-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Thảo luận Thừa kế theo pháp luật | Trường Đại học Luật TPHCM
Tài liệu gồm 22 trang, có 3 chương chính bao gồm các kiến thức cơ bản liên quan đến thừa kế theo pháp luật giúp bạn ôn luyện và nắm vững kiến thức môn học Luật dân sự. Mời bạn đọc đón xem!
Luật dân sự (LDS1) 11 tài liệu
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh 142 tài liệu
Thảo luận Thừa kế theo pháp luật | Trường Đại học Luật TPHCM
Tài liệu gồm 22 trang, có 3 chương chính bao gồm các kiến thức cơ bản liên quan đến thừa kế theo pháp luật giúp bạn ôn luyện và nắm vững kiến thức môn học Luật dân sự. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật dân sự (LDS1) 11 tài liệu
Trường: Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh 142 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT
DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ
KHÓA 47 - NĂM HỌC 2022 – 2023
BUỔI THẢO LUẬN THỨ BẢY
Thừa kế theo pháp luật Nhóm : 4 Ngành học : Luật Khoa :
Luật Hành chính – Nhà nước Lớp : HC47.3 STT HỌ VÀ TÊN MSSV 1 Trần Ngọc Như Quỳnh 2253801014129 2 Nguyễn Văn Hoàng San 2253801014130 3 Đỗ Duy Anh Tài 2253801014134 4 Thân Nguyễn Thành Tài 2253801014136 5 Đỗ Công Thắng 2253801014140 6 Phan Minh Thành 2253801014145 7 Mai Thanh Thảo 2253801014147 8 Trần Thị Phương Thảo 2253801014152 9 Vương Anh Thi 2253801014154 10 Lê Ngọc Anh Thư 2253801014161
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 04 NĂM 2023 1
Xác định vợ/ chồng của người để lại di sản..........................................................................6 1.1. Tóm
tắt.............................................................................................................................6
1.1.1. Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội..................................................................................................6 1.1.2. Án lệ số
41/2021/AL................................................................................................. 6 1.2. Câu
hỏi.............................................................................................................................7
1.2.1. Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?............7
1.2.2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong Bản án số
20.................................................................................................................. ..................7
1.2.3. Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời..................................................................................................................7
1.2.4. Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hôn không trong Bản án số 20? Vì sao?.....8
1.2.5. Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ
chồng nhưng không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau?
Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời………………………………………………………………………………………...8
1.2.6. Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào trong Bản
án số 20? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?.................................................................9
1.2.7. Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời…………………………………………………………………………………………….9
1.2.8. Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền
Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời......................................................................................9
1.2.9. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ
Thát trong Bản án số 20........................................................................................................9
1.2.10. Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và bà S có được hưởng di sản do ông T1 để
lại không? Đoạn nào của Án lệ có câu trả lời....................................................................10 2
1.2.11. Suy nghĩ của anh/chị về việc Án lệ xác định tư cách hưởng di sản của ông T1
đối với bà T2 và bà S...........................................................................................................10
2. Xác định con của người để lại di sản..................................................................................11 2.1. Tóm
Tắt..........................................................................................................................11
2.1.1. Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội................................................................................................11
2.1.2. Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.............................................................................................................................11 2.2. Câu
hỏi...........................................................................................................................12
2.2.1. Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời .........................................................................................................................12
2.2.2. Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại di sản?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...............................................................................................12
2.2.3. Trong Bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời ?.................................................................13
2.2.4. Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào của
bản án cho câu trả lời?........................................................................................................13
2.2.5. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.........13
2.2.6. Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với
tư cách nào? Vì sao?............................................................................................................13
2.2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh
Tùng………………………………………………………………………………………..14
2.2.8. Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi
có Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, anh Tùng có được hưởng
thừa kế của cụ Cầu và cụ
Dung không? Vì sao?...........................................................................................................14
2.2.9. Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu CSPL khi
trả lời……………………………………………………………………………………….15
2.2.10. Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ
Thát?........................15 3
2.2.11. Suy nghĩ của anh chị về giải pháp của Toà án liên quan đến bà Tiến..............15
2.2.12. Ở Việt Nam, con dâu, con rể của người để lại di sản có là người thừa kế của
người để lại di sản không? Nêu cơ sở pháp lý?.................................................................16
2.2.13. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào xác định con dâu, con rể là
người thừa kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ không? Nếu có, nêu hệ
thống pháp luật mà anh/chị
biết………………………………………………………………………………………….16
3. Con riêng của vợ/chồng.......................................................................................................16 3.1. Câu
hỏi...........................................................................................................................16
3.1.1. Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao? Bà Tiến là con riêng
của chồng cụ Tần.................................................................................................................16
3.1.2. Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời............................................................................................................17
3.1.3. Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần không? Vì sao?17
3.1.4. Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì
bà Tiến được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời. …………………………………………………………………………………………17
3.1.5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà
Tiến đối với di sản của cụ Tần............................................................................................17
3.1.6. Suy nghĩ của anh/chị (Nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh
của con riêng chồng/vợ trong BLDS hiện nay...................................................................18
4. Thừa kế thế vị và hàng thừa kế thứ hai, thứ ba................................................................18
4.1. Tóm tắt Bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/03/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội..................................................................................................................................18 4.2. Câu
hỏi...........................................................................................................................18
4.2.1. Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 có được hưởng thừa kế của cụ
T5 không? Vì sao?...............................................................................................................18
4.2.2. Ở nước ngoài, có hệ thống pháp luật nào ghi nhận thừa kế thế vị
trong trường hợp từ chối nhận di sản/tước quyền hưởng di sản
(không có quyền hưởng di sản)
không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết..........................................19 4
4.2.3. Ở Việt Nam, khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.………………………………………………………………………………………19
4.2.4. Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ có được hưởng thừa
kế thế vị không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..................................................................20
4.2.5. Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị
của cụ T5. Hướng như vậy có thuyết phục không? Vì sao?.............................................20
4.2.6. Theo quan điểm của các tác giả, con đẻ của con nuôi của người quá cố có thể
được hưởng thừa kế thế vị không?.....................................................................................20
4.2.7. Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được
hưởng thừa kế thế vị của cụ T5?........................................................................................21
4.2.8. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án cho cho con đẻ của chị C3 được hưởng
thừa kế thế vị của cụ T5......................................................................................................21
4.2.9. Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa
kế theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời......................................................22
4.2.10. Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa
kế theo di chúc không? Vì sao?..........................................................................................22
4.2.11. Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ
ba?...................................22
4.2.12. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao?.......................................................................................22
4.2.13. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao?.......................................................................................23
4.2.14. Cuối cùng, Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai không trong vụ việc trên?
Vì sao?………………………………………………………………………………..……23
4.2.15. Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi trên
(áp dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai)...................................23
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................................24
1. Xác định vợ/ chồng của người để lại di sản.
1.1.Tóm tắt. 1.1.1. Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội.
Đây là vụ án dân sự về việc “tranh chấp chia thừa kế”. 5
- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Tiến, bà Nguyễn Thị Bằng, bà Nguyễn Thị Khiết, bà Nguyễn Thị Triển.
- Bị đơn: ông Nguyễn Tất Thăng.
Cụ Nguyễn Tất Thát (chết năm 1961) có 2 đời vợ là cụ Tần và cụ Thứ. Cụ Thát và cụ
Tần có với nhau 4 người con chung là Nguyễn Tất Thăng, Nguyễn Thị Bằng, Nguyễn Thị
Khiết, Nguyễn Thị Triển; cụ Thát có với cụ Thứ một người con là bà Nguyễn Thị Tiến. Khi
còn sống các cụ có để lại 5 gian nhà ngói cổ, 2 gian nhà ngói ngang, bếp, chuồng trâu, sân
ao,..... Trước khi chết cụ Thát, cụ Thứ không để lại di chúc, cụ Tần có để lại mấy lời dặn
dò, bà Bằng chắp bút ghi lại về việc cho bà Tiến một phần nhà đất của bố mẹ các bà để lại
nhưng ông Thăng không công nhận nên các bà coi như các cụ không để lại di chúc. Sau đó
các nguyên đơn đề nghị chia tài sản nhưng ông Thăng không đồng ý. Sau khi hòa giải
không thành công thì các nguyên đơn đã làm đơn khởi kiện ông Thăng yêu cầu ông chia
tài sản theo đúng pháp luật. Di sản chia thừa kế ở vụ tranh chấp này được xác định là nhà
đất do cụ Thát, cụ Tần và cụ Thất để lại trừ đi phần công sức duy trì sự tồn tại của tài sản
của gia đình ông Thăng bằng 1/6 khối tài sản. Tại tòa phúc thẩm ông Thăng giữ nguyên
đơn kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm với lý do mẹ ông là bà Tần có để lại di chúc;
sau đó tòa có yêu cầu ông trình di chúc ra thì không có. Quyết định của tòa phúc thẩm là
chấp nhận đơn yêu cầu chia thừa kế của các nguyên đơn đối với ông Thăng về việc yêu
cầu chia di sản thừa kế.
1.1.2. Án lệ số 41/2021/AL.
Đây là vụ việc “tranh chấp di sản thừa kế” tại tỉnh Kon Tum.
- Nguyên đơn: chị Trần Thị Trọng P1.
- Bị đơn: anh Trần Trọng P2, anh Trần Trọng P3.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 06 người.
Ông T1 và bà T2 chung sống và có với nhau 2 người con là anh P2 và anh P3, sau đó do
mâu thuẫn nên bà T2 đã vào Vũng Tàu sống và chung sống với ông D cũng có con chung.
Ông T1 sau đó cũng có chung sống với bà S và có với nhau 1 con chung là chị P1. Ông T1
và bà S có tài sản để lại là 01 ngôi nhà cấp 4 trên diện tích 36m2 nằm trên tổng diện tích
đất 8.500m2 (nay còn lại 6.403m2), 01 xe máy Trung Quốc, 02 máy bơm nước, 450kg cà
ri, 05 con heo, 70 con gà, 22 con thỏ, 01 hồ cá, 01 tủ trà nhưng sau đó ông T1 chết, không
để lại di chúc và 1 phần đất được anh P2 và P3 quản lý và bán cho ông L và ông C. Tại tòa
sơ thẩm thì tòa án chấp nhận đơn khởi kiện “Chia thừa kế của chị Trần Thị Trọng P1 và
đơn xin “Chia tài sản chung và chia di sản thừa kế” của bà Trần Thị S. Sau đó tòa phúc
thẩm đã quyết định hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum, giao hồ sơ vụ
án cho Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum để giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
Nội dung án lệ đã quyết định như sau: ông T1 và bà T2 không còn chung sống với nhau và
bà T2 cũng đã chung sống với người khác là ông D và có con chung nên nghĩa vợ vợ chồng
đã không còn nữa nên không được hưởng di sản của ông T1 là đúng; kế đó ông T1 có chung
sống với bà S và có 1 con chung là chị P1, có tài sản chung hợp pháp, án sơ thẩm công
nhận hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ. 6 1.2.Câu hỏi.
1.2.1. Điều luật nào của BLDS quy định trường hợp thừa kế theo pháp luật?
Điều 650 BLDS 2015: Những trường hợp thừa kế theo pháp luật “1. Thừa kế
theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: a) Không có di chúc;
b) Di chúc không hợp pháp;
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lậpdi
chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền
hưởngdi sản hoặc từ chối nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không
cóquyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc,
nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.”
1.2.2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật trong Bản án số 20.
Theo em, việc tòa án áp dụng thừa kế theo pháp luật là hợp lý và thuyết phục.
Sau khi cụ Thát và cụ Thứ mất thì ông Thăng không có ý định chia di sản thừa kế nên sau
khi không thỏa thuận được với nhau thì mới khởi kiện để chia di sản thừa kế. Trước đó
theo lời khai của nguyên đơn thì cụ Tần lúc trăn trối có lời dặn dò, được bà Bằng chấp bút
ghi lại vào ngày 08-06-1994 về việc cho bà Tiến một phần đất của bố, mẹ các bà để lại
nhưng ông Thăng không công nhận di chúc đó. Và trên tòa sơ thẩm ông cũng có khai là cụ
Tần có để lại di chúc nhưng không xuất trình được.
1.2.3. Vợ/chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Vợ, chồng của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Tại Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 có quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật
được quy định theo thứ tự sau đây: Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,
cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
1.2.4. Cụ Thát và cụ Thứ có đăng ký kết hôn không trong Bản án số 20? Vì sao?
Theo bản án số 20 thì cụ Thát và cụ Thứ không có đăng ký kết hôn với nhau.
Trong bản án có đoạn như sau: “Năm 1956 cải cách ruộng đất vì có nhiều đất nên được
quy thành địa chủ. Bố mẹ các bà nói với cụ Thứ tố khổ để được chia ½ nhà, sau đó nhà
nước sửa sai gia đình các bà được trả lại nhà đất, bố mẹ các bà vẫn chung sống cùng với
nhau”. Qua đó thấy được vào năm 1956, hai cụ chỉ chung sống với nhau nhưng không có đăng ký kết hôn.
1.2.5. Trong trường hợp nào những người chung sống với nhau như vợ chồng nhưng
không đăng ký kết hôn được hưởng thừa kế của nhau? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong những trường hợp trên thì được phân ra làm 4 trường hợp. 7
- Trường hợp 1: Quan hệ vợ, chồng được xác lập từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001.
“Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ, chồng mà có đủ điều kiện kết hôn theo
quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ kết hôn trong thời hạn
2 năm, kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003, do đó cho đến trước ngày 01/01/2003
nếu có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì vợ hoặc chồng còn sống được hưởng di sản
của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế”. Quy định này nếu một người
chết trước 01/01/2003 thì người còn lại được hưởng thừa kế nếu như họ sống chung với nhau như vợ chồng.
- Trường hợp 2: Trước Luật năm 1959.
Theo nghị quyết 02 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 19/10/1990:
"Trong một số trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13/01/1960- ngày công bố
luật hôn nhân gia đình 1959 – đối với miền Bắc, trước ngày 25/3/1977- ngày công bố danh
mục văn bản pháp luật được áp dụng thông nhất trong cả nước - đối với miền Nam và cán
bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không
bị hủy bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế
hàng thứ nhất của người chống và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất
của các người vợ.”
- Trường hợp 3: Sau Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ở miền Nam.
Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Cấm người đang có vợ, có chồng
kết hôn với người khác”. Nhưng thực tế ở miền Nam thì ngày 25/3/1977 được lấy làm mốc
để áp dụng nguyên tắc một vợ một chồng. Vì vậy, đối với người đã có vợ ở miền Nam thì
hôn nhân thực tế được chấp nhận trước ngày 25/02/1977.
- Trường hợp 4: Quan hệ vợ chồng xác lập trước ngày 03/01/1987.
Theo Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao: "Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03-01-1987 nếu
có một bên chết trước thì bên vợ hoặc chồng còn sống được hưởng di sản của bên chết để
lại theo quy định của pháp luật về thừa kế", Với quy định này, nếu nam nữ sống chung với
nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987, hôn nhân đó có giá trị pháp lý nên người vợ
hoặc chồng được hưởng thừa kế của người đã chết. Nhưng phải chứng minh được quan hệ
vợ chồng thật sự tồn tại và họ có đủ điều kiện kết hôn thì mới được hưởng thừa kế của nhau.
1.2.6. Ngoài việc sống với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với người phụ nữ nào trong Bản
án số 20? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Ngoài việc sống chung với cụ Thứ, cụ Thát còn sống với cụ Tần và có với nhau 4 người
con. Bản án có đoạn: “Bố mẹ các bà là cụ Nguyễn Tất Thát (chết năm 1961) có 2 vợ, vợ
cả là cụ Nguyễn Thị Tần (chết năm 1995), vợ hai là cụ Phạm Thị Thứ (chết năm 1994).”
1.2.7. Nếu cụ Thát và cụ Thứ chỉ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng vào cuối năm
1960 thì cụ Thứ có là người thừa kế của cụ Thát không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ Điểm a Khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 về những quy định của
pháp luật thừa kế: “Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 –
ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 – đối với miền Bắc; trước ngày 2503-
1977 ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước – 8
đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy
thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả
các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người
chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.”
Vì cụ Thát và cụ Thứ sinh sống ở miền Bắc, hai cụ bắt đầu sống với nhau từ cuối năm 1960
khi Luật Hôn nhân và gia đình đã được công bố đồng nghĩa không nằm trong trường hợp
đã nêu trong Nghị quyết trên. Vì vậy cụ Thứ không phải là người thừa kế của cụ Thát.
1.2.8. Câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền
Nam? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ Điểm a Khoản 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 về những quy định của
pháp luật thừa kế (đã nêu trên), nếu cụ Thát và cụ Thứ sống ở miền Nam vào cuối năm
1960, tức là trước ngày 25-03-1977 – ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp
dụng thống nhất trong cả nước – đối với miền Nam, đồng nghĩa với việc nằm trong trường
hợp đã nêu trong Nghị quyết trên. Vì vậy câu trả lời sẽ khác khi cụ Thát và cụ Thứ sống ở
miền Nam, cụ Thứ khi đó thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Thát.
1.2.9. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ
Thát trong Bản án số 20.
Về việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát cần phải xét trên phương
diện đạo đức, xã hội ở những thời điểm lịch sử khác nhau của Việt Nam.
Cụ Thát và cụ Thứ sống với nhau như vợ chồng từ thời điểm trước 1960, theo Nghị quyết
02/2009/NQ-HĐTP thì cụ Thứ là người thừa kế hợp pháp của cụ Thát, đồng thời giai đoạn
lịch sử đó là giai đoạn dân tộc Việt Nam vẫn còn bị ảnh hưởng sâu sắc bởi chế độ phong
kiến, trình độ dân trí rất thấp. Vì thế, cụ Thứ trở thành vợ lẻ của cụ Thát và cụ Thứ cũng
phải có đầy đủ quyền lợi như cụ Tần – vợ cả của cụ Thát. Cho nên, việc Tòa án thừa nhận
cụ Thứ là người thừa kế của cụ Thát là hợp tình, hợp lý nhằm đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ.
Xét ở góc độ pháp luật hiện nay, việc Tòa án thừa nhận cụ Thứ là người thừa kế của cụ
Thát là chưa hợp lý. Vì quan hệ giữa cụ Thát và cụ Thứ chỉ là quan hệ hôn nhân thực tế,
không đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận. Đồng thời, cụ Tần – là người
vợ có đăng ký kết hôn hợp pháp sẽ bị hạn chế quyền lợi về mặt thừa kế. Cũng như những
hủ tục lạc hậu nên bị loại bỏ trong nhận thức của nhân dân nhằm tạo nên sự công bằng và
đảm bảo quyền lợi cho mọi công dân Việt Nam.
1.2.10. Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và bà S có được hưởng di sản do ông T1 để
lại không? Đoạn nào của Án lệ có câu trả lời.
Trong Án lệ số 41/2021/AL, bà T2 và ông T1 không còn chung sống với nhau, bà T2 cũng
đã chung sống với ông D và có con chung nên nghĩa vụ vợ chồng với ông T1 không còn
nữa nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1; bà S có chung sống với ông T1 và có
1 con chung, có tài sản chung hợp pháp, án sơ thẩm công nhận hôn nhân thực tế nên bà S
được hưởng di sản do ông T1 để lại.
Đoạn [3] và [4] trong Án lệ số 14/2021/AL có câu trả lời:
“[3] Xét bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1 không đăng ký kết hôn, đến năm 1982 bà T2
đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D có con chung từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa 9
ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên không còn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không
được hưởng di sản của ông T1 để lại như án sơ thẩm xử là đúng.
[4] Xét sau khi bà T2 không còn sống chung với ông T1 thì năm 1985 ông T1 sống chung
với bà S cho đến khi ông T1 chết có 1 con chung, có tài sản chung hợp pháp, án sơ thẩm
công nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung và được hưởng di sản thừa kế
của ông T1 là có căn cứ”.
1.2.11. Suy nghĩ của anh/chị về việc Án lệ xác định tư cách hưởng di sản của ông T1
đối với bà T2 và bà S. - Đối với bà T2:
Theo nhận định của Toà án, đoạn [3] có viết: “Xét bà Tô Thị T2 chung sống với ông T1
không đăng ký kết hôn, đến năm 1982 bà T2 đã bỏ vào Vũng Tàu lấy ông D có con chung
từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa ông T1 với bà T2 đã chấm dứt từ lâu nên
không còn nghĩa vụ gì với nhau nên bà T2 không được hưởng di sản của ông T1 để lại như
án sơ thẩm xử là đúng.”
Bà T2 sống chung với ông T1 nhưng không đăng kí kết hôn, sau đó bà T2 lấy ông D có con
chung và giữa bà T2 với ông T1 không còn nghĩa vụ vợ chồng nữa nên Án lệ xác định việc
bà T2 không có tư cách hưởng di sản của ông T1 để lại là hợp tình, hợp lí. - Đối với bà S:
Theo đoạn [4]: “Xét sau khi bà T2 không còn sống chung với ông T1 thì năm 1985 ông T1
sống chung với bà S cho đến khi ông T1 chết có 1 con chung, có tài sản chung hợp pháp,
án sơ thẩm công nhận là hôn nhân thực tế nên được chia tài sản chung và được hưởng di
sản thừa kế của ông T1 là có căn cứ.”
Bà S sống chung với ông T1 và có 1 con chung, có tài sản chung hợp pháp, án sơ thẩm
công nhận là hôn nhân thực tế nên việc Án lệ xác định bà S có tư cách hưởng di sản ông
T1 để lại hợp tình, hợp lí và đúng với pháp luật.
2. Xác định con của người để lại di sản.
2.1.Tóm Tắt. 2.1.1. Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội.
- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Bằng, bà Nguyễn Thị Khiết, bà Nguyễn Thị Triển, bà Nguyễn Thị Tiến.
- Bị đơn: ông Nguyễn Tất Thăng.
Cụ Thất và cụ Tần có 4 người con chung là: ông Thăng, bà Bằng, bà Khiết, bà Triển. Cụ
Thất và cụ Thứ có 1 người con là bà Tiến. Cụ Thất (chết năm 1961), cụ Thứ (chết năm
1994) không để lại di chúc. Cụ Tần (chết năm 1995) có để lại mấy lời dặn dò, bà Bằng
chắp bút ghi lại ngày 08/06/1994 về việc cho bà Tiến một phần nhà đất nhưng ông Thăng
không công nhận. Ông Thăng khai mẹ ông chết có để lại di chúc, nhưng ông không xuất
trình được di chúc. Các nguyên đơn khẳng định chỉ có lời trăn trối của cụ Tần về việc
chia đất cho bà Tiến do bà Bằng ghi lại nhưng bị ông Thăng xé. Ông Thăng không công
nhận cụ Thứ là vợ hai cụ Thất và bà Tiến là con cụ Thất nhưng không đưa ra được chứng
cứ nào chứng minh cụ Thứ không phải là vợ cụ Thất. Căn cứ vào lý lịch bà Tiến có xác
nhận của chính quyền địa phương, bà Tiến là con cụ Thất và là em ông Thăng, bà Bằng,
bà Khiết, bà Triển cũng như xác nhận của họ hàng, hàng xóm khẳng định cụ Thứ là vợ cụ
Thất và bà Tiến là con cụ Thất cụ Thứ. Về di sản thừa kế: các đương sự đều thống nhất
khẳng định nguồn gốc 5 căn nhà và 2 gian bếp trên 640m2 đất. Số tài sản trên được cụ 10
Thất, cụ Tần và hiện tại do ông Thăng quản lý, sử dụng. Khi còn sống cụ Tần cho các con
đất ao, đất phần trăm, nay không tính là di sản thừa kế. Di sản thừa kế ở vụ tranh chấp
này là nhà đất do các cụ Thất, cụ Tần, cụ Thứ để lại trừ đi phần công sức duy trì tôn tạo
tài sản của gia đình ông Thăng bằng 1/6 khối tài sản như án sơ thẩm là có lý. Xử: chấp
nhận đơn yêu cầu chia thừa kế của bà Tiến, bà Bằng, bà Triển đối với ông Thăng về việc
yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Thất, cụ Tần, cụ Thứ.
2.1.2. Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
- Nguyên đơn : bà Phạm Thị Hồng Nga.
- Bị đơn: ông Phạm Văn Tùng, bà Võ Thị Tình.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Phạm Thái Thanh, chị Lê Thị Bích Ngữ. Cụ
Phạm Ngọc Cầu và cụ Nguyễn Thị Ngọc Dung là cha mẹ của bà Nga. Năm 1972 cụ
Dung chết, năm 1976 cụ Cầu chết đều không để lại di chúc. Vì bà Nga đi công tác xa nhà
từ năm 1962 nên năm 1976 bà cho ông Tùng (là người bà con trong họ) đến ở nhờ để
trong coi giúp bà khối tài sản này. Ông Tùng đến ở nhờ và viết “Giấy tự báo” cam đoan,
cam kết quyền sở hữu chủ khu vườn kể cả nhà ở trên hoàn toàn thuộc bà Nga và sau này
khi cần đến thì cam kết trả. Cũng năm 1976 bà Nga đã bán toàn bộ nguyên vật liệu của
ngôi nhà lá cho người khác dỡ đi nên di sản của hai cụ còn lại là 01 nền móng nhà, giếng
nước, cây cối lâu năm. Trong quá trình giải quyết vụ án, các cụ trong làng đều xác nhận
ông Tùng ở với 2 cụ từ lúc 2 tuổi. Ông Tùng cũng cho rằng hai cụ đã nuôi dưỡng ông từ
nhỏ và khi hai cụ già yếu ông là người phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ, khi hai cụ chết ông
Tùng là người lo mai táng cho hai cụ. Cần phải thu thập, xác minh về lời khai của ông
Tùng về việc hai cụ nuôi dưỡng ông Tùng và ông Tùng cũng là người chăm sóc, nuôi
dưỡng hai cụ khi già yếu thì phải coi ông Tùng là con nuôi của hai cụ trên thực tế và nếu
ông Tùng có yêu cầu được chia di sản thì giải quyết theo quy định của pháp luật. Mặt
khác ông cũng có công bảo quản, duy trì khối tài sản nên cũng cần phải xem xét trích
công sức duy trì, bảo quản tài sản cho ông Tùng cho phù hợp.
Quyết định: Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 97/2008/DSPT ngày 10/12/2008 và bản án
dân sự sơ thẩm số 01/2008/DSST về vụ án “Tranh chấp tài sản gắn liền quyền sử dụng
đất”, giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm lại
theo quy định của pháp luật. 2.2.Câu hỏi.
2.2.1. Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ mấy? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời .
Con nuôi của người để lại di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất .
Cơ sở pháp lý: điểm a Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: Người thừa kế theo pháp luật.
“ 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết”.
2.2.2. Trong trường hợp nào một người được coi là con nuôi của người để lại di sản?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trường hợp một người được coi là con nuôi của người để lại di sản khi: 11
- Nếu như đã xác lập quan hệ nuôi dưỡng trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm
1986 mà chưa đăng ký thì vẫn được chấp nhận là con nuôi trên thực tế.
- Nếu đã xác lập quan hệ nuôi dưỡng sau năm 1986 đến trước năm 2001 mà chưa
đăng ký, nếu đắp ứng đủ điều kiện chuyển tiếp thì phải đi đăng ký kể từ ngày
01/01/2001 đến hết ngày 31/02/2015 để trở thành con nuôi thực tế.
Cơ sở pháp lý: Căn cứ vào Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/03/2011 tại khoản 1 Điều
23 quy định về đăng ký việc nuôi con nuôi trên thực tế.
“ 1. Việc nuôi con nuôi đã phát sinh trên thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau mà
chưa đăng ký trước ngày 01 tháng 01 năm 2011, nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định
tại khoản 1 Điều 50 của Luật Nuôi con nuôi, thì được đăng ký kể từ ngày 01 tháng 01
năm 2011 đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường
trú của cha mẹ nuôi và con nuôi”.
Và khoản 1 Điều 50 Luật nuôi con nuôi 2010:
“ 1. Việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau trước ngày Luật này có hiệu
lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời
hạn 05 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: a)
Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời
điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi; b)
Đến thời điểm Luật này có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và
cả hai bên còn sống; c)
Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau
như cha mẹ và con.”
2.2.3. Trong Bản án số 20, bà Tý có được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi không?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời ?
Trong bản án số 20, bà Tý được cụ Thát và cụ Tần nhận làm con nuôi.
Căn cứ trong bản án, phần các nguyên đơn trình bày có nói: “Trước khi chết cụ Thác, cụ
Thứ không để lại di chúc. Cụ Tần có để lại mấy lời dặn dò, bà Bằng chấp bút ghi lại ngày
08-6-1994 về việc cho bà Tiến một phần nhà đất của bố mẹ các bà để lại nhưng ông
Thăng không công nhận nên các bà coi như các cụ không để lại di chúc. Các bà có nghe
nói trước đây bố mẹ các bà có nhận bà Nguyễn Thị Tý là con nuôi, sau đó bà Tý về với
bố mẹ đẻ và đi lấy chồng”, và đoạn “Anh Trần Việt Hùng, chị Trần Thị Minh Phượng, chị
Trần Thị Hồng Mai, chị Trần Thị Hoa trình bày: Mẹ đẻ của các anh chị là bà Nguyễn Thị
Tý trước đây có là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần trong thời gian khoảng 6 đến 7 năm,
sau đó bà Tý về nhà mẹ đẻ sinh sống”.
2.2.4. Tòa án có coi bà Tý là con nuôi của cụ Thát và cụ Tần không? Đoạn nào của
bản án cho câu trả lời?
Tòa án không coi bà Tý là con nuôi. Đoạn của văn bản cho câu trả lời: “Xác định bà
Nguyễn Thị Tý không phải là con nuôi của cụ Thát, cụ Tần, cụ Thứ”.
2.2.5. Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trên của Tòa án liên quan đến bà Tý.
Giải pháp của Tòa án liên quan đến bà Tý là hợp lí. Vì: 12
- Theo lời khai của các con bà Tý trong lý lịch của cụ Thát, cụ Tần không ghi phần con
nuôi là bà Tý. Như vậy, quan hệ con nuôi này không được đăng kí tại cơ quan có thẩm quyền.
- Bên cạnh đó, bản án không nêu rõ việc nhận con nuôi diễn ra vào thời gian nào. Vì
thế không đủ căn cứ để xác định quan hệ con nuôi có đủ giá trị pháp lý hay không.
Nếu việc nhận con nuôi được thực hiện trước khi bộ Luật hôn nhân và gia đình năm
1986 thì trong trường hợp trên thì bà Tý là con nuôi thực tế. Dù không đủ cơ sở pháp
lý nhưng cách xử lý trên phù hợp với thực tiễn xét xử. Trong thực tiễn nếu việc nuôi
con nuôi trong thời gian ngắn thì không đủ cơ sở để xác định con nuôi thực tế.
2.2.6. Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư cách nào? Vì sao?
Trong Quyết định số 182, Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư cách là
con nuôi với người đã mất là cụ Cầu và cụ Dung theo quy định tại điều 676 BLDS 2005 (Điều 651 BLDS 2015).
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;...”
- Việc Tòa án xác định anh Tùng được hưởng thừa kế với tư cách là con nuôi vì ông Tùng
đã ở với hai cụ từ năm 1951. Ông Tùng cũng cho rằng hai cụ đã nuôi dưỡng ông từ nhỏ và
khi hai cụ già yếu ông cũng là người phụng dưỡng, chăm sóc hai cụ và khi hai cụ mất thì
ông Tùng cũng là người lo mai táng cho hai cụ, không những vậy chính anh cũng là người
đứng ra quản lý và duy trì khối tài sản khi chị Nga vắng mặt. Và các cụ cao tuổi trong làng
cũng xác nhận là ông Tùng đã ở với hai cụ Cầu, Dung từ lúc 2 tuổi.
2.2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án liên quan đến anh Tùng.
Hướng xác định của Tòa án liên quan đến anh Tùng là hợp lí. Vì hai cụ nhận anh Tùng làm
con nuôi năm 1951 trước khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 nên đây được coi là
trường hợp con nuôi thực tế theo Khoản 6 điểm a Nghị Quyết của Hội Đồng Thẩm Phán
Toà án nhân dân tối cao số 01/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 01 năm 1988 hướng dẫn áp dụng
một số quy định của luật hôn nhân và gia đình: “Những điều kiện về nuôi con nuôi đã được
quy định trong các Điều 34, 35, 36 và 37 nhưng trước khi Luật này được ban hành thì
những điều kiện đó chưa được quy định đầy đủ. Vì vậy, những việc nuôi con nuôi trước khi
ban hành Luật mới vẫn có giá trị pháp lý, trừ những trường hợp nuôi con nuôi trái với mục
đích xã hội của việc nuôi con nuôi (như: nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động hoặc để
dùng con nuôi vào những hoạt động xấu xa, phạm pháp). Nếu việc nuôi con nuôi trước đây
chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và
cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu
quả pháp lý do luật định.” Và ông Tùng có đủ điều kiện để làm con nuôi của hai cụ. Bên
cạnh đó, ông Tùng có công chăm sóc khi hai cụ khi già yếu, khi hai cụ chết chính anh là
người đứng ra lo mai táng cho hai cụ, không những vậy chính anh cũng là người đứng ra
quản lý và duy trì khối tài sản khi chị Nga vắng mặt. Vì vậy, việc Tòa yêu cầu xem xét trích
công sức duy trì bảo quản tài sản cho ông Tùng là phù hợp, bảo đảm quyền lợi cho ông Tùng. 13
2.2.8. Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật
hôn nhân và gia đình năm 1986, anh Tùng có được hưởng thừa kế của cụ Cầu và
cụ Dung không? Vì sao?
Nếu hoàn cảnh tương tự như trong Quyết định số 182 xảy ra sau khi có Luật hôn nhân và
gia đình năm 1986, thì anh Tùng không được hưởng thừa kế của cụ Cầu và cụ Dung theo
Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình 1986: “Việc nhận nuôi con nuôi do Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của người nuôi hoặc con nuôi công nhận và ghi
vào sổ hộ tịch”. Nhưng cụ Cầu và cụ Dung không đi đăng kí xác nhận ông Tùng là con
nuôi của mình. Căn cứ theo điều 37 Luật hôn nhân và gia đình 1986 thì ông Tùng không
được hưởng thừa kế mặc dù ông Tùng đã ở với cụ Cầu và cụ Dung từ lâu, ông Tùng có
công chăm sóc và nuôi dưỡng. Vì thế ông Tùng không phải là con nuôi và không được nhận di sản thừa kế.
2.2.9. Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ mấy của người để lại di sản? Nêu CSPL khi trả lời.
Con đẻ thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản
Cơ sở pháp lý: Điểm a Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015: Người thừa kế theo pháp luật.
“ 1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết”.
2.2.10. Đoạn nào của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát?
Đoạn của bản án cho thấy bà Tiến là con đẻ của cụ Thát: “Án sơ thẩm căn cứ vào lý lịch
của bà Tiến có xác nhận của chính quyền địa phương thì bà Tiến là con cụ Thát cũng như
xác nhận của họ hàng, hàng xóm khẳng định cụ Tiến là con của cụ Thứ và cụ Thát. Tại
phiên phúc thẩm, bà Khiết xuất trình sơ yếu lý lịch của mình trong hoàn cảnh gia đình bà
Khiết có ghi: em Nguyễn Thị Tiến 17 tuổi học sinh. Bà Tiến còn xuất trình lý lịch và giấy
tờ khai sinh chính do UBND phường Xuân La cấp ghi bà Tiến có bố là Nguyễn Tất Thát,
mẹ Phạm Thị Thứ. Các nhân chứng như cụ Nguyễn Xuân Chi, ông Nguyễn Văn Chung là
tổ trưởng tổ dân phố và ông Nguyễn Hoàng Đăm đều khẳng định bà Tiến là con của cụ Thứ và cụ Thát.”
2.2.11. Suy nghĩ của anh chị về giải pháp của Toà án liên quan đến bà Tiến.
Giải pháp của Toà án liên quan đến bà Tiến là hợp lý. Bởi vì:
Cụ Thứ và cụ Thát xác lập quan hệ hôn nhân trước ngày 13-01-1960. Xét theo Nghị
quyết số 02/HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, phần về những
người thừa kế theo pháp luật: “ Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày
1301-1960- ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước
ngày 25-3-1977 – ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất
trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền nam sau khi tập
kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bảng án có hiệu lực
pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là hàng thừa kế thứ nhất của người chồng và
ngược lại”. Do đó, cụ Thứ là vợ hợp pháp của cụ Thát và bà Tiến là con ruột của cụ Thát
nên thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Ngoài ra, trong phần xét thấy của bản án cũng đưa ra những dẫn chứng: “…căn cứ vào lý
lịch của bà Tiến có xác nhận của chính quyền địa phương thì bà Tiến là con cụ Thát và là
em ông Thăng, bà Khiết, bà Triển…” 14
“Bản sơ yếu lý lịch của bà Nguyễn Thị Khiết, có nhận xét của Bí thư Ban chấp hành
Đảng bộ xã Xuân La ký ngày 05/07/1966 trong phần hoàn cảnh gia đình bà Khiết có ghi:
gì ghẻ Phạm Thị Thứ 45 tuổi, anh Nguyễn Tất Thăng 26 tuổi đi bộ đội, em Nguyễn Thị
Tiến 17 tuổi học sinh”
“Bà Tiến còn xuất trình lý lịch và giấy khai sinh do chính UBND phường Xuân La cấp
ghi Bà Tiến có bố là Nguyễn Tất Thát, mẹ là Phạm Thị Thứ.” Bên cạnh đó còn có một
số nhân chứng xác nhận việc này.
2.2.12. Ở Việt Nam, con dâu, con rể của người để lại di sản có là người thừa kế của
người để lại di sản không? Nêu cơ sở pháp lý?
Căn cứ vào Điều 651 BLDS 2015. Người thừa kế theo pháp luật:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết.”
Theo quy định trên của pháp luật, những hàng thừa kế thứ nhất chỉ bao gồm các con đẻ
được hưởng di sản. Còn đối với con dâu và con rể không thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên
sẽ không là người thừa kế của người để lại di sản.
Nhưng xét theo thừa kế theo di chúc được quy định tại Điều 624 và Điều 626 BLDS 2015. Cụ thể như sau:
“Điều 624. Di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.”
“Điều 626. Quyền của người lập di chúc”
Như vậy, theo quy định trên, cá nhân có tài sản có thể lập di chúc để thể hiện ý chí của
mình trong việc chuyển tài sản của người đó qua người khác khi họ chết và một trong
những quyền cơ bản của người lập di chúc là chỉ định người thừa kế. Vì vậy, trong trường
hợp người để lại di sản chỉ định rõ người thừa kế trong di chúc là con dâu, con rể thì con
dâu, con rể hoàn toàn được hưởng thừa kế tài sản từ người để lại di sản.
2.2.13. Có hệ thống pháp luật nước ngoài nào xác định con dâu, con rể là người thừa
kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ không? Nếu có, nêu hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
Hiện nay chưa tồn tại hệ thống pháp luật nước ngoài xác định con dâu, con rể là người
thừa kế của cha mẹ chồng, cha mẹ vợ trừ trường hợp có trong di chúc vì con rể, con dâu
không thuộc nhóm người thừa kế theo quy định của pháp luật trong BLDS. Điều này có
nghĩa là di sản thừa kế từ bố/mẹ vợ, bố/mẹ chồng chỉ có thể được hưởng dựa theo di chúc.
3. Con riêng của vợ/chồng. 3.1.Câu hỏi.
3.1.1. Bà Tiến có là con riêng của chồng cụ Tần không? Vì sao? Bà Tiến là con
riêng của chồng cụ Tần.
Theo Bản án, cụ Thát có 2 vợ: vợ cả là cụ Tần vợ hai là cụ Thứ (mẹ bà Tiến) và được các
nhân chứng là con của cụ Tần và cụ Thát xác định là đúng. Trong bản án có đoạn : “Với
các chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở để khẳng định cụ Phạm Thị Thứ là vợ hai cụ Thát và
bà Phạm Thị Tiến là con chung của cụ Nguyễn Tất Thát và cụ Phạm Thị Thứ, do đó mà 15
yêu cầu của ông Thăng đề nghị giám định AND để xác định bà Tiến có phải con của cụ
Thát hay không là không cần thiết đặt ra.”
3.1.2. Trong điều kiện nào con riêng của chồng được thừa kế di sản của vợ? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Điều kiện để con riêng của chồng được nhận thừa kế di sản của vợ là khi có tồn tại quan
hệ chăm sóc, nuôi dưỡng như cha con, mẹ con.
Căn cứ vào Điều 654 BLDS 2015 quy định: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan
hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và
còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.”
3.1.3. Bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng thừa kế di sản của cụ Tần không? Vì sao? Bà
Tiến không đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần.
Theo Điều 654 về Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế quy định: “Con
riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ
con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều
652 và Điều 653 của Bộ luật này.” Và trong bản án hoàn toàn không có đề cập tới giữa
bà Tiến và cụ Tần có xuất hiện mối quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con hay không.
3.1.4. Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến
được hưởng thừa kế ở hàng thừa kế thứ mấy của cụ Tần? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu bà Tiến có đủ điều kiện để hưởng di sản thừa kế của cụ Tần thì bà Tiến được hưởng
thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tần theo diện con nuôi. Căn cứ theo Điểm a
Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 về Người thừa kế theo pháp luật quy định:
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết;”
3.1.5. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án không thừa nhận tư cách thừa kế của bà
Tiến đối với di sản của cụ Tần.
Việc Tòa án không thừa nhận tư cách kế thừa của bà Tiến đối với di sản của cụ Tần là
hợp lý. Bởi lẽ xét thấy không có đủ cơ sở để xác nhận cụ Tần coi bà Tiến như con, có
quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng như mẹ con như trong Điều 654 quy định về Quan hệ thừa
kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ
chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn
được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.” Bên cạnh
đó có đề cập đến việc bà Tần để lại lời trăn trối chia đất cho bà Tiến được bà Bằng ghi lại
nhưng không có chứng cứ xác minh như trong Điều 634 BLDS 2015 quy định về Di chúc
bằng văn bản có người làm chứng:
“Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh
máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai
người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt
những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người
lập di chúc và ký vào bản di chúc.Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng
phải tuân theo quy định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.” 16
3.1.6. Suy nghĩ của anh/chị (Nếu có) về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh của
con riêng chồng/vợ trong BLDS hiện nay.
Chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh của con riêng của chồng/vợ trong BLDS hiện
nay được quy định ở Điều 654 BLDS 2015: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có
quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của
nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật
này.” Về chế định thừa kế liên quan đến hoàn cảnh của con riêng của chồng/vợ trong
BLDS hiện nay còn điểm bất cập chẳng hạn như về việc Xác định điều kiện chăm sóc
như cha con, mẹ con. Theo quy định tại Điều 654 BLDS 2015, ta có thể hiểu, để được
thừa kế di sản thì giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế thì phải có quan hệ chăm sóc nhau
như cha con, mẹ con. Nhưng cho đến thời điểm hiện nay, BLDS vẫn chưa có sự giải
thích về nội dung của điều kiện trên.
Điều đó dẫn đến những khó khăn nhất định trong việc giải thích và áp dụng luật một cách
cụ thể, thống nhất cũng như đảm bảo quyền được nhận di sản thừa kế của con riêng, bố
dượng và mẹ kế. Do đó, việc ban hành văn bản pháp luật để giải thích, hướng dẫn điều
kiện này là cần thiết và cấp bách.
4. Thừa kế thế vị và hàng thừa kế thứ hai, thứ ba.
4.1. Tóm tắt Bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/03/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
- Nguyên đơn: Anh Thiều Văn C1.
- Bị đơn: Ông Đỗ Quang V.
Anh Thiều Văn C1 tranh chấp quyền thừa kế di sản của cụ T5 (mất năm 2009) và có con
nuôi là chị C3 (mất năm 2007), bà T5 chết không để lại di chúc và có di sản là thửa đất số
203, tờ bản đồ số 12, diện tích 127,3m2 tại khối 7 (tổ 12 cũ), phường l, thành phố H; bà
T5 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC188680 và trên đất có ngôi nhà
cấp 4 và tài sản khác gắn liền với đất. Nay anh C1 đòi lại di sản của bà T5, để lại quyền
thừa kế cho con là T7 và H4. Còn về phía bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn, cũng có yêu cầu hủy bỏ việc cấp giấy tờ đất của bà T5. Tòa sơ thẩm quyết định chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn, bác yêu cầu của nguyên đơn về việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của bà T5. Sau đó ông V kháng cáo, Tòa phúc thẩm đã quyết định
chấp nhận kháng cáo, hủy bản án sơ thẩm, bác yêu cầu của nguyên đơn, chấp nhận yêu
cầu của bị đơn và hủy bỏ giấy tờ đất mang tên bà T5. Tòa án nhân dân cấp cao đã hủy
bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. 4.2. Câu hỏi.
4.2.1. Trong vụ việc trên, nếu chị C3 còn sống, chị C3 có được hưởng thừa kế của
cụ T5 không? Vì sao?
Trong bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/03/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội, nếu chị C3 còn sống thì chị C3 được hưởng thừa kế của cụ T5. Vì mặc dù cụ T5
không thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật, nhưng trên thực
tế, qua lời khai của gia đình bị đơn thì quan hệ mẹ nuôi, con nuôi giữa cụ T5 và chị C3 có
tồn tại và sổ hộ khẩu (BL238) do Công an thị xã H cấp năm 1995 thể hiện chị C3 có quan
hệ với cụ T5 là con. Hơn hết, quan hệ nuôi con nuôi chỉ khi được công nhận về mặt pháp 17
lý thì mới phát sinh quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi.
Điều này được thể hiện ở điểm a Điều 6 Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình thì trường hợp bà T5 nhận nuôi chị C3 là con nuôi thực tế.
Như vậy, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 thì “hàng thừa kế thứ nhất
gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” thì
khi chị C3 còn sống, chị được xác nhận là con nuôi của người chết, nên được thừa kế
theo pháp luật ở hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5.
4.2.2. Ở nước ngoài, có hệ thống pháp luật nào ghi nhận thừa kế thế vị trong trường
hợp từ chối nhận di sản/tước quyền hưởng di sản (không có quyền hưởng di
sản) không? Nêu ít nhất một hệ thống pháp luật mà anh/chị biết.
Ở nước ngoài, hệ thống pháp luật ghi nhận thừa kế thế vị trong trường hợp từ chối nhận
di sản/tước quyền hưởng di sản (không có quyền hưởng di sản) có ở một số quốc gia: Ví
dụ: ở quyền kế vị của BLDS Trung Quốc 2020 có quy định ở điều 1154: “Trong bất kì
trường hợp nào sau đây, phần di sản bị ảnh hưởng sẽ được xử lý như trong một lần kế thừa: (1)
Trường hợp người kế thừa được chỉ định trong di chúc hoặc người thừa kế theo di
chúc từ chối quyền thừa kế hoặc quà tặng; (2)
Trường hợp người thừa kế theo di chúc không được thừa kế hoặc người thừa kế
theo di chúc không đủ tư cách;…”
4.2.3. Ở Việt Nam, khi nào áp dụng chế định thừa kế thế vị? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo quy định tại Điều 652 BLDS năm 2015 thì chế định thừa kế vị sẽ được áp dụng như
sau: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được
hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại
di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
4.2.4. Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ có được hưởng thừa kế
thế vị không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Vợ/chồng của người con chết trước (hoặc cùng) cha/mẹ không được hưởng thừa kế thế vị.
Cơ sở pháp lý: Điều 652 BLDS 2015: “Trường hợp con của người để lại di sản chết
trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản
mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc
cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng nếu còn sống”
Như vậy, “Thừa kế thế vị chỉ được áp dụng cho con (cháu) trực hệ chết trước hoặc chết
cùng. Người thừa kế thế vị chỉ có thể là cháu nội, cháu ngoại của người để lại di sản. Nếu 18
cháu nội, cháu ngoại của người để lại di sản cũng đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm
thì con của người đó, tức là chắt của người để lại di sản là người thừa kế thế vị”1
4.2.5. Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị
của cụ T5. Hướng như vậy có thuyết phục không? Vì sao?
Trong vụ việc trên, Tòa án không cho chồng của chị C3 hưởng thừa kế thế vị của cụ T5 là hợp lý
Vì theo như Điều 652 BLDS 2015 chỉ có hai trường hợp được thừa kế thế vị là:
Trường hợp 1: Nếu con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người
để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống.
Trường hợp 2: Nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì
chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống. Theo
đó thì quy định về thừa kế thế vị không có trường hợp vợ/chồng của người con chết trước
(hoặc cùng) cha/mẹ được hưởng thừa kế thế vị.
4.2.6. Theo quan điểm của các tác giả, con đẻ của con nuôi của người quá cố có thể
được hưởng thừa kế thế vị không?
- Quan điểm của tác giả Chế Mỹ Phương Đài thể hiện trong “Giáo trình pháp luật về
tài sản, quyền sở hữu tài sản và thừa kế” của ĐH Luật TP.HCM: “Trong trường hợp
con nuôi chết trước cha nuôi, mẹ nuôi thì con đẻ của con nuôi (tức là cháu của cha
nuôi, mẹ nuôi của người chết) được hưởng phần di sản mà đáng lẽ cha, mẹ của cháu
còn sống vào thời điểm mở thừa kế được hưởng. Nhưng nếu là con nuôi của con đẻ
thì trường hợp này lại không được thừa kế thế vị.
- Quan điểm của tác giả Đô Văn Đại thể hiện trong “Luật thừa kế Việt Nam” Bản án
và bình luận án: “ Theo BLDS cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
cháu được hưởng nếu còn sống. Ở đây, BLDS chỉ đề cập đến cha hoặc mẹ của cháu
mà không phân biệt cha hoặc mẹ đẻ với cha hoặc mẹ nuôi nên có thể suy luận cả hai
trường hợp đều thuộc diện thừa kế thế vị. Hướng này được củng cố thêm bởi Điều
678 BLDS 2005, Điều 653 BLDS 2015 quy định cho phép con nuôi được thừa kế di
sản và trong khi đó điều luật này cũng áp dụng được cho cả thừa kế thế vị. Hơn nữa,
khi bàn đến cháu các nhà làm luật không nói rõ là cháu ruột nên khi quy định về thừa
kế thế vị mà không đề cập đến cháu ruột thì chúng ta có thể hiểu rằng các nhà làm
luật không muốn giới hạn thừa kế thế vị cho các cháu như quy định về hàng thừa kế thứ hai”.
1 Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở
hữu và thừa kế, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 598 19
4.2.7. Trong vụ việc trên, đoạn nào cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng
thừa kế thế vị của cụ T5?
Trong vụ việc trên, đoạn cho thấy Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị
của cụ T5 là đoạn số [3] trong phần nhận định của Tòa án “Về quan hệ thừa kế: Theo tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án… Chị C3 (chết năm 2007) và bà T5 (chết năm 2009)
cả hai không để lại di chúc nên hai cháu T7 và H4 được hưởng thừa kế thế vị di sản của
bà T5 theo quy định tại Điều 677 BLDS 2005.” Do đó, anh Thiều Văn C1 là bố của cháu
T7 và cháu H4 khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận cháu T7 và cháu H4 được quyền thừa
kế di sản của bà T5 để lại là có căn cứ.
4.2.8. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án cho cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa
kế thế vị của cụ T5.
Việc Tòa án cho con đẻ của chị C3 được hưởng thừa kế thế vị của cụ T5 là hợp tình hợp lý
bởi vì: Thứ nhất, theo điểm a Khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 ( điểm a Khoản 1 Điều 651
BLDS 2015) thì chị C3 là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Thứ hai, tại Điều 677
BLDS 2005 ( Điều 652 BLDS 2015) đã quy định: “Trong trường hợp con của người để lại
di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống…” như vậy, chị C3 là
con nuôi của bà T5 chết trước khi bà T5 chết nên con đẻ của chị C3 sẽ được hưởng thừa kế
thế vị. Thứ ba, Điều 653 BLDS 2015 cũng quy định “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được
hưởng thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và
Điều 652 của Bộ luật này.” Từ ba điều trên ta có thể kết luận là con đẻ của chị C3 là T7 và
H4 hoàn toàn có quyền hưởng thừa kế thế vị.
4.2.9. Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị có được áp dụng đối với thừa kế
theo di chúc không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo BLDS hiện hành, chế định thừa kế thế vị không được áp dụng đối với thừa kế theo
di chúc, ta có thể thấy theo điểm a khoản 2 Điều 643 BLDS 2015 “người thừa kế theo di
chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc thì di chúc bị vô hiệu toàn
bộ hoặc một phần.”
4.2.10. Theo anh/chị, có nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa
kế theo di chúc không? Vì sao?
Không nên áp dụng chế định thừa kế thế vị cho cả trường hợp thừa kế theo di chúc. Vì
thừa kế thế vị thì xét trong “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc
cùng với một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một
thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
chắt được hưởng nếu còn sống”. Còn thừa kế thế vị theo di chúc có thể là một cá nhân
hay một cơ quan tổ chức nào đó, họ có thể sẽ không cùng huyết thống với người để lại di 20
sản và không có công nuôi dưỡng. Thế nên nếu áp dụng cho trường hợp thừa kế theo di
chúc thì sẽ không đảm bảo được quyền lợi cho người được hưởng di sản khác.
4.2.11. Ai thuộc hàng thừa kế thứ hai và hàng thừa kế thứ ba?
Theo điểm b, c Khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 quy định về Người thừa kế theo pháp luật:
“b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột,
cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú
ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
4.2.12. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời
điểm mở thừa kế không? Vì sao?
Trong vụ việc trên không còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5 ở thời điểm mở thừa kế.
Căn cứ theo điểm a Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hàng thừa kế thứ
nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người
chết. Mà theo như vụ việc trên, tất cả mọi người trong hàng thừa kế thứ nhất của cụ T5
xét đến thời điểm mở thừa kế đều đã chết trước cụ T5 do vậy không còn ai thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của cụ T5.
4.2.13. Trong vụ việc trên, có còn ai thuộc hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 ở thời điểm
mở thừa kế không? Vì sao?
Trong vụ việc trên còn có ông Đỗ Quang V và bà Đỗ Thị T2 thuộc hàng thừa kế
thứ hai của cụ T5 ở thời điểm mở thừa kế.
Ông V và bà T2 là anh chị em ruột thịt của cụ T5 mà căn cứ vào điểm b Khoản 1 Điều
651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thì: “Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà
nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của
người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.”
4.2.14. Cuối cùng, Tòa án có áp dụng hàng thừa kế thứ hai không trong vụ việc trên? Vì sao?
Cuối cùng Toà án đã không áp dụng hàng thừa kế thứ hai trong vụ việc trên.
Chị C3 được xác định và công nhận là con nuôi thực tế của cụ T5 nên căn cứ vào điểm a
Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chị C3 thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ
T5 mà vì chị C3 mất trước cụ T5 nên hai người con gái của chị C3 là T7 và H4 sẽ được
hưởng thừa kế thế vị toàn bộ tài sản của cụ T5 căn cứ theo Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015. 21
4.2.15. Suy nghĩ của anh/chị về hướng của Tòa án về vấn đề nêu trong câu hỏi trên
(áp dụng hay không áp dụng quy định về hàng thừa kế thứ hai).
Hướng giải quyết của Tòa án không áp dụng hàng thừa kế thứ hai là thuyết phục. Vì: khi
đã tồn tại người ở hàng thừa kế thứ nhất thì đương nhiên theo pháp luật người ở hàng thừa
kế thứ nhất sẽ được hưởng toàn bộ tài sản của người để lại di sản sau khi người để lại di
sản chết. Mà ở vấn đề này thì chị C3 đã được công nhận là con nuôi của cụ T5 nên việc chị
C3 chết trước cụ T5 nên toàn bộ tài sản được chuyển sang thừa kế thế vị đối với hai người
con của chị C3 thay vì là chuyển sang hàng thừa kế thứ hai của cụ T5 là điều hoàn toàn
hợp lý và đúng đắn theo những gì mà pháp luật quy định.
Tài liệu tham khảo
- Bộ Luật dân sự 2005, Bộ Luật dân sự 2015.
- Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. - Án lệ số 41/2021/AL.
- Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.
- Quyết định số 182/2012/DS-GĐT ngày 20/4/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
- Bản án số 20/2009/DSPT ngày 11 và 12/02/2009 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.
- Bản án số 69/2018/DSPT ngày 09/03/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
- Chế Mỹ Phương Đài, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của
Đại học Luật TP. HCM, Nxb. Hồng Đức 2018.
- Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức
2022 (xuất bản lần thứ năm).
- Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia 2007.
- Và các tài liệu liên quan khác (nếu có). 22