














Preview text:
lOMoAR cPSD| 23136115 Tây Tiến
MB: Văn học sinh ra để cho đời thêm hoa thơm trái ngọt, cho sự sống vút cao trên
mỗi trang văn, trang thơ. Từ văn học dân gian tới văn học viết, từ truyện ngắn đến
thơ. “ thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.” ( shelly).
Và Tây Tiến của Qung Dũng là một bài thơ như thế bởi sự bất tử của hình ảnh những
ng lính Tây Tiến bi tráng, hào hoa, không ngại gian khổ. Tây TiếnMột bài thơ kì diệu
và có một vị trí đặc biệt trong lòng công chúng, một bài thơ làm sống dậy cả một
trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trường tồn trong lịch sử và kí ức mỗi ng. Nó như
một viên ngọc sáng trong tâm hồn Việt,tấm lòng Việt và thơ ca Việt. Ở khổ thơ này tg đã……… TB:
Tg: Quang Dũng sinh ra ở Hà Tây nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội. Ông là một nghệ sĩ
rất mực tài hoa, đa tài. Không chỉ làm thơ, vẽ tranh, viết văn, ông còn soạn nhạc. QD
thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kc chống Pháp. với một hồn thơ lãng mạn, tài
hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa, được mệnh danh là nhà thơ của “Xứ Đoài mây trắng”
với những tác phẩm nổi tiếng như: “ Mây đầu ô”, “Thơ văn Quang Dũng”…Trong đó
tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp
với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch.
Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong
những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang
Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao
lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi
tên bài thơ là “Tây Tiến”. (1-Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn
quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây
Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ………)
Khổ 1 TB - Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chưa nỗi nhớ, lời thơ như chợt
thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi” lOMoAR cPSD| 23136115
Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha
thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng từ láy “chơi vơi” kết hợp với hiệp
vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm
xúc mơ hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong lòng người ra đi nhưng cảm xúc
rất chân thực của một người đồng đội đã rời xa đơn vị để rồi nỗi nhớ như choán đầy cả
không gian “ Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”. Câu thơ có bảy từ thì có hai từ “nhớ”.
Điệp từ “nhớ” như tô đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề
ban đầu của bài thơ tác giả đặt là “ Nhớ Tây Tiến”. Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại
trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết,
niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình, tất cả
trở thành kỉ niệm không thể nào quên.
Không phải khi đến với “Tây Tiến” người đọc mới cảm nhận được nỗi nhớ mà ngay ở
trong thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ “chơi vơi” là
trạng thái trơ trọi giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài
niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể
nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian và thời gian ấy Quang Dũng đã đưa
người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ
mộng. Đó là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, “Sài Khao”, “Mường
Lát”, “Pha Luông”, “Mường Hịch”, “Mai Châu”. Những địa danh khi đi vào thơ Quang
Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên trong
lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
Không chỉ vậy những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày “lấp” cả
đoàn quân, Quang Dũng dùng chữ “mỏi” như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời lOMoAR cPSD| 23136115
tuy vậy họ vẫn đi trong “ sương lấp” thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có thế, Mường
Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không nói “hoa nở” mà “hoa về” không
nói sương mà là “đêm hơi” như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa
của những người lính Hà Thành.
Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một
bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi,
chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ
láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi
lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời. Cách ngắt nhịp 4/3 của câu
thơ “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” tạo thành một đường gấp khúc của dáng
núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong đoạn thơ đã sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự
vất vả nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên con đường hành quân.
Nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập nghềnh hiểm trở thì đến mới câu thơ
tiếp theo như một phút lắng lòng của những người lính Tây Tiên bên những ngôi nhà
nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên và
êm ả của mưa giăng đầy thung lũng thành ‘xa khơi”. Đọc câu thơ người đọc thấy bình
yên đến kì lạ, phải chăng những phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho
người lính chiến đấu tiếp với kẻ thù cũng như thiên nhiên khắc nghiệt nơi đây:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Quang Dũng nhớ đến âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ
rình rập như muốn nuốt chửng người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi
chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn “sơn lâm bóng cả
cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được nhà thơ sử dụng để tô đậm lOMoAR cPSD| 23136115
ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội nơi thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.
Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng
miền Tây được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại
giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo
nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn quân Tây Tiến đi qua.
Đoạn thơ không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung tâm của nỗi nhớ ấy
còn là những người lính, những đồng đội cũ được Quang Dũng thể hiện bằng vẻ đẹp
bi tráng trên chặng đường hành quân đầy chông gai, nguy hiểm.
Ấn tượng trong lòng người đọc về người lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong
chặng đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy chất lính:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Đó là hình ảnh tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm
hỉnh “súng ngửi trời”. Nếu viết “súng chạm trời”, nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của
đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền
trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được “chất lính” trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống
dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí
thức trẻ Hà Nội. Đồng thời còn mang đến người đọc sự mới lạ, hóm hỉnh đầy chất lính,
mũi súng của người lính được nhân hóa thành hình ảnh “súng ngửi trời” tinh nghịch,
đầy chất thơ, mang cảm hứng lãng mạn đồng thời khẳng định chí khí quyết tâm của
người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao gợi cho người đọc đến với câu thơ của Tố Hữu:
“Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang leo với gió đèo”
Và trên chặng đường hành quân ấy dù với cái nhìn lãng mạn, tinh nghịch thì người lính
Tây Tiến không thể tránh được sự thật đã có những người đồng đội: lOMoAR cPSD| 23136115
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Khi nói về cuộc chiến tranh khốc liệt ấy. Tác giả đã không né tránh hiện thực của những
mất mát đau thương trong cuộc chiến. Trong cuộc hành quân gian khổ đã có những
người ngã xuống vì kiệt sức. vì mũi súng của kẻ thù. Nhưng Quang Dũng đã thể hiện
cách nói giảm, nói tránh về cái chết vừa xót xa,vừa ngạo nghễ “không bước nữa” để
rồi “bỏ quên đời” như một sự bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ
tựa lông hồng. Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không gợi cảm giác bi
luỵ. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu
hãnh “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.Đó là một tư thế chết trong chiến đấu, trong sự hiên ngang, bất khuất.
Sau chặng đường hành quân đầy gian khổ, có những lúc đồng đội hi sinh, đoàn quân
Tây Tiến đã có dịp dừng lại một bản làng-Mai Châu
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
“Nhớ ôi”là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lòng của những người lính
Tây Tiến. Câu thơ đậm đà tình quân dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung giữa những
người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường
dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm
còn thơm làn gạo mới.Nhớ mùi thơm “nếp xôi” hương vị của núi rừng Tây Bắc, của
tình người thân yêu da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những
con người miền Tây Bắc của Tổ quốc với bộ đội kháng chiến. Tình cảm ấy mãi mãi
không thể phai mờ trong lòng những người lính Tây Tiến. Như Chế Lan Viên từng viết
về tình quân dân ấy trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương” lOMoAR cPSD| 23136115 Đánh giá chung
Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên
và miền Tây hùng vĩ mà còn thành công với các biện pháp nghệ thuật như cảm hứng
lãng mạn, bi trán. Sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết
hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.
Kết bài bài thơ Tây Tiến
Đoạn thơ mở đầu trong bài thơ “Tây Tiến” dù chỉ mới là khúc dạo đầu của một bản
tình ca về nỗi nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi
rừng Tây Bắc trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến
hiện lên thật đẹp. Đồng thời thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con
người nơi ấy là biểu hiện của một tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời
là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí của mình KHỔ 2-
Quang Dũng là một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, là nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, là
nghệ sĩ của những vần thơ giàu chất nhạc, chất họa. “Tây Tiến” là thi phẩm nổi tiếng
nhất của ông, được bao nhiêu thế hệ bạn đọc yêu mến. Cảm xúc bao trùm bài thơ là nỗi
nhớ trải theo những cung đường dãi dầu mà mĩ lệ nơi đoàn binh Tây
Tiến đã đi qua và để lại bao kỉ niệm đẹp. Có những kỉ niệm thật dữ dội nhưng cũng có
những kỉ niệm thật êm đềm. Kỉ niệm êm đềm ấy giúp ta cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng
mạn của những người lính Tây Tiến thuở nào:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc lOMoAR cPSD| 23136115
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào cuối năm 1948- một năm sau khi Quang
Dũng rời đoàn binh Tây Tiến. Nỗi nhớ thương những người đồng chí đồng đội cùng
những tháng năm gắn bó với đoàn quân đã thôi thúc nhà thơ cầm bút ghi lại những cảm
xúc chân thật, tự nhiên, mãnh liệt, dâng trào.
Tây Tiến là một cuộc trường chinh vô cùng gian khổ. Nhưng vượt lên mọi khó khăn,
tâm hồn người lính Tây Tiến vẫn đầy chất lãng mạn và không phôi pha đi cái dáng vẻ
của người nghệ sĩ hào hoa. Sau chặng đường dài hành quân gian khổ, những người lính
mang trong mình tâm hồn nghệ sĩ ấy đã hòa nhập vào sinh hoạt bình dị mà đầy chất
thơ cùng nhân dân trên những nẻo đường hành quân. Không có chất nghệ sĩ bẩm sinh
của chàng trai đất Thăng Long nghìn năm văn hiến sẽ không có những giờ phút thăng
hoa theo tiếng khèn, theo những vũ điệu của đêm hội đuốc hoa.
Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến trước hết thể hiện ở tâm hồn mộng mơ, đa
tình khi đắm mình trong không khí của đêm liên hoan văn nghệ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
Chỉ một từ “bừng” trong câu thơ mà nói lên được cả một cảm xúc dào dạt, phấn chấn.
Đâu chỉ là ánh sáng của ngọn lửa hồng lên, mà đó là sự bừng sáng trong tâm hồn, đó
là niềm vui rạng rỡ. Cảnh được miêu tả lại là cảnh hồi tưởng từ quá khứ nên “bừng”
còn là bừng thức cả một vùng kỉ niệm. Trong cái nhìn lãng mạn của người lính, đêm
liên hoan văn nghệ trở thành “đêm hội đuốc hoa”. “Đuốc” trước hết là những bó lửa
đuốc được thắp lên trong đêm liên hoan. “Đuốc hoa” là hình ảnh đẹp vừa tươi sáng,
rực rỡ, ấm áp, vừa lung linh ảo huyền thơ mộng, đó là cái tình, cái ý của những chàng
trai trẻ tuổi trẻ lòng. “Đuốc hoa” từ hán còn là hoa chúc, xa xôi gợi về lễ hợp cẩn lứa
đôi. Vậy là tình quân dân cá nước cũng say đắm, rạo rực như tình lứa đôi buổi đầu gặp
mặt. Quả là một sự liên tưởng táo bạo, thú vị và đầy bất ngờ. Đêm hội vừa đông đúc,
vừa đông vui, vừa có vẻ tưng bừng náo nhiệt của những đêm hội trai gái mở hội lòng.
Đang say sưa trong đêm hội liên hoan, người lính phải thốt lên:
“ Kìa em xiêm áo tự bao giờ” lOMoAR cPSD| 23136115
“Xiêm áo” là từ Hán Việt đủ để Quang Dũng diễn tả sự rực rỡ, lộng lẫy của người con
gái vùng sơn cước vừa như từ trang truyện cổ bước ra, vừa như từ trang đời bước lại.
Từ “kìa” bật lên bộc lộ cả một niềm thích thú , một sự say mê ngỡ ngàng, một cái nhìn
đam mê ngưỡng vọng trước vẻ đẹp đầy quyến rũ. Sự hóm hỉnh trẻ trung của người lính
đã được thể hiện một cách đầy tinh tế như thế. Cảnh quá khứ mà sống động như thực
tại chứng tỏ những kí ức về Tây Tiến trong lòng tác giả nguyên vẹn không một chút
phai nhạt. “Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Viết về nhạc nên câu thơ của Quang Dũng cũng đầy chất nhạc. Một thứ nhạc êm ái dìu
dặt khiến hồn ta lâng lâng bay bổng. Thứ nhạc ấy được tạo nên nhờ sự hòa phối thanh
điệu tài tình với thanh bằng là chủ yếu. Nhưng đó còn là một thứ nhạc đặc biệt khác ở
ngoài lời, là nhạc tâm hồn của những anh lính trẻ mộng mơ. “Hồn thơ” đã biến người
lính thành thi sĩ, còn “nàng thơ”- cảm hứng của những thi sĩ hào hoa đó là những sơn
nữ vùng sơn cước duyên dáng yêu kiều trong tiếng khèn “man điệu” quyến rũ gọi mời.
Người chiến binh ra đi chiến đấu với một tâm hồn nghệ sĩ. Họ cầm súng chiến đầu là
vì hoàn cảnh không thể khác được, còn về bản chất, họ thật sự là nghệ sĩ. Anh hùng mà
nghệ sĩ , gian khổ mà vẫn hào hoa, đó là những nét cơ bản trong tính cách con người
Việt Nam mà những chàng trai Hà Nội mang trong mình rất đậm. Phút chốc bao nhiêu
gian khổ nhọc nhằn dọc đường hành quân được gột sạch để chỉ còn tràn ngập trong
hồn người chiến binh Tây Tiến niềm bâng khuâng xao xuyến và những rung động đầy chất thơ.
Từ đêm lửa trại, Quang Dũng đột ngột chuyển cảnh về một miền sông nước Tây Bắc đầy chất thơ:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” lOMoAR cPSD| 23136115
Chất nhạc, chất họa như được nhân lên trong những vần thơ sâu lắng gợi khung cảnh
Châu Mộc chiều sương. Nơi đoàn quân Tây Tiến đi qua, có những khung cảnh cực kì
dữ dội, vất vả, có những cảnh thật thơ mộng trữ tình. Có những buổi chiều oai linh thác
gầm thét, có những lúc sương lấp đoàn quân mỏi nhưng cũng có những Châu Mộc
chiều sương đẹp bảng lảng, mơ hồ. Nỗi nhớ Châu Mộc được gắn với không gian thời
gian cụ thể. Thời gian là “chiều”- khoảng thời gian gợi nỗi nhớ, gợi khát khao sum họp.
Độc đáo trong câu thơ là đại từ “ấy”, một từ vô danh về ngữ pháp nhưng hữu tình về
ngữ nghĩa. Tố Hữu đã dùng từ “ấy” để ghi lại thời khắc đáng nhớ:
“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ” Hay trong thơ Thế Lữ:
“Buổi ấy lòng ta nghe tiếng bạn
Ngàn năm chưa dễ đã ai quên”
Hai tiếng “chiều sương” kết hợp với đại từ phiếm định “ấy” vừa làm tăng thêm vẻ xa
vắng bâng khuâng, vừa khiến buổi chiều sương Châu Mộc hiện ra rõ ràng, không lẫn
vào muôn buổi chiều vô danh khác của loài người.
Trong nỗi nhớ về Châu Mộc, hình ảnh ngàn lau bỗng trở nên có hồn:
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
Câu thơ Quang Dũng gợi nhớ đến những vần thơ nổi tiếng trong bài “Lau biên giới”
của nhà thơ Chế Lan Viên:
“Ai lên biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh”
Nếu “lau” trong thơ Chế Lan Viên chủ yếu thiên về ấn tượng thị giác thì trong thơ
Quang Dũng lại nghiêng về những cảm nhận từ tâm hồn. Miêu tả hoa lau, Quang Dũng
viết “hồn lau” chứ không phải bờ lau hay triền lau. Bởi nếu như vậy thì chỉ tả hình sắc, lOMoAR cPSD| 23136115
còn “hồn lau” hiện lên cả tâm hồn, linh hồn của Tây Bắc đại ngàn. Lau không còn vô
tri vô cảm nữa, nó làm thành hồn riêng của chiều sương Châu Mộc.
Tâm tình của con người không chỉ gửi vào hồn lau nẻo bến bờ mà còn trong những
hình ảnh duyên dáng đáng yêu của con người:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Trên cái nền huyền ảo của sương và lau trắng, nổi bật lên dáng người lom khom trên
con thuyền độc mộc. Đó là cái dáng của những cô lái đò người Mèo, người Thái, cái
dáng mềm mại duyên dáng thật hợp với con thuyền độc mộc, hợp với bức tranh có sự
hài hòa từ màu sắc đến đường nét. Một lần nữa, Quang Dũng lại bật lên câu hỏi “có
nhớ” làm câu thơ càng thêm da diết, bâng khuâng.
Khép lại nỗi nhớ về buổi chiều sương Châu Mộc là một hình ảnh vô cùng ấn tượng:
“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
“Hoa” ở đây trước hết là hiện thực, là hoa rừng vì Tây Bắc là xứ sở của các loài hoa:
hoa đào, hoa mơ, “bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù núi khói Mèo
đốt nương xuân”. Miêu tả hoa, tác giả chọn “đong đưa” chứ không phải “đung đưa” vì
“đung đưa” chỉ gợi lên chuyển động cơ học, có tính chất vật lý, còn “đong đưa” gợi
bao nhiêu tình tứ, gọi mời. Đến cả bông hoa rừng trên dòng nước lũ cũng không vô
tình bởi nó được nhìn bằng cặp mắt đa tình và mơ mộng của anh lính Tây Tiến. Nhưng
bước vào thơ ca nói chung, thơ Quang Dũng nói riêng thì hoa muôn đời là ẩn dụ cho
cái đẹp, cho người con gái. Bóng hoa là bóng người con gái trên thuyền soi xuống dòng
nước, đong đưa tình tứ nhưng vẫn kín đáo, duyên dáng. Như vậy, cái tình tứ của cảnh
suy cho cùng là do người ngắm cảnh.
Như vậy, qua những kỉ niệm êm đềm, ngọt ngào về đêm liên hoan văn nghệ và cảnh
Châu Mộc chiều sương, ta càng cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây
Tiến: mộng mơ, đa tình, giàu rung cảm trước cái đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con
người, trong hiện thực nhiều gian khó, khốc liệt, họ luôn mơ về những điều tốt đẹp, về
ngày mai chiến thắng. Chất nhạc, chất họa, chất thơ đã hòa vào nhau, làm nên những
vần thơ tuyệt đẹp. Đoạn thơ đã góp phần làm nên thành công của cả bài thơ, đưa “Tây
Tiến” xứng đáng với vị trí là một trong những tác phẩm mở đầu xuất sắc của nền thơ cách mạng Việt Nam. lOMoAR cPSD| 23136115
Gấp lại đoạn thơ đầy chất lãng mạn trữ tình, độc giả cảm nhận được những kỉ niệm
thời chiến cũng có lúc không vương khói bụi chiến trường, không thấy bóng dáng của
sự khốc liệt, của hiện thực nghiệt ngã. Nhà thơ đã giúp chúng ta hiểu rằng: chiến trường
đâu chỉ có thiếu thốn, gian khổ với bao mất mát, hi sinh?
KHỔ 3- Quang Dũng là nhà thơ chiến sĩ, ông viết rất hay về đồng đội thân yêu của
mình, về núi rừng miền Tây một thời trận mạc đầy gian khổ hi sinh. Đây là bài thơ hay
nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng, cũng là bài thơ hay nhất viết về anh Bộ đội cụ
Hồ trong kháng chiến chống Pháp. Với bài thơ này,. Quang Dũng đã góp một thanh âm
trong trẻo trong bản hòa ca ca ngợi vẻ đẹp của người lính, của con người và núi rừng
miền Tây. Với nỗi nhớ và niềm tự hào tha thiết, Quang Dũng đã khắc họa thành công
khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong hào khí nóng bỏng
của chiến trường miền Tây:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc ……
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi ông đã rời xa đơn vị
cũ và đồng đội. Chất lãng mạn và tinh thần bi tráng thấm đượm trong từng lời thơ,
trong từng hình tượng của bài tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ này. Hình tượng
người lính được khắc họa bằng cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng, bút pháp lãng
mạn được sử dụng rộng rãi nhằm phát huy cao độ trí tưởng tượng của độc giả. Ở đây
nhà thơ đã sử dụng rộng rãi các yếu tố cường điệu phóng đại, các thủ pháp đối lập để
đậm tô cái phi thường tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về đoàn binh Tây Tiến gian khổ vất
vả song anh dũng hào hoa. Tinh thần bi tráng thể hiện bằng giọng điệu âm hưởng, màu
sắc tráng lệ hào hùng khi viết về đoàn binh Tây Tiến trên cái nền vẻ đẹp vừa đa dạng
vừa độc đáo, vừa hoang vu hiểm trở hùng vĩ dữ dội khác thường, vừa thơ mộng ấm áp
của núi rừng và cũng duyên dáng mĩ lệ của con người Tây Bắc. Những người lính Tây
Tiến trực tiếp xuất hiện với vẻ đẹp độc đáo kì lạ:
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc lOMoAR cPSD| 23136115
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của người lính Tây Tiến để khắc họa
nên bức tượng đài tập thể. Không mọc tóc không phải là đoàn binh Tây Tiến không có
tóc, không được tự nhiên ưu ái ban phát cho mái đầu xanh, là trường hợp ngoại lệ của
con người trong xã hội, mà là vì hiện thực gian khổ đói rét bệnh tật sốt rét rừng đã làm
cho các anh tiều tụy, hình hài rụng hết cả tóc. Và có lẽ do đoàn quân phải chiến đấu
giáp lá cà với địch nên phải cắt trụi tóc, tránh đi điểm yếu của mình: Địch không túm
được tóc (?). Lính ta so với lính địch hẳn là nhỏ bé hơn, có cắt tóc đi mới phát huy
được sức mạnh của mình một cách triệt để. Như vậy cụm từ “ không mọc tóc” vừa
nhấn mạnh được hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh vừa tô đậm được sự hi sinh
cao cả của những chiến sĩ Tây Tiến vì cách mạng. “ Không mọc tóc đâu phải là hình
ảnh li kì giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng bịa đặt mà là một sự thực nghiệt ngã,
một sự hi sinh có thực của người lính Tây Tiến. Hiện thực người lính qua bút pháp
cường điệu đã gây nên một ấn tượng khó quên bởi hình ảnh người lính được vẽ bằng
những đường nét, những gam mầu rừng núi tạo nên vẻ đẹp cứng rắn gân guốc oai
phong và dữ dội khác thường. Thực tế cái nghiệt ngã gian lao vất vả của chiến trường,
của bệnh tật đã làm cho thân xác người lính tiều tụy tóc rụng, da xanh hòa lẫn vào màu của lá rừng.
Viết về anh Bộ đội cụ Hồ trong những năm kháng chiến chống Pháp, các tác giả thường
nhắc đến bệnh sốt rét hiểm nghèo để khắc họa sự gian khổ hi sinh của người lính phải
chịu đựng, Chính Hữu trong bài “Đồng chí” đã viết:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt
run người vầng trán ướt mồ hôi Nhà thơ Tố Hữu viết: Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ
Nhưng với nguồn cảm hứng lãng mạn bắt nguồn từ niềm lạc quan yêu cuộc sống nó đã
chắp cánh cho tư tưởng bay bổng. Cho nên hình tượng người lính trở nên có vẻ đẹp
khỏe khoắn mang dáng rừng thế núi, mang oai phong lẫm liệt như những con hổ nơi lOMoAR cPSD| 23136115
rừng thiêng. “ Dữ oai hùm là những nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên
ngang tinh thần quả cảm xung trận của các chiến sĩ Tây Tiến tương phản với không
mọc tóc, quân xanh màu lá – cái hình hài không lấy gì đẹp.Giữ oai hùm là hình ảnh nói
lên chí khí của người lính mang tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng- Các chiến
binh sát thát đời Trần: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” ( “Thuật hoài” –Phạm Ngũ lão
), hay “Sĩ tốt kén người hùng hổ/Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh” ( “Bình Ngô Đại Cáo”-
Nguyễn Trãi). Trên trận tuyến chống quân thù, thời đại nào cũng có những chiến sĩ” tì
hổ” và “ dữ oai hùm” như thế đó!. Với niềm tự hào, Quang Dũng đã viết nên những
câu thơ rất hay: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. Lấy cái thô cái mộc để tô đậm cái
đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn người chiến sĩ. Những người lính Tây Tiến
qua cái nhìn của Quang Dũng không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn
nhiều chiều của Quang Dũng giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùm dữ dằn. Bề
ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim tuổi trẻ rạo rực khao khát yêu thương
vượt lên trên cái gian khổ ác liệt thiếu thốn bệnh tật mất mát đau thương … Muôn lần
khó khăn thử thách họ vẫn có những giấc mộng đẹp.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Mộng và mơ gửi về hai phía biên cương và Hà Nội, nơi còn đầy bóng giặc. “Mắt trừng”
gợi tả nét dữ dội oai phong lẫm liệt, cái cảnh giác tỉnh táo của người lính trong chiến
trận ác liệt. Mộng qua biên giới- mộng tiêu diệt quân thù bảo vệ biên cương lập nên
chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn bình Tây Tiến.
Người lính Tây Tiến nhớ về Hà Nội theo cách riêng của mình, nỗi nhớ sâu sác mang
nét lãng mạn hào hoa của người Hà Nội.Nó thật khác với nỗi nhớ của người lính xuất
thân từ người nông dân. Trong bài “Đồng Chí” Chính Hữu viết:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Hay nỗi nhớ của người lính trong bài “ Nhớ” của Hồng Nguyễn: Nhớ người vợ trẻ
“mòn chân bên cối gạo canh khuya”. Tình cảm ấy giống như một bóng cây xanh mát,
một hồ nước ngọt trên đường hành quân đầy nắng lửa của người lính. Giữa chiến trường
miền Tây vô cùng khốc liệt ấy nếu người lính không biết mơ mộng thi vị hóa cuộc sống
vì mục đích cao xa hơn thì họ sẽ chết chìm trong hiện thực khắc nghiệt trước khi gục lOMoAR cPSD| 23136115
ngã vì súng đạn kẻ thù. Chất lãng mạn ấy là phẩm chất cần thiết để làm tăng thêm nghị
lực sức mạnh vượt lên trên khó khăn thử thách nắm bắt thời cơ vận hội để chiến thắng.
Những câu thơ đó xưa bị coi là “mộng rớt” thì nay lại là những câu thơ độc đáo. Mặt
khác, những người lính Tây Tiến đặt mộng lập chiến công, mộng tiêu diệt quân thù bảo
vệ biên cương lên trên mơ về dáng kiều thơm. Cả mộng và mơ đều đẹp nhưng phải
chăng tác giả muốn nói những người lính Tây Tiến đặt nghĩa vụ trách nhiệm với tổ
quốc lên trên những ước mơ thầm kín của mình.
Trong chiến tranh không thể không nói tới hi sinh mất mát, Quang Dũng cũng không
che giấu sự thực đó: Đoàn binh Tây Tiến nhiều khi phối hợp tác chiến với quân đội Lào
trên cả hai địa bàn Việt Lào. Nhiều chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại nơi biên cương xa xôi:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Tác giả sử dụng những từ Hán Việt mang sắc thái trang trọng cổ kính khi nói về cái
chết. “Rải rác” là biểu thị số ít nhưng “ rải rác biên cương” thì không phải là số ít nữa
rồi. “ Mồ viễn xứ” gợi lên cái chết khủng khiếp, đậm chất bi hùng. Nếu đứng riêng lẻ
thì câu thơ gợi ấn tượng buồn thảm đến vô cùng, nhưng từ cái buồn thảm ấy câu thơ
sau đã nâng đỡ nó lên thành bị tráng bỏi nó nói được điều cốt lõi trong nhân cách của
người lính. Câu thơ thể hiện thái độ tự nguyện cống hiến tuổi thanh xuân cho tổ quốc
của những người lính trẻ Tây Tiến.Tuổi thanh xuân đẹp là thế, khát vọng thế,mộng mơ
là thế nhưng vẫn sẵn sàng sả thân, thật không có sự hi sinh nào cao cả hơn! Những
người lính Tây Tiến ra chiến trường với quyết tâm “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”. Khi ngã xuống, họ được mai táng trong bộ quần áo của chính mình:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Sự hi sinh nào cũng gợi cảm giác buồn đau tang thương, nhưng trong đoạn thơ này, ý
thơ buồn mà không bi lụy. Cảm hứng thơ mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng
đỡ bởi đôi cánh của lí tưởng, bằng tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy sự thực người lính
gục ngã trên chiến trường không có lấy một mảnh chiếu che thân, tấm ván để khâm
liệm qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bao bọc trongn hững tấm áo bào sang trọng.
Tác giả thật tinh tế khi sử dụng cụm từ “ anh về đất” để nói về sự hi sinh ấy. Câu thơ lOMoAR cPSD| 23136115
góp phần giảm nhẹ cái bi thương, đồng thời thể hiện niềm trân trọng yêu thương của
đất nước, của đồng đội đối với những người đã ngã xuống. Quang Dũng nói về cái chết
với những từ ngữ thật giản dị, mộc mạc mà thiêng liêng, giúp bình thường hóa, tự nhiên
hóa cái chết theo đúng quan niệm của các chiến sĩ trong thời kì đầu cuộc kháng chiến
chống Pháp. Người lính Tây Tiến tự nguyện chiến đấu với một lòng yêu nước nồng
nàn, tình thần xả thân vì nghĩa lớn, giống như những tráng sĩ thuở xưa “ gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”.
Cái bi tráng bi thương bị át hẳn trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã: Sông
Mã gầm lên khúc độc hành. Những người lính Tây Tiến ngã xuống đã nhận được sự
cảm thông sâu sắc của thiên nhiên, của dòng sông Mã oai hùng.
Dòng sông gầm lên khúc độc hành tiễn đưa linh hồn người lính về với đất mẹ. Đó là
tiếng khóc của tự nhiên hay là sự phẫn nộ của tự nhiên? Dòng sông Mã gắn bó với đoàn
binh Tây Tiến, để cho dòng sông ấy tấu lên khúc nhạc trầm hùng chính là cách mà nhà
thơ đậm tô thêm tầm vóc phi thường của người lính, con người tương xứng với núi
non, sông nước mênh mông. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu, ngôn ngữ
bình dị kết hợp với những từ Hán Việt làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình
thường đậm tô cái anh hùng. Giọng điệu của đoạn thơ thể hiện thái độ kính cẩn, trân
trọng của Quang Dũng trước sự hi sinh của đồng đội