lOMoARcPSD| 59054137
I. KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC
1. Nguồn gốc của Triết học:
- Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống;
song, với tư cách hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất
hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:
- Con người đã phải một vốn hiểu biết nhất định đạt đến khả năng rút ra
được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
- hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên
cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành
lý luận và triết học ra đời.
=> Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực
tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
2. Khái niệm Triết học:
- Khái niệm triết học theo cách hiểu trong lịch sử:
Theo cách hiểu trong lịch sử, triết học một hình thái ý thức hội đặc biệt,
phản ánh khả năng nhận thức, đánh giá thế giới của con người. Nó xuất hiện trong các
nền văn minh cổ đại từ phương Đông đến phương Tây:
Trung Quốc: triết học được hiểu như là trí tuệ, sự truy tìm bản chất
sự hiểu biết sâu sắc.
Ấn Độ: triết học là sự chiêm ngưỡng, là con đường suy ngẫm dựa trên
lý trí để dẫn con người đến lẽ phải.
phương Tây: triết học sự yêu mến sự thông thái, biểu hiện khát vọng
tìm kiếm chân lý.
=> Triết học theo cách hiểu lịch sử một hoạt động tinh thần của con người, nhằm
nhận thức thế giới một cách toàn diện, hệ thống, giải thích c quy luật chung
nhất chi phối sự vận động và phát triển của thế giới, xã hội và con người.
lOMoARcPSD| 59054137
- Khái niệm triết học theo chủ nghĩa Mác - Lênin:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, triết học khoa học nghiên cứu
những quy luật vận động phát triển chung nhất của tự nhiên, hội và tư duy. Triết
học Mác - Lênin nhấn mạnh vai trò của phương pháp duy vật biện chứng duy vật
lịch sử:
Duy vật biện chứng: Xem xét thế giới như một chỉnh thể vận động, phát
triển dựa trên các quy luật khách quan, trong đó vật chất cái trước,
quyết định ý thức.
Duy vật lịch sử: Phân tích các quy luật chi phối sự phát triển của hội
loài người, với trọng m các mối quan hệ sản xuất vai trò của con
người trong lịch sử.
=> Triết học Mác - nin không chỉ nhằm giải thích thế giới n định ớng hành
động để cải tạo thế giới vì lợi ích của con người.
3. Đối tượng của Triết học:
- Đối tượng nghiên cứu của triết học là : tiếp tục giải quyết vấn đề về mối quan hệ
giữa duy và tồn tại, giữa ý thức vật chất trên lập trường duy vật; nghiên cứu
những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó định hướng cho
hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người.
- Đối tượng của triết học các quan hệ phổ biến và các quy luật chung nhất của
toàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Đối ợng nghiên cứu của triết học thay đổi qua từng thời kỳ lịch sdo : quá
trình phát triển của xã hội, nhận thức và bản thân triết học, trên thực tế, nội dung
đối tượng của triết học cũng thay đổi trong các trường phái triết học khác nhau
- Đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi trong chu trình lịch sử. Mỗi giai đoạn
lịch sử, do điều kiện kinh tế xã hội và sự phát triển của khoa học tự nhiên, đối
tượng nghiên cứu của triết học những nội dung cụ thể khác nhau, nhưng vẫn
xoay quanh vấn đề quan hệ giữa con người thế giới khách quan bên ngoài,
giữa tư duy và tồn tại
lOMoARcPSD| 59054137
4. Vai trò của Triết học
a. Vai trò thế giới quan của Triết học:
Triết học đặt nền tảng cho thế giới quan – toàn bộ quan điểm về thế giới, cuộc
sống, và vai trò của con người trong thế giới. Thế giới quan đúng đắn giúp con
người định hướng nhận thức, thái độ, và hành động. Triết học, với vai trò là hạt
nhân lý luận của thế giới quan, nâng cấp thế giới quan lên trình độ tự giác, dựa
trên kinh nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học.
- Chủ nghĩa duy vật đại diện cho thế giới quan tiến bộ, cách mạng, góp
phần vào sự tiến bộ xã hội.
- Chủ nghĩa duy tâm thường bảo vệ giai cấp thống trị lạc hậu.
b. Chức năng phương pháp luận của Triết học:
Phương pháp luận hệ thống các quan điểm nguyên tắc chỉ đạo việc tìm
kiếm, xây dựng, và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn.
- Phương pháp luận triết học (chung nhất) định hướng quá trình nhận
thức và hành động, ảnh hưởng lớn đến sự thành bại của các hoạt động.
- Mỗi hệ thống triết học đều vừa là thế giới quan vừa là phương pháp luận.
c. Vai trò đối với các khoa học cụ thể và tư duy lý luận:
- Triết học không chỉ giải quyết các vấn đề truyền thống còn định hướng
giải quyết các vấn đề mới trong bối cảnh toàn cầu hóa.
- giúp con người đánh giá biến động, tìm giải pháp, duy trì giá trị cốt
lõi trong cả phạm vi dân tộc lẫn nhân loại.
II. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Triết học có mấy vấn đề cơ bản? Nội dung vấn đề cơ bản của triết học là gì?
* Vấn đề cơ bản của Triết học bao gồm 2 nội dung:
A) Nội dung thứ nhất: Mối quan hệ giữa vật chất với ý thức: cái nào có trước, cái
nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
lOMoARcPSD| 59054137
Khái niệm vật chất: vật chất phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan– cái tồn tại bên ngoài ý thức không lệ thuộc vào ý thức, cái khi
tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác.
Khái niệm ý thức: ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con
người thông qua lao động ngôn ngữ, bản thân sự vật đi vào trí óc của con
người và được cải biên trong đó, ý thức là sự phản ánh tích cực, chủ động, sáng
tạo.
→ Mối liên hệ giữa vật chất và ý thức:
- Vật chất là cái có trước, nó quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức:
+ Nguồn gốc của ý thức chính vật chất: bộ não, cơ quan phản ánh thế giới xung
quanh, sự tác động của thế giới xung quanh vào bộ não người tạo thành nguồn gốc tự
nhiên.
+ Lao động và ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) trong hoạt động thực tiễn cũng với
nguồn gốc tự nhiên, quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.
- Sự tác động trở lại của ý thức:
+ Ý thức do vật chất sinh ra quy định, nhưng ý thức lại tính độc lập tương đối
của nó. Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức với vật chất là sự phản ánh tinh thần, phản ánh
sáng tạo và chủ động, vì vậy nó tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người.
+ Dựa trên ý thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương hướng,
xác định phương pháp, dùng ý chí thực hiện mục tiêu ấy. thế ý thức tác động đến
nhận thức thông qua 2 hướng chủ yếu.
+ Tóm lại, vật chất ý thức quan hệ hai chiều, qua lại tác động lẫn nhau,
trong đó vật chất quyết định ý thức, song ý thức thì không hoàn toàn thụ động tác
động trở lại thực tiễn thông qua những hoạt động nhận thức của con người. Mối quan
hệ giữa vật chất ý thức chính mối quan hệ biện chứng. dụ về vật chất quyết
định ý thức:
lOMoARcPSD| 59054137
+ Trong ca dao tục ngữ “có thực mới vực được đạo” có nghĩa vật chất có quyết
định nhiều tới ý thức của con người. Bộ não con người sẽ phản ánh những hiện thực
của cuộc sống một cách cụ thể. Từ mối quan hệ giữa vật chất ý thức, con người sẽ
biết những hành động, cư xử đúng mực.
+ Giáo dục chính trị và tư ởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chất, như khi
đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
Ví dụ về ý thức quyết định vật chất:
+ Khi ý thức được việc cây xanh phổi của Trái Đất thì con người đã ra sức
trồng trọt, chăm sóc để có một môi trường sống lành mạnh, tốt đẹp hơn.
+ Khi nhiệt độ 0oC thì nước đông thành đá, do đó con người muốn uống nước
đá đã cung cấp một nhiệt độ vừa đủ để nước chuyển từ trạng thái lỏng, sang trạng thái
rắn (nước đá).
B) Nội dung thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
không?
Khái niệm thế nào là nhận thức?
- Nhận thức hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức những am hiểu
thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm giác quan, bao gồm các quy trình như
tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng, sự lí luận, sự tính toán,
việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng
ngôn ngữ.
- Triết học Mác- Lênin cho rằng nhận thức quá trình phản ánh hiện thực khách
quan o bộ óc con người, quá trình tạo thành tri thức về thế giới khách
quan trong bộ óc con người.
Quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức.
luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên tắc bản
sau đây:
lOMoARcPSD| 59054137
- Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc
lập đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người - Hiện thực khách quan
là đối tượng của nhận thức.
- Hai là, lý luận nhận thức macxít khẳng định rằng cảm giác, tri thức và ý thức
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, thừa nhận năng lực nhận
thức của con người. Theo nguyên tắc, không có gì là không thể biết. Hiện tại,
những điều con người chưa biết, nhưng với sự phát triển của khoa học và
thực tiễn, con người sẽ biết được trong ơng lai. Điều này khẳng định sức
mạnh của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
- Ba là, quá trình nhận thức một quá trình biện chứng, tích cực sáng tạo,
diễn ra từ trực quan sinh động đến tư duy trừuợng và từ duy trừu tượng
đến thực tiễn. Nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu
sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
- Bốn là, sở chủ yếu trực tiếp nhất của nhận thức thực tiễn, đồng thời
thực tiễn cũng mục đích tiêu chuẩn để kiểm tra chân của nhận thức.
Nhận thức phản ánh thế giới khách quan một cách biện chứng, năng động
sáng tạo trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội.
Chủ thể và khách thể nhận thức:
- Nhận thức quá trình xảy ra do sự tương tác giữa chủ thể khách thể nhận
thức Chủ thể nhận thức: Theo nghĩa rộng đó hội, loài người nói chung.
Hay cụ thể hơn đó những nhóm người như các giai cấp, dân tộc, tập thể, các
nhà bác học.v.v.. Nhưng không phải con người bất kỳ nào cũng là chủ thể nhận
thức, con người chỉ trở thành chủ thể nhận thức khi tham gia vào các hoạt động
xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể. Do vậy, con người (cá nhân, nhóm
người, giai cấp, dân tộc hoặc cả nhân loại) là chủ thể tích cực, sáng tạo của nhận
thức.
lOMoARcPSD| 59054137
- Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, tưởng, tài năng, ý chí, phẩm
chất đạo đức… đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ khác
nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức.
- Còn khách thể nhận thức một bộ phận nào đó của hiện thực nhận thức
hướng tới nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận
thức. Do vậy, khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn toàn với hiện thực
khách quan, phạm vi của khách thể nhận thức được mở rộng đến đâu là tuỳ theo
sự phát triển của nhận thức, của khoa học.
- Trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chthể nhận
thức khách thể nhận thức quan hệ gắn bó với nhau, trong đó khách thể đóng
vai trò quyết định chủ thể. Chính sự tác động của khách thể lên chthể đã tạo
nên hình ảnh nhận thức về khách thể. Song chủ thể phản ánh khách thể như một
quá trình sáng tạo, trong đó chủ thể ngày ng nắm bắt được bản chất, quy luật
của khách thể.
- Cả chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức đều mang tính lịch sử– xã hội.
* Vấn đề quan hệ giữa ý thức vật chất, duy và tồn tại vấn đề bản của
triết học vì (chi tiết):
- Đây vấn đề liên quan trực tiếp đến mối quan hệ giữa linh hồn thể xác của
con người, được đặt ra từ thời cổ xưa. Từ việc giải thích những giấc mơ, người
xưa đã hình thành quan niệm về sự tách rời giữa linh hồn thể xác, cũng như
sự bất tử của linh hồn. Từ đó, vấn đề quan hệ giữa linh hồn con người và thế giới
bên ngoài nảy sinh. Khi triết học ra đời với tư cách là lý luận về thế giới và quan
hệ giữa con người với thế giới, nó không thể không giải quyết vấn đề này.
- Suy cho cùng, tất cả các hiện tượng trong thế giới đều thể quy vhai mảng
lớn: hiện tượng vật chất hiện tượng tinh thần. Vấn đề quan hệ giữa tinh thần
vật chất, hay giữa duy tồn tại, chính vấn đề quan hệ giữa hai mảng
hiện tượng lớn nhất này. Triết học, với tư cách là lý luận chung nhất về thế giới,
không thể không đề cập giải quyết quan hệ giữa chúng. Điều này được thể
lOMoARcPSD| 59054137
hiện qua việc tất cả các học thuyết triết học, khác nhau, đều phải trả lời các
câu hỏi như: duy con người quan hệ thế nào với sự vật bên ngoài? Thế giới
trong đầu óc con người quan hệ thế o với thế giới bên ngoài? duy con
người có khả năng hiểu biết được tồn tại bên ngoài hay không?
- Thứ ba, vấn đề quan hgiữa duy và tồn tại, giữa ý thức vật chất được coi
vấn đề bản hay tối cao của triết học việc giải quyết vấn đề này cơ sở
để giải quyết mọi vấn đề khác của triết học. Lịch sử tư tưởng triết học cho thấy,
tùy thuộc vào thái đlập trường trong việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa ý
thức vật chất, người ta sẽ quan điểm tương ứng trong việc giải quyết các
vấn đề khác của triết học, kể cả những vấn đề không thuần túy triết học như chính
trị và đạo đức.
-> thể khẳng định ngắn gọn: vấn đề quan hệ giữa ý thức vật chất, hay giữa
duy và tồn tại là vấn đề cơ bản của mọi triết học. Nếu không giải quyết vấn đề này, một
học thuyết không thể gọi là triết học đúng nghĩa. Việc giải quyết vấn đề bản của triết
học tiêu chuẩn để c định lập trường thế giới quan của bất kỳ học thuyết triết học
hay triết gia nào.
*Vấn đề quan hệ giữa ý thức vật chất, duy tồn tại vấn đề bản của
triết học vì (khái quát):
- Đây vấn đề rộng nhất, chung nhất. Đóng vai trò nền tảng, định hướng để
giải quyết các vấn đề khác.
- Các trường phái triết học đều trực tiếp/ gián tiếp đi vào giả thích về mối quan hệ
giữa tư duy tồn tại hay giữa vật chất và ý thức trước khi đi vào quyết định của
mình.
- Việc quyết định mối quan hệ giữa vật chất ý thức sở xuất phát cho các
quyết định triết học nảy sinh.
- Việc quyết định vấn đề cơ bản của triết học là tính chất khách quan khoa học để
phá định lập trường tư tưởng triết học của các nhà triết học trong lịch sử.
lOMoARcPSD| 59054137
2. Vấn đề cơ bản của Triết học được giải quyết như thế nào?
- Vấn đề cơ bản của triết học hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn.
Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào sau,
cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
- Trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các trường
phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.
- Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học
thành nhiều trường phái và trong đó có hai trường phái lớn:
Chủ nghĩa duy vật:
+ Bao gồm những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên cái trước
quyết định ý thức của con người được coi là các nhà duy vật; học thuyết
của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Thể hiện
dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật
siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác hình thức khai của chủ nghĩa duy vật,
gắn liền với các nhà triết học duy vật thời cổ đại. Trong khi thừa nhận tính
thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật chất phác đã giải toàn bộ sự
sinh thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính,
coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình thể hiện khá các nhà triết học thế kỷ XV
đến thế kỷ XVIII đỉnh cao vào thế kỷ thứ XVII, XVIII, chịu sự tác
động mạnh mẽ của phương pháp duy siêu hình, máy móc - phương
pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó
luôn ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại.
lOMoARcPSD| 59054137
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác Ph.Ăngghen xây dựng vào
những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển,khắc phục
được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật
siêu hình là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật.Không chỉ
phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân tồn tại còn một công
cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy
Chủ nghĩa duy tâm:
+ Bao gồm những người cho rằng, ý thức, tinh thần trước giới tự nhiên
được gọi các nduy tâm; họ hợp thành c môn phái khác nhau của
chủ nghĩa duy tâm. Chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan
chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức
nhưng theo họ đấy là thứ tinh thần khách quan trước tồn tại độc
lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang những
tên gọi khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới,...
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người.
Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy
tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ phức hợp những
cảm giác của cá nhân, của chủ thể.
- Việc giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học chia thành hai
trường phái:
Khả tri luận (có thể biết):
+ Thừa nhận khả năng nhận thức của con người
+ Khẳng định con người về nguyên tắc thể hiểu được bản
chất của sự vật; những cái mà con người biết về nguyên tắc
là phù hợp với chính sự vật
Bất tri luận (không thể biết)
lOMoARcPSD| 59054137
+ Phủ nhận khả năng nhận thức của con người
+ Con người không thể hiểu được bản chất thật sự của đối
tượng; Các hiểu biết của con người về nh chất, đặc điểm...
của đối tượng mà, tính xác thực, cũng không cho phép
con người đồng nhất chúng với đối tượng không đáng
tin cậy
Ngoài ra còn có trường phái hoài nghi luận:
+ Nghi ngờ khả năng nhận thức của con người
+ Nghi trong ngviệc đánh giá tri thức đã đạt được cho rằng con
người không thể đạt đến chân khách quan

Preview text:

lOMoAR cPSD| 59054137
I. KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC
1. Nguồn gốc của Triết học:
- Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống;
song, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất
hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:
- Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra
được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
- Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên
cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành
lý luận và triết học ra đời.
=> Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực
tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
2. Khái niệm Triết học:
- Khái niệm triết học theo cách hiểu trong lịch sử:
Theo cách hiểu trong lịch sử, triết học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
phản ánh khả năng nhận thức, đánh giá thế giới của con người. Nó xuất hiện trong các
nền văn minh cổ đại từ phương Đông đến phương Tây:
Trung Quốc: triết học được hiểu như là trí tuệ, sự truy tìm bản chất và
sự hiểu biết sâu sắc.
Ấn Độ: triết học là sự chiêm ngưỡng, là con đường suy ngẫm dựa trên
lý trí để dẫn con người đến lẽ phải.
phương Tây: triết học là sự yêu mến sự thông thái, biểu hiện khát vọng tìm kiếm chân lý.
=> Triết học theo cách hiểu lịch sử là một hoạt động tinh thần của con người, nhằm
nhận thức thế giới một cách toàn diện, có hệ thống, và giải thích các quy luật chung
nhất chi phối sự vận động và phát triển của thế giới, xã hội và con người. lOMoAR cPSD| 59054137
- Khái niệm triết học theo chủ nghĩa Mác - Lênin:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, triết học là khoa học nghiên cứu
những quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết
học Mác - Lênin nhấn mạnh vai trò của phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử:
Duy vật biện chứng: Xem xét thế giới như một chỉnh thể vận động, phát
triển dựa trên các quy luật khách quan, trong đó vật chất là cái có trước, quyết định ý thức.
Duy vật lịch sử: Phân tích các quy luật chi phối sự phát triển của xã hội
loài người, với trọng tâm là các mối quan hệ sản xuất và vai trò của con người trong lịch sử.
=> Triết học Mác - Lênin không chỉ nhằm giải thích thế giới mà còn định hướng hành
động để cải tạo thế giới vì lợi ích của con người.
3. Đối tượng của Triết học:
- Đối tượng nghiên cứu của triết học là : tiếp tục giải quyết vấn đề về mối quan hệ
giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất trên lập trường duy vật; nghiên cứu
những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó định hướng cho
hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người.
- Đối tượng của triết học là các quan hệ phổ biến và các quy luật chung nhất của
toàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi qua từng thời kỳ lịch sử do : quá
trình phát triển của xã hội, nhận thức và bản thân triết học, trên thực tế, nội dung
đối tượng của triết học cũng thay đổi trong các trường phái triết học khác nhau
- Đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi trong chu trình lịch sử. Mỗi giai đoạn
lịch sử, do điều kiện kinh tế – xã hội và sự phát triển của khoa học tự nhiên, đối
tượng nghiên cứu của triết học có những nội dung cụ thể khác nhau, nhưng vẫn
xoay quanh vấn đề quan hệ giữa con người và thế giới khách quan bên ngoài,
giữa tư duy và tồn tại lOMoAR cPSD| 59054137
4. Vai trò của Triết học
a. Vai trò thế giới quan của Triết học:
Triết học đặt nền tảng cho thế giới quan – toàn bộ quan điểm về thế giới, cuộc
sống, và vai trò của con người trong thế giới. Thế giới quan đúng đắn giúp con
người định hướng nhận thức, thái độ, và hành động. Triết học, với vai trò là hạt
nhân lý luận của thế giới quan, nâng cấp thế giới quan lên trình độ tự giác, dựa
trên kinh nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học.
- Chủ nghĩa duy vật đại diện cho thế giới quan tiến bộ, cách mạng, góp
phần vào sự tiến bộ xã hội.
- Chủ nghĩa duy tâm thường bảo vệ giai cấp thống trị lạc hậu.
b. Chức năng phương pháp luận của Triết học:
Phương pháp luận là hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo việc tìm
kiếm, xây dựng, và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn.
- Phương pháp luận triết học (chung nhất) định hướng quá trình nhận
thức và hành động, ảnh hưởng lớn đến sự thành bại của các hoạt động.
- Mỗi hệ thống triết học đều vừa là thế giới quan vừa là phương pháp luận.
c. Vai trò đối với các khoa học cụ thể và tư duy lý luận:
- Triết học không chỉ giải quyết các vấn đề truyền thống mà còn định hướng
giải quyết các vấn đề mới trong bối cảnh toàn cầu hóa.
- Nó giúp con người đánh giá biến động, tìm giải pháp, và duy trì giá trị cốt
lõi trong cả phạm vi dân tộc lẫn nhân loại.
II. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Triết học có mấy vấn đề cơ bản? Nội dung vấn đề cơ bản của triết học là gì?
* Vấn đề cơ bản của Triết học bao gồm 2 nội dung:
A) Nội dung thứ nhất: Mối quan hệ giữa vật chất với ý thức: cái nào có trước, cái
nào có sau, cái nào quyết định cái nào? lOMoAR cPSD| 59054137
Khái niệm vật chất: vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan– cái tồn tại bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức, là cái mà khi
tác động vào các giác quan con người thì đem lại cho con người cảm giác.
Khái niệm ý thức: ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc của con
người thông qua lao động và ngôn ngữ, bản thân sự vật đi vào trí óc của con
người và được cải biên trong đó, ý thức là sự phản ánh tích cực, chủ động, sáng tạo.
→ Mối liên hệ giữa vật chất và ý thức:
- Vật chất là cái có trước, nó quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức:
+ Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất: bộ não, cơ quan phản ánh thế giới xung
quanh, sự tác động của thế giới xung quanh vào bộ não người tạo thành nguồn gốc tự nhiên.
+ Lao động và ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) trong hoạt động thực tiễn cũng với
nguồn gốc tự nhiên, quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.
- Sự tác động trở lại của ý thức:
+ Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối
của nó. Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức với vật chất là sự phản ánh tinh thần, phản ánh
sáng tạo và chủ động, vì vậy nó tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
+ Dựa trên ý thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương hướng,
xác định phương pháp, dùng ý chí thực hiện mục tiêu ấy. Vì thế ý thức tác động đến
nhận thức thông qua 2 hướng chủ yếu.
+ Tóm lại, vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều, qua lại và tác động lẫn nhau,
trong đó vật chất quyết định ý thức, song ý thức thì không hoàn toàn thụ động mà tác
động trở lại thực tiễn thông qua những hoạt động nhận thức của con người. Mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức chính là mối quan hệ biện chứng. Ví dụ về vật chất quyết định ý thức: lOMoAR cPSD| 59054137
+ Trong ca dao tục ngữ “có thực mới vực được đạo” có nghĩa là vật chất có quyết
định nhiều tới ý thức của con người. Bộ não con người sẽ phản ánh những hiện thực
của cuộc sống một cách cụ thể. Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, con người sẽ
biết những hành động, cư xử đúng mực.
+ Giáo dục chính trị và tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chất, như khi
đạt danh hiệu thi đua, được phần thưởng.
● Ví dụ về ý thức quyết định vật chất:
+ Khi ý thức được việc cây xanh là lá phổi của Trái Đất thì con người đã ra sức
trồng trọt, chăm sóc để có một môi trường sống lành mạnh, tốt đẹp hơn.
+ Khi ở nhiệt độ 0oC thì nước đông thành đá, do đó con người muốn uống nước
đá đã cung cấp một nhiệt độ vừa đủ để nước chuyển từ trạng thái lỏng, sang trạng thái rắn (nước đá).
B) Nội dung thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
● Khái niệm thế nào là nhận thức?
- Nhận thức là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu
thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các quy trình như là
tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng, sự lí luận, sự tính toán,
việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ.
- Triết học Mác- Lênin cho rằng nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách
quan vào bộ óc con người, là quá trình tạo thành tri thức về thế giới khách
quan trong bộ óc con người.
● Quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của nhận thức.
Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây: lOMoAR cPSD| 59054137
- Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc
lập đối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người - Hiện thực khách quan
là đối tượng của nhận thức.
- Hai là, lý luận nhận thức macxít khẳng định rằng cảm giác, tri thức và ý thức
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, và thừa nhận năng lực nhận
thức của con người. Theo nguyên tắc, không có gì là không thể biết. Hiện tại,
có những điều con người chưa biết, nhưng với sự phát triển của khoa học và
thực tiễn, con người sẽ biết được trong tương lai. Điều này khẳng định sức
mạnh của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.
- Ba là, quá trình nhận thức là một quá trình biện chứng, tích cực và sáng tạo,
diễn ra từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn. Nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu
sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
- Bốn là, cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn, đồng thời
thực tiễn cũng là mục đích và tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức.
Nhận thức phản ánh thế giới khách quan một cách biện chứng, năng động và
sáng tạo trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội.
● Chủ thể và khách thể nhận thức:
- Nhận thức là quá trình xảy ra do sự tương tác giữa chủ thể và khách thể nhận
thức Chủ thể nhận thức: Theo nghĩa rộng đó là xã hội, là loài người nói chung.
Hay cụ thể hơn đó là những nhóm người như các giai cấp, dân tộc, tập thể, các
nhà bác học.v.v.. Nhưng không phải con người bất kỳ nào cũng là chủ thể nhận
thức, con người chỉ trở thành chủ thể nhận thức khi tham gia vào các hoạt động
xã hội nhằm biến đổi và nhận thức khách thể. Do vậy, con người (cá nhân, nhóm
người, giai cấp, dân tộc hoặc cả nhân loại) là chủ thể tích cực, sáng tạo của nhận thức. lOMoAR cPSD| 59054137
- Khi nhận thức, các yếu tố của chủ thể như lợi ích, lý tưởng, tài năng, ý chí, phẩm
chất đạo đức… đều tham gia vào quá trình nhận thức với những mức độ khác
nhau và ảnh hưởng đến kết quả nhận thức.
- Còn khách thể nhận thức là một bộ phận nào đó của hiện thực mà nhận thức
hướng tới nắm bắt, phản ánh, nó nằm trong phạm vi tác động của hoạt động nhận
thức. Do vậy, khách thể nhận thức không đồng nhất hoàn toàn với hiện thực
khách quan, phạm vi của khách thể nhận thức được mở rộng đến đâu là tuỳ theo
sự phát triển của nhận thức, của khoa học.
- Trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chủ thể nhận
thức và khách thể nhận thức quan hệ gắn bó với nhau, trong đó khách thể đóng
vai trò quyết định chủ thể. Chính sự tác động của khách thể lên chủ thể đã tạo
nên hình ảnh nhận thức về khách thể. Song chủ thể phản ánh khách thể như một
quá trình sáng tạo, trong đó chủ thể ngày càng nắm bắt được bản chất, quy luật của khách thể.
- Cả chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức đều mang tính lịch sử– xã hội.
* Vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất, tư duy và tồn tại là vấn đề cơ bản của
triết học vì (chi tiết):
- Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác của
con người, được đặt ra từ thời cổ xưa. Từ việc giải thích những giấc mơ, người
xưa đã hình thành quan niệm về sự tách rời giữa linh hồn và thể xác, cũng như
sự bất tử của linh hồn. Từ đó, vấn đề quan hệ giữa linh hồn con người và thế giới
bên ngoài nảy sinh. Khi triết học ra đời với tư cách là lý luận về thế giới và quan
hệ giữa con người với thế giới, nó không thể không giải quyết vấn đề này.
- Suy cho cùng, tất cả các hiện tượng trong thế giới đều có thể quy về hai mảng
lớn: hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Vấn đề quan hệ giữa tinh thần
và vật chất, hay giữa tư duy và tồn tại, chính là vấn đề quan hệ giữa hai mảng
hiện tượng lớn nhất này. Triết học, với tư cách là lý luận chung nhất về thế giới,
không thể không đề cập và giải quyết quan hệ giữa chúng. Điều này được thể lOMoAR cPSD| 59054137
hiện qua việc tất cả các học thuyết triết học, dù khác nhau, đều phải trả lời các
câu hỏi như: Tư duy con người có quan hệ thế nào với sự vật bên ngoài? Thế giới
trong đầu óc con người có quan hệ thế nào với thế giới bên ngoài? Tư duy con
người có khả năng hiểu biết được tồn tại bên ngoài hay không?
- Thứ ba, vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất được coi
là vấn đề cơ bản hay tối cao của triết học vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở
để giải quyết mọi vấn đề khác của triết học. Lịch sử tư tưởng triết học cho thấy,
tùy thuộc vào thái độ và lập trường trong việc giải quyết vấn đề quan hệ giữa ý
thức và vật chất, người ta sẽ có quan điểm tương ứng trong việc giải quyết các
vấn đề khác của triết học, kể cả những vấn đề không thuần túy triết học như chính trị và đạo đức.
-> Có thể khẳng định ngắn gọn: vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất, hay giữa tư
duy và tồn tại là vấn đề cơ bản của mọi triết học. Nếu không giải quyết vấn đề này, một
học thuyết không thể gọi là triết học đúng nghĩa. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học là tiêu chuẩn để xác định lập trường thế giới quan của bất kỳ học thuyết triết học hay triết gia nào.
*Vấn đề quan hệ giữa ý thức và vật chất, tư duy và tồn tại là vấn đề cơ bản của
triết học vì (khái quát):
- Đây là vấn đề rộng nhất, chung nhất. Đóng vai trò là nền tảng, định hướng để
giải quyết các vấn đề khác.
- Các trường phái triết học đều trực tiếp/ gián tiếp đi vào giả thích về mối quan hệ
giữa tư duy và tồn tại hay giữa vật chất và ý thức trước khi đi vào quyết định của mình.
- Việc quyết định mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở xuất phát cho các
quyết định triết học nảy sinh.
- Việc quyết định vấn đề cơ bản của triết học là tính chất khách quan khoa học để
phá định lập trường tư tưởng triết học của các nhà triết học trong lịch sử. lOMoAR cPSD| 59054137
2. Vấn đề cơ bản của Triết học được giải quyết như thế nào?
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn.
● Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau,
cái nào quyết định cái nào?
● Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
- Trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các trường
phái triết học và các học thuyết về nhận thức của triết học.
- Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học
thành nhiều trường phái và trong đó có hai trường phái lớn: ● Chủ nghĩa duy vật:
+ Bao gồm những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và
quyết định ý thức của con người được coi là các nhà duy vật; học thuyết
của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Thể hiện
dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật
siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật,
gắn liền với các nhà triết học duy vật thời cổ đại. Trong khi thừa nhận tính
thứ nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật chất phác đã lý giải toàn bộ sự
sinh thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính,
coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV
đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao vào thế kỷ thứ XVII, XVIII, chịu sự tác
động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc - phương
pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó
luôn ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại. lOMoAR cPSD| 59054137
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào
những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển,khắc phục
được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật
siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật.Không chỉ
phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công
cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy ● Chủ nghĩa duy tâm:
+ Bao gồm những người cho rằng, ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên
được gọi là các nhà duy tâm; họ hợp thành các môn phái khác nhau của
chủ nghĩa duy tâm. Chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và
chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức
nhưng theo họ đấy là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc
lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang những
tên gọi khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới,...
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người.
Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy
tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những
cảm giác của cá nhân, của chủ thể.
- Việc giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học chia thành hai trường phái:
● Khả tri luận (có thể biết):
+ Thừa nhận khả năng nhận thức của con người
+ Khẳng định con người về nguyên tắc có thể hiểu được bản
chất của sự vật; những cái mà con người biết về nguyên tắc
là phù hợp với chính sự vật
● Bất tri luận (không thể biết) lOMoAR cPSD| 59054137
+ Phủ nhận khả năng nhận thức của con người
+ Con người không thể hiểu được bản chất thật sự của đối
tượng; Các hiểu biết của con người về tính chất, đặc điểm...
của đối tượng mà, dù có tính xác thực, cũng không cho phép
con người đồng nhất chúng với đối tượng vì nó không đáng tin cậy
● Ngoài ra còn có trường phái hoài nghi luận:
+ Nghi ngờ khả năng nhận thức của con người
+ Nghi trong ngờ việc đánh giá tri thức đã đạt được và cho rằng con
người không thể đạt đến chân khách quan