúc đẩy chủ thể giảm sự xung
khắc giữa hành vi với thái độ, thuyết tự nhận
thức của Bem cắt nghĩa một cách đơn giản
hơn bằng cách chỉ cần dựa vào sự quan sát
các hành vi của chủ thể rồi từ đó suy ra thái
độ của chủ thể.
Ý tưởng bản của thuyết tự nhận thức
được tóm tắt trong hai phát biểu chính sau
đây của Bem (1972):
1. Các nhân ‘biết các thái độ, cảm
xúc các tình trạng tinh thần của mình một
phần nhờ suy diễn từ việc quan sát các hành
vi của nh và/hay các hoàn cảnh diễn ra c
hành vi ấy.
2. vậy, khi các gợi ý bên trong yếu,
hồ hay không thể giải thích, thì nhân
trên thực tế đang trong cùng một vị trí
giống như một người quan sát bên ngoài, bắt
buộc phải dựa vào các dấu hiệu bên ngoài để
suy ra tình trạng bên trong của cá nhân ấy.
Dựa trên phân tích theo thuyết hành vi
triệt để của Skinner (1949, 1953, 1957), Bem
cho rằng các trạng thái tinh thần (hay các thái
độ) những kết luận một chủ thể rút ra
được từ việc quan sát các hành vi của chính
mình các tình huống diễn ra các hành vi
ấy, từ đó dẫn đến sự thay đổi các thái độ. Một
chủ thể thkết luận vthái độ hay niềm
tin của mình dựa vào hành vi của mình nếu
không các do ngoại tại nào khác cho
hành vi ấy (v.d.: thí nghiệm $1/$20 của
Festinger). Một người quan sát bên ngoài
nếu được cung cấp đủ thông tin cũng thể
đi đến cùng kết luận ấy. dụ, ngày nào i
cũng ăn rất nhiều sôcôla: Tôi kết luận rằng
mình thích ăn sôcôla. Vợ tôi thấy tôi ngày
lOMoARcPSD| 59062190
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
80
nào cũng ăn nhiều sôcôla: Bà ấy cũng có thể
kết luận rằng tôi thích ăn sôcôla.
Trong khi thuyết nhận thức bất nhất của
Festinger giả định sự hiện hữu của một động
lực bên trong để duy trì snhất quán giữa
các nhận thức khác nhau, thì ngược lại,
thuyết tự nhận thức muốn cắt nghĩa thái độ
của một chủ thể bằng việc suy diễn từ chính
hành vi của chủ thể ấy không cần phải
giả định một động lực giảm thiểu sự xung
khắc giữa các nhận thức.
Bem sử dụng kiểu thí nghiệm ‘mô phỏng
liên chủ thể’ (interpersonal simulation) để
chứng minh giả thuyết ấy. Trong ‘mô phỏng
liên chủ thể’, thay m thí nghiệm trực
tiếp, chủ thể được cung cấp một bản tả
hay quan sát các hoàn cảnh của một thí
nghiệm về tình trạng nhận thức bất nhất rồi
từ đó đánh giá thái độ của chủ thể. Bằng cách
này, chủ thể ‘đóng vai’ người hành động thực
tế.
Theo thuyết tự nhận thức, chủ thể hoạt
động giống như một người quan sát các hành
vi của chính mình, rồi qui gán các thuộc tính
cho một nguồn gốc bên ngoài (tình huống)
hay bên trong (thái độ). Dựa trên nguyên tắc
đồng cấu trúc (isomorphism) giữa người
quan sát (observer) chủ thể hành động
(actor), Daryl Bem cho rằng một người quan
sát bên ngoài nếu đầy đủ các thông tin như
một chủ thể tự nhận thức thì cũng những
nhận thức giống như chủ thể. Như thế, theo
thuyết tự nhận thức, có thể dự báo được sự
thay đổi các thái độ hay hành vi của chủ thể.
3. Phê bình thuyết nhận thức bất nhất
Thuyết nhận thức bất nhất những hệ
quả tích cực trong một số hoàn cảnh. dự
báo rằng c chủ thể sẽ tìm kiếm thông tin
để giải quyết tình trạng bất nhất. Nó cũng dự
báo về thái độ và hành vi của chủ thể sau khi
đã thực hiện một quyết định nào đó.
tác dụng tích cực trong việc thuyết phục,
kể cả với loại thuyết phục gọi ưng thuận
gượng ép. Rất nhiều nghiên cứu đã đưa ra
các bằng chứng ủng hộ thuyết này. Đặc biệt,
thuyết nhận thức bất nhất nhấn mạnh về
động lực sự kích ứng bên trong (arousal),
yếu tố thúc đẩy chủ thể giải quyết tình
trạng xung khắc trong nhận thức, được
ứng dụng rộng rãi trong nhiều lãnh vực như
trị liệu tâm lý, thuyết phục, quảng cáo
nhất là giáo dục.
Một giới hạn quan trọng của thuyết nhận
thức bất nhất không dự báo việc giải
quyết bất nhất sẽ xảy ra theo hướng nào. Nó
liệt một số chọn lựa để giảm thiểu bất nhất
(tìm thêm thông tin, thay đổi nhận thức bất
nhất, coi nhẹ tầm quan trọng của xung
khắc…) nhưng không dự đoán được chủ thể
sẽ theo chọn lựa nào. Trên thực tế, nó không
lưu ý đến sự khác biệt (chọn lựa tự do) nơi
mỗi chủ thể: những nhân ‘nguyên tắc
hơn’, không chấp nhận xung khắc, nhưng
cũng những nhân ‘dễ dãi’ hơn, sẵn sàng
chấp nhận những xung khắc trong các nhận
thức của mình.
4. Phê bình thuyết tự nhận thức
Hiểu được qui trình nhận thức về bản thân
mình điều quan trọng, được coi là
sở để hình thành các giá trị, các chọn lựa và
thái độ. Hiểu biết bản thân một cách rõ ràng
giúp người ta thực hiện những quyết định
thích hợp trong đời sống; ngược lại, không
biết rõ về mình có thể khiến người ta không
thể làm những quyết định ấy.
Trên thực tế, thuyết tự nhận thức ngày càng
nhiều ảnh hưởng, một phần cắt
nghĩa một cách đơn giản quá trình hình thành
nhận thức về bản thân không cần giả định
một động lực bên trong thúc đẩy việc giảm
thiểu nhận thức bất nhất.
II. TÓM LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN
CỨU VẤN ĐỀ
Thuyết nhận thức bất nhất của Festinger
(1957) thuyết tự nhận thức của Bem
lOMoARcPSD| 59062190
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
81
(1972) là hai cách cắt nghĩa khác nhau về sự
thay đổi thái độ của một chủ thể. Hai thuyết
này bắt đầu bằng hai nguyên tắc khác nhau:
Theo thuyết nhận thức bất nhất, thái độ của
chủ thể đi trước và chi phối hành vi của họ;
ngược lại, theo thuyết tự nhận thức, chủ thể
nhận thức về hành vi của mình dẫn đến
thay đổi thái độ.
Để chứng minh cho thuyết của mình,
các thuyết gia của cả hai thuyết này đã làm
các thí nghiệm để rút ra những kết quả cụ
thể. Tuy nhiên, trong suốt hai thập niên 1960
1970, các kết quả thực nghiệm từ cả hai
phía đều không dẫn đến một kết luận chắc
chắn về sự vượt trội của lý thuyết này hơn
thuyết kia. Cuộc tranh luận tạm ngưng
Abelson (1983) đã nói đến một cuộc ‘đình
chiến lý thuyết’ giữa hai phe.
Đến thập niên 1990, cuộc tranh luận này
lại được Jones (1990) khơi dậy nhưng cả
Jones Festinger đều cho rằng “không
cách nào hiển nhiên để phân biệt thuyết tự
nhận thức với thuyết nhận thức bất nhất”
(Jones E. E., Interpersonal Perception,
1990). phía bên kia, Collins (1992) cho
rằng thuyết nhận thức bất nhất cũng không
lấn lướt thuyết tự nhận thức. Trên thực tế, rất
nhiều thí nghiệm đã được làm trong những
năm 1960 và 1970 đều không kết luận được
rằng thuyết của Festinger hay thuyết của
Bem giá trị hơn (Greenwald, 1975; Fazio,
Zanna và Cooper, 1977; Fazio, 1987).
Ngày nay, khuynh hướng chung của các
tác giả là chọn giải pháp tích hợp cả hai
thuyết này.
Theo Fazio, Zanna Cooper (1977),
“không nên coi hai thuyết này n
những phát biểu ‘cạnh tranh’ nhau, nhưng
chúng bổ sung cho nhau và hơn nữa, mỗi
thuyết chỉ áp dụng cho nh vực chuyên môn
riêng của nó. Thuyết tự nhận thức mô tả các
hiện tượng thay đổi thái độ trong hoàn cảnh
hành vi thuần nhất với thái độ, còn thuyết
nhận thức bất nhất trong hoàn cảnh hành vi
xung khắc với thái độ.” (tr. 476)
Trong nhiều nh huống thực nghiệm,
thuyết tự nhận thức của Bem và thuyết nhận
thức bất nhất của Festinger đều đưa ra những
dự báo giống nhau, nhưng chỉ có thuyết của
Festinger dự báo về sự có mặt của tình trạng
căng thẳng khó chịu hay kích ứng (arousal).
Các kết quthí nghiệm y ủng hộ thuyết
của Festinger cho thấy thuyết tự nhận
thức của Bem không đủ để cắt nghĩa tất cả
các khám phá thực nghiệm.
Ngược lại, thuyết nhận thức bất nhất của
Festinger chỉ dự báo sự thay đổi thái độ khi
tình trạng xung khắc hay bất nhất, trong
khi thuyết tự nhận thức của Bem dự báo
những thay đổi thái độ cả trong tình trạng
không có những xung khắc.
III. NHẬN THỨC BẢN THÂN VÀ CÁC
ỨNG DỤNG TRONG GIÁO DỤC
Nếu giáo dục là dạy dỗ và nuôi dưỡng để
giúp phát triển con người toàn diện về thể
chất tinh thần, bao gồm tri thức, các kỹ
năng, nhận thức đạo đức, để họ hoàn thiện
nhân cách biết hành xử xứng hợp trong
các mối tương tác hội, thì khám phá bản
thân tiền đề bản để đạt sự hoàn thiện
ấy. Các phân tích và các thuyết tâm lý xã hội
đã góp phần rất lớn cho sự khám phá này, và
được áp dụng hiệu quả trong nhiều lãnh vực
khác nhau. ch riêng trong lãnh vực giáo
dục, nhận thức bản thân được ứng dụng rất
hiệu quả trong một số ng việc quan trọng
sau đây:
1. Thay đổi thái độ:
Theo Biggs (2007), việc học tập của sinh
viên chủ yếu dựa vào hoạt động của chính họ
hơn là của giáo viên. Nếu sinh viên đánh giá
sai khả năng của mình, ngay từ đầu họ sẽ
cảm thấy mình không phù hợp với việc học,
sẽ thấy việc học nhàm chán nếu buộc phải
học, họ sẽ chỉ học ‘cho xong chuyện’, học
lOMoARcPSD| 59062190
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
82
theo phương thức bề mặt, dẫn đến kết quả tệ
hại. Ngược lại, nếu các nhà giáo dục biết
cách giúp cho sinh viên nhận ra khả năng
thực sự của họ, họ sẽ cảm thấy thích thú với
công việc học tập sử dụng phương thức
học tập theo chiều sâu. Cho nên nhà giáo dục
cần phải giúp cho người thụ giáo biết thay
đổi thái độ đối với việc học tập. Áp dụng
thuyết nhận thức bất nhất, giáo viên thể
thách thức các sinh viên về phương thức học
tập cố hữu của họ.
2. Tạo động lực học tập:
Bất cứ hoạt động nào của con người cũng
đều nhắm tới một mục đích. Chính cái mục
đích động thúc đẩy con người hoạt
động. Nhưng động lực lại nhiều loại hay
mức độ khác nhau. Nếu mục đích ấy mơ hồ,
không rệt hay kém giá trị, người hoạt động
không cảm thấy hăng hái, dấn thân, hoạt
động của họ sẽ chỉ hời hợt, không hiệu quả.
Ngược lại, nếu mục đích ấy rệt giá trị
cao, người hành động sẽ dấn thân một cách
hứng thú, quyết liệt và dễ đi tới thành công.
Để tạo động lực học tập, cần cả hai yếu
tố giá trị kỳ vọng, được gọi chung bằng
thuyết giá trị-kỳ vọng. Trước hết, việc học
hay bất kỳ hoạt động nào đều phải một giá
trị: giá trị càng cao thì động cơ càng
lớn. Nhưng đồng thời người học phải kỳ
vọng đạt được giá trị ấy. Nếu giá trị cao
người ta không kỳ vọng đạt được thì cũng
ích. Đó thuyết giá trị-kỳ vọng. vậy
giáo viên không những phải trình bày cho
sinh viên biết rõ giá trị của công việc, nhưng
đồng thời cũng phải cho họ thấy rằng giá trị
ấy không vượt ra ngoài kỳ vọng của họ, họ
có khả năng đạt được nó.
3. Dạy học dựa trên kiến thức đã có
thuyết kiến tạo:
Không thể nào học các kiến thức từ con
số không. Mọi sinh viên đều đã sẵn một
số vốn kiến thức mà người dạy phải dựa vào
đó để thay đổi hay phát triển xa hơn và sâu
hơn. những kiến thức chỉ những niềm
tin, nhận thức hay trực giác mơ hồ, thậm chí
những kiến thức sai lầm người dạy
phải thách thức để sửa chữa, uốn nắn. Ngay
cả với những kiến thức đúng, người
dạy cũng có thể thách thức chúng bằng việc
tạo ra nh trạng nhận thức bất nhất để kích
thích hoạt động suy tư của sinh viên, dẫn tới
sự đào sâu thay đổi khái niệm, theo các
hình của thuyết kiến tạo
(constructivism).
4. Thuyết phục và trị liệu tâm lý:
Không chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng
việc trải nghiệm, bằng c hành vi. Giáo viên
phải biết đề cao kích thích lòng tự tin, tự
trọng của các sinh viên, kích thích họ thường
xuyên làm các hành vi để qua đó họ thể
xác định các thái độ của mình. Các thí
nghiệm cho thấy những người mặc cảm
với người khác giới hoặc những người
tính e thẹn rụt trong quan hệ hội với
người khác giới (heterosocial anxiety) sẽ có
thái độ tích cực n sau những buổi trliệu
bằng các tương tác với những người khác
giới. Các thí nghiệm cũng cho thấy các kết
quả này tính lâu bền do sự giảm bớt các
bất nhất trong nhận thức.
IV. KẾT LUẬN
Dựa trên các nghiên cứu và thí nghiệm về
cả hai thuyết trên đây, thể đưa ra một
nhận xét chung về tình hình nghiên cứu vấn
đề nhận thức bản thân như sau:
Mặc các thí nghiệm được thực hiện bởi
cả hai lý thuyết đều nhằm tìm ra những bằng
chứng quyết định (crucial experiment’) để
ủng hộ cho thuyết của nh bác bỏ
thuyết của đối phương, nhưng những kết quả
thí nghiệm cho thấy rằng chúng không đủ để
cắt nghĩa cho các kết qu‘dự báo’ của phía
đối phương thế không thể được coi
những trắc nghiệm có tính quyết định để nói
rằng hai thuyết nhận thức bất nhất tự nhận
lOMoARcPSD| 59062190
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
83
thức loại trlẫn nhau (Greenwald 1975, tr.
494). Mặc hai thuyết nhận thức bất nhất
và tự nhận thức đi theo hai hướng khác nhau
nhưng hoàn toàn không phủ nhận nhau. Mỗi
thuyết những lợi điểm nhưng cũng
những điểm yếu của mình, thế không thể
chọn thuyết này bỏ thuyết khác. Cách
đánh giá lẽ được chấp nhận nhiều nhất
ngày nay hai thuyết này bổ sung cho nhau,
đây thể là lập trường hiệu quả nhất
trong việc ng dụng hai thuyết này trong
việc m thay đổi nhận thức của con người,
đặc biệt trong lãnh vực giáo dục. thể kết
luận theo nhận định của Fazio . (1977): “Các
nghiên cứu cho thấy bằng chứng c nhận cả
hai qui trình nhận thức bất nhất tự nhận
thức… Không nên coi hai lý thuyết này như
là những phát biểu ‘cạnh tranh’ nhau, nhưng
chúng bổ sung cho nhau và hơn nữa, mỗi
thuyết chỉ áp dụng cho nh vực chuyên môn
riêng của nó. Thuyết tự nhận thức mô tả các
hiện tượng thay đổi thái độ trong hoàn cảnh
hành vi thuần nhất với thái độ, còn thuyết
nhận thức bất nhất trong hoàn cảnh hành vi
xung khắc với thái độ.” (tr. 476) và, “trong
lãnh vực ứng dụng riêng của mình, mỗi
thuyết giá trị cao hơn lý thuyết kia, nhưng
không thể nói chung rằng thuyết nào cao
hơn thuyết nào. Mỗi thuyết riêng rẽ
không thể cắt nghĩa tất cả c dữ kiện, nhưng
hợp chung lại, chúng cung cấp cho khoa tâm
xã hội những cắt nghĩa hấp dẫn và thuyết
phục về các hiệu quả của hành vi đối với các
thái độ.” (tr. 478).
vậy, việc ứng dụng thuyết này hay nào thích hợp hơn cho trường hợp của mình, thuyết
kia trong việc giáo dục sẽ tuỳ thuộc nhờ đó sẽ dẫn đến kết quả tốt hơn. nhà giáo dục biết lựa
chọn cách cắt nghĩa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aronson, E. (1968), Dissonance theory: Progress and problems. In R. P. Abelson et al.
(Eds.), Theories of cognitive consistency: A sourcebook. Chicago: Rand McNally, 1968.
2. Aronson, E. (1969), “The theory of cognitive dissonance: A current perspective.’ Trong
L. Berkowitz (Ed.), Advances in experimental social psychology (vol. 4). New York:
Academic Press.
3. Beauvois J.- L., Joule R. V. (1996), A Radical Dissonance Theory, European Monographs
Series.
4. Bem D. J. (1967), “Self-Perception: An Alternative Interpretation of Cognitive
Dissonance Phenomena,’ Psychological Review, 74, 183-200.
5. Bem D. J. (1972), “Self-Perception Theory,’ trong L. Berkowitz (ed.), Advances in
Experimental Psychology, q. VI, Academic Press, New York – London, 1-62.
6. Biggs, J. & Tang, C. (2007), Teaching for Quality Learning at University, 3
rd
Ed. London:
Society for Research into Higher Education.
7. Fazio R. H. (1987), “Self-Perception Theory: A Current Perspective,” trong M. P. Zanna,
J. M. Olson, C. P. Herman, Social influence: The Ontario Symposium, t. V, Hillsdale
(NJ), Lawrence Erlbaum, 129-150.
8. Fazio R. H., Zanna M. P., Cooper J. (1977) “Dissonance and Self-Perception: An
Integrative View of Each Theory’s Proper Domain of Application,” Journal of
Experimental Social Psychology, 13, 464-479.
9. Festinger L. (1957), A Theory of Cognitive Dissonance, Evanston (IL), New York, Row
& Peterson.
lOMoARcPSD| 59062190
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
84
10. Festinger L. & Carlsmith J. M. (1959), Cognitive Consequences of Forced
Compliance. First published in Journal of Abnormal and Social Psychology, 58, 203210.
11. Girandola F. (1994) Le paradigme de la double soumission forcée: un nouveau
regard sur l’’expérience de Festinger et Carlsmith (1959), luận án tiến , Đại Học
Provence.
12. Girandola F. (1996), “Dissonance ou Autoperception: Un nouveau test dans le
paradigme de la double soumission forcée,’ trong L’Année psychologique, 96, 275-289,
Đại Học Franche-Comté.
13. Greenwald A. G. (1975) “On the Inconclusiveness of ‘crucial’ cognitive tests of
dissonance versus self-perception Theories.” Journal of Experimental Social Psychology,
11, 409-499.
Websites:
http://en.wikipedia.org/wiki/Self-perception_theory
http://en.wikipedia.org/wiki/Cognitive_dissonance
http://www.questia.com/library/psychology/social-psychology/self-perception
http://www.cios.org/encyclopedia/persuasion/Dcognitive_dissonance_1theory.htm
http://www.adamkowol.info/works/Festinger.pdf (An Overview of the Theory of
Cognitive Dissonance)

Preview text:

lOMoAR cPSD|59062190 76
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
NHẬN THỨC BẢN THÂN VÀ ỨNG DỤNG TRONG GIÁO DỤC SELF-
KNOWLEDGE AND ITS APPLICATIONS IN EDUCATION Đỗ Mạnh Cường
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.HCM TÓM TẮT
Nhận thức về mình là sự kiện cơ bản và là điều kiện thiết yếu để con người sống đúng bản
chất của mình và thể hiện một đời sống ý thức, tự do và có trách nhiệm. Biết mình là yếu tố
nền tảng để hiểu biết và tương tác với thế giới bên ngoài. Không có nhận thức đúng về mình
thì cũng không thể có nhận thức và tương tác thích hợp với người khác và thế giới xung
quanh. Nhận thức ấy bắt đầu ngay từ giây phút hiện hữu đầu tiên nhưng nó cần được tiếp
tục phát triển qua tất cả các giai đoạn của cuộc đời. Vì vậy giáo dục có một vai trò quyết
định trong tiến trình nhận thức bản thân này. Bài viết này dựa trên một số lý thuyết tâm lý
xã hội học vững chắc về nhận thức bản thân và thảo luận về các ứng dụng thực tiễn của nó trong giáo dục.
Từ khoá: nhận thức, nhận thức bất nhất, tự nhận thức, thái độ, hành vi ABSTRACT
Self-knowledge is a human fact and a fundamental condition for human beings to fulfill their
human calling. It enables them to live a conscious, free and responsible life. ‘Know oneself’
is also a basic premise to know and interact with the world. Without a proper knowledge of
the self, it is impossible to know the other properly. Although self-knowledge may appear at
the first moment of a human existence, it needs to be developed through all the phases of a
human life. Hence the vital role of education in the process of self cognition.The paper starts
from some widely recognized psychosocial theories on the subject and then discusses its
various applications in education.
Keywords: cognition, cognitive dissonance, self-perception, attitude, behavior I. KHÁM PHÁ BẢN THÂN
biết mình!” và “Cuộc đời không tra vấn thì
Con người không chỉ có khả năng biết, không đáng sống!”
nhận thức về thế giới và các sự vật xung
Nhưng sự nhận thức này xảy ra như thế
quanh. Con người cũng có khả năng nhận nào? Nó có phải là một trực giác, một sự hiểu
thức về các tư tưởng, niềm tin, thái độ, cảm biết trực tiếp của chủ thể, hay nó dựa trên các
xúc và trạng thái bên trong của mình. Đó là quan sát của chủ thể về các hành vi của chính
nhận thức bản thân hay tự nhận thức.
mình? Mức độ chính xác hay sai lầm của nó
Nhận thức bản thân là một sự kiện của con thế nào? Các quan sát của chủ thể về các
người và là một đòi hỏi thiết yếu để con hành vi của mình có khác với nhận xét của
người thể hiện một đời sống ý thức, tự do và một người quan sát bên ngoài về cùng những
có trách nhiệm. Nhà triết học Hi Lạp Socrate hành vi ấy không? v.v…
cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận
Đây là những vấn đề vừa thuộc phạm vi
thức bản thân qua hai câu nói bất hủ: “Hãy triết học vừa thuộc phạm vi tâm lý xã hội. lOMoAR cPSD|59062190 77
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
Bài này sẽ tập trung vào phạm vi thứ hai này, xúc, v.v… của một chủ thể. Ví dụ, “Tôi thích
dựa trên một số lý thuyết đã được nhìn nhận ăn sôcôla” là một nhận thức. “Tôi là người”,
rộng rãi qua các phân tích về thái độ và hành “Tôi đói”, v.v… cũng là những nhận thức.
vi con người, và được ứng dụng trong nhiều Chúng ta có vô số nhận thức trong đầu óc.
phạm vi của đời sống, cách riêng trong lãnh
Festinger phân tích mối tương quan giữa
vực giáo dục con người.
các nhận thức với nhau. Ông phân biệt ba
Từ trước đến nay, đã có rất nhiều phân loại tương quan:
tích và thảo luận về chủ đề này. Tuy nhiên, a)
Các nhận thức không liên quan gì với
trước khi có khoa tâm lý học thực nghiệm nhau, ví dụ: “Tôi thích ăn sôcôla” và “tôi
vào cuối thế kỷ 19, các phân tích ấy chủ yếu thông minh”.
đều giới hạn trong lãnh vực triết lý và siêu
hình. Thậm chí chính các nhà tâm lý học lúc b)
Các nhận thức có tương quan hòa
đầu cũng chỉ phân tích chúng thuần túy dưới hợp nhau, ví dụ: “Tôi không hút thuốc” và
khía cạnh lý thuyết triết học, đặc biệt bằng “hút thuốc có hại cho sức khỏe”.
phương pháp nội quan. Có lẽ Skinner (1945, c)
Các nhận thức xung khắc nhau, ví
1953, 1957) là người đầu tiên coi chúng là dụ: “Tôi sợ béo phì” và “Tôi thích ăn
những vấn đề thực sự của tâm lý học khi ông sôcôla”.
sử dụng thuyết hành vi triệt để của ông để
Để tránh ý tiêu cực của từ xung khắc
phân tích các ‘sự kiện riêng tư’ và vai trò của (inconsistent), Festinger dùng hai từ mang
chúng trong một khoa học về hành vi con tính trung lập là bất nhất (dissonant) và
người. Từ đó trở đi, các nhà tâm lý học đã thuần nhất (consonant).
bắt đầu đưa ra các lý thuyết dựa trên các
bằng chứng thực nghiệm.
Nhận thức bất nhất (cognitive
dissonance) là tình trạng một chủ thể có
Trong lãnh vực tâm lý xã hội, có hai cùng một lúc hai nhận thức không hòa hợp
thuyết quan trọng tìm cách cắt nghĩa nhận với nhau: khi hành vi của họ không nhất
thức của con người về hành vi của chính quán với thái độ của họ, hay khi các hành vi
mình: Thuyết nhận thức bất nhất (theory of của họ không hòa hợp với nhau. Ví dụ, một
cognitive dissonance) và thuyết tự nhận thức người nhận thức rõ ràng hút thuốc có hại cho
(theory of self-perception). Đây là hai lý sức khỏe (=thái độ) và vẫn tiếp tục hút thuốc
thuyết đã góp phần rất lớn cho nhận thức của (=hành vi). Hay một người tích cực hoạt
con người về hành vi và thái độ của mình, và động bảo vệ môi trường nhưng đồng thời bỏ
được ứng dụng để làm thay đổi hành vi hay phiếu cho một ứng cử viên không quan tâm
thái độ của con người trong rất nhiều lãnh tới môi trường.
vực, đặc biệt trong giáo dục.
Thuyết nhận thức bất nhất dựa trên ý
1. Thuyết nhận thức bất nhất
tưởng cơ bản là người ta không thích có
Năm 1957, Leon Festinger đề ra lý thuyết những nhận thức bất nhất. Khi một người
nhận thức bất nhất, và lý thuyết này đã làm nhận thấy hành vi của mình không nhất quán
thay đổi cái nhìn của các nhà tâm lý học về với các thái độ của mình, thuyết nhận thức
các hành vi và các quyết định của chủ thể. bất nhất dự báo người ấy sẽ trải nghiệm một
Về cơ bản, thuyết nhận thức bất nhất khá đơn sức ép, một động lực hay một kích ứng
giản. Nó khởi sự từ ý tưởng về các nhận thức. (arousal) thúc đẩy họ giảm thiểu hay xóa bỏ
Nhận thức là các sự hiểu biết về các tư tưởng, sự xung khắc để tạo một cảm giác cân bằng.
niềm tin, giá trị, thái độ, hành vi, hay cảm lOMoAR cPSD|59062190 78
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
Mức độ bất nhất cao hay thấp tuỳ thuộc 2 1)
Nếu một người được thuyết phục hay
yếu tố sau đây: (a) tỉ lệ tương đối giữa các dụ dỗ làm hay nói một điều gì ngược với ý
yếu tố thuần nhất và các yếu tố bất nhất; và kiến riêng của họ, họ sẽ có khuynh hướng
(b) tầm quan trọng của các yếu tố hay vấn đề thay đổi ý kiến cho hợp với điều mà họ đã
liên quan. Theo Festinger & Carlsmith làm hay nói.
(1969), để đánh giá mức độ bất nhất, phải 2)
Sức ép để thuyết phục hành vi công
lưu ý tới cả các nhận thức bất nhất và các khai càng mạnh thì khuynh hướng thay đổi
nhận thức thuần nhất. Nếu gọi tổng số các nói trên càng yếu.
bất nhất là D và tổng số các thuần nhất là C,
Festinger và Carlsmith (1959) làm một thí
chúng ta có thể có tổng mức độ bất nhất là D nghiệm đã trở thành kinh điển trong tâm lý
chia cho D cộng C [D/D+C]. (tr. 204)
học để kiểm chứng hai hệ luận trên đây và
Theo Festinger (1957) và Aronson cắt nghĩa sự thay đổi thái độ trong tình trạng
(1969), người ta có thể giảm thiểu hay xóa nhận thức bất nhất. Các kết quả của nghiên
bỏ xung khắc bằng các cách sau đây:
cứu này ủng hộ các phát biểu của lý thuyết. 1.
Bỏ hay thay đổi một trong hai nhận
Các nhà nghiên cứu yêu cầu một số khách
thức xung khắc; ví dụ, bỏ hút thuốc.
thể làm đi làm lại nhiều lần một công việc rất
nhàm chán trong một khoảng thời gian khá 2.
Tìm các thông tin mới để biện minh lâu, với mục đích là xem thái độ của những
cho hành vi xung khắc. Ví dụ người nghiện người ấy có thay đổi sau khi trải nghiệm tình
thuốc lá có thể tìm kiếm các bằng chứng cho trạng bất nhất hay không, nhưng không cho
thấy hút thuốc cũng có những cái lợi như các khách thể này biết mục tiêu nghiên cứu
giúp giảm cân, tỉnh táo, giảm stress, v.v… này. Sau khi làm xong công việc nhàm chán
Festinger gọi đó là ‘chọn lọc thông tin’ ấy, các khách thể này được yêu cầu giúp
(selective exposure) có lợi để biện minh cho người thí nghiệm thuyết phục một khách thể hành vi của mình.
khác tham gia vào cuộc nghiên cứu mà mình 3.
Người ta có thể coi nhẹ sự xung vừa thực hiện. Nhà nghiên cứu hứa cho một
khắc, cho rằng nó thực sự không quan trọng. số khách thể này mỗi người $1 để thuyết 4.
Người gặp tình trạng nhận thức bất phục một khách thể khác đồng ý làm công
nhất cũng có thể sử dụng các cơ chế gián việc này; một số người khác được hứa sẽ
tiếp. Thay vì trực tiếp nhắm vào việc giảm nhận được $20 để thuyết phục một người
thiểu xung khắc, họ có thể tìm cách cải thiện khác tham gia. Thực ra là họ được yêu cầu
sự tự tin của mình bất chấp sự bất nhất giữa nói dối để thuyết phục một người khác rằng
hành vi và thái độ. Họ có thể nhấn mạnh các công việc rất thú vị trong khi chính họ thực
phẩm chất tích cực của họ mà sự xung khắc sự cảm thấy công việc nhàm chán. Sau đó họ có thể đe dọa.
được yêu cầu cho biết họ cảm thấy công việc
có thú vị thật không. Những người được hứa
Thí nghiệm: Sự ưng thuận gượng ép
thưởng $20 cho rằng công việc rất nhàm (forced-compliance)
chán, trong khi những người được thưởng $1
Điều gì xảy ra khi chú ng ta làm một hành trả lời rằng họ thấy công việc quả thực thú
vi không nhất quán với thái độ hay niềm tin vị. của mình?
Điểm trọng tâm của thí nghiệm là ở chỗ
Trong thuyết nhận thức bất nhất của này: Khi các chủ thể trong cuộc thí nghiệm
Festinger (1957), có hai hệ luận cơ bản sau tìm cách thuyết phục một chủ thể khác rằng đây:
công việc mình đã làm rất thú vị, lúc ấy xảy lOMoAR cPSD|59062190 79
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
ra tình trạng nhận thức bất nhất: tôi thấy thức bản thân và sự hình thành các thái độ,
công việc nhàm chán nhưng lại nói với người gọi là thuyết tự nhận thức. Khác với các quan
khác rằng công việc ấy thú vị. Vì các phần niệm phổ biến hơn cho rằng các thái độ
thưởng được hứa khác nhau ($1 và $20), nên quyết định hành vi, lý thuyết của Bem giả
người ta dự đoán rằng cách giải quyết hành thiết rằng hành vi tạo nên các thái độ. Trong
vi bất nhất của họ cũng khác nhau. Người khi thuyết nhận thức bất nhất cắt nghĩa sự
được hứa $20 lý luận rằng: “Tôi nói công thay đổi thái độ hay hành vi dựa trên các kích
việc thú vị không phải vì nó thật sự thú vị thích bên ngoài hay các động lực hay kích
nhưng vì tôi được hứa thưởng $20,” nghĩa là ứng bên trong thúc đẩy chủ thể giảm sự xung
thái độ người ấy không thay đổi. Người được khắc giữa hành vi với thái độ, thuyết tự nhận
hứa $1 thì lý luận: “Được thưởng $1 quả là thức của Bem cắt nghĩa một cách đơn giản
không đáng để tôi nói dối, nhưng tôi thấy hơn bằng cách chỉ cần dựa vào sự quan sát
công việc quả thực thú vị,’’ nghĩa là có sự các hành vi của chủ thể rồi từ đó suy ra thái
thay đổi thái độ. Tóm lại, khi người ta có thể độ của chủ thể.
biện minh cho hành vi bằng một lý do quan
Ý tưởng cơ bản của thuyết tự nhận thức
trọng (được thưởng $20), thì hành vi của họ được tóm tắt trong hai phát biểu chính sau
được lý giải dễ dàng, nên không còn tình đây của Bem (1972):
trạng nhận thức bất nhất. Còn khi không thể
biện minh cho hành vi của mình bằng một lý 1.
Các cá nhân ‘biết’ các thái độ, cảm
do tầm thường ($1), thì người ta càng dễ thay xúc và các tình trạng tinh thần của mình một
đổi thái độ đối với công việc ấy.
phần nhờ suy diễn từ việc quan sát các hành
vi của mình và/hay các hoàn cảnh diễn ra các
Nói cách khác, nguyên tắc cơ bản của sự hành vi ấy.
ưng thuận gượng ép là: Khi làm một công 2.
Vì vậy, khi các gợi ý bên trong yếu,
việc ngược với thái độ của mình mà không mơ hồ hay không thể giải thích, thì cá nhân
đủ lý do để biện minh cho hành vi ấy, thì trên thực tế đang ở trong cùng một vị trí
người ta càng dễ thay đổi thái độ.
giống như một người quan sát bên ngoài, bắt
Tóm lại, theo thuyết nhận thức bất nhất, buộc phải dựa vào các dấu hiệu bên ngoài để
mọi con người đều có khuynh hướng duy trì suy ra tình trạng bên trong của cá nhân ấy.
một tình trạng nhất quán trong nhận thức bản
Dựa trên phân tích theo thuyết hành vi
thân, nên khi có sự xung khắc giữa các hành triệt để của Skinner (1949, 1953, 1957), Bem
động với thái độ cơ bản của mình, họ sẽ rơi cho rằng các trạng thái tinh thần (hay các thái
vào một tâm trạng khó chịu, căng thẳng tạo độ) là những kết luận mà một chủ thể rút ra
thành một động lực hay sự kích ứng được từ việc quan sát các hành vi của chính
(arousal) để giảm thiểu hay loại trừ sự xung mình và các tình huống diễn ra các hành vi
khắc ấy. Tuy nhiên, cũng theo thuyết này, qui ấy, từ đó dẫn đến sự thay đổi các thái độ. Một
trình giảm thiểu bất nhất không có mục đích chủ thể có thể kết luận về thái độ hay niềm
xóa bỏ hoàn toàn mọi sự xung khắc, nhưng tin của mình dựa vào hành vi của mình nếu
chỉ xóa bỏ những sự xung khắc nào có liên không có các lý do ngoại tại nào khác cho
quan tới nhận thức cơ bản của chủ thể mà hành vi ấy (v.d.: thí nghiệm $1/$20 của thôi.
Festinger). Một người quan sát bên ngoài
2. Thuyết tự nhận thức
nếu được cung cấp đủ thông tin cũng có thể
đi đến cùng kết luận ấy. Ví dụ, ngày nào tôi
Daryl J. Bem (1972) đưa ra một cách cắt cũng ăn rất nhiều sôcôla: Tôi kết luận rằng
nghĩa khác về qui trình phát triển của nhận mình thích ăn sôcôla. Vợ tôi thấy tôi ngày lOMoAR cPSD|59062190 80
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
nào cũng ăn nhiều sôcôla: Bà ấy cũng có thể gượng ép. Rất nhiều nghiên cứu đã đưa ra
kết luận rằng tôi thích ăn sôcôla.
các bằng chứng ủng hộ thuyết này. Đặc biệt,
Trong khi thuyết nhận thức bất nhất của thuyết nhận thức bất nhất nhấn mạnh về
Festinger giả định sự hiện hữu của một động động lực và sự kích ứng bên trong (arousal),
lực bên trong để duy trì sự nhất quán giữa là yếu tố thúc đẩy chủ thể giải quyết tình
các nhận thức khác nhau, thì ngược lại, trạng xung khắc trong nhận thức, và được
thuyết tự nhận thức muốn cắt nghĩa thái độ ứng dụng rộng rãi trong nhiều lãnh vực như
của một chủ thể bằng việc suy diễn từ chính trị liệu tâm lý, thuyết phục, quảng cáo và
hành vi của chủ thể ấy mà không cần phải nhất là giáo dục.
giả định một động lực giảm thiểu sự xung
Một giới hạn quan trọng của thuyết nhận
khắc giữa các nhận thức.
thức bất nhất là nó không dự báo việc giải
quyết bất nhất sẽ xảy ra theo hướng nào. Nó
Bem sử dụng kiểu thí nghiệm ‘mô phỏng liệt kê một số chọn lựa để giảm thiểu bất nhất
liên chủ thể’ (interpersonal simulation) để (tìm thêm thông tin, thay đổi nhận thức bất
chứng minh giả thuyết ấy. Trong ‘mô phỏng nhất, coi nhẹ tầm quan trọng của xung
liên chủ thể’, thay vì làm thí nghiệm trực khắc…) nhưng không dự đoán được chủ thể
tiếp, chủ thể được cung cấp một bản mô tả sẽ theo chọn lựa nào. Trên thực tế, nó không
hay quan sát các hoàn cảnh của một thí lưu ý đến sự khác biệt (chọn lựa tự do) nơi
nghiệm về tình trạng nhận thức bất nhất rồi mỗi chủ thể: có những cá nhân ‘nguyên tắc
từ đó đánh giá thái độ của chủ thể. Bằng cách hơn’, không chấp nhận xung khắc, nhưng
này, chủ thể ‘đóng vai’ người hành động thực cũng có những cá nhân ‘dễ dãi’ hơn, sẵn sàng tế.
chấp nhận những xung khắc trong các nhận
Theo thuyết tự nhận thức, chủ thể hoạt thức của mình.
động giống như một người quan sát các hành 4. Phê bình thuyết tự nhận thức
vi của chính mình, rồi qui gán các thuộc tính
cho một nguồn gốc bên ngoài (tình huống)
Hiểu được qui trình nhận thức về bản thân
hay bên trong (thái độ). Dựa trên nguyên tắc mình là điều quan trọng, vì nó được coi là cơ
đồng cấu trúc (isomorphism) giữa người sở để hình thành các giá trị, các chọn lựa và
quan sát (observer) và chủ thể hành động thái độ. Hiểu biết bản thân một cách rõ ràng
(actor), Daryl Bem cho rằng một người quan giúp người ta thực hiện những quyết định
sát bên ngoài nếu có đầy đủ các thông tin như thích hợp trong đời sống; ngược lại, không
một chủ thể tự nhận thức thì cũng có những biết rõ về mình có thể khiến người ta không
nhận thức giống như chủ thể. Như thế, theo thể làm những quyết định ấy.
thuyết tự nhận thức, có thể dự báo được sự Trên thực tế, thuyết tự nhận thức ngày càng
thay đổi các thái độ hay hành vi của chủ thể. có nhiều ảnh hưởng, một phần vì nó cắt
nghĩa một cách đơn giản quá trình hình thành
3. Phê bình thuyết nhận thức bất nhất
nhận thức về bản thân mà không cần giả định
Thuyết nhận thức bất nhất có những hệ một động lực bên trong thúc đẩy việc giảm
quả tích cực trong một số hoàn cảnh. Nó dự thiểu nhận thức bất nhất.
báo rằng các chủ thể sẽ tìm kiếm thông tin
để giải quyết tình trạng bất nhất. Nó cũng dự II. TÓM LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN
báo về thái độ và hành vi của chủ thể sau khi CỨU VẤN ĐỀ
đã thực hiện một quyết định nào đó. Và nó
Thuyết nhận thức bất nhất của Festinger
có tác dụng tích cực trong việc thuyết phục, (1957) và thuyết tự nhận thức của Bem
kể cả với loại thuyết phục gọi là ưng thuận lOMoAR cPSD|59062190 81
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
(1972) là hai cách cắt nghĩa khác nhau về sự nhận thức bất nhất trong hoàn cảnh hành vi
thay đổi thái độ của một chủ thể. Hai thuyết xung khắc với thái độ.” (tr. 476)
này bắt đầu bằng hai nguyên tắc khác nhau:
Trong nhiều tình huống thực nghiệm,
Theo thuyết nhận thức bất nhất, thái độ của thuyết tự nhận thức của Bem và thuyết nhận
chủ thể đi trước và chi phối hành vi của họ; thức bất nhất của Festinger đều đưa ra những
ngược lại, theo thuyết tự nhận thức, chủ thể dự báo giống nhau, nhưng chỉ có thuyết của
nhận thức về hành vi của mình và dẫn đến Festinger dự báo về sự có mặt của tình trạng thay đổi thái độ.
căng thẳng khó chịu hay kích ứng (arousal).
Để chứng minh cho lý thuyết của mình, Các kết quả thí nghiệm này ủng hộ thuyết
các lý thuyết gia của cả hai thuyết này đã làm của Festinger và cho thấy thuyết tự nhận
các thí nghiệm để rút ra những kết quả cụ thức của Bem không đủ để cắt nghĩa tất cả
thể. Tuy nhiên, trong suốt hai thập niên 1960 các khám phá thực nghiệm.
và 1970, các kết quả thực nghiệm từ cả hai
Ngược lại, thuyết nhận thức bất nhất của
phía đều không dẫn đến một kết luận chắc Festinger chỉ dự báo sự thay đổi thái độ khi
chắn về sự vượt trội của lý thuyết này hơn lý có tình trạng xung khắc hay bất nhất, trong
thuyết kia. Cuộc tranh luận tạm ngưng và khi thuyết tự nhận thức của Bem dự báo
Abelson (1983) đã nói đến một cuộc ‘đình những thay đổi thái độ cả trong tình trạng
chiến lý thuyết’ giữa hai phe.
không có những xung khắc.
Đến thập niên 1990, cuộc tranh luận này
lại được Jones (1990) khơi dậy nhưng cả III. NHẬN THỨC BẢN THÂN VÀ CÁC
Jones và Festinger đều cho rằng “không có ỨNG DỤNG TRONG GIÁO DỤC
cách nào hiển nhiên để phân biệt thuyết tự
Nếu giáo dục là dạy dỗ và nuôi dưỡng để
nhận thức với thuyết nhận thức bất nhất” giúp phát triển con người toàn diện về thể
(Jones E. E., Interpersonal Perception, chất và tinh thần, bao gồm tri thức, các kỹ
1990). Ở phía bên kia, Collins (1992) cho năng, nhận thức và đạo đức, để họ hoàn thiện
rằng thuyết nhận thức bất nhất cũng không nhân cách và biết hành xử xứng hợp trong
lấn lướt thuyết tự nhận thức. Trên thực tế, rất các mối tương tác xã hội, thì khám phá bản
nhiều thí nghiệm đã được làm trong những thân là tiền đề cơ bản để đạt sự hoàn thiện
năm 1960 và 1970 đều không kết luận được ấy. Các phân tích và các thuyết tâm lý xã hội
rằng thuyết của Festinger hay thuyết của đã góp phần rất lớn cho sự khám phá này, và
Bem có giá trị hơn (Greenwald, 1975; Fazio, được áp dụng hiệu quả trong nhiều lãnh vực
Zanna và Cooper, 1977; Fazio, 1987).
khác nhau. Cách riêng trong lãnh vực giáo
Ngày nay, khuynh hướng chung của các dục, nhận thức bản thân được ứng dụng rất
tác giả là chọn giải pháp tích hợp cả hai lý hiệu quả trong một số công việc quan trọng thuyết này. sau đây:
Theo Fazio, Zanna và Cooper (1977), 1. Thay đổi thái độ:
“không nên coi hai lý thuyết này như là
Theo Biggs (2007), việc học tập của sinh
những phát biểu ‘cạnh tranh’ nhau, nhưng viên chủ yếu dựa vào hoạt động của chính họ
chúng bổ sung cho nhau và hơn nữa, mỗi lý hơn là của giáo viên. Nếu sinh viên đánh giá
thuyết chỉ áp dụng cho lãnh vực chuyên môn sai khả năng của mình, ngay từ đầu họ sẽ
riêng của nó. Thuyết tự nhận thức mô tả các cảm thấy mình không phù hợp với việc học,
hiện tượng thay đổi thái độ trong hoàn cảnh sẽ thấy việc học nhàm chán và nếu buộc phải
hành vi thuần nhất với thái độ, còn thuyết học, họ sẽ chỉ học ‘cho xong chuyện’, học lOMoAR cPSD|59062190 82
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
theo phương thức bề mặt, dẫn đến kết quả tệ hơn. Có những kiến thức chỉ là những niềm
hại. Ngược lại, nếu các nhà giáo dục biết tin, nhận thức hay trực giác mơ hồ, thậm chí
cách giúp cho sinh viên nhận ra khả năng có những kiến thức sai lầm mà người dạy
thực sự của họ, họ sẽ cảm thấy thích thú với phải thách thức để sửa chữa, uốn nắn. Ngay
công việc học tập và sử dụng phương thức cả với những kiến thức rõ và đúng, người
học tập theo chiều sâu. Cho nên nhà giáo dục dạy cũng có thể thách thức chúng bằng việc
cần phải giúp cho người thụ giáo biết thay tạo ra tình trạng nhận thức bất nhất để kích
đổi thái độ đối với việc học tập. Áp dụng thích hoạt động suy tư của sinh viên, dẫn tới
thuyết nhận thức bất nhất, giáo viên có thể sự đào sâu và thay đổi khái niệm, theo các
thách thức các sinh viên về phương thức học mô hình của thuyết kiến tạo tập cố hữu của họ. (constructivism).
2. Tạo động lực học tập:
4. Thuyết phục và trị liệu tâm lý:
Bất cứ hoạt động nào của con người cũng
Không chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng
đều nhắm tới một mục đích. Chính cái mục việc trải nghiệm, bằng các hành vi. Giáo viên
đích là động cơ thúc đẩy con người hoạt phải biết đề cao và kích thích lòng tự tin, tự
động. Nhưng động lực lại có nhiều loại hay trọng của các sinh viên, kích thích họ thường
mức độ khác nhau. Nếu mục đích ấy mơ hồ, xuyên làm các hành vi để qua đó họ có thể
không rõ rệt hay kém giá trị, người hoạt động xác định rõ các thái độ của mình. Các thí
không cảm thấy hăng hái, dấn thân, và hoạt nghiệm cho thấy những người có mặc cảm
động của họ sẽ chỉ hời hợt, không hiệu quả. với người khác giới hoặc những người có
Ngược lại, nếu mục đích ấy rõ rệt và giá trị tính e thẹn rụt rè trong quan hệ xã hội với
cao, người hành động sẽ dấn thân một cách người khác giới (heterosocial anxiety) sẽ có
hứng thú, quyết liệt và dễ đi tới thành công. thái độ tích cực hơn sau những buổi trị liệu
Để tạo động lực học tập, cần có cả hai yếu bằng các tương tác với những người khác
tố là giá trị và kỳ vọng, được gọi chung bằng giới. Các thí nghiệm cũng cho thấy các kết
thuyết giá trị-kỳ vọng. Trước hết, việc học quả này có tính lâu bền do sự giảm bớt các
hay bất kỳ hoạt động nào đều phải có một giá bất nhất trong nhận thức.
trị: giá trị càng cao thì động cơ càng IV. KẾT LUẬN
lớn. Nhưng đồng thời người học phải có kỳ
vọng đạt được giá trị ấy. Nếu giá trị cao mà
Dựa trên các nghiên cứu và thí nghiệm về
người ta không có kỳ vọng đạt được thì cũng cả hai lý thuyết trên đây, có thể đưa ra một
vô ích. Đó là thuyết giá trị-kỳ vọng. Vì vậy nhận xét chung về tình hình nghiên cứu vấn
giáo viên không những phải trình bày cho đề nhận thức bản thân như sau:
sinh viên biết rõ giá trị của công việc, nhưng
Mặc dù các thí nghiệm được thực hiện bởi
đồng thời cũng phải cho họ thấy rằng giá trị cả hai lý thuyết đều nhằm tìm ra những bằng
ấy không vượt ra ngoài kỳ vọng của họ, họ chứng quyết định (‘crucial experiment’) để
có khả năng đạt được nó.
ủng hộ cho lý thuyết của mình và bác bỏ lý
3. Dạy học dựa trên kiến thức đã có
thuyết của đối phương, nhưng những kết quả thuyết kiến tạo:
thí nghiệm cho thấy rằng chúng không đủ để
cắt nghĩa cho các kết quả ‘dự báo’ của phía
Không thể nào học các kiến thức từ con đối phương và vì thế không thể được coi là
số không. Mọi sinh viên đều đã có sẵn một những trắc nghiệm có tính quyết định để nói
số vốn kiến thức mà người dạy phải dựa vào rằng hai thuyết nhận thức bất nhất và tự nhận
đó để thay đổi hay phát triển xa hơn và sâu lOMoAR cPSD|59062190 83
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh
thức loại trừ lẫn nhau (Greenwald 1975, tr. là những phát biểu ‘cạnh tranh’ nhau, nhưng
494). Mặc dù hai thuyết nhận thức bất nhất chúng bổ sung cho nhau và hơn nữa, mỗi lý
và tự nhận thức đi theo hai hướng khác nhau thuyết chỉ áp dụng cho lãnh vực chuyên môn
nhưng hoàn toàn không phủ nhận nhau. Mỗi riêng của nó. Thuyết tự nhận thức mô tả các
thuyết có những lợi điểm nhưng cũng có hiện tượng thay đổi thái độ trong hoàn cảnh
những điểm yếu của mình, vì thế không thể hành vi thuần nhất với thái độ, còn thuyết
chọn thuyết này và bỏ thuyết khác. Cách nhận thức bất nhất trong hoàn cảnh hành vi
đánh giá có lẽ được chấp nhận nhiều nhất xung khắc với thái độ.” (tr. 476) và, “trong
ngày nay là hai thuyết này bổ sung cho nhau, lãnh vực ứng dụng riêng của mình, mỗi lý
và đây có thể là lập trường hiệu quả nhất thuyết có giá trị cao hơn lý thuyết kia, nhưng
trong việc ứng dụng hai lý thuyết này trong không thể nói chung rằng lý thuyết nào cao
việc làm thay đổi nhận thức của con người, hơn lý thuyết nào. Mỗi lý thuyết riêng rẽ
đặc biệt trong lãnh vực giáo dục. Có thể kết không thể cắt nghĩa tất cả các dữ kiện, nhưng
luận theo nhận định của Fazio . (1977): “Các hợp chung lại, chúng cung cấp cho khoa tâm
nghiên cứu cho thấy bằng chứng xác nhận cả lý xã hội những cắt nghĩa hấp dẫn và thuyết
hai qui trình nhận thức bất nhất và tự nhận phục về các hiệu quả của hành vi đối với các
thức… Không nên coi hai lý thuyết này như thái độ.” (tr. 478).
Vì vậy, việc ứng dụng thuyết này hay nào thích hợp hơn cho trường hợp của mình, thuyết
kia trong việc giáo dục sẽ tuỳ thuộc nhờ đó sẽ dẫn đến kết quả tốt hơn. nhà giáo dục biết lựa chọn cách cắt nghĩa TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aronson, E. (1968), Dissonance theory: Progress and problems. In R. P. Abelson et al.
(Eds.), Theories of cognitive consistency: A sourcebook. Chicago: Rand McNally, 1968.
2. Aronson, E. (1969), “The theory of cognitive dissonance: A current perspective.’’ Trong
L. Berkowitz (Ed.), Advances in experimental social psychology (vol. 4). New York: Academic Press.
3. Beauvois J.- L., Joule R. V. (1996), A Radical Dissonance Theory, European Monographs Series.
4. Bem D. J. (1967), “Self-Perception: An Alternative Interpretation of Cognitive
Dissonance Phenomena,’’ Psychological Review, 74, 183-200.
5. Bem D. J. (1972), “Self-Perception Theory,’’ trong L. Berkowitz (ed.), Advances in
Experimental Psychology, q. VI, Academic Press, New York – London, 1-62.
6. Biggs, J. & Tang, C. (2007), Teaching for Quality Learning at University, 3rd Ed. London:
Society for Research into Higher Education.
7. Fazio R. H. (1987), “Self-Perception Theory: A Current Perspective,” trong M. P. Zanna,
J. M. Olson, và C. P. Herman, Social influence: The Ontario Symposium, t. V, Hillsdale
(NJ), Lawrence Erlbaum, 129-150.
8. Fazio R. H., Zanna M. P., Cooper J. (1977) “Dissonance and Self-Perception: An
Integrative View of Each Theory’s Proper Domain of Application,” Journal of
Experimental Social Psychology, 13, 464-479.
9. Festinger L. (1957), A Theory of Cognitive Dissonance, Evanston (IL), New York, Row & Peterson. lOMoAR cPSD|59062190 84
Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật (27/2014)
Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh 10.
Festinger L. & Carlsmith J. M. (1959), Cognitive Consequences of Forced
Compliance. First published in Journal of Abnormal and Social Psychology, 58, 203210. 11.
Girandola F. (1994) Le paradigme de la double soumission forcée: un nouveau
regard sur l’ expérience de Festinger et Carlsmith (1959), luận án tiến sĩ, Đại Học Provence. 12.
Girandola F. (1996), “Dissonance ou Autoperception: Un nouveau test dans le
paradigme de la double soumission forcée,’’ trong L’Année psychologique, 96, 275-289, Đại Học Franche-Comté. 13.
Greenwald A. G. (1975) “On the Inconclusiveness of ‘crucial’ cognitive tests of
dissonance versus self-perception Theories.” Journal of Experimental Social Psychology, 11, 409-499. Websites:
http://en.wikipedia.org/wiki/Self-perception_theory
http://en.wikipedia.org/wiki/Cognitive_dissonance
http://www.questia.com/library/psychology/social-psychology/self-perception
http://www.cios.org/encyclopedia/persuasion/Dcognitive_dissonance_1theory.htm
http://www.adamkowol.info/works/Festinger.pdf (An Overview of the Theory of Cognitive Dissonance)