Thẩm quyền gì? Cách xác định quan
thẩm quyền?
1. Thẩm quyền ?
Thẩm quyền quyền chính thức được xem t đ kết luận định đoạt,
quyết định một vấn đề.
Thẩm quyền gắn liền với quyền nhiệm vụ pháp luật quy định cho
quan nhà nước, người nắm giữ những chức vụ lãnh đạo, quản trong các
quan đó để thực hiện chức ng nhiệm vụ của họ. Thẩm quyền của mỗi
quan nhân được phân định theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành
chính, cấp hành chính. Trong mỗi ngành, thẩm quyền được phân định theo
chức năng, nhiệm vụ của ngành như thẩm quyền của Toà án nhân dân xét
xử. Tuy nhiên, một loại việc thể thuộc thẩm quyền của một hoặc nhiều
quan, nhân trong các ngành, cấp khác nhau.
dụ: theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự việc điều tra các vụ án hình
sự thuộc thẩm quyền của một số quan n quan điều tra của lực lượng
cảnh sát nhân dân, quan điều tra của lực lượng an ninh nhân dân,
quan điều tra trong quân đội nhân dân, quan điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân,... Khi thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn trong thẩm quyền, các
quyết định phán quyết của các quan, nhân này được đảm bảo thi
hành bằng các biện pháp cưỡng chế n nước.
Trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, thuật ng “thẩm quyền” thường
được sử dụng trong các cụm từ như: “thẩm quyền xét xử”, “thẩm quyền điều
tra” “cơ quan thẩm quyền”, “người thẩm quyền”, “cấp thẩm quyền”,
“thẩm quyền của Toà án nhân dân”, “hẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân”,
thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”... (Xt. Thẩm quyền xét
xử của Toà án...).
Thẩm quyền tổng thể các quyền nghĩa vụ được trao cho các chủ thể
nhất định đ áp dụng giải quyết các vấn đề cụ thể nào đó trong phạm vi quản
của họ.
Mỗi chủ thể nhân hoặc tổ chức chỉ được giao những thẩm quyền
được thực hiện các thẩm quyền đó trong phạm vi nhất định. nội dung
thẩm quyền của tất cả các chủ thể trong tất cả các lĩnh vực thì đều phải do
pháp luật quy định, không một chủ thể nào được quyền tạo ra “thẩm quyền
riêng” vượt ra khỏi phạm vi pháp luật quy định.
Đây không chỉ quyền của các chủ th còn nghĩa vụ, bắt buộc phải
thực hiện bằng hành vi trên thực tế.
Việc xác định thẩm quyền giải quyết rất quan trọng, tránh gây chồng chéo,
giải quyết sai thẩm quyền.
Tuy đây được coi những quyền đã được pháp luật công nhận được
đảm bảo thực hiện không ai được hạn chế, nhưng không phải vậy
các chủ thể thẩm quyền được thực hiện các quyền này một cách bừa bãi,
thực hiện với mục đích riêng. Việc thực hiện các quyền này phải nằm trong
khuôn khổ pháp luật cho phép.
Thẩm quyền quyền chính thức được xem t đ kết luận định đoạt,
quyết định một vấn đề.
Trong khoa học pháp lý: Thẩm quyền một khái niệm quan trọng, trung tâm.
Thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền nghĩa vụ hành động, quyết
định của c quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước do pháp luật
quy định.
dụ: Thẩm quyền của Tòa án toàn bộ những quyền do pháp luật quy định,
theo đó Tòa án được tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo
quy định của pháp luật.
2. Thẩm quyền trong tiếng Anh là gì?
Thẩm quyền trong tiếng Anh “Authorization”.
quan thẩm quyền các quan được nhà nước trao cho những
quyền năng nhất định để thực hiện những công việc trong phạm vi quản
của mình, trong quá trình ng tác, quan thẩm quyền sẽ dựa vào
những n cứ thẩm quyền đó để đưa ra những quyết định, thông báo bằng
văn bản để chỉ đạo, điều tiết công việc, trực tiếp tham gia vào giải quyết
những tranh chấp trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của mình.
Tuy được nhà nước trao quyền nhưng không phải thế các quan
thẩm quyền được tự do sử dụng, phải đảm bảo thực hiện đúng thẩm quyền,
đúng phạm vi của quan nh.
3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ.
Thẩm quyền của Tòa án là toàn bộ quyền do pháp luật quy định, theo đó Tòa
án được tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo quy định
pháp luật.
Ý nghĩa của việc xác định được thẩm quyền của Tòa án:
Tránh được sự chồng chéo nhiệm vụ, tạo điều kiện cho a án xét xử
nhanh chóng đúng đắn với tính chất của vụ việc.
Tránh tình trạng giải quyết không đúng thẩm quyền hoặc đùn đẩy trách
nhiệm giữa các Tòa án.
Xác định được các điều kiện chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết của đội ngũ
cán bộ.
Tránh được vụ việc bị hủy để xét xử lại gây mất thời gian, tổn phí vật chất.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án dân sự, chuyển giao bản án,
quyết định, giải thích bản án, quyết định.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự trong việc tham gia bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.
Về nguyên tắc việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ phải
được tiến hành dựa trên sở bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự của
Tòa án được nhanh chóng, đúng đắn, bảo đảm việc bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự nhưng vẫn đảm bảo Tòa
án thẩm quyền giải quyết Tòa án thuận lợi nhất cho việc tham gia tố
tụng của đương sự, là Tòa án điều kiện thuận lợi nhất để giải quyết vụ án.
Về căn bản các quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ tại Điều 39 Điều 40
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã kế thừa các quy định trước đây. Tuy
nhiên, cũng những điểm khác biệt nhất định.
dụ n quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 thì theo hướng cụ thể hơn là “Đối tượng tranh chấp bất động sản thì
chỉ Tòa án nơi bất động sản thẩm quyền giải quyết”. Quy định này của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 dường như đã đi theo hướng giới hạn hơn
thẩm quyền của Tòa án nơi bất động sản chỉ đối với trường hợp đối
tượng tranh chấp bất động sản chứ không bao hàm cả trường hợp tranh
chấp về quyền tài sản liên quan đến bất động sản. Quy định này hợp
Tòa án nơi bất động sản Tòa án điều kiện thuận lợi hơn cả trong việc
tiến hành các biện pháp xác minh, đảm bảo cho việc giải quyết vụ kiện sát với
thực tế sự việc như xem xét, thẩm định tại chỗ (xác minh thực địa); tiến hành
định giá tài sản; thu thập tài liệu từ quan nhà đất… Hiện nay, Bộ luật tố
tụng dân sự 2015 chưa một quy định tính định nghĩa chính thức như
thế nào là trường hợp đối tượng tranh chấp bất động sản” để khi vận dụng
thể bao quát xác định chính xác Tòa án thẩm quyền đối với các
tranh chấp dân sự.
Ngoài ra, điểm b Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “Các
đương sự quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản u cầu Tòa án nơi
trú, làm việc của nguyên đơn…”. Như vậy, quyền tự định đoạt của các
đương sự đã được pháp luật đề cao, tôn trọng, theo đó nếu bị đơn đồng ý với
nguyên đơn về việc giải quyết vụ án tại Tòa án nguyên đơn trú làm việc thì
Tòa án đó không được từ chối thụ lý. Tuy nhiên, đối với tranh chấp đối
tượng tranh chấp bất động sản thì các bên không được thỏa thuận vẫn
Tòa án nơi bất động sản giải quyết.
Bên cạnh các quy định về xác định thẩm quyền như trên thì để đảm bảo
thuận tiện cho nguyên đơn trong việc tham gia tố tụng, tại điểm b khoản 1
Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định nguyên đơn, người yêu cầu
thể lựa chọn Tòa án không cần sự đồng ý của bị đơn, người yêu cầu.
Quy định này hoàn toàn p hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi, linh
hoạt cho chủ thể khởi kiện thực hiện việc lựa chọn Tòa án thẩm quyền giải
quyết cho mình, trao cho họ sự chủ động trong việc lựa chọn Tòa án giải
quyết tranh chấp trong một số trường hợp nhất định như: Nguyên đơn không
biết nơi trú, làm việc, trụ sở của bị đơn; tranh chấp về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng;…
4. Cách xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh th
4.1.Thẩm quyền của Tòa án i bị đơn thường trú
Khoản 1 Điều 12 Luật trú năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2013)
(viết tắt Luật t sửa đổi năm 2013) quy định: “Nơi thường t nơi
công dân sinh sống thường xuyên, n định, không thời hạn tại một chỗ
nhất định đã đăng thường trú”. Trong thực tế, khi xác định nơi thường
trú của một người, chúng ta hầu n không quá chú trọng đến yếu tố “nơi
công dân sinh sống thường xuyên, n định” chúng ta thường chỉ quan
tâm đến yếu tố “nơi công dân đã đăng thường trú”.
Điều 18 Luật trú sửa đổi năm 2013 quy định: “Đăng thường trú việc
công dân đăng nơi thường trú của mình với quan nhà nước thẩm
quyền được quan này làm th tục đăng thường trú, cấp sổ hộ khẩu
cho họ”. Cơ quan thẩm quyền đăng Công an huyện, quận, thị đối
với thành phố trực thuộc Trung ương; Công an xã, thị trấn thuộc huyện, Công
an thị xã, thành phố thuộc tỉnh đối với tỉnh (Điều 21 Luật trú sửa đổi năm
2013).
4.2.Thẩm quyền của Tòa án i bị đơn tạm t
Khoản 1 Điều 12 Luật trú sửa đổi năm 2013 quy định: “Nơi tạm trú là nơi
công dân sinh sống ngoài nơi đăng thường trú đã đăng tạm trú”.
Quan sát thực tế cho thấy, một người th sinh sống nhiều nơi khác nhau
để chứng minh nơi tạm trú của mình thì người đó chứng minh “đã đăng
tạm trú”.
Điều 30 Luật trú sửa đổi năm 2013 quy định: “Đăng tạm trú là việc
công dân đăng nơi tạm trú của mình với quan nhà nước thẩm quyền
được quan này làm thủ tục đăng tạm trú, cấp sổ tạm trú cho họ
(khoản 1), “Sổ tạm trú được cấp cho hộ gia đình hoặc nhân đã đăng
tạm trú, giá trị xác định nơi tạm trú của công dân thời hạn tối đa
hai mươi bốn tháng” (khoản 4).
Thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn đang sinh sống
quan điểm cho rằng: “Nơi trú của nhân nơi đăng thường trú
hoặc tạm trú của nhân đó”. Chúng tôi không hoàn toàn đồng nh với quan
điểm vừa nêu, chưa đầy đủ. Bởi lẽ, quan điểm vừa nêu đã b sót một nơi
trú nữa, đó chính “nơi nhân đó đang sinh sống” sẽ được trình bày
phần tiếp sau.
Quan điểm khác cho rằng: “Nơi nào nhân thường xuyên sinh sống
nơi trú của họ, bất kể họ đăng thường trú hay đăng tạm trú hay
không”. Chúng tôi không hoàn toàn đồng tình với quan quan điểm vừa nêu.
Bởi lẽ, quan điểm vừa nêu chỉ thể hiện về mặt thực tế, còn về mặt pháp thì
chưa được đảm bảo.
Khoản 1 Điều 12 Luật trú sửa đổi năm 2013 quy định: “Nơi trú chỗ
hợp pháp người đó thường xuyên sinh sống. Nơi trú của công dân
nơi thường trú hoặc tạm trú”. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 12 Luật trú sửa
đổi m 2013 quy định: “Trường hợp không xác định được nơi trú của
công n theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi trú của ng dân
nơi người đó đang sinh sống”.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 5 Nghị định số 31/2014/NĐ-CP ngày 18/4/2014 của
Chính phủ còn quy định: “Trường hợp không c định được nơi trú của
công n theo quy định tại Khoản 1 Điều này, thì i trú của công dân
nơi người đó đang sinh sống xác nhận của Công an xã, phường, thị
trấn”. Điều này nghĩa rằng, nơi trú còn “nơi người đó đang sinh sống”,
không thuộc trường hợp thường trú tạm trú nhưng phải xác nhận của
Công an xã, phường, thị trấn.
Như đã đề cập phần trên, theo chúng tôi, nơi trú nội hàm rộng, bao
gồm thể “nơi thường trú”, hoặc thể nơi tạm trú”, hoặc cũng
thể “nơi người đó đang sinh sống”. Trong số các nơi trú nêu trên, Luật
trú yêu cầu bắt buộc phải đăng đối với “nơi thường trú” “nơi tạm trú”,
còn Ngh định hướng dẫn yêu cầu cần phải xác nhận của Công an xã,
phường, thị trấn đối với “nơi người đó đang sinh sống để chứng minh một
người nào đó đang trú tại địa chỉ đó.
Tuy nhiên, thực tế t không phải lúc nào cũng n văn bản. Trong nhiều
trường hợp, một nhân nơi thường trú, hoặc nơi tạm trú, hoặc vừa
nơi thường trú vừa nơi tạm trú, ngoài ra h còn đang sinh sống tại một địa
chỉ khác không phải nơi đăng thường trú tạm trú. Như vậy, đây
không phải trường hợp “không xác định được nơi đăng thường trú
(hoặc) tạm trú” của một nhân trường hợp vừa “xác định được nơi
đăng thường trú (hoặc) tạm trú vừa “xác định được nơi đang sinh sống”
của một nhân thì theo chúng tôi, người khởi kiện thể lựa chọn Tòa án
thẩm quyền giải quyết: hoặc Tòa án nơi bị đơn thường trú, hoặc Tòa án
nơi bị đơn tạm trú, hoặc Tòa án nơi bị đơn đang sinh sống.
Khi muốn khởi kiện một nhân ra Tòa án nơi người đó đang sinh sống,
người khởi kiện phải tiến hành u cầu Công an xã, phường, thị trấn nơi
người đó đang sinh sống xác nhận người đó đang sinh sống tại một địa chỉ
cụ thể để từ đó, người khởi kiện nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nơi người
đó đang sinh sống thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Kết luận: Việc gửi đơn khởi kiện đến đúng Tòa án thẩm quyền giải quyết
một yếu tố rất quan trọng để xem xét việc thụ vụ án. Nếu vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của quan, tổ chức khác t Tòa án sẽ tr lại đơn
khởi kiện, nếu gửi đơn khởi kiện đến sai Tòa án thẩm quyền xét xử theo
cấp hay theo lãnh thổ thì sẽ phải chuyển đơn khởi kiện sang đúng Tòa án
thẩm quyền. Do đó, để tránh mất thời gian, công sức người khởi kiện phải hết
sức chú ý đến vấn đề này để đảm bảo đơn khởi kiện của mình thể được
thụ nhanh chóng.

Preview text:

Thẩm quyền là gì? Cách xác định cơ quan có thẩm quyền? 1. Thẩm quyền là gì ?
Thẩm quyền là quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt,
quyết định một vấn đề.
Thẩm quyền gắn liền với quyền và nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho cơ
quan nhà nước, người nắm giữ những chức vụ lãnh đạo, quản lí trong các cơ
quan đó để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của họ. Thẩm quyền của mỗi
cơ quan và cá nhân được phân định theo lĩnh vực, ngành, khu vực hành
chính, cấp hành chính. Trong mỗi ngành, thẩm quyền được phân định theo
chức năng, nhiệm vụ của ngành như thẩm quyền của Toà án nhân dân là xét
xử. Tuy nhiên, một loại việc có thể thuộc thẩm quyền của một hoặc nhiều cơ
quan, cá nhân trong các ngành, cấp khác nhau.
Ví dụ: theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự việc điều tra các vụ án hình
sự thuộc thẩm quyền của một số cơ quan như cơ quan điều tra của lực lượng
cảnh sát nhân dân, cơ quan điều tra của lực lượng an ninh nhân dân, cơ
quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của Viện kiểm sát
nhân dân,.. Khi thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn trong thẩm quyền, các
quyết định và phán quyết của các cơ quan, cá nhân này được đảm bảo thi
hành bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, thuật ngữ “thẩm quyền” thường
được sử dụng trong các cụm từ như: “thẩm quyền xét xử”, “thẩm quyền điều
tra” “cơ quan có thẩm quyền”, “người có thẩm quyền”, “cấp có thẩm quyền”,
“thẩm quyền của Toà án nhân dân”, “hẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân”,
thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân”... (Xt. Thẩm quyền xét xử của Toà án...).
Thẩm quyền là tổng thể các quyền và nghĩa vụ được trao cho các chủ thể
nhất định để áp dụng giải quyết các vấn đề cụ thể nào đó trong phạm vi quản lý của họ.
Mỗi chủ thể là cá nhân hoặc tổ chức chỉ được giao những thẩm quyền và
được thực hiện các thẩm quyền đó trong phạm vi nhất định. Và nội dung
thẩm quyền của tất cả các chủ thể trong tất cả các lĩnh vực thì đều phải do
pháp luật quy định, không một chủ thể nào được quyền tạo ra “thẩm quyền
riêng” mà vượt ra khỏi phạm vi pháp luật quy định.
Đây không chỉ là quyền của các chủ thể mà nó còn là nghĩa vụ, bắt buộc phải
thực hiện bằng hành vi trên thực tế.
Việc xác định thẩm quyền giải quyết rất quan trọng, tránh gây chồng chéo,
giải quyết sai thẩm quyền.
Tuy đây được coi là những quyền đã được pháp luật công nhận và được
đảm bảo thực hiện mà không ai được hạn chế, nhưng không phải vì vậy mà
các chủ thể có thẩm quyền được thực hiện các quyền này một cách bừa bãi,
thực hiện với mục đích riêng. Việc thực hiện các quyền này phải nằm trong
khuôn khổ mà pháp luật cho phép.
Thẩm quyền là quyền chính thức được xem xét để kết luận và định đoạt,
quyết định một vấn đề.
Trong khoa học pháp lý: Thẩm quyền là một khái niệm quan trọng, trung tâm.
Thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết
định của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước do pháp luật quy định.
Ví dụ: Thẩm quyền của Tòa án là toàn bộ những quyền do pháp luật quy định,
theo đó Tòa án được tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo
quy định của pháp luật.
2. Thẩm quyền trong tiếng Anh là gì?
Thẩm quyền trong tiếng Anh là “Authorization”.
Cơ quan có thẩm quyền là các cơ quan được nhà nước trao cho những
quyền năng nhất định để thực hiện những công việc trong phạm vi quản lý
của mình, trong quá trình công tác, cơ quan có thẩm quyền sẽ dựa vào
những căn cứ thẩm quyền đó để đưa ra những quyết định, thông báo bằng
văn bản để chỉ đạo, điều tiết công việc, trực tiếp tham gia vào giải quyết
những tranh chấp trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của mình.
Tuy được nhà nước trao quyền nhưng không phải vì thế mà các cơ quan có
thẩm quyền được tự do sử dụng, phải đảm bảo thực hiện đúng thẩm quyền,
đúng phạm vi của cơ quan mình.
3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ.
Thẩm quyền của Tòa án là toàn bộ quyền do pháp luật quy định, theo đó Tòa
án được tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo quy định pháp luật.
Ý nghĩa của việc xác định được thẩm quyền của Tòa án:
– Tránh được sự chồng chéo nhiệm vụ, tạo điều kiện cho Tòa án xét xử
nhanh chóng và đúng đắn với tính chất của vụ việc.
– Tránh tình trạng giải quyết không đúng thẩm quyền hoặc đùn đẩy trách nhiệm giữa các Tòa án.
– Xác định được các điều kiện chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết của đội ngũ cán bộ.
– Tránh được vụ việc bị hủy để xét xử lại gây mất thời gian, tổn phí vật chất.
– Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án dân sự, chuyển giao bản án,
quyết định, giải thích bản án, quyết định.
– Tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự trong việc tham gia bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.
Về nguyên tắc việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ phải
được tiến hành dựa trên cơ sở bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự của
Tòa án được nhanh chóng, đúng đắn, bảo đảm việc bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự nhưng vẫn đảm bảo Tòa
án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án thuận lợi nhất cho việc tham gia tố
tụng của đương sự, là Tòa án có điều kiện thuận lợi nhất để giải quyết vụ án.
Về căn bản các quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ tại Điều 39 và Điều 40
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã kế thừa các quy định trước đây. Tuy
nhiên, cũng có những điểm khác biệt nhất định.
Ví dụ như quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 thì theo hướng cụ thể hơn là “Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì
chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”. Quy định này của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 dường như đã đi theo hướng giới hạn hơn
thẩm quyền của Tòa án nơi có bất động sản chỉ đối với trường hợp có đối
tượng tranh chấp là bất động sản chứ không bao hàm cả trường hợp tranh
chấp về quyền tài sản liên quan đến bất động sản. Quy định này là hợp lý
Tòa án nơi có bất động sản là Tòa án có điều kiện thuận lợi hơn cả trong việc
tiến hành các biện pháp xác minh, đảm bảo cho việc giải quyết vụ kiện sát với
thực tế sự việc như xem xét, thẩm định tại chỗ (xác minh thực địa); tiến hành
định giá tài sản; thu thập tài liệu từ cơ quan nhà đất… Hiện nay, Bộ luật tố
tụng dân sự 2015 chưa có một quy định có tính định nghĩa chính thức như
thế nào là trường hợp “đối tượng tranh chấp là bất động sản” để khi vận dụng
có thể bao quát và xác định chính xác Tòa án có thẩm quyền đối với các tranh chấp dân sự.
Ngoài ra, điểm b Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “Các
đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi
cư trú, làm việc của nguyên đơn…”. Như vậy, quyền tự định đoạt của các
đương sự đã được pháp luật đề cao, tôn trọng, theo đó nếu bị đơn đồng ý với
nguyên đơn về việc giải quyết vụ án tại Tòa án nguyên đơn cư trú làm việc thì
Tòa án đó không được từ chối thụ lý. Tuy nhiên, đối với tranh chấp mà đối
tượng tranh chấp là bất động sản thì các bên không được thỏa thuận mà vẫn
là Tòa án nơi có bất động sản giải quyết.
Bên cạnh các quy định về xác định thẩm quyền như trên thì để đảm bảo
thuận tiện cho nguyên đơn trong việc tham gia tố tụng, tại điểm b khoản 1
Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định nguyên đơn, người yêu cầu có
thể lựa chọn Tòa án mà không cần sự đồng ý của bị đơn, người yêu cầu.
Quy định này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi, linh
hoạt cho chủ thể khởi kiện thực hiện việc lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải
quyết cho mình, trao cho họ sự chủ động trong việc lựa chọn Tòa án giải
quyết tranh chấp trong một số trường hợp nhất định như: Nguyên đơn không
biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn; tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;…
4. Cách xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
4.1.Thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn thường trú
Khoản 1 Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2013)
(viết tắt là Luật Cư trú sửa đổi năm 2013) quy định: “Nơi thường trú là nơi
công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở
nhất định và đã đăng ký thường trú”. Trong thực tế, khi xác định nơi thường
trú của một người, chúng ta hầu như không quá chú trọng đến yếu tố “nơi
công dân sinh sống thường xuyên, ổn định” mà chúng ta thường chỉ quan
tâm đến yếu tố “nơi công dân đã đăng ký thường trú”.
Điều 18 Luật Cư trú sửa đổi năm 2013 quy định: “Đăng ký thường trú là việc
công dân đăng ký nơi thường trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký thường trú, cấp sổ hộ khẩu
cho họ”. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký là Công an huyện, quận, thị xã đối
với thành phố trực thuộc Trung ương; Công an xã, thị trấn thuộc huyện, Công
an thị xã, thành phố thuộc tỉnh đối với tỉnh (Điều 21 Luật Cư trú sửa đổi năm 2013).
4.2.Thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn tạm trú
Khoản 1 Điều 12 Luật Cư trú sửa đổi năm 2013 quy định: “Nơi tạm trú là nơi
công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú”.
Quan sát thực tế cho thấy, một người có thể sinh sống ở nhiều nơi khác nhau
và để chứng minh nơi tạm trú của mình thì người đó chứng minh là “đã đăng ký tạm trú”.
Điều 30 Luật Cư trú sửa đổi năm 2013 quy định: “Đăng ký tạm trú là việc
công dân đăng ký nơi tạm trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký tạm trú, cấp sổ tạm trú cho họ”
(khoản 1), và “Sổ tạm trú được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký
tạm trú, có giá trị xác định nơi tạm trú của công dân và có thời hạn tối đa là
hai mươi bốn tháng” (khoản 4).
Thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn đang sinh sống
Có quan điểm cho rằng: “Nơi cư trú của cá nhân là nơi đăng ký thường trú
hoặc tạm trú của cá nhân đó”. Chúng tôi không hoàn toàn đồng tình với quan
điểm vừa nêu, vì chưa đầy đủ. Bởi lẽ, quan điểm vừa nêu đã bỏ sót một nơi
cư trú nữa, đó chính là “nơi cá nhân đó đang sinh sống” sẽ được trình bày ở phần tiếp sau.
Quan điểm khác cho rằng: “Nơi nào mà cá nhân thường xuyên sinh sống là
nơi cư trú của họ, bất kể họ có đăng ký thường trú hay đăng ký tạm trú hay
không”. Chúng tôi không hoàn toàn đồng tình với quan quan điểm vừa nêu.
Bởi lẽ, quan điểm vừa nêu chỉ thể hiện về mặt thực tế, còn về mặt pháp lý thì chưa được đảm bảo.
Khoản 1 Điều 12 Luật Cư trú sửa đổi năm 2013 quy định: “Nơi cư trú là chỗ ở
hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là
nơi thường trú hoặc tạm trú”. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 12 Luật Cư trú sửa
đổi năm 2013 quy định: “Trường hợp không xác định được nơi cư trú của
công dân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của công dân là
nơi người đó đang sinh sống”.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 5 Nghị định số 31/2014/NĐ-CP ngày 18/4/2014 của
Chính phủ còn quy định: “Trường hợp không xác định được nơi cư trú của
công dân theo quy định tại Khoản 1 Điều này, thì nơi cư trú của công dân là
nơi người đó đang sinh sống và có xác nhận của Công an xã, phường, thị
trấn”. Điều này có nghĩa rằng, nơi cư trú còn là “nơi người đó đang sinh sống”,
không thuộc trường hợp thường trú và tạm trú nhưng phải có xác nhận của
Công an xã, phường, thị trấn.
Như đã đề cập ở phần trên, theo chúng tôi, nơi cư trú có nội hàm rộng, bao
gồm và có thể là “nơi thường trú”, hoặc có thể là “nơi tạm trú”, hoặc cũng có
thể là “nơi người đó đang sinh sống”. Trong số các nơi cư trú nêu trên, Luật
Cư trú yêu cầu bắt buộc phải đăng ký đối với “nơi thường trú” và “nơi tạm trú”,
còn Nghị định hướng dẫn yêu cầu cần phải có xác nhận của Công an xã,
phường, thị trấn đối với “nơi người đó đang sinh sống” để chứng minh một
người nào đó đang cư trú tại địa chỉ đó.
Tuy nhiên, thực tế thì không phải lúc nào cũng như văn bản. Trong nhiều
trường hợp, một cá nhân có nơi thường trú, hoặc có nơi tạm trú, hoặc vừa có
nơi thường trú vừa có nơi tạm trú, ngoài ra họ còn đang sinh sống tại một địa
chỉ khác không phải là nơi đăng ký thường trú và tạm trú. Như vậy, đây
không phải là trường hợp “không xác định được nơi đăng ký thường trú và
(hoặc) tạm trú” của một cá nhân mà là trường hợp vừa “xác định được nơi
đăng ký thường trú và (hoặc) tạm trú” vừa “xác định được nơi đang sinh sống”
của một cá nhân thì theo chúng tôi, người khởi kiện có thể lựa chọn Tòa án
có thẩm quyền giải quyết: hoặc Tòa án nơi bị đơn thường trú, hoặc Tòa án
nơi bị đơn tạm trú, hoặc Tòa án nơi bị đơn đang sinh sống.
Khi muốn khởi kiện một cá nhân ra Tòa án nơi người đó đang sinh sống,
người khởi kiện phải tiến hành yêu cầu Công an xã, phường, thị trấn nơi
người đó đang sinh sống xác nhận người đó đang sinh sống tại một địa chỉ
cụ thể để từ đó, người khởi kiện nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nơi người
đó đang sinh sống thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Kết luận: Việc gửi đơn khởi kiện đến đúng Tòa án có thẩm quyền giải quyết
là một yếu tố rất quan trọng để xem xét việc thụ lý vụ án. Nếu vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác thì Tòa án sẽ trả lại đơn
khởi kiện, nếu gửi đơn khởi kiện đến sai Tòa án có thẩm quyền xét xử theo
cấp hay theo lãnh thổ thì sẽ phải chuyển đơn khởi kiện sang đúng Tòa án có
thẩm quyền. Do đó, để tránh mất thời gian, công sức người khởi kiện phải hết
sức chú ý đến vấn đề này để đảm bảo đơn khởi kiện của mình có thể được thụ lý nhanh chóng.
Document Outline

  • Thẩm quyền là gì? Cách xác định cơ quan có thẩm qu
    • 1. Thẩm quyền là gì ?
    • 2. Thẩm quyền trong tiếng Anh là gì?
    • 3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ.
    • 4. Cách xác định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh t
      • 4.1.Thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn thường trú
      • 4.2.Thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn tạm trú