Câu 1: Thế nào thế giới quan? Nêu các hình thức thế giới quan trong lịch sử,
cho dụ minh họa.
1. Nguồn gốc của thế giới quan
Thế giới quan thức những quan niệm của con người về thế giới không phải
cái tồn tại sẵn trong con người, cũng không phải cái sẵn trong tự nhiên.
Trong quá trình nghiên cứu quá trình phát triển của một người nói riêng của lịch
sử nhận thức của loài người nói chung, cho thấy quan niệm về thế giới của nhân
con người, cũng như của cộng đồng hội, không phải cái sẵn bất biến,
được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn hoạt động nhân thức của
con người phản ánh hiện thực khách quan.
Các thời đại lịch sử khách nhau, do trình độ phát triển sản xuất trình độ
nhận thức của con người khác nhau, nên thế giới quan của mỗi thời đại cũng khác
nhau. Do đó thể thấy răng, thế giới quan hiện tượng hội phức tạp, nguồn
gốc từ thực tiễn hội. Thế giới quan là sản phẩm của lịch sử, kết quả của q
trình hoạt động thực tiễn nhận thức của con người trong quá trình phát triển
hội.
2. Khái niệm thế giới quan
Thế giới quan hệ thống những quan niệm, quan điểm của con người về thế
giới, về vị t của con người trong thế giới đo, về chính bản thân cuộc sống của
con người nhắm giải đáp những vẫn đề v mục đích, ý nghĩa cuộc sống của con
người.
Mỗi người sẽ một cái nhìn về thế giới riêng biệt, phụ thuộc vào cách h
quan sát đánh g các s vật hoặc sự việc. Chúng ta không thể ép buộc người
khác chấp nhận quan điểm của mình yêu cầu họ phải quan điểm tương t
nh.
3. Kết cấu của thế giới quan
1
Thế giới quan cấu trúc phức tạp, bao gồm tri thức, niềm tin, tình cảm, ý chí
lý tưởng.
- Tri thức kết quả của nhận thức, tức kết qu của sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong đầu óc của con người. Tri thức bao gồm nhiều loại khác nhau
: tri thức về tự nhiên, tri thức về hội tri thức về duy. Lại tri
thức đúng, tri thức sai.
- Tình cảm tình yêu s cảm hoá của con người trước một hành động, một
sự vật nào đó. nhiều loại tình cảm khác nhau như tình cảm trong sáng, tình cảm
không trong sáng; tình cảm chân thành, tình cảm không chân thành.
- Niềm tin s tin tưởng vào một quan niệm nào đó. Bao gồm các loại niềm
tin khoa học, niềm tin không khoa học; niềm tin bền vững hoặc niềm tin không bền
vững…
- Ý c năng lực t tuệ của con người quyết tâm đạt được một ý định nào đó
đã đề ra. được hình thành trên cơ sở niềm tin để tạo thành tưởng sống của
con người.
- tưởng luận con người tưởng tượng ra thành mục đích để ớng
tới trong cuộc sống. tưởng được hình thành nếu không xuất phát từ “mảnh đất”
hiện thực, từ đời sống hội của con người thì tưởng đó sẽ phi hiện thực ảo
tưởng. dụ: “Cõi niết bàn” hay “chủ nghĩa hội không tưởng”. Còn lý tưởng
được hình thành nếu xuất phát từ “mảnh đất” hiện thực từ quy luật phát triển của
cuộc sống thì tưởng đó sẽ trở thành hiện thực. dụ: “Lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa”.
Giữa tri thức, niềm tin, tình cảm, ý chí tưởng một mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau. Trong mối quan hệ đó thì tri thức b
phận quan trọng nhất đóng vai trò quyết định đối với việc hình thành niềm tin, tình
cảm, ý chí tưởng. Bởi nếu tri thức đúng đắn, khoa học thì sẽ hình thành
niềm tin vững chắc, tình cảm trong sáng, ý chí mãnh liệt lý tưởng cao cả. Ngược
2
lại nếu tri thức không đúng đắn sẽ hình thành niềm tin không bền vững, tình
cảm không trong sáng, ý chí yếu ớt tưởng thấp
4. Các loại thế giới quan
- Theo phân lịch sử: Huyền thoại, tôn giáo, Triết học
- Theo lộ trình nhận thức: tiền khoa học, phi khoa học, khoa hc
- Theo phạm vi: nhân, giai cấp, dân tộc
Thế giới quan thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau, dựa theo Mác
- Lênin được phân loại thành các thế giới quan sau:
Thế giới quan huyền thoại
Thế giới quan huyền thoại hình thức thế giới quan đặc trưng của người
nguyên thủy, trong giai đoạn khai của lịch sử. Thế giới quan huyền thoại thể
hiện qua các huyền thoại con người xây dựng nên phản ánh hiện thực khác
quan. Thế giới quan huyền thoại phản ánh những kết quả cảm nhận ban đầu của
người nguyên thuỷ về thế giới tự nhiên đời sống hội.
VD: Thế giới quan trong huyền thoại Hy Lạp cổ đại, thế giới quan trong
huyền thoại La cổ đại,….
Đặc điểm của thế giới quan huyền thoại các yếu tố hiện thực tưởng
tưởng, cái thật cái hoang đường, trí tín ngưỡng, tư duy cảm xúc chưa
phân biệt hòa quyện vào nhau.
Thế giới quan tôn giáo
Thế giới quan tôn giáo hình thức thế giới quan phản ánh hiện thực khách
quan một các ảo, sự giải thích thế giới trên s thừa nhận s sáng tạo của
một lực lượng siêu nhiên, thần bí. Thế giới quan tôn giáo ra đời trong điều kiện
trình độ nhận thức thực tiễn của con người còn hết sức thấp kém, con người bất
lực trước lực lượng tự nhiên n sắm sét, bão lũ, động đất đặc biệt bất lực
trước cả những hiện tượng xã hội con người gặp phải như chiến tranh, bóc lột,
bất công hội,…
VD: Thế giới quan Phật giáo, thế giới quan Kito giáo,…
3
Đặc điểm của thế giới quan tôn giáo chủ yếu niềm tin vào sự tồn tại sức
mạnh hạn của thế giới thần thánh, của lực lương siêu t nhiên, con người bất lực
luôn phụ thuộc vào thế giới siêu nhiên. Tuy vậy, thế giới quan tôn giáo cũng thể
hiện khát vọng được giải thoát khỏi đau khổ, được an i về mặt tinh thần và vươn
tới một thế giới hạnh phúc.
Thế giới quan triết học
Thế giới quan triết học hình thức thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống
luận, h thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Thế giới quan triết học không
chỉ đơn giản chỉ nêu lên các quan điểm của con người v thế giới còn cố gắng
tìm cách giải thích, chứng minh các quan niệm đó bằng những tài liệu khoa học
những suy luận logic. Sự phát triển của thế giới quan triết học luôn gắn với sự phát
triển của nhận thức khoa học thực tiễn hội.
VD: Thế giới quan duy vật, thế giới quan duy tâm,…
Thế giới quan này không chỉ nêu ra các quan niệm của mình còn chứng
minh các quan niệm đó bằng lý tính. Thế giới quan triết học một hệ thống những
quan điểm luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó.
Đây một chức năng bản của triết học.
Câu 2: Thế nào là phương pháp luận? Trình bày sở triết học, nội dung ý
nghĩa các phương pháp luận bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng?
1. Khái niệm phương pháp luận
Trong thực tiễn, con người thể áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để
giải quyết công việc đã định. Quá trình lựa chọn phương pháp thể đúng hoặc sai.
Vậy làm thế nào để xác định được phương pháp đúng đắn, khoa học? Từ đó, xuất
hiện nhu cầu tri thức khoa học v phương pháp đó cũng do để khoa học về
phương pháp ra đời. Đó chính là phương pháp luận.
Vậy, phương pháp luận luận về phương pháp, khoa học về phương
pháp. Phương pháp luận giải quyết những vấn đề như: phương pháp gì? Bản
chất, nội dung, hình thức của phương pháp như thế nào? Do đó, thể nói cách
4
khác, c thể hơn, phương pháp luận hệ thống những quan điểm, những nguyên
tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như trong việc
xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý, hiệu quả tối đa.
Chẳng hạn, phương pháp luận toán học nhiệm cụ nêu ra những quan điểm,
nguyên tắc chung chỉ đạo quá trình xác định áp dụng các phương pháp, cụ thể
như: phương pháp tiên đề, phương pháp giả thiết - diễn dịch v.v… Hoặc, trong kinh
tế cụ thể như: phương pháp điều tra chọn mẫu, pơng pháp phân tích các hoạt
động kinh tế, phương pháp thống v.v… Trên sở đó, rút ra những quan điểm,
nguyên tắc chung chỉ đạo việc áp dụng các phương pháp kinh tế c thể như: quan
điểm về hiệu quả, quan điểm về đồng bộ, quan điểm về phát triển tiến bộ hội
v.v… Việc lựa chọn, áp dụng một phương pháp kinh tế cụ thể nào phải xuất phát từ
những quan điểm, nguyên tắc chung đó.
2. sở triết học, nội dung ý nghĩa các phương pháp luận bản của chủ
nghĩa duy vật biện chứng
Phương pháp luận biện chứng duy vật được coi những nguyên tắc xuất phát
chỉ đạo các chủ thể trong việc xác định phạm vi, phương pháp, cách thức, phương
tiện tác động nhằm tạo ra những biến đổi cho phù hợp hiệu quả. Vận dụng
phương pháp luận biện chứng duy vật trong quán triệt xử mối quan hệ lớn
giữa tăng trưởng kinh tế phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ công bằng
hội nước ta hiện nay là góp phần định hướng phát triển đất nước theo hướng bền
vững.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác đã tạo ra một bước ngoặt trong triết học, một
trong những biểu hiện nổi bật của cuộc cách mạng này sự thống nhất chủ nghĩa
duy vật phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật trở thành sở của thế giới
quan phương pháp luận khoa học, là một hệ thống luận phản ánh những
mối liên hệ, những quá trình biến đổi của bản thân thế giới hiện thực, căn cứ vào
những kết quả khoa học đã được đúc kết, kết hợp với sự tổng kết, khái quát thực
tiễn hoạt động của con người. Phương pháp luận của phép biện chứng những kết
5
luận được rút ra từ việc khảo sát các mối liên hệ của các sự vật, từ quá trình phát
sinh, phát triển cụ thể của nó, “từ các mặt liên hệ, liên kết, vận động, sinh ra mất
đi của các sự vật”. vậy, s luận của các nguyên tắc phương pháp luận biện
chứng duy vật thực chất những nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm 2
nguyên lý, 3 quy luật, 6 cặp phạm trù.
2.1. Nguyên tắc khách quan
*
sở luận: sở luận của nguyên tắc khách quan thực chất mối
liên hệ giữa vật chất ý thức.
Mối quan hệ vật chất ý thức “Vấn đề bản của triết học, đặc biệt triết
học hiện đại”. Tùy theo lập trường thế giới quan khác nhau, khi giải quyết mối
quan hệ giữa vật chất ý thức hình thành hai đường lối bản trong triết học
chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm. Dưới đây ta cùng tìm hiểu quan điểm
của chủ nghĩa duy vật biên chứng về mối quan hệ giữa vật chất ý thức.
Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất một phạm t triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”
Bản chất ý thức hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, quá trình
phản ánh tích cực sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
Ý thức “hình ảnh” của sự vật trong óc người, là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan.
Ý thức đặc tính tích cực, sáng tạo gắn chặt chẽ với thực tiễn hội.
Ý thức một hiện tượng hội mang bản chất hội.
Như vậy, mối quan hệ giữa vật chất ý thức: thể nói vật chất ý thức
như hai mặt của một vấn đề về chúng mối quan hệ hai chiều tác động biện
chứng chặt chẽ, trong đó vật chất quyết định ý thức ý thức tác động tích cực trở
lại vật chất.
Thứ nhất, vật chất có vai trò quyết định đối với ý thc
6
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Vật chất cội nguồn sản sinh ra
ý thức ý thức xuất hiện gắn liền với s xuất hiện của con người, con người
kết quả của một q trình tiến a lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới
vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra cho nên ý thức một thuộc tính
của bộ phận con người cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của
khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng giới tự nhiên trước, con
người, vật chất cái trước còn ý thức là cái sau. Vật chất tồn tại khách quan
độc lập với ý thức nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc con người là một dạng vật
chất tổ chức cao nhất, quan phản ánh ảnh để hình thành ý thức. Sự tác
động của thế giới khách quan vào não người tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý
thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất
ngôn ngữ cùng nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành, tồn tại phát triển
của ý thức.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Ý thức dưới bất k hình thức
nào suy cho cùng đều phản ánh hiện thực khách quan. Thế giới hiện thực vận
động, phát triển theo những quy luật khách quan của được phản ánh vào ý thức
mới nội dung của ý thức. Thế giới khách quan trước hết chủ yếu hoạt động
thực tiễn tính hội - lịch sử của loài người yếu tố quyết định nội dung ý
thức phản ánh. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn động lực quyết định tính
phong phú của nội dung ý thức.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Thực tiễn hoạt động vật chất
tính cải biến thế giới của con người, sở để hình thành phát triển ý thức. Trong
đó ý thức của con người vừa phản ánh vừa sáng tạo, phản ánh đ sáng tạo sáng
tạo trong phản ánh. Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức Mọi sự
tồn tại phát triển của ý thức đều gắn liền với q trình hình thành, phát triển của
giới tự nhiên, của vật chất. Vật chất thay đổi t ý thức cũng phải thay đổi theo.
Con người - một sinh vật tính hội ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh
thần thì nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả
7
về nội dung hình thức phản ánh của nó. Đời sống hội ngày càng văn minh
khoa học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó. Trong đời sống hội, sự
phát triển của kinh tế sẽ đến cùng quy định s phát triển của văn hóa, đời sống vật
chất thay đổi thì đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
Thứ hai, ý thức độc lập tương đối tác động trở lại vật chất.
- Ý thức tính độc lập tương đối: Ý thức sự phản ánh thế giới vật chất vào
trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời t ý thức
“đời sống” riêng, quy luật vận động phát triển riêng, không lệ thuộc một cách
máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì tính độc lập tương đối tác động
trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh hơn, chậm hơn hay song hành
so với hiện thực nhưng nhìn chung thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế
giới vật chất.
- Ý thức tác động với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người Nhờ hoạt động thực tiễn ý thức thể làm biến đổi những điều kiện hoàn
cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của
con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể nào biến đổi được hiện thực con
người. Dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật
khách quan, từ đó con người đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí
quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ
cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân - lực lượng vật chất,
hội thì vai t rất to lớn.
- Ý thức chỉ đạo hoạt động, hành động của con người quyết định ảnh làm
cho hoạt động con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức mối quan
hệ ng chiều với sự phát triển, khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức thể dự báo,
tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, thể hình thành nên những luận,
định hướng đúng đắn những luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần
động viên, cổ vũ, khai thác tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân
8
lên gấp bội. Ngược lại ý thức thể tác động tiêu cực khi phản ánh sai, xuyên
tạc hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học...
- hội ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn Nhất
trong thời đại ngày nay - thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại, khi tri thức khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa vai trò của tri thức khoa học, của
tưởng chính trị, tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Như vậy, Sự tác động của ý thức trở lại vật chất cũng chỉ với mức độ nhất
định, nó không th sinh ra hay phá vỡ các quy luật vận động của vật chất. Ý thức
không thể vượt quá những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa trên những điều
kiện khách quan, năng lực chủ quan của chủ thể để hoạt động. Nếu bỏ qua điều này
thì con người sẽ i vào chủ nghĩa ch quan, duy tâm và không tránh khỏi thất bại
trong hoạt động thực tiễn.
*
Nội dung ý nghĩa của nguyên tắc khách quan
Vật chất nguồn gốc khách quan sản sinh ra ý thức, ý thức chỉ là sản phẩm,
phản ánh thế giới khách quan, vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng hành động theo
quy luật khách quan, biết tạo điều kiện phương tiện vật chất, tổ chức lực lượng
thực hiện biến khả năng thành hiện thực, cụ thể:
Trong hoạt động nhận thc
Chống thái đ duy ý chí, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan, không đếm
xỉa đến điều kiện vật chất khách quan, tùy tiện, phiến diện; lấy ý muốn nguyện
vọng cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương. chính sách, hậu quả đường lối
không hiện thực và hoang tưởng tất yếu sẽ đi đến thất bại trong hoạt động thực
tiễn.
Cần khái quát, tổng kết hoạt động thực tiễn để thường xuyên nâng cao năng
lực nhận thức, năng lực chỉ đạo thực tiễn, chống tưởng thụ động, ngồi chờ, lại
vào hoàn cảnh điều kiện vật chất.
9
Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người đ cải tạo
thế giới khách quan tạo ra động lực hoạt động cho con người bằng cách quan
tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết thực của quần chúng, phát huy dân chủ rộng
i.
Trong hoạt động thực tiễn
Phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã đang có làm sở cho
mọi hoạt động của mình. Không được lấy ý kiến chủ quan làm quan điểm xuất phát.
Khi đề ra mục tiêu, nhiệm vụ các biện pháp thực hiện người lãnh đạo phải
nắm chắc tình hình thực tế khách quan, như vậy thì mới nêu ra mục đích chủ
trương sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt động thực tiễn.
Phát phát huy vai trò năng động sáng tạo của nhân t chủ quan.
2.2. Nguyên tắc toàn din
*
sở luận: sở luận của nguyên tắc toàn diện thực chất nguyên
về mối liên hệ phổ biến
Nguyên về mối liên hệ phổ biến phản ánh khái quát một tính chất chung
bản của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất. Sự phản ánh khái quát này
được thể hiện dưới hình thức hệ thống các khái niệm luận giải về tính chất của
các khái niệm đó.
Nội dung bản của nguyên về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng
duy vật thể hiện các luận điểm bản sau:
+ Mọi s vật hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các bộ phận, yếu tố
trong cùng một sự vật hiện tượng luôn tồn tại trong sự quy định, tác động qua lại,
chuyển hoá lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật hiện tượng chỉ bộc lộ thông
qua sự c động qua lại lẫn nhau của chúng.
+ Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng khách quan, vốn bắt nguồn
từ tính thống nhất vật chất của thế giới, biểu hiện trong tất cả các quá trình t nhiên,
hội, duy. Sự vật hiện tượng nào cũng thể thống nhất của các mặt đối
10
lập sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại trong mối liên h với các sự vật hiện
tượng khác.
+ Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng không chỉ mang tính khách quan
còn mang tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện: Bất cứ sự vật hiện
tượng nào trong tự nhiên, hội, duy đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật
hiện tượng khác. Không sự vật hiện tượng nào nằm ngoài những mối liên hệ.
Các mối liên hệ biểu hiện dưới c hình thức riêng biệt, đa dạng, phong p tuỳ
theo điều kiện nhất định. Song dưới hình thức nào t chúng cũng chỉ biểu
hiện của mối liên hệ phổ biến.
+ Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới đa dạng nhiều vẻ.
thể phân chia các mối liên hệ đa dạng đó thành từng loại tuỳ theo tính chất phức
tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình đ nông hay sâu, vai trò trực tiếp hay
gián tiếp…mà thể khái quát thành những mối liên hệ khác nhau.
Các mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng trong thế giới được khái quát
trong các cặp phạm trù bản của phép biện chứng.
+ Mối liên hệ giữa cái chung cái riêng
+ Mối liên hệ giữa tất nhiên ngẫu nhiên
+ Mối liên hệ giữa nguyên nhân kết qu
+ Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng
+ Mối liên hệ giữa nội dung hình thc
+ Mối liên hệ giữa khả năng hiện thực…
Mối liên hệ các tính chất sau:
Tính khách quan: nghĩa các mối liên hệ của các sự vật hiện tượng cái
vốn của thế giới vật chất, do tính vật chất của thế giới quy định, không phụ
thuộc vào ý thức của con người, không phải do lực lượng thần thánh nào đó sáng
tạo ra. Khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ nội dung bản của phép
biện chứng duy vật để phân biệt với phép biện chứng duy tâm. Trong phép biện
chứng duy tâm, các sự vật, mối liên hệ giữa các sự vật trong hiện thực khách
11
quan được xem do tinh thần sáng tạo ra; còn với phép biện chứng duy vật, những
mối liên hệ khách quan của các sự vật đều do con người nhận thức được bằng
duy của mình
Tính phổ biến: Tính phổ biến của mối liên hệ 2 nghĩa
Một là, mọi sự vật, hiện tượng quá trình hoặc mọi yếu tố cấu thành nên sự vật
đều nằm trong mối liên hệ với c sự vật hiện tượng các yếu khác, không s
vật hiện tượng nào, yếu tố nào tồn tại trong sự biệt lập hoàn toàn.
Hai là, những mối liên hệ chung tồn tại trong thế giới vật chất, tác động lên
mọi sự vật, mọi quá trình biến đổi của các sự vật.
Tính đa dạng: thể hiện chỗ sự vật khác nhau các mối liên hệ khác nhau.
Mặt khác, nh đa dạng của mối liên hệ còn thể hiện chỗ: một sự vật đồng thời tồn
tại nhiều mối liên hệ, mỗi mối liên hệ của sự vật vai t khác nhau đối với sự tồn
tại của sự vật
Các tính chất khách quan, phổ biến đa dạng trên đây nói lên sự khác biệt
căn bản của phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm phép siêu
nh.
*
Nội dung ý nghĩa của nguyên tắc toàn diện
Bất cứ sự vật hiện tượng nào thế giới cũng đều tồn tại trong những mối liên hệ
với các sự vật hiện tượng khác các mối liên hệ đó cùng đa dạng phong
phú. thế trong nhận thức thực tiễn phải quán triệt nguyên tắc toàn diện.
Nguyên tắc toàn diện đặt ra các yêu cầu:
Khi phân tích sự vật phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, các bộ phận của
chính sự vật trong mối liên hệ của chúng và sự tác động giữa sự vật đó với các s
vật khác, k cả những mối liên hệ trực tiếp gián tiếp của chúng để từ đó đi đến
tri thức chỉnh thể về sự vật. Cần tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện
tượng một, hoặc một vài mối liên hệ đã vội vàng đi đến những kết luận về bản
chất sự vật. Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần nhìn bao quát và
12
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ quan hệ gián tiếp của sự vật
đó.
Đồng thời, nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét thấu đáo
phân biệt từng mối liên hệ, tránh cách xem xét dàn trải liệt kê, dẫn đến sự đánh
đồng ngang nhau những thuộc tính, những tính quy định khác nhau của sự vật được
thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó, cần phải đi từ tri thức nhiều mặt, từ
nhiều mối liên hệ của sự vật để khái quát và m nổi bật lên cái bản nhất, quan
trọng nhất của sự vật, hiện tượng đó.
Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi tránh rơi vào sai lầm của chủ nghĩa chiết
trung và thuật nguỵ biện. Thực chất của chủ nghĩa chiết trung sự kết hợp
nguyên tắc các mối liên hệ, tạo nên một hình ảnh không đúng về sự vật. Thực chất
của thuật nguỵ biện s “đánh tráo” dụng ý, biến cái không bản thành cái
bản, không bản chất thành bản chất… hoặc ngược lại, phản ánh sai lệch, xuyên tạc
sự vật, hiện tượng.
13

Preview text:

Câu 1: Thế nào là thế giới quan? Nêu các hình thức thế giới quan trong lịch sử, cho ví dụ minh họa.
1. Nguồn gốc của thế giới quan
Thế giới quan thức những quan niệm của con người về thế giới không phải là
cái tồn tại sẵn có trong con người, cũng không phải là cái có sẵn trong tự nhiên.
Trong quá trình nghiên cứu quá trình phát triển của một người nói riêng và của lịch
sử nhận thức của loài người nói chung, cho thấy quan niệm về thế giới của cá nhân
con người, cũng như của cộng đồng xã hội, không phải là cái có sẵn và bất biến, mà
nó được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn và hoạt động nhân thức của
con người phản ánh hiện thực khách quan.
Các thời đại lịch sử khách nhau, do trình độ phát triển sản xuất và trình độ
nhận thức của con người khác nhau, nên thế giới quan của mỗi thời đại cũng khác
nhau. Do đó có thể thấy răng, thế giới quan là hiện tượng xã hội phức tạp, có nguồn
gốc từ thực tiễn xã hội. Thế giới quan là sản phẩm của lịch sử, là kết quả của quá
trình hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người trong quá trình phát triển xã hội.
2. Khái niệm thế giới quan
Thế giới quan là hệ thống những quan niệm, quan điểm của con người về thế
giới, về vị trí của con người trong thế giới đo, về chính bản thân và cuộc sống của
con người nhắm giải đáp những vẫn đề về mục đích, ý nghĩa cuộc sống của con người.
Mỗi người sẽ có một cái nhìn về thế giới riêng biệt, phụ thuộc vào cách mà họ
quan sát và đánh giá các sự vật hoặc sự việc. Chúng ta không thể ép buộc người
khác chấp nhận quan điểm của mình và yêu cầu họ phải có quan điểm tương tự mình.
3. Kết cấu của thế giới quan 1
Thế giới quan có cấu trúc phức tạp, bao gồm tri thức, niềm tin, tình cảm, ý chí và lý tưởng.
- Tri thức là kết quả của nhận thức, tức là kết quả của sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong đầu óc của con người. Tri thức bao gồm nhiều loại khác nhau
: có tri thức về tự nhiên, có tri thức về xã hội và có tri thức về tư duy. Lại có tri
thức đúng, có tri thức sai.
- Tình cảm là tình yêu và sự cảm hoá của con người trước một hành động, một
sự vật nào đó. Có nhiều loại tình cảm khác nhau như tình cảm trong sáng, tình cảm
không trong sáng; tình cảm chân thành, tình cảm không chân thành.
- Niềm tin là sự tin tưởng vào một quan niệm nào đó. Bao gồm các loại niềm
tin khoa học, niềm tin không khoa học; niềm tin bền vững hoặc niềm tin không bền vững…
- Ý chí là năng lực trí tuệ của con người quyết tâm đạt được một ý định nào đó
đã đề ra. Nó được hình thành trên cơ sở niềm tin để tạo thành lý tưởng sống của con người.
- Lý tưởng là lý luận mà con người tưởng tượng ra thành mục đích để hướng
tới trong cuộc sống. Lý tưởng được hình thành nếu không xuất phát từ “mảnh đất”
hiện thực, từ đời sống xã hội của con người thì lý tưởng đó sẽ là phi hiện thực và ảo
tưởng. Ví dụ: “Cõi niết bàn” hay “chủ nghĩa xã hội không tưởng”. Còn lý tưởng
được hình thành nếu xuất phát từ “mảnh đất” hiện thực từ quy luật phát triển của
cuộc sống thì lý tưởng đó sẽ trở thành hiện thực. Ví dụ: “Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa”.
Giữa tri thức, niềm tin, tình cảm, ý chí và lý tưởng có một mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau. Trong mối quan hệ đó thì tri thức là bộ
phận quan trọng nhất đóng vai trò quyết định đối với việc hình thành niềm tin, tình
cảm, ý chí và lý tưởng. Bởi vì nếu có tri thức đúng đắn, khoa học thì sẽ hình thành
niềm tin vững chắc, tình cảm trong sáng, ý chí mãnh liệt và lý tưởng cao cả. Ngược 2
lại nếu tri thức mà không đúng đắn sẽ hình thành niềm tin không bền vững, tình
cảm không trong sáng, ý chí yếu ớt và lý tưởng thấp hè
4. Các loại thế giới quan
- Theo phân kì lịch sử: Huyền thoại, tôn giáo, Triết học
- Theo lộ trình nhận thức: tiền khoa học, phi khoa học, khoa học
- Theo phạm vi: cá nhân, giai cấp, dân tộc
Thế giới quan có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau, dựa theo Mác
- Lênin được phân loại thành các thế giới quan sau:
Thế giới quan huyền thoại
Thế giới quan huyền thoại là hình thức thế giới quan đặc trưng của người
nguyên thủy, trong giai đoạn sơ khai của lịch sử. Thế giới quan huyền thoại thể
hiện qua các huyền thoại mà con người xây dựng nên phản ánh hiện thực khác
quan. Thế giới quan huyền thoại phản ánh những kết quả cảm nhận ban đầu của
người nguyên thuỷ về thế giới tự nhiên và đời sống xã hội.
VD: Thế giới quan trong huyền thoại Hy Lạp cổ đại, thế giới quan trong
huyền thoại La Mã cổ đại,….
Đặc điểm của thế giới quan huyền thoại là các yếu tố hiện thực và tưởng
tưởng, cái có thật và cái hoang đường, lý trí và tín ngưỡng, tư duy và cảm xúc chưa
phân biệt mà hòa quyện vào nhau.
Thế giới quan tôn giáo
Thế giới quan tôn giáo là hình thức thế giới quan phản ánh hiện thực khách
quan một các hư ảo, là sự giải thích thế giới trên cơ sở thừa nhận sự sáng tạo của
một lực lượng siêu nhiên, thần bí. Thế giới quan tôn giáo ra đời trong điều kiện
trình độ nhận thức và thực tiễn của con người còn hết sức thấp kém, con người bất
lực trước lực lượng tự nhiên như sắm sét, bão lũ, động đất và đặc biệt là bất lực
trước cả những hiện tượng xã hội mà con người gặp phải như chiến tranh, bóc lột, bất công xã hội,…
VD: Thế giới quan Phật giáo, thế giới quan Kito giáo,… 3
Đặc điểm của thế giới quan tôn giáo chủ yếu là niềm tin vào sự tồn tại và sức
mạnh vô hạn của thế giới thần thánh, của lực lương siêu tự nhiên, con người bất lực
và luôn phụ thuộc vào thế giới siêu nhiên. Tuy vậy, thế giới quan tôn giáo cũng thể
hiện khát vọng được giải thoát khỏi đau khổ, được an ủi về mặt tinh thần và vươn
tới một thế giới hạnh phúc.
Thế giới quan triết học
Thế giới quan triết học là hình thức thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống
lý luận, hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Thế giới quan triết học không
chỉ đơn giản chỉ nêu lên các quan điểm của con người về thế giới mà còn cố gắng
tìm cách giải thích, chứng minh các quan niệm đó bằng những tài liệu khoa học và
những suy luận logic. Sự phát triển của thế giới quan triết học luôn gắn với sự phát
triển của nhận thức khoa học và thực tiễn xã hội.
VD: Thế giới quan duy vật, thế giới quan duy tâm,…
Thế giới quan này không chỉ nêu ra các quan niệm của mình mà còn chứng
minh các quan niệm đó bằng lý tính. Thế giới quan triết học là một hệ thống những
quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó.
Đây là một chức năng cơ bản của triết học.
Câu 2: Thế nào là phương pháp luận? Trình bày cơ sở triết học, nội dung và ý
nghĩa các phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng?
1. Khái niệm phương pháp luận

Trong thực tiễn, con người có thể áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để
giải quyết công việc đã định. Quá trình lựa chọn phương pháp có thể đúng hoặc sai.
Vậy làm thế nào để xác định được phương pháp đúng đắn, khoa học? Từ đó, xuất
hiện nhu cầu tri thức khoa học về phương pháp và đó cũng là lý do để khoa học về
phương pháp ra đời. Đó chính là phương pháp luận.
Vậy, phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là khoa học về phương
pháp. Phương pháp luận giải quyết những vấn đề như: phương pháp là gì? Bản
chất, nội dung, hình thức của phương pháp như thế nào? Do đó, có thể nói cách
4
khác, cụ thể hơn, phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên
tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như trong việc
xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý, có hiệu quả tối đa.

Chẳng hạn, phương pháp luận toán học có nhiệm cụ nêu ra những quan điểm,
nguyên tắc chung chỉ đạo quá trình xác định và áp dụng các phương pháp, cụ thể
như: phương pháp tiên đề, phương pháp giả thiết - diễn dịch v.v… Hoặc, trong kinh
tế cụ thể như: phương pháp điều tra chọn mẫu, phương pháp phân tích các hoạt
động kinh tế, phương pháp thống kê v.v… Trên cơ sở đó, rút ra những quan điểm,
nguyên tắc chung chỉ đạo việc áp dụng các phương pháp kinh tế cụ thể như: quan
điểm về hiệu quả, quan điểm về đồng bộ, quan điểm về phát triển và tiến bộ xã hội
v.v… Việc lựa chọn, áp dụng một phương pháp kinh tế cụ thể nào phải xuất phát từ
những quan điểm, nguyên tắc chung đó.
2. Cơ sở triết học, nội dung và ý nghĩa các phương pháp luận cơ bản của chủ
nghĩa duy vật biện chứng

Phương pháp luận biện chứng duy vật được coi là những nguyên tắc xuất phát
chỉ đạo các chủ thể trong việc xác định phạm vi, phương pháp, cách thức, phương
tiện tác động nhằm tạo ra những biến đổi cho phù hợp và hiệu quả. Vận dụng
phương pháp luận biện chứng duy vật trong quán triệt và xử lý mối quan hệ lớn
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ở nước ta hiện nay là góp phần định hướng phát triển đất nước theo hướng bền vững.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác đã tạo ra một bước ngoặt trong triết học, một
trong những biểu hiện nổi bật của cuộc cách mạng này là sự thống nhất chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật trở thành cơ sở của thế giới
quan và phương pháp luận khoa học, vì nó là một hệ thống lý luận phản ánh những
mối liên hệ, những quá trình biến đổi của bản thân thế giới hiện thực, căn cứ vào
những kết quả khoa học đã được đúc kết, kết hợp với sự tổng kết, khái quát thực
tiễn hoạt động của con người. Phương pháp luận của phép biện chứng là những kết 5
luận được rút ra từ việc khảo sát các mối liên hệ của các sự vật, từ quá trình phát
sinh, phát triển cụ thể của nó, “từ các mặt liên hệ, liên kết, vận động, sinh ra và mất
đi của các sự vật”. Vì vậy, cơ sở lý luận của các nguyên tắc phương pháp luận biện
chứng duy vật thực chất là những nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm 2
nguyên lý, 3 quy luật, 6 cặp phạm trù.
2.1. Nguyên tắc khách quan
* Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan thực chất là mối
liên hệ giữa vật chất và ý thức.
Mối quan hệ vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản của triết học, đặc biệt là triết
học hiện đại”. Tùy theo lập trường thế giới quan khác nhau, khi giải quyết mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành hai đường lối cơ bản trong triết học
là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Dưới đây ta cùng tìm hiểu quan điểm
của chủ nghĩa duy vật biên chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình
phản ánh tích cực sáng tạo hiện thực khách quan của óc người.
Ý thức là “hình ảnh” của sự vật trong óc người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
Như vậy, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức: Có thể nói vật chất và ý thức
như hai mặt của một vấn đề về chúng có mối quan hệ hai chiều tác động biện
chứng chặt chẽ, trong đó vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
Thứ nhất, vật chất có vai trò quyết định đối với ý thức 6
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Vật chất là cội nguồn sản sinh ra
ý thức vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người, mà con người là
kết quả của một quá trình tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới
vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra cho nên ý thức một thuộc tính
của bộ phận con người cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của
khoa học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng giới tự nhiên có trước, con
người, vật chất là cái có trước còn ý thức là cái có sau. Vật chất tồn tại khách quan
độc lập với ý thức là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc con người là một dạng vật
chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh ảnh để hình thành ý thức. Sự tác
động của thế giới khách quan vào não người tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý
thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất và
ngôn ngữ cùng nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Ý thức dù dưới bất kỳ hình thức
nào suy cho cùng đều là phản ánh hiện thực khách quan. Thế giới hiện thực vận
động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó được phản ánh vào ý thức
mới có nội dung của ý thức. Thế giới khách quan mà trước hết chủ yếu là hoạt động
thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý
thức phản ánh. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực quyết định tính
phong phú của nội dung ý thức.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Thực tiễn là hoạt động vật chất có
tính cải biến thế giới của con người, là cơ sở để hình thành phát triển ý thức. Trong
đó ý thức của con người vừa phản ánh vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng
tạo trong phản ánh. Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức Mọi sự
tồn tại phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của
giới tự nhiên, của vật chất. Vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Con người - một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn tinh
thần thì dĩ nhiên ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả 7
về nội dung và hình thức phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và
khoa học ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó. Trong đời sống xã hội, sự
phát triển của kinh tế sẽ đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa, đời sống vật
chất thay đổi thì đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
Thứ hai, ý thức độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
- Ý thức có tính độc lập tương đối: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào
trong đầu óc con người, là do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có
“đời sống” riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, không lệ thuộc một cách
máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc lập tương đối tác động
trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh hơn, chậm hơn hay song hành
so với hiện thực nhưng nhìn chung thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
- Ý thức tác động với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người Nhờ có hoạt động thực tiễn ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện hoàn
cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của
con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể nào biến đổi được hiện thực con
người. Dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật
khách quan, từ đó con người đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí
quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ
cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân - lực lượng vật chất, xã
hội thì có vai trò rất to lớn.
- Ý thức chỉ đạo hoạt động, hành động của con người Nó quyết định ảnh làm
cho hoạt động con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức có mối quan
hệ cùng chiều với sự phát triển, khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo,
tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận,
định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần
động viên, cổ vũ, khai thác tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân 8
lên gấp bội. Ngược lại ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai, là xuyên
tạc hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học. .
- Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn Nhất là
trong thời đại ngày nay - thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và vai trò của tri thức khoa học, của
tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Như vậy, Sự tác động của ý thức trở lại vật chất cũng chỉ với mức độ nhất
định, nó không thể sinh ra hay phá vỡ các quy luật vận động của vật chất. Ý thức
không thể vượt quá những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa trên những điều
kiện khách quan, năng lực chủ quan của chủ thể để hoạt động. Nếu bỏ qua điều này
thì con người sẽ rơi vào chủ nghĩa chủ quan, duy tâm và không tránh khỏi thất bại
trong hoạt động thực tiễn.
* Nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc khách quan
Vật chất là nguồn gốc khách quan sản sinh ra ý thức, ý thức chỉ là sản phẩm,
là phản ánh thế giới khách quan, vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan, biết tạo điều kiện và phương tiện vật chất, tổ chức lực lượng
thực hiện biến khả năng thành hiện thực, cụ thể:
Trong hoạt động nhận thức
Chống thái độ duy ý chí, nóng vội, bất chấp quy luật khách quan, không đếm
xỉa đến điều kiện vật chất khách quan, tùy tiện, phiến diện; lấy ý muốn nguyện
vọng cảm tính làm xuất phát điểm cho chủ trương. chính sách, hậu quả là đường lối
không hiện thực và hoang tưởng và tất yếu sẽ đi đến thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Cần khái quát, tổng kết hoạt động thực tiễn để thường xuyên nâng cao năng
lực nhận thức, năng lực chỉ đạo thực tiễn, chống tư tưởng thụ động, ngồi chờ, ỷ lại
vào hoàn cảnh và điều kiện vật chất. 9
Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người để cải tạo
thế giới khách quan và tạo ra động lực hoạt động cho con người bằng cách quan
tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết thực của quần chúng, phát huy dân chủ rộng rãi.
Trong hoạt động thực tiễn
Phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan đã và đang có làm cơ sở cho
mọi hoạt động của mình. Không được lấy ý kiến chủ quan làm quan điểm xuất phát.
Khi đề ra mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện người lãnh đạo phải
nắm chắc tình hình thực tế khách quan, có như vậy thì mới nêu ra mục đích chủ
trương và sẽ đi đến thắng lợi trong hoạt động thực tiễn.
Phát phát huy vai trò năng động sáng tạo của nhân tố chủ quan.
2.2. Nguyên tắc toàn diện
* Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện thực chất là nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến phản ánh khái quát một tính chất chung và
cơ bản của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất. Sự phản ánh khái quát này
được thể hiện dưới hình thức hệ thống các khái niệm và luận giải về tính chất của các khái niệm đó.
Nội dung cơ bản của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng
duy vật thể hiện ở các luận điểm cơ bản sau:
+ Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các bộ phận, yếu tố
trong cùng một sự vật hiện tượng luôn tồn tại trong sự quy định, tác động qua lại,
chuyển hoá lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật hiện tượng chỉ bộc lộ thông
qua sự tác động qua lại lẫn nhau của chúng.
+ Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là khách quan, vốn có vì nó bắt nguồn
từ tính thống nhất vật chất của thế giới, biểu hiện trong tất cả các quá trình tự nhiên,
xã hội, tư duy. Sự vật hiện tượng nào cũng là thể thống nhất của các mặt đối 10
lập và sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác.
+ Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng không chỉ mang tính khách quan mà
còn mang tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ thể hiện: Bất cứ sự vật hiện
tượng nào trong tự nhiên, xã hội, tư duy đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật
hiện tượng khác. Không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài những mối liên hệ.
Các mối liên hệ biểu hiện dưới các hình thức riêng biệt, đa dạng, phong phú tuỳ
theo điều kiện nhất định. Song dù dưới hình thức nào thì chúng cũng chỉ là biểu
hiện của mối liên hệ phổ biến.
+ Mối liên hệ của các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng và nhiều vẻ.
Có thể phân chia các mối liên hệ đa dạng đó thành từng loại tuỳ theo tính chất phức
tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay sâu, vai trò trực tiếp hay
gián tiếp…mà có thể khái quát thành những mối liên hệ khác nhau.
Các mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng trong thế giới được khái quát
trong các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng.
+ Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng
+ Mối liên hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả
+ Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng
+ Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức
+ Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực…
Mối liên hệ có các tính chất sau:
Tính khách quan: nghĩa là các mối liên hệ của các sự vật hiện tượng là cái
vốn có của thế giới vật chất, do tính vật chất của thế giới quy định, không phụ
thuộc vào ý thức của con người, không phải do lực lượng thần thánh nào đó sáng
tạo ra. Khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ là nội dung cơ bản của phép
biện chứng duy vật để phân biệt với phép biện chứng duy tâm. Trong phép biện
chứng duy tâm, các sự vật, và mối liên hệ giữa các sự vật trong hiện thực khách 11
quan được xem là do tinh thần sáng tạo ra; còn với phép biện chứng duy vật, những
mối liên hệ khách quan của các sự vật đều do con người nhận thức được bằng tư duy của mình
Tính phổ biến: Tính phổ biến của mối liên hệ có 2 nghĩa
Một là, mọi sự vật, hiện tượng quá trình hoặc mọi yếu tố cấu thành nên sự vật
đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng các yếu tô khác, không có sự
vật hiện tượng nào, yếu tố nào tồn tại trong sự biệt lập hoàn toàn.
Hai là, có những mối liên hệ chung tồn tại trong thế giới vật chất, tác động lên
mọi sự vật, mọi quá trình biến đổi của các sự vật.
Tính đa dạng: thể hiện ở chỗ sự vật khác nhau có các mối liên hệ khác nhau.
Mặt khác, tính đa dạng của mối liên hệ còn thể hiện ở chỗ: một sự vật đồng thời tồn
tại nhiều mối liên hệ, mỗi mối liên hệ của sự vật có vai trò khác nhau đối với sự tồn tại của sự vật
Các tính chất khách quan, phổ biến và đa dạng trên đây nói lên sự khác biệt
căn bản của phép biện chứng duy vật với phép biện chứng duy tâm và phép siêu hình.
* Nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc toàn diện
Bất cứ sự vật hiện tượng nào thế giới cũng đều tồn tại trong những mối liên hệ
với các sự vật hiện tượng khác và các mối liên hệ đó là vô cùng đa dạng và phong
phú. Vì thế trong nhận thức và thực tiễn phải quán triệt nguyên tắc toàn diện.
Nguyên tắc toàn diện đặt ra các yêu cầu:
Khi phân tích sự vật phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, các bộ phận của
chính sự vật trong mối liên hệ của chúng và sự tác động giữa sự vật đó với các sự
vật khác, kể cả những mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của chúng để từ đó đi đến
tri thức chỉnh thể về sự vật. Cần tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện
tượng ở một, hoặc một vài mối liên hệ đã vội vàng đi đến những kết luận về bản
chất sự vật. Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần nhìn bao quát và 12
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”.
Đồng thời, nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét thấu đáo và
phân biệt từng mối liên hệ, tránh cách xem xét dàn trải liệt kê, dẫn đến sự đánh
đồng ngang nhau những thuộc tính, những tính quy định khác nhau của sự vật được
thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó, cần phải đi từ tri thức nhiều mặt, từ
nhiều mối liên hệ của sự vật để khái quát và làm nổi bật lên cái cơ bản nhất, quan
trọng nhất của sự vật, hiện tượng đó.
Quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi tránh rơi vào sai lầm của chủ nghĩa chiết
trung và thuật nguỵ biện. Thực chất của chủ nghĩa chiết trung là sự kết hợp vô
nguyên tắc các mối liên hệ, tạo nên một hình ảnh không đúng về sự vật. Thực chất
của thuật nguỵ biện là sự “đánh tráo” có dụng ý, biến cái không cơ bản thành cái cơ
bản, không bản chất thành bản chất… hoặc ngược lại, phản ánh sai lệch, xuyên tạc sự vật, hiện tượng. 13
Document Outline

  • 4.Các loại thế giới quan
  • •Thế giới quan huyền thoại
  • •Thế giới quan tôn giáo
  • •Thế giới quan triết học
  • 1.Khái niệm phương pháp luận
  • 2.1.Nguyên tắc khách quan
  • 2.2.Nguyên tắc toàn diện