Thế nào là Văn hóa giao tiếp & Văn hóa nghệ thuật? - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Văn Lang

Thế nào là Văn hóa giao tiếp & Văn hóa nghệ thuật? - Cơ sở văn hóa Việt Nam | Đại học Văn Lang  giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học

Bài 3: VĂN HÓA GIAO TIẾP VÀ NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ
3.1. Các đặc trưng giao tiếp cơ bản của người Việt Nam
3.1.1. Với THÁI ĐỘ GIAO TIẾP, người Việt Nam vừa thích giao
tiếp, lại vừa rất rụt rè.
Đầu tiên, ta có thể thấy một điều khá rõ ràng là người Việt Nam với văn
hóa nông thôn sống phụ thuộc lẫn nhau, nên họ rất coi trọng các mối quan
hệ xung quanh thường cực kỳ chú ý trong giao tiếp để giữ gìn các mối
quan hệ đó. vậy, người Việt rất thích giao tiếp nhưng cũng rất rụttrong
giao tiếp.
Việc thích giao tiếp của người Việt được thể hiện qua hai điểm sau:
Thứ nhất, người VN tính thích thăm viếng, đã quá thân thuộc
gặp nhau mỗi ngày, họ vẫn sang nhà thăm nhau những khi rảnh rỗi. Lúc này,
viếng thăm là biểu hiện nghĩa tình nhằm thắt chặt mối quan hệ đôi bên.
Thứ hai, người Việt tính hiếu khách. khách người lạ hay người
quen, họ vẫn tiếp đón nồng nhiệt, phục vụ tận tình. khách đến nhà không
trà cũng bánh khách đến nhà không thì gỏihay (1 nam khách, 1 nữ -
chủ nhà diễn cảnh khách đến nhà, mời ngồi ghế, lấy bánh rót trà mời khách).
Đặc biệt là khi ta về các vùng quê hay miền núi cao xa xôi.
Bên cạnh việc ưa giao tiếp, tính rụtcủa người Việt được biểu hiện
nét đến nỗi người nước ngoài rất dễ nhận ra nhắc đến. Hai nét tính cách
tưởng chừng trái ngược mà lại song hành cùng nhau này xuất phát từ hai đặc
tính của văn hóa làng xã Việt Nam tính cộng đồngtính tự trị. Tính cộng
đồng phát huy khi người Việt trong một môi trường quen thuộc, ngược
lại, tính tự trị bộc lộ ra khi họ tiếp xúc với một cộng đồng mới lạ, khác biệt.
Đó là sự linh hoạt trong cách ứng xử của người Việt Nam.
3.1.2. Với QUAN HỆ GIAO TIẾP, văn hóa nông nghiệp cùng đặc
điểm trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm làm
nguyên tắc ứng xử.
Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau, ghét cả tông ti họ hàng; (1 nam
1 nữ diễn thẹn thùng yêu đương, sau đó ghét nhau sỉ vả vào mặt nhau)
Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo;
Về bản, người Việt lấy sự hài hòa âm dương làm trọng nhưng thực
chất thiên về âm hơn, vậy trong cuộc sống, người Việt Nam sống
tình nhưng vẫn thiên về tình hơn.
Người Việt xem trọng tình cảm hơn tất thảy mọi thứ. Ai giúp mình một
chút đều phải nhớ ơn, ai bảo ban chỉ dạy một chút cũng tôn làm thầy - thế
nên ta rất nhiều thầy như thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy cúng, thầy
bói, thầy địa lí,…
3.1.3. Với ĐỐI TƯỢNG GIAO TIẾP, người Việt Nam thói quen
ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá.
(2 nam 2 nữ - 1 cặp bố mẹ, 1 cặp con gái & rể tương lai diễn cảnh ra
mắt gia đình. Cặp bố mẹ liên tục hỏi dồn về tuổi tác, quê quán, trình độ học
vấn, địa vị xã hội, bố mẹ còn hay mất, anh chị em trong gia đình,...
Thoại mẫu:
Con trai, nghe bác hỏi nè,m nay con nhiêu tuổi, quê con đâu, giờ
con đang làm gì, ba má khỏe hông con, nhà con mấy anh em, có gia đình hết
chưa?)
Do tính cộng đồng bắt nguồn từ văn hóa làng xã, người Việt Nam tự
thấy mình nên quan tâm đến người khác, muốn quan tâm thì cần biết
hoàn cảnh. Bên cạnh đó, do lối giao tiếp với nhiều cặp đại từ xưng khác
nhau, nên người Việt cần nắm thông tin để biết sử dụng cặp đại từ đồng
thời lựa chọn đối tượng giao tiếp của mình.
Khi không được lựa chọn thì người Việt dùng chiến lược thích ứng linh
hoạt:
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.
3.1.4. Với góc độ CHỦ THỂ GIAO TIẾP, người Việt Nam đặc
điểm trọng danh dự:
Ở đời muốn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi;
Tốt danh hơn lành áo;
Trâu chết để da, người ta chết để tiếng.
Một quan tiền công, không bằng một đồng tiền thưởng.
Ta dễ thấy người Việt gắn liền danh dự với năng lực giao tiếp: Lời hay ý
đẹp tạo tiếng tăm lẫy lừng, được người đời kính trọng, lời dở sẽ một đồn
mười, mười đồn trăm, tạo nên tai tiếng xấu. Cũng quá coi trọng danh dự
nên người Việt Nam dễ mắc bệnh diện sợ luận, nhất các vùng
quê, họ xem dư luận như thứ vũ khí lợi hại để duy trì sự ổn định của làng xã.
3.1.5. Với CÁCH THỨC GIAO TIẾP, người Việt Nam ưa sự tế nhị,
ý tứ và trọng sự hòa thuận.
Người Việt Nam lối giao tiếp “vòng vo tam quốc”, ít khi nào vào
thẳng vấn đề như người phương Tây tính tế nhị, ý tứ, sợ mích lòng. Họ
thường vấn cầu điền, thưa gửi, hỏi thăm đủ chuyện trên trời dưới đất
nhằm tạo không khí thoải mái trước khi vào đề.
Diễn 1 nam 1 nữ đối thoại, người dẫn truyện:
NDT: Để biết người đối thoại còn cha mẹ hay không, người ta hay hỏi:
Ông bà ở nhà vẫn mạnh giỏi hen anh?
Để biết người phụ nữ đối diện có chồng chưa, người ý tứ sẽ hỏi:
Chị về muộn z có cần cơm nước chồng con gì hong chị?
Để tỏ tình, người con trai dễ vòng vo:
Chiếc thuyền giăng câu, đậu ngang cồn cắt, đậu sát mé nhà, anh
biết em có một mẹ già, muốn vô phụng dưỡng, biết là đặng không?
(2 nam hỏi - trả lời, cùng NDT)
Tính vòng vo cùng nhu cầu tìm hiểu về đối phương dần tạo thành thói
quen chào hỏi – tức “chào” đi liền với “hỏi”:
Con chào bác, bác đi đâu z bác?
Người ta hỏi như một thói quen, chứ thực ra chẳng cần nghe trả lời,
hoặc họ hoàn toàn hài lòng với những câu “trả lời” kiểu:
Ờ (gật đầu, cười), bác đi qua đây chút!
hay trả lời bằng cách hỏi lại:
Ủa (gật đầu, cười), con đi đâu đây?
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ thành quả từ lối sống trọng tìnhlối
duy trongc mối quan hệ. tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc càng
khi nói năng:
Ăn có nhai, nói có nghĩ.
Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói;
Biết thì thưa thốt, không biết thì dưa cột mà nghe;
Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo...
Tuy vậy, lối giao tiếp này cũng có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán.
Trong trường hợp khó quyết đoán, người Việt rất hay cười. Nụ cười người Việt
có thể xuất hiện vào những lúc ta ít trông đợi nhất.
Bên cạnh đó, tâm ưa hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ
trương nhường nhịn, vì một sự nhịn là chín sự lành.
3.1.6. Người Việt hệ thống NGHI THỨC LỜI NÓI rất phong
phú.
Trước hết hệ thống xưng phong phú đa dạng bật nhất thế giới từ
các đại từ xưng hô trong quan hệ họ hàng như cô chú, dì dượng, cậu mợ, con
cháu đến các đại từ dùng trong giao tiếp hội như tôi anh, cậu tớ, mình
bạn, mày tao. Đôi khi người Việt còn gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên
chồng, bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…). Hệ thống xưng hô này có các đặc
điểm:
Một tính thân mật hóa (trọng tình cảm), xem mọi người trong cộng
đồng như người than thích trong gia đình họ hàng.
Hai là tính cộng đồng hóa. Trong hệ thống này, các đại từ đều được xác
định bằng tuổi tác, địa vị hội, thời gian, không gian giao tiếp cụ thể: chú
khi ni, mi khi khác.
Ba là tính tôn ti lưỡng: người Việt xưng theo nguyên tắc xưng
khiêm tôn (gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối phương thì tôn kính).
Cùng một cặp giao tiếp, nhưng khi cả hai đều cùng xưng em gọi
nhau chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: ngày
xưa người ta chỉ gọi tên riêng khi chửi nhau; hay việc đặt tên con không được
trùng với tên người trong họ, hoặc khi thăm nhà nhau phải hỏi tên người
trong gia đình để tránh nhắc tới trong giao tiếp.
Nghi thức lịch sự trong giao tiếp cũng rất phong phú, ngườiViệt không
một từ cảm ơn, xin lỗi chung chung cho mọi trường hợp như phương Tây.
Với mỗi trường hợp lại là một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau:
(2 nữ)
Dạ con xinnn (cúi đầu) (cảm ơn khi nhận quà),
Sao mà chị chu đáo quá à (cảm ơn khi được quan tâm),
(2 nam)
(bắt tay) Thôi mà, anh cứ bày vẽ (cảm ơn khi được tiếp đón),
Ui chà, quý hóa dữ hen (cảm ơn khi khách đến thăm),
(vỗ vai) Anh cứ quá khen (cảm ơn khi được khen),
May mà mày tao mới được như bây giờ (cười tươi, bắt hai tay) (cảm
ơn khi được giúp đỡ)...
Trong khi người phương Tây thích phân biệt các lời chào theo thời gian
như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng trưa chiều tối... Thì người
Việt ưa phân biệt các lời chào theo quan hệ xã hội và sắc thái tình cảm.
3.2. Các đặc trưng bản của nghệ thuật ngôn từ Việt
Nam
Công cụ để giao tiếp ngôn ngữ. Nhìn vào tiếng Việt, ta thấy linh
hồn, tính cách con người những đặc trưng bản nhất của nền văn hóa
Việt Nam.
3.2.1. Trước hết, nghệ thuật ngôn từ Việt Nam TÍNH BIỂU
TRƯNG
cao.
được thể hiện xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa với những cấu
trúc cân đối, hài hòa, lối diễn đạt bằng các con số biểu trưng. Trong khi người
phương Tây dùng từ “tất cả” thì người Việt dùng các từ ước lệ như ba bề bốn
bên, tam khoanh tứ đốm, trăm khôn ngàn khéo, tiền trăm bạc vạn,…
Lối tư duy tổng hợp, lối sống ưa ổn định và dĩ hòa vi quý taọ nên sự cân
đối hài hòa trong ngôn từ. Tính cân xứng một đặc tính rất điển hình của
tiếng Việt.
Theo loại hình, tiếng Việt ngôn ngữ đơn tiết, song chứa một khối
lượng không nhỏ các từ song tiết; mỗi từ đơn hầu như đều có những biện thể
song tiết, cho nên thực tế cấu trúc song tiết lại là chủ đạo trong tiếng Việt.
Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều cấu trúc 2 vế đối ứng (trèo
cao / ngã đau; ăn vóc / học hay; một quả dâu da / bằng ba chén thuốc; biết
thì thưa thốt / không biết thì dựa cột mà nghe...).
Tiếng Việt rất phát triển câu đối - một loại sản phẩm văn chương đặc
biệt, vừa công phu tỉ mỉ, lại vừa cô đúc ngắn gọn, thể hiện đủ cả cái đẹp cân
đối nhịp nhàng của hình thức cái uyên thâm của chiều sâu triết phương
Đông.
Không như văn chương phương Tây thiên về văn xuôi, văn chương Việt
Nam yêu chuộng thơ ca: người Việt hầu như ai cũng biết làm thơ; lịch sử mấy
nghìn năm của Việt Nam chủ yếu lịch sử thơ ca cấu trúc chặt chẽ (lục
bát, song thất lục bát) vần điệu nghiêm ngặt thể hiện sự cân đối, hài
hòa.
Ở Việt Nam, văn xuôi truyền thống cũng văn xuôi thơ nhờ thế mạnh
giàu thanh điệu, tạo nên tính nhạc cho lời văn. Từ những bài viết theo lối
biền ngẫu như Hịch tướng của Trần Quốc Tuấn, hoặc tự do như Thư dụ
hàng của Nguyễn Trãi gửi địch, văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
tới những lời văn Nôm bình dân..., thậm chí trong cả việc chửi nhau như bài
chửi của người đàn bà mất gà mà có lẽ mọi người đều đã nghe qua - khắp nơi
đều gặp một lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ tiết tấu, vần
điệu. Đó một “nghệ thuật” độc đáo lẽ không một dân tộc nào trên
thế giới có được.
3.2.2. Tiếng Việt GIÀU CHẤT BIỂU CẢM - sản phẩm tất yếu của
một nền văn hóa trọng tình.
Từ ngữ tiếng Việt, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung hòa,
thường rất nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Với màu
xanh, ta có xanh rì, xanh rờn, xanh um, xanh lè... Bên cạnh màu đỏ, ta có đỏ
rực, đỏ au, đỏ lòm, đỏ chét, đỏ hoe... Ta đã biết Tiếng Việt thiên về thơ,
mang đậm chất tình cảm, thế nên các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh
cũng rất phổ biến. Ta khó mà bắt gặp điều đó ở những ngôn ngữ khác.
Về ngữ pháp, ta có rất nhiều hư từ biểu cảm: à, ư, nhỉ, nhé, chăng, chớ,
hả, hở, phỏng, sao, chứ... Cấu trúc "iếc hóa" nghĩa đánh giá (sánh siếc,
bàn biếc…) góp phần làm tăng cường hệ thống phương tiện biểu cảm cho
tiếng Việt.
Sự phổ biến của thơ ca không chỉ sản phẩm của tính biểu trưng
còn đồng thời sản phẩm của tính biểu cảm. Khuynh hướng biểu cảm còn
thể hiện việc văn chương truyền thống ít tác phẩm nào đề cao chiến
tranh mà chỉ nói về nỗi buồn của nó như là Chinh phụ ngâm.
3.2.3. Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam đặc điểm thứ ba tính
ĐỘNG, LINH HOẠT
Trong khi ngữ pháp phương Tây thường chặt chẽ, thiên về hình thức tới
mức máy móc thì ngữ pháp tiếng Việt thiên về ngữ nghĩa với các từ biểu
hiện ý nghĩa quan hệ ngữ pháp, cho phép sử dụng linh hoạt tối đa, tùy
theo ý đồ của người nói. Chính vậy, tiếng Việt khả năng khái quát rất
cao, có thể nói một câu hồ không thời, không thể, không ngôi, đó điều
kiện rất quan trọng cho việc phát triển thơ ca.
Tính động, linh hoạt của ngôn từ còn bộc lộ chỗ người Việt rất thích
dùng cấu trúc động từ còn ngôn ngữ phương Tây xu hướng thích dùng
danh từ. Trong khi người Việt nói thì người Anh nóiCảm ơn anh đã tới chơi
Cảm ơn vì sự đến chơi của anh. Bên cạnh đó, tiếng Việt ưa dùng cấu trúc chủ
động, đôi khi chủ động ngay cả trong câu bi động. Ví dụ người Việt nói Cô ấy
bị thầy giáo phạt Cô ấy bị phạt bởi thầy giáo. thì người Anh nói
Như vậy, trong giao tiếp, người Việt thiên hướng nói đến những nội
dung tĩnh (tâm lí, tình cảm) bằng hình thức động (cấu trúc động từ, ngữ pháp
ngữ nghĩa linh hoạt), từ đó tạo nên thơ ca phương pháp biểu trưng. Trong
khi đó thì người phương Tây nói riêng truyền thống văn hóa trọng dương
nói chung lại thiên hướng nói đến những nội dung động (hành động, sự
việc) bằng hình thức tĩnh (cấu trúc danh từ, ngữ pháp hình thức chặt chẽ), từ
đó tạo nên nghệ thuật văn xuôi và phương pháp tả thực.
Thế mới biết, ngôn ngữ thực sự tấm gương phản chiếu văn hóa dân
tộc và tác động của luật âm dương thật rộng lớn, sâu xa!
Bài 4: NGHỆ THUẬT THANH SẮC VÀ HÌNH KHỐI
Nghệ thuật thanh sắc bao gồm các loại hình ca, múa, nhạc, kịch... với
đặc điểm chung sự coi trọng thanh sắc. Nghệ thuật hình khối bao gồm
hội họa (hình) và điêu khắc (khối).
4.1. Tính biểu trưng của nghệ thuật thanh sắc hình
khối
Tương tự ngôn từ, nghệ thuật thanh sắc hình khối Việt Nam cũng
mang tính biểu trưng, thông qua những biểu tượng ước lệ để diễn đạt nội
dung, cái cốt lõi. Điều này khác hẳn truyền thống nghệ thuật phương Tây với
lối tả thực ngay cả trong những đề tài tưởng tượng.
4.1.1. Tính biểu trưng trong nghệ thuật thanh sắc Việt Nam thể
hiện ở nguyên lí đối xứng, hài hòa.
Âm nhạc cổ truyền không nhịp lẻ chỉ nhịp chẵn (2, 4 phách);
từng câu nhạc cũng chia thành các ô chẵn (2, 4, 8, 16, 32, 64,...). Nghệ thuật
múa tuân thủ chặt chẽ luật âm dương với các đội hình tròn vuông được
xây dựng trên sở những tương quan cặp đôi giữa các bộ phận của thể,
các phần của động tác với 4 nguyên tắc chính:
a) Thượng hạ tương phù: Động tác trên dưới, gốc ngọn, đầu đuôi,
tiến lùi… tạo nên một chỉnh thể.
b) Tả hữu tương ứng: Động tác phải trái, trước sau.. tạo nên một sự
hài hòa.
c) Phì sấu tương chế: Là tương phản giữa động tác rộng và hẹp, dày
mỏng.
d) Nội ngoại tương quan: Là tương quan giữa nội tâm và ngoại hình của
nhân vật, giữa con người với thiên nhiên xung quanh.
Tính biểu trưng còn được thực hiện bằng thủ pháp ước lệ, dùng một bộ
phận, chi tiết để gợi cho người xem hình dung ra sự thực ngoài đời. Nghệ
thuật VN tả cảnh chiến đấu chỉ với việc múa vài đường gươm, tả cảnh đâm
trúng tim bằng một nhát kiếm thọc vàoch, tả cảnh cưỡi ngựa với một cái
roi quật vào không khí, tả cảnh đi thuyền bằng một hai mái chèo, tả cảnh
vượt hàng trăm dặm đường xa bằng một vòng quanhn khấu… tất cả đều
bằng thủ pháp ước lệ.
Tính biểu trưng còn được thực hiện một cách xuất sắc bằng thủ pháp
hình hóa. Trong tuồng (hát bội), các nhân vật được phân thành các loại
gọi là đào, kép, lão, mụ, vua, quan, tướng, soái... cùng với tạo hình lông mày,
bộ râu.
4.1.2. Trong nghệ thuật hình khối Việt Nam, tính biểu trưng
được sử dụng rất đắc lực vào mục đích NHẤN MẠNH để làm nổi bật
trọng tâm của đề tài với sự đầy đủ, trọn vẹn của nó, bất chấp yêu
cầu về tính hợp lí của hiện thực.
Bằng thủ pháp "hai góc nhìn", trên Trống đồng hay trên bức chạm gỗ
Đánh cờĐình Ngọc Canh, mọi thứ được thể hiện vừa bằng góc nhìn ngang,
lại vừa bằng cả góc nhìn từ trên xuống.
Để làm đối tượng, thể dùng thủ pháp “nhìn xuyên vật thể”.
Chẳng hạn như trên bức chạm gỗ Chèo thuyền đình Phủ Lưu: nhìn con
thuyền từ bên ngoài, ta thấy cả người cầm lái và chân của những người chèo
thuyền lẽ ra bị che khuất trong lòng thuyền.
Thủ pháp phóng to - thu nhỏ cho phép làm nổi bật nhân vật (hoặc bộ
phận nhân vật) trung tâm, phân biệt vị trí xã hội. Trên tranh Đám cưới chuột,
con mèo đại diện cho tầng lớp thống trị được phóng to hơn con ngựa nhiều
lần biểu đạt sự thống trị. Bức chạm gỗ Tiên cưỡi hạc ở đền Hai Bà Trưng (Yên
Lạc, Vĩnh Phúc) đã khắc khuôn mặt, đôi cánh quầng lửa trên đầu Tiên
to rõ còn thân mình chân tay thì thu nhỏ lại.
Việc thu nhỏ được đẩy đến cực đoan sẽ trở thành lược bỏ. Trên các tác
phẩm hội họa, điêu khắc hầu như không bao giờ chi tiết thừa. Cảnh Đánh
vật (tranh Đông Hồ) chỉ hai chi tiết tạo nên không khí hội hai tràng
pháo, không cỏ cây, hoa lá, người xem. Trên bức chạm Trai gái đùa vui
đình Hương Lộc, nghệ nhân còn lược bỏ luôn cả các bộ phận thể người
không cần thiết cho chủ đề!
Đề đạt mục đích gợi nhiều hơn tả, nghệ thuật hình khối Việt Nam cũng
sử dụng thủ pháp hình hóa. Trong tranh Đánh vật, ba đôi vật được
khoanh gọn trong ba hình bản: hình tam giác, hình thang, hình bán
nguyệt. Đó s hòa hợp tuyệt vời của cái động trong thế tĩnh của ba hình
hình học với những cạnh đáy vững vàng cho thấy sự ngang sức ngang tài của
các chàng trai. Hai người chờ vật được khuôn lại trong hai hình chữ nhật
đứng tạo nên cảm giác co ro bất tận trong cái rét của lễ hội đầu xuân.
4.1.3. Thủ pháp hình hóa đã tạo nên một nền nghệ thuật
trang trí và
nhiều mô hình mang tính triết lí sâu sắc.
Bộ Tứ Linh với long biểu trưng cho sự nam tính; lân biểu trưng cho ước
vọng thái bình, quy biểu tượng cho sự sống lâu và phượng biểu tượng cho nữ
tính. Rồng - phượng biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Riêng hình tượng
Rồng mỗi thời lại có những nét đặc thù riêng tương ứng với thời đại của mình.
Tứ linh cộng thêm ngư - phúc - hạc - hổ thì thành BÁT VẬT. Ngư (cá)
gắn với truyền thuyết "cá hóa rồng" biểu tượng cho sự thành đạt. Phúc là “sự
tốt lành, may mắn” đồng âm viết gần giống với chữ "con dơi". Con hạc
tượng trưng cho thần tiên. Con hổ tượng trưng cho sức mạnh.
Để thể hiện nội dung, người Việt không câu nệ hình thức. Con rùa
chậm chạp, con dơi xấu xí, là những thứ phương Tây không khi nào dùng vào
trang trí, bởi họ chú ý đến hình dáng bề ngoài, màu sắc nhiều hơn là ý nghĩa.
Để tạo biểu tượng, người Việt dùng thủ pháp LIÊN TƯỞNG bằng ngôn
từ. ba cách. Một liên tưởng theo chữ Hán: con dơi viết gần giống chữ
Phúc. Hai liên tưởng đồng âm: con hươu phát âm giống chữ Lộc. Cách thứ
ba liên tưởng gần âm: con dơi miệng ngậm chữ “thọ”, dưới treo hai đồng
tiền sẽ đọc thành lời chúc "Phúc thọ song toàn”.
Như cách người miền Nam chưng mâm ngũ quả, cầu vừa đủ xài sung,
người Việt trọng văn hóa phồn thực, mong con cháu đông đúc, mùa màng tốt
tươi. Điều đó được thể hiện bằng thói chuộng số nhiều: Tranh đàn, lợn
đàn, trẻ con chơi hàng đàn, giàn bầu sai quả, biểu tượng âm dương, mùa
màng, bông lúa,... Cũng vì thế mới có tranh em bé bế cóc, chứ ngoài đời có ai
thèm bế một con vật xấu xí như vậy.
4.1.4. Đến đây, một câu hỏi tất yếu đặt ra: Tính biểu trưng
mặt như một nguyên bản trong truyền thống của mọi loại hình
nghệ thuật Việt Nam. Nhưng nguyên tả thực quán xuyến mọi loại
hình nghệ thuật truyền thống phương Tây. Đó một sự kiện ngẫu
nhiên hay là một quy luật?
Ta đều biết, mọi nghệ thuật phải bắt nguồn từ thực tế cuộc đời. Vào
thời Đông Sơn Việt Nam đã từng tồn tại cả hai khuynh hướng: tả thực
biểu trưng. Nhưng càng về sau, khuynh hướng cách điệu hóa càng phát triển
nghệ thuật biểu trưng càng lấn át tả thực. Ta thể giải thích hiện tượng
này như sau:
Mọi nghệ thuật đều phản ánh ước vọng của con người vươn tới một
điều khác lạ, mới mẻ hơn so với cái người ta đang sống. Loại hình văn
hoá gốc du mục của phương Tây dễ coi thường chế ngự thiên nhiên nên
trong nghệ thuật bộc lộ khát vọng trở về với tự nhiên. Loại hình văn hóa gốc
nông nghiệp phương Đông do thường sống hòa hợp với thiên nhiênn bộc
lộ khát khao thoát khỏi tự nhiên, vươn tới cái hiệu trưng ước lệ (điềuy sẽ
dễ thấy khi ta so sánh sở thích chơi cây lá, chim đồ mây tre của người
dân đô thị với thú chơi bàn ghế chạm khắc tinh vi và trưng bày các sản phẩm
công nghiệp của người dân nông thôn).
4.1.5. Vào những năm 20 của thế kỉ này, Nam Bộ - nơi chịu
ảnh hưởng
của văn hóa phương Tây sớm nhất - đã hình thành cải lương như một
sản phẩm
giao lưu văn hóa Đông Tây.
Sân khấu hát bội đã được bổ sung thêm những yếu tố của tả thực
phương Tây: Các điệu bộ tính ước lệ được giảm bớt nhường chỗ cho các
động tác giống thực; phông cảnh, đạo cụ được chú trọng hơn; hát được giảm
bớt về lượng nhường chỗ cho nói thường, nhưng lại được nâng cao về chất
nhờ sự xuất hiện của làn điệu vọng cổ. Vọng cổ được dùng những lúc gay
cấn cảm động nhất, chậm rãi, ràng, minh bạch, rất thích hợp cho việc
bộc lộ nội tâm, thuyết phục, van nài, tranh luận… Từ Nam Bộ, cải lương đã
đến khắp đất nước, đâu cũng được hoan nghênh, nhất nhờ tài hát vọng
cổ. Điều này cho thấy ảnh hưởng phương Tây chỉ thể hỗ trợ, bổ sung chứ
không thể lấn át hoặc thay thế được truyền thống văn hóa dân tộc.
4.2. Tính biểu cảm của nghệ thuật thanh sắc và hình khối
4.2.1. Nghệ thuật thanh sắc Việt Nam, vốn sản phẩm của
một nền văn hóa nông nghiệp trọng âm còn mang TÍNH BIỂU CẢM
cao độ.
Trong khi âm nhạc các làn điệu dân ca Việt Nam (như quan họ Bắc
Ninh, hát dặm Nghệ Tĩnh,Huế, lí Nam Bộ...) đều thiên về diễn tả tình cảm
nội tâm đậm chất trữ tình với tốc độ chậm, âm sắc trầm, chú trọng luyến láy,
dễ đi vào lòng người gợi nên những nỗi buồn man mác được biểu diễn chỉ
với vài nhạc công (trống, nhị, sáo, đàn...) Thì âm nhạc phương Tây thích
mạnh mẽ dứt khoát, tốc độ nhanh, tiết tấu vui... cùng cả một dàn giao hưởng
và hợp xướng đồ sộ tạo nên ấn tượng hùng vĩ.
Không chỉ trong âm nhạc cả điệu múa của người Việt cũng không
ầm ĩ, ồn ào. Với những đường nét tròn trĩnh, uốn lượn mềm mại, không gãy
góc, đôi chân khép kín... sự kín đáo, tế nhị trong cách ăn mặc, động tác (che
nửa mặt bằng chiếc quạt, bằng chiếc nón quai thao...), người Việt múa tay,
mô phỏng những động tác nhổ mạ, cấy lúa, hái dâu… đậm chất nông nghiệp.
Còn phương Tây gốc du mục lại thiên về múa chân, phỏng tung ngựa
phi trên đồng cỏ bằng những động tác nhảy cao, nhảy dài, những bước xoạc
cẳng rộng, những động tác quay tròn cho áo váy tung lên mạnh mẽ.
Trong sân khấu Chèo các làng quê, tính biểu cảm được thể hiện khi
vai trò của người phụ nữ luôn được nhấn mạnh và tô đậm; từ bi như Thị Kính,
lẳng tính như phị Mầu; hiếu thảo như Thị Phương; tiết hạnh như Châu Long
hoặc si tình và phụ bạc như Xúy Vân,..
4.2.2. Trong nghệ thuật hình khối, TÍNH BIỂU CẢM cũng thể
hiện đậm nét không kém.
Người Việt tuy phải chịu chiến tranh liên miên, nhưng với bản tính
trọng tình, hiền hòa, họ hiếm khi tạo ra những tranh tượng với cảnh đầu rơi
máu chảy rùng rợn như các nước phương Tây. Trong khi đó tranh tượng thể
hiện tình cảm thì lại rất nhiều. Tranh Hứng dừa tả một gia đình hạnh phúc có
hai đứa con chơi gốc cây, còn người mẹ trẻ vẫn hồn nhiên một cách đáng
yêu trong động tác nâng vạt váy để đón cặp dừa từ tay chồng trên cây thả
xuống (dù trên thực tế chẳng ai hứng dừa bằng vạt váy). Bên góc trái tờ
tranh là hai câu thơ Nôm: Khen ai khéo dựng nên dừa, đấy trèo đây hứng cho
vừa một đôi...
Bên cạnh đó, tình cảm của loài lật cũng được thể hiện mạnh mẽ không
kém: Ở đền vua Đinh Tiên Hoàng một bia đá hắc cảnh những đôi khỉ ôm k
nhau. Đáng lưu ý các tranh đều trưng nơi đình, đền những chốn linh
thiêng mà nhân dân ta rất coi trọng.
những thể loại nghệ thuật hội họa truyền thống độc đáo như tranh
lụa, tranh sơn mài dường như sinh ra chỉ thích hợp cho một loại đề tài - đó
đề tài tĩnh, âm tính, thiên về tình cảm (như phong cảnh thiên nhiên, hoa lá,
thiếu nữ, bà mẹ...).
4.3. Tính tổng hợp của nghệ thuật thanh sắc và hình khối
4.3.1. TÍNH TỔNG HỢP bộc lộ rõ nét trong nghệ thuật thanh sắc
và hình khối Việt Nam.
Khác với phương Tây, sân khấu truyền thống Việt Nam không phân biệt
các loại hình ca, múa, nhạc đồng thời mặt trong một vở diễn. Người
Việt cách nói tưởng chừng phi “xem hát” nhưng chỉ mới diễn đạt
được khái niệm về một nền nghệ thuật tổng hợp cả xem (diễn) nghe
(hát). Sân khấu truyền thống Việt Nam tổng hợp mọi thể thơ, mọi loại văn,
mọi điệu hát, mọi phong cách ngôn ngữ đan xen vào nhau như thực tế ngoài
đời.
Trong khi phương Tây phân biệt từng vở diễn bi hay hài thì một vở
diễn Việt Nam lại có cả hai thứ: yếu tố hài thường trực với các vai hề môi, hề
gậy; những vai không phải hề nhưng cũng gây cười như thầy bói, thầy
cúng... Trong vở chèo Quan âm Thị Kính, không bi hơn cuộc đời của
Thị Kính, nhưng cũng không hài hơn những cảnh Thị Mầu lên chùa.
Người xem khóc đâu rồi lại cười ngay đấy.
Việt Nam còn những nhạc cụ như ĐÀN BẦU một mình mang đủ cả
ba đặc trưng - tổng hợp, linh hoạt, biểu cảm: Tổng hợp chỉ một dây
mà cho đủ mọi âm thanh, cung bậc. Linh hoạt, vì chơi đàn bầu phải phối hợp
hai tay một cách linh hoạt (tay phải gảy y, tay trái rung, ghìm cần đàn);
tay dương, tay âm tạo nên những âm thanh rung/phẳng, những cung bậc
ngắn/dàii hòa tuyệt vời theo ý muốn. Biểu cảm, đàn bầu rất thích hợp
để thể hiện những cảm xúc âm tính, phù hợp với tâm hồn Việt Nam.
4.3.2. Ở nghệ thuật hình khối Việt Nam, về quan hệ hình thức -
nội dung, ta có sự tổng hợp của biểu trưng và biểu cảm.
những tác phẩm hình thức biểu trưng còn nội dung lại biểu cảm:
dụ các bức trai gái đùa vui. Ngược lại, có những tác phẩm hình thức biểu cảm
còn nội dung thì ước lệ: những con rồng hiểu trưng cho uy lực và quyền năng
lại có hình dáng rất mềm mại dịu dàng.
Về phong cách thể hiện, sự tổng hợp của biểu trưng tả thực.
Tranh Đám cướt chuột phá vỡ tỉ lệ kích thước các con vật thông thường, cắt
đôi đoàn rước để xếp theo thứ tự trên dưới, nhưng lại vẽ 12 con chuột mỗi
con một vẻ một cách chính xác theo lối tả thực. Tượng hổ đá ở lăng Trần Thủ
Độ tả thực toàn thân với những bắp thịt rắn chắc, riêng phần đuôi lại như
một khối thép vuông thành sắc cạnh theo lối biểu trưng. Người Việt Nam vốn
tĩnh tại, hiếu hòa, nhưng mang một sức mạnh nội tâm sôi động, giống như
cái đuôi con hổ chứa đựng sức mạnh ngầm ẩn, giúp con vật tăng sức mạnh
của mình lên bội phần khi nó quật đuôi xuống đất mà phóng đi.
4.4 Nghệ thuật thanh sắc Việt Nam còn cho thấy TÍNH LINH
HOẠT của văn hoá nông nghiệp.
Âm nhạc truyền thống không đòi hỏi mọi nhạc công chơi giống hệt
nhau. Chỉ cần bắt đầu và kết thúc giống nhau và chơi đúng theo hai quy định
(ví dụ bắt đầu bằng chữ “xang”, kết thúc bằng chữ “xê” theo hơi Nam hay
hơi Xuân), còn ở các phách giữa thì mỗi nghệ nhân có thể bộc lộ hết tài năng
của mình.
Sân khấu truyền thống không đòi hỏi diễn viên tuân thủ một cách chặt
chẽ bài bản của tích diễn. Mang trong dạ cái thần, cái ý chính của vở, người
nghệ nhân thể biến báo diện cho thích hợp. Tới nơi thích nghe hát thì
nghệ nhân cho thêm làn điệu này, câu hát nọ, tới nơi thích hài thì vai hề cài
thêm những câu ngoài tích, nơi thiên về khoa cử thì đưa thêm những câu lắm
chữ nghĩa... Chính sự linh hoạt này giải thích tại sao một bản nhạc, một tích
tuồng chèo thường có nhiều dị bản.
Tính linh hoạt còn thể hiệnchỗ sân khấu truyền thống sự giao lưu
rất mật thiết với người xem. Sàn diễn thường sân đình, bốn manh chíếu
trải ngay trước của chính. Khác với sân khấu phương Tây đẩy người xem ngồi
ra xa để cảm giác cảnh trên sàn diễn thực, sân khấu Việt Nam coi mọi
thứ trên sàn diễn đều ước lệ, để mặc người xem ngồi vây kín ba mặt, sát
tận mép chiếu. Người xem thể tham gia bình phẩm khen chê hay chen
vào những câu ngẫu hứng. Diễn viên không thể "bỏ ngoài tai" phải
phản ứng thích hợp. Quan hệ “diễn viên - khán giả n hóa nông nghiệp
mang tính dân chủ hơn nhiều so với quan hệ “diễn viên - khán giả” ở phương
Tây.
Như trong chèo Quan âm Thị Kính, cảnh Thị Mầu lên chùa, khi Mầu
đang lượn những vòng tròn mỗi lúc một hẹp quanh Kính Tâm, buông những
lời tỏ tình mỗi lúc một công khai và nồng cháy thì trong số khán giả có người
tinh nghịch “phá đám” – họ nói chen vào. Mầu ơi, ở nhà mày người ta bắt hết
rồi! Nếu lúc đó diễn viên tỏ ra bối rối coi như hỏng, diễn viên đã nhanh
trí chống tay hai bên hông, cong cớnrằng: Để rồi laiNhà tao còn ối trâu!
quay vào tiếp tục tấn công tiểu Kính.
Lời của người xem đế vào ngẫu hứng như vậy, vở diễn sau lại người
bắt chước, cứ dần trở thành lời thoại đặc biệt. “Tiếng đế” trở nên mang tính
nước đôi: vừa tiếng nói của người xem ngoài vở diễn, lại vừa một bộ
phận của vở diễn. Tiếng đế làm cho không khí của vở diễn trở nên uyển
chuyển, linh hoạt - đang bi chuyển thành hài, đang nghiêm trang chuyển
thành bỡn cợt.
Sự giao lưu sân khấu với người xem còn được thể hiện vai trò của
người cầm chầu. Người cầm chầu được mỗi làng cử ra, phải người sành
nghệ thuật, thuộc nhiều tích, biết nhiều làn điệu để đại diện cho dân làng nói
lên tiếng nói đánh giá thưởng phạt khen chê. Việc cầm trịch khen chê
thưởng phạt được thể hiện qua tiếng trống chầu.
Trong trường hợp đặc biệt, người cầm chầu thể cho hiệu lệnh đuổi
diễn viên khỏi chiếu diễn, buộc phải đưa người khác thế vào...
Sự giao lưu của sân khấu với người xem cũng thể hiện rất đậm nét
trong múa rối nước. đây có những con rối chuyên lo việc giao lưu với khán
giả (điển hình là nhân vật chú Tiểu): đi mời khán giả ăn trầu, dẹp trật tự, giáo
trò, khép trò... Lại cũng dothuật trên nước phức tạp, dễ xảy ra tình huống
bất ngờ nên diễn viên rối nước thường khả năng rất cao trong việc ứng
diễn, ứng tác một cách linh hoạt.
| 1/16

Preview text:

Bài 3: VĂN HÓA GIAO TIẾP VÀ NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ
3.1. Các đặc trưng giao tiếp cơ bản của người Việt Nam
3.1.1. Với THÁI ĐỘ GIAO TIẾP, người Việt Nam vừa thích giao
tiếp, lại vừa rất rụt rè.
Đầu tiên, ta có thể thấy một điều khá rõ ràng là người Việt Nam với văn
hóa nông thôn sống phụ thuộc lẫn nhau, nên họ rất coi trọng các mối quan
hệ xung quanh và thường cực kỳ chú ý trong giao tiếp để giữ gìn các mối
quan hệ đó. Vì vậy, người Việt rất thích giao tiếp nhưng cũng rất rụt rè trong giao tiếp.
Việc thích giao tiếp của người Việt được thể hiện qua hai điểm sau:
Thứ nhất, người VN có tính thích thăm viếng, dù đã quá thân thuộc và
gặp nhau mỗi ngày, họ vẫn sang nhà thăm nhau những khi rảnh rỗi. Lúc này,
viếng thăm là biểu hiện nghĩa tình nhằm thắt chặt mối quan hệ đôi bên.
Thứ hai, người Việt có tính hiếu khách. Dù khách là người lạ hay người
quen, họ vẫn tiếp đón nồng nhiệt, phục vụ tận tình. Vì khách đến nhà không
trà cũng bánh hay khách đến nhà không gà thì gỏi (1 nam – khách, 1 nữ -
chủ nhà diễn cảnh khách đến nhà, mời ngồi ghế, lấy bánh rót trà mời khách).
Đặc biệt là khi ta về các vùng quê hay miền núi cao xa xôi.
Bên cạnh việc ưa giao tiếp, tính rụt rè của người Việt được biểu hiện rõ
nét đến nỗi người nước ngoài rất dễ nhận ra và nhắc đến. Hai nét tính cách
tưởng chừng trái ngược mà lại song hành cùng nhau này xuất phát từ hai đặc
tính của văn hóa làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị. Tính cộng
đồng phát huy khi người Việt ở trong một môi trường quen thuộc, và ngược
lại, tính tự trị bộc lộ ra khi họ tiếp xúc với một cộng đồng mới lạ, khác biệt.
Đó là sự linh hoạt trong cách ứng xử của người Việt Nam.
3.1.2. Với QUAN HỆ GIAO TIẾP, văn hóa nông nghiệp cùng đặc
điểm trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm làm
nguyên tắc ứng xử.
Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau, ghét cả tông ti họ hàng; (1 nam
1 nữ diễn thẹn thùng yêu đương, sau đó ghét nhau sỉ vả vào mặt nhau)
Yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo;
Về cơ bản, người Việt lấy sự hài hòa âm dương làm trọng nhưng thực
chất thiên về âm hơn, vì vậy trong cuộc sống, người Việt Nam sống có lí có
tình nhưng vẫn thiên về tình hơn.
Người Việt xem trọng tình cảm hơn tất thảy mọi thứ. Ai giúp mình một
chút đều phải nhớ ơn, ai bảo ban chỉ dạy một chút cũng tôn làm thầy - thế
nên ta có rất nhiều thầy như thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy cúng, thầy bói, thầy địa lí,…
3.1.3. Với ĐỐI TƯỢNG GIAO TIẾP, người Việt Nam có thói quen
ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá.
(2 nam 2 nữ - 1 cặp bố mẹ, 1 cặp con gái & rể tương lai diễn cảnh ra
mắt gia đình. Cặp bố mẹ liên tục hỏi dồn về tuổi tác, quê quán, trình độ học
vấn, địa vị xã hội, bố mẹ còn hay mất, anh chị em trong gia đình,... Thoại mẫu:
Con trai, nghe bác hỏi nè, năm nay con nhiêu tuổi, quê con ở đâu, giờ
con đang làm gì, ba má khỏe hông con, nhà con mấy anh em, có gia đình hết
chưa?)Do tính cộng đồng bắt nguồn từ văn hóa làng xã, người Việt Nam tự
thấy mình nên quan tâm đến người khác, mà muốn quan tâm thì cần biết rõ
hoàn cảnh. Bên cạnh đó, do lối giao tiếp với nhiều cặp đại từ xưng hô khác
nhau, nên người Việt cần nắm rõ thông tin để biết sử dụng cặp đại từ đồng
thời lựa chọn đối tượng giao tiếp của mình.
Khi không được lựa chọn thì người Việt dùng chiến lược thích ứng linh
hoạt: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài
Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.
3.1.4. Với góc độ CHỦ THỂ GIAO TIẾP, người Việt Nam có đặc
điểm trọng danh dự:
Ở đời muốn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi;
Tốt danh hơn lành áo;
Trâu chết để da, người ta chết để tiếng.
Một quan tiền công, không bằng một đồng tiền thưởng.
Ta dễ thấy người Việt gắn liền danh dự với năng lực giao tiếp: Lời hay ý
đẹp tạo tiếng tăm lẫy lừng, được người đời kính trọng, lời dở sẽ một đồn
mười, mười đồn trăm, tạo nên tai tiếng xấu. Cũng vì quá coi trọng danh dự
nên người Việt Nam dễ mắc bệnh sĩ diện và sợ dư luận, nhất là ở các vùng
quê, họ xem dư luận như thứ vũ khí lợi hại để duy trì sự ổn định của làng xã.
3.1.5. Với CÁCH THỨC GIAO TIẾP, người Việt Nam ưa sự tế nhị,
ý tứ và trọng sự hòa thuận.
Người Việt Nam có lối giao tiếp “vòng vo tam quốc”, ít khi nào vào
thẳng vấn đề như người phương Tây vì tính tế nhị, ý tứ, sợ mích lòng. Họ
thường vấn xá cầu điền, thưa gửi, hỏi thăm đủ chuyện trên trời dưới đất
nhằm tạo không khí thoải mái trước khi vào đề.
Diễn 1 nam 1 nữ đối thoại, người dẫn truyện:
NDT: Để biết người đối thoại còn cha mẹ hay không, người ta hay hỏi:
Ông bà ở nhà vẫn mạnh giỏi hen anh?
Để biết người phụ nữ đối diện có chồng chưa, người ý tứ sẽ hỏi:
Chị về muộn z có cần cơm nước chồng con gì hong chị?
Để tỏ tình, người con trai dễ vòng vo:
Chiếc thuyền giăng câu, đậu ngang cồn cắt, đậu sát mé nhà, anh
biết em có một mẹ già, muốn vô phụng dưỡng, biết là đặng không?
(2 nam hỏi - trả lời, cùng NDT)
Tính vòng vo cùng nhu cầu tìm hiểu về đối phương dần tạo thành thói
quen chào hỏi – tức “chào” đi liền với “hỏi”:
Con chào bác, bác đi đâu z bác?
Người ta hỏi như một thói quen, chứ thực ra chẳng cần nghe trả lời,
hoặc họ hoàn toàn hài lòng với những câu “trả lời” kiểu:
Ờ (gật đầu, cười), bác đi qua đây chút!
hay trả lời bằng cách hỏi lại:
Ủa (gật đầu, cười), con đi đâu đây?
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là thành quả từ lối sống trọng tình và lối tư
duy trong các mối quan hệ. Nó tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc kĩ càng khi nói năng:
Ăn có nhai, nói có nghĩ.
Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới nói;
Biết thì thưa thốt, không biết thì dưa cột mà nghe;
Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo...
Tuy vậy, lối giao tiếp này cũng có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán.
Trong trường hợp khó quyết đoán, người Việt rất hay cười. Nụ cười người Việt
có thể xuất hiện vào những lúc ta ít trông đợi nhất.
Bên cạnh đó, tâm lí ưa hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ
trương nhường nhịn, vì một sự nhịn là chín sự lành.
3.1.6. Người Việt có hệ thống NGHI THỨC LỜI NÓI rất phong
phú. Trước hết là hệ thống xưng hô phong phú đa dạng bật nhất thế giới từ
các đại từ xưng hô trong quan hệ họ hàng như cô chú, dì dượng, cậu mợ, con
cháu đến các đại từ dùng trong giao tiếp xã hội như tôi anh, cậu tớ, mình
bạn, mày tao. Đôi khi người Việt còn gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên
chồng, bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…). Hệ thống xưng hô này có các đặc
điểm: Một là tính thân mật hóa (trọng tình cảm), xem mọi người trong cộng
đồng như người than thích trong gia đình họ hàng.
Hai là tính cộng đồng hóa. Trong hệ thống này, các đại từ đều được xác
định bằng tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp cụ thể: chú khi ni, mi khi khác.
Ba là tính tôn ti kĩ lưỡng: người Việt xưng và hô theo nguyên tắc xưng
khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối phương thì tôn kính).
Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai đều cùng xưng là em và gọi
nhau là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: ngày
xưa người ta chỉ gọi tên riêng khi chửi nhau; hay việc đặt tên con không được
trùng với tên người trong họ, hoặc khi thăm nhà nhau phải hỏi tên người
trong gia đình để tránh nhắc tới trong giao tiếp.
Nghi thức lịch sự trong giao tiếp cũng rất phong phú, ngườiViệt không
có một từ cảm ơn, xin lỗi chung chung cho mọi trường hợp như phương Tây.
Với mỗi trường hợp lại là một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: (2 nữ)
Dạ con xinnn (cúi đầu) (cảm ơn khi nhận quà),
Sao mà chị chu đáo quá à (cảm ơn khi được quan tâm), (2 nam)
(bắt tay) Thôi mà, anh cứ bày vẽ (cảm ơn khi được tiếp đón),
Ui chà, quý hóa dữ hen (cảm ơn khi khách đến thăm),
(vỗ vai) Anh cứ quá khen (cảm ơn khi được khen),
May mà có mày tao mới được như bây giờ (cười tươi, bắt hai tay) (cảm
ơn khi được giúp đỡ)...
Trong khi người phương Tây thích phân biệt các lời chào theo thời gian
như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng trưa chiều tối... Thì người
Việt ưa phân biệt các lời chào theo quan hệ xã hội và sắc thái tình cảm.
3.2. Các đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ Việt
Nam Công cụ để giao tiếp là ngôn ngữ. Nhìn vào tiếng Việt, ta thấy rõ linh
hồn, tính cách con người và những đặc trưng cơ bản nhất của nền văn hóa Việt Nam.
3.2.1. Trước hết, nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có TÍNH BIỂU TRƯNG
cao. Nó được thể hiện ở xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa với những cấu
trúc cân đối, hài hòa, lối diễn đạt bằng các con số biểu trưng. Trong khi người
phương Tây dùng từ “tất cả” thì người Việt dùng các từ ước lệ như ba bề bốn
bên, tam khoanh tứ đốm, trăm khôn ngàn khéo, tiền trăm bạc vạn,…
Lối tư duy tổng hợp, lối sống ưa ổn định và dĩ hòa vi quý taọ nên sự cân
đối hài hòa trong ngôn từ. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt.
Theo loại hình, tiếng Việt là ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa một khối
lượng không nhỏ các từ song tiết; mỗi từ đơn hầu như đều có những biện thể
song tiết, cho nên thực tế cấu trúc song tiết lại là chủ đạo trong tiếng Việt.
Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều có cấu trúc 2 vế đối ứng (trèo
cao / ngã đau; ăn vóc / học hay; một quả dâu da / bằng ba chén thuốc; biết
thì thưa thốt / không biết thì dựa cột mà nghe...).
Tiếng Việt rất phát triển câu đối - một loại sản phẩm văn chương đặc
biệt, vừa công phu tỉ mỉ, lại vừa cô đúc ngắn gọn, thể hiện đủ cả cái đẹp cân
đối nhịp nhàng của hình thức và cái uyên thâm của chiều sâu triết lí phương
Đông. Không như văn chương phương Tây thiên về văn xuôi, văn chương Việt
Nam yêu chuộng thơ ca: người Việt hầu như ai cũng biết làm thơ; lịch sử mấy
nghìn năm của Việt Nam chủ yếu là lịch sử thơ ca có cấu trúc chặt chẽ (lục
bát, song thất lục bát) và có vần điệu nghiêm ngặt thể hiện sự cân đối, hài
hòa. Ở Việt Nam, văn xuôi truyền thống cũng là văn xuôi thơ nhờ thế mạnh
giàu thanh điệu, tạo nên tính nhạc cho lời văn. Từ những bài viết theo lối
biền ngẫu như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, hoặc tự do như Thư dụ
hàng của Nguyễn Trãi gửi địch, văn chính luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
tới những lời văn Nôm bình dân..., thậm chí trong cả việc chửi nhau như bài
chửi của người đàn bà mất gà mà có lẽ mọi người đều đã nghe qua - khắp nơi
đều gặp một lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu, vần
điệu. Đó là một “nghệ thuật” độc đáo mà có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có được.
3.2.2. Tiếng Việt GIÀU CHẤT BIỂU CẢM - sản phẩm tất yếu của
một nền văn hóa trọng tình.
Từ ngữ tiếng Việt, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung hòa,
thường có rất nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Với màu
xanh, ta có xanh rì, xanh rờn, xanh um, xanh lè... Bên cạnh màu đỏ, ta có đỏ
rực, đỏ au, đỏ lòm, đỏ chét, đỏ hoe... Ta đã biết Tiếng Việt thiên về thơ,
mang đậm chất tình cảm, thế nên các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh
cũng rất phổ biến. Ta khó mà bắt gặp điều đó ở những ngôn ngữ khác.
Về ngữ pháp, ta có rất nhiều hư từ biểu cảm: à, ư, nhỉ, nhé, chăng, chớ,
hả, hở, phỏng, sao, chứ... Cấu trúc "iếc hóa" có nghĩa đánh giá (sánh siếc,
bàn biếc…) góp phần làm tăng cường hệ thống phương tiện biểu cảm cho tiếng Việt.
Sự phổ biến của thơ ca không chỉ là sản phẩm của tính biểu trưng mà
còn đồng thời là sản phẩm của tính biểu cảm. Khuynh hướng biểu cảm còn
thể hiện ở việc văn chương truyền thống có ít tác phẩm nào đề cao chiến
tranh mà chỉ nói về nỗi buồn của nó như là Chinh phụ ngâm.
3.2.3. Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có đặc điểm thứ ba là tính ĐỘNG, LINH HOẠT
Trong khi ngữ pháp phương Tây thường chặt chẽ, thiên về hình thức tới
mức máy móc thì ngữ pháp tiếng Việt thiên về ngữ nghĩa với các hư từ biểu
hiện ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp, cho phép sử dụng linh hoạt tối đa, tùy
theo ý đồ của người nói. Chính vì vậy, tiếng Việt có khả năng khái quát rất
cao, có thể nói một câu mơ hồ không thời, không thể, không ngôi, đó là điều
kiện rất quan trọng cho việc phát triển thơ ca.
Tính động, linh hoạt của ngôn từ còn bộc lộ ở chỗ người Việt rất thích
dùng cấu trúc động từ còn ngôn ngữ phương Tây có xu hướng thích dùng
danh từ. Trong khi người Việt nói Cảm ơn anh đã tới
chơi thì người Anh nói
Cảm ơn vì sự đến chơi của anh. Bên cạnh đó, tiếng Việt ưa dùng cấu trúc chủ
động, đôi khi chủ động ngay cả trong câu bi động. Ví dụ người Việt nói Cô ấy
bị thầy giáo phạt thì người Anh nói Cô ấy bị phạt bởi thầy giáo.
Như vậy, trong giao tiếp, người Việt có thiên hướng nói đến những nội
dung tĩnh (tâm lí, tình cảm) bằng hình thức động (cấu trúc động từ, ngữ pháp
ngữ nghĩa linh hoạt), từ đó tạo nên thơ ca và phương pháp biểu trưng. Trong
khi đó thì người phương Tây nói riêng và truyền thống văn hóa trọng dương
nói chung lại có thiên hướng nói đến những nội dung động (hành động, sự
việc) bằng hình thức tĩnh (cấu trúc danh từ, ngữ pháp hình thức chặt chẽ), từ
đó tạo nên nghệ thuật văn xuôi và phương pháp tả thực.
Thế mới biết, ngôn ngữ thực sự là tấm gương phản chiếu văn hóa dân
tộc và tác động của luật âm dương thật rộng lớn, sâu xa!
Bài 4: NGHỆ THUẬT THANH SẮC VÀ HÌNH KHỐI
Nghệ thuật thanh sắc bao gồm các loại hình ca, múa, nhạc, kịch... với
đặc điểm chung là sự coi trọng thanh và sắc. Nghệ thuật hình khối bao gồm
hội họa (hình) và điêu khắc (khối).
4.1. Tính biểu trưng của nghệ thuật thanh sắc và hình
khối Tương tự ngôn từ, nghệ thuật thanh sắc và hình khối Việt Nam cũng
mang tính biểu trưng, thông qua những biểu tượng ước lệ để diễn đạt nội
dung, cái cốt lõi. Điều này khác hẳn truyền thống nghệ thuật phương Tây với
lối tả thực ngay cả trong những đề tài tưởng tượng.
4.1.1. Tính biểu trưng trong nghệ thuật thanh sắc Việt Nam thể
hiện ở nguyên lí đối xứng, hài hòa.
Âm nhạc cổ truyền không có nhịp lẻ mà chỉ có nhịp chẵn (2, 4 phách);
từng câu nhạc cũng chia thành các ô chẵn (2, 4, 8, 16, 32, 64,...). Nghệ thuật
múa tuân thủ chặt chẽ luật âm dương với các đội hình tròn và vuông được
xây dựng trên cơ sở những tương quan cặp đôi giữa các bộ phận của cơ thể,
các phần của động tác với 4 nguyên tắc chính:
a) Thượng hạ tương phù: Động tác có trên dưới, gốc ngọn, đầu đuôi,
tiến lùi… tạo nên một chỉnh thể.
b) Tả hữu tương ứng: Động tác có phải trái, trước sau.. tạo nên một sự hài hòa.
c) Phì sấu tương chế: Là tương phản giữa động tác rộng và hẹp, dày và
mỏng. d) Nội ngoại tương quan: Là tương quan giữa nội tâm và ngoại hình của
nhân vật, giữa con người với thiên nhiên xung quanh.
Tính biểu trưng còn được thực hiện bằng thủ pháp ước lệ, dùng một bộ
phận, chi tiết để gợi cho người xem hình dung ra sự thực ngoài đời. Nghệ
thuật VN tả cảnh chiến đấu chỉ với việc múa vài đường gươm, tả cảnh đâm
trúng tim bằng một nhát kiếm thọc vào nách, tả cảnh cưỡi ngựa với một cái
roi quật vào không khí, tả cảnh đi thuyền bằng một hai mái chèo, tả cảnh
vượt hàng trăm dặm đường xa bằng một vòng quanh sân khấu… tất cả đều
bằng thủ pháp ước lệ.
Tính biểu trưng còn được thực hiện một cách xuất sắc bằng thủ pháp
mô hình hóa. Trong tuồng (hát bội), các nhân vật được phân thành các loại
gọi là đào, kép, lão, mụ, vua, quan, tướng, soái... cùng với tạo hình lông mày, bộ râu.
4.1.2. Trong nghệ thuật hình khối Việt Nam, tính biểu trưng
được sử dụng rất đắc lực vào mục đích NHẤN MẠNH để làm nổi bật
trọng tâm của đề tài với sự đầy đủ, trọn vẹn của nó, bất chấp yêu
cầu về tính hợp lí của hiện thực.
Bằng thủ pháp "hai góc nhìn", trên Trống đồng hay trên bức chạm gỗ
Đánh cờ ở Đình Ngọc Canh, mọi thứ được thể hiện vừa bằng góc nhìn ngang,
lại vừa bằng cả góc nhìn từ trên xuống.
Để làm rõ đối tượng, có thể dùng thủ pháp “nhìn xuyên vật thể”.
Chẳng hạn như trên bức chạm gỗ Chèo thuyền ở đình Phủ Lưu: nhìn con
thuyền từ bên ngoài, ta thấy cả người cầm lái và chân của những người chèo
thuyền lẽ ra bị che khuất trong lòng thuyền.
Thủ pháp phóng to - thu nhỏ cho phép làm nổi bật nhân vật (hoặc bộ
phận nhân vật) trung tâm, phân biệt vị trí xã hội. Trên tranh Đám cưới chuột,
con mèo đại diện cho tầng lớp thống trị được phóng to hơn con ngựa nhiều
lần biểu đạt sự thống trị. Bức chạm gỗ Tiên cưỡi hạc ở đền Hai Bà Trưng (Yên
Lạc, Vĩnh Phúc) đã khắc khuôn mặt, đôi cánh và quầng lửa trên đầu cô Tiên
to rõ còn thân mình chân tay thì thu nhỏ lại.
Việc thu nhỏ được đẩy đến cực đoan sẽ trở thành lược bỏ. Trên các tác
phẩm hội họa, điêu khắc hầu như không bao giờ có chi tiết thừa. Cảnh Đánh
vật (tranh Đông Hồ) chỉ có hai chi tiết tạo nên không khí hội hè là hai tràng
pháo, không có cỏ cây, hoa lá, người xem. Trên bức chạm Trai gái đùa vui ở
đình Hương Lộc, nghệ nhân còn lược bỏ luôn cả các bộ phận cơ thể người
không cần thiết cho chủ đề!
Đề đạt mục đích gợi nhiều hơn tả, nghệ thuật hình khối Việt Nam cũng
sử dụng thủ pháp mô hình hóa. Trong tranh Đánh vật, ba đôi vật được
khoanh gọn trong ba hình cơ bản: hình tam giác, hình thang, và hình bán
nguyệt. Đó là sự hòa hợp tuyệt vời của cái động trong thế tĩnh của ba hình
hình học với những cạnh đáy vững vàng cho thấy sự ngang sức ngang tài của
các chàng trai. Hai người chờ vật được khuôn lại trong hai hình chữ nhật
đứng tạo nên cảm giác co ro bất tận trong cái rét của lễ hội đầu xuân.
4.1.3. Thủ pháp mô hình hóa đã tạo nên một nền nghệ thuật trang trí và
nhiều mô hình mang tính triết lí sâu sắc.
Bộ Tứ Linh với long biểu trưng cho sự nam tính; lân biểu trưng cho ước
vọng thái bình, quy biểu tượng cho sự sống lâu và phượng biểu tượng cho nữ
tính. Rồng - phượng biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Riêng hình tượng
Rồng mỗi thời lại có những nét đặc thù riêng tương ứng với thời đại của mình.
Tứ linh cộng thêm ngư - phúc - hạc - hổ thì thành BÁT VẬT. Ngư (cá)
gắn với truyền thuyết "cá hóa rồng" biểu tượng cho sự thành đạt. Phúc là “sự
tốt lành, may mắn” đồng âm và viết gần giống với chữ "con dơi". Con hạc
tượng trưng cho thần tiên. Con hổ tượng trưng cho sức mạnh.
Để thể hiện nội dung, người Việt không câu nệ hình thức. Con rùa
chậm chạp, con dơi xấu xí, là những thứ phương Tây không khi nào dùng vào
trang trí, bởi họ chú ý đến hình dáng bề ngoài, màu sắc nhiều hơn là ý nghĩa.
Để tạo biểu tượng, người Việt dùng thủ pháp LIÊN TƯỞNG bằng ngôn
từ. Có ba cách. Một là liên tưởng theo chữ Hán: con dơi viết gần giống chữ
Phúc. Hai là liên tưởng đồng âm: con hươu phát âm giống chữ Lộc. Cách thứ
ba là liên tưởng gần âm: con dơi miệng ngậm chữ “thọ”, dưới treo hai đồng
tiền sẽ đọc thành lời chúc "Phúc thọ song toàn”.
Như cách người miền Nam chưng mâm ngũ quả, cầu vừa đủ xài sung,
người Việt trọng văn hóa phồn thực, mong con cháu đông đúc, mùa màng tốt
tươi. Điều đó được thể hiện bằng thói chuộng số nhiều: Tranh gà đàn, lợn
đàn, trẻ con chơi hàng đàn, giàn bầu sai quả, biểu tượng âm dương, mùa
màng, bông lúa,... Cũng vì thế mới có tranh em bé bế cóc, chứ ngoài đời có ai
thèm bế một con vật xấu xí như vậy.
4.1.4. Đến đây, một câu hỏi tất yếu đặt ra: Tính biểu trưng có
mặt như một nguyên lí cơ bản trong truyền thống của mọi loại hình
nghệ thuật Việt Nam. Nhưng nguyên lí tả thực quán xuyến mọi loại
hình nghệ thuật truyền thống phương Tây. Đó là một sự kiện ngẫu
nhiên hay là một quy luật?
Ta đều biết, mọi nghệ thuật phải bắt nguồn từ thực tế cuộc đời. Vào
thời Đông Sơn ở Việt Nam đã từng tồn tại cả hai khuynh hướng: tả thực và
biểu trưng. Nhưng càng về sau, khuynh hướng cách điệu hóa càng phát triển
và nghệ thuật biểu trưng càng lấn át tả thực. Ta có thể giải thích hiện tượng này như sau:
Mọi nghệ thuật đều phản ánh ước vọng của con người vươn tới một
điều khác lạ, mới mẻ hơn so với cái mà người ta đang sống. Loại hình văn
hoá gốc du mục của phương Tây dễ coi thường và chế ngự thiên nhiên nên
trong nghệ thuật bộc lộ khát vọng trở về với tự nhiên. Loại hình văn hóa gốc
nông nghiệp phương Đông do thường sống hòa hợp với thiên nhiên nên bộc
lộ khát khao thoát khỏi tự nhiên, vươn tới cái hiệu trưng ước lệ (điều này sẽ
dễ thấy khi ta so sánh sở thích chơi cây lá, cá chim và đồ mây tre của người
dân đô thị với thú chơi bàn ghế chạm khắc tinh vi và trưng bày các sản phẩm
công nghiệp của người dân nông thôn).
4.1.5. Vào những năm 20 của thế kỉ này, ở Nam Bộ - nơi chịu ảnh hưởng
của văn hóa phương Tây sớm nhất - đã hình thành cải lương như một sản phẩm
giao lưu văn hóa Đông Tây.
Sân khấu hát bội đã được bổ sung thêm những yếu tố của tả thực
phương Tây: Các điệu bộ có tính ước lệ được giảm bớt nhường chỗ cho các
động tác giống thực; phông cảnh, đạo cụ được chú trọng hơn; hát được giảm
bớt về lượng nhường chỗ cho nói thường, nhưng lại được nâng cao về chất
nhờ sự xuất hiện của làn điệu vọng cổ. Vọng cổ được dùng ở những lúc gay
cấn và cảm động nhất, chậm rãi, rõ ràng, minh bạch, rất thích hợp cho việc
bộc lộ nội tâm, thuyết phục, van nài, tranh luận… Từ Nam Bộ, cải lương đã
đến khắp đất nước, ở đâu cũng được hoan nghênh, nhất là nhờ tài hát vọng
cổ. Điều này cho thấy ảnh hưởng phương Tây chỉ có thể hỗ trợ, bổ sung chứ
không thể lấn át hoặc thay thế được truyền thống văn hóa dân tộc.
4.2. Tính biểu cảm của nghệ thuật thanh sắc và hình khối
4.2.1. Nghệ thuật thanh sắc Việt Nam, vốn là sản phẩm của
một nền văn hóa nông nghiệp trọng âm còn mang TÍNH BIỂU CẢM cao độ.
Trong khi âm nhạc và các làn điệu dân ca Việt Nam (như quan họ Bắc
Ninh, hát dặm Nghệ Tĩnh, hò Huế, lí Nam Bộ...) đều thiên về diễn tả tình cảm
nội tâm đậm chất trữ tình với tốc độ chậm, âm sắc trầm, chú trọng luyến láy,
dễ đi vào lòng người gợi nên những nỗi buồn man mác và được biểu diễn chỉ
với vài nhạc công (trống, nhị, sáo, đàn...) … Thì âm nhạc phương Tây thích
mạnh mẽ dứt khoát, tốc độ nhanh, tiết tấu vui... cùng cả một dàn giao hưởng
và hợp xướng đồ sộ tạo nên ấn tượng hùng vĩ.
Không chỉ trong âm nhạc mà cả điệu múa của người Việt cũng không
ầm ĩ, ồn ào. Với những đường nét tròn trĩnh, uốn lượn mềm mại, không gãy
góc, đôi chân khép kín... sự kín đáo, tế nhị trong cách ăn mặc, động tác (che
nửa mặt bằng chiếc quạt, bằng chiếc nón quai thao...), người Việt múa tay,
mô phỏng những động tác nhổ mạ, cấy lúa, hái dâu… đậm chất nông nghiệp.
Còn phương Tây gốc du mục lại thiên về múa chân, mô phỏng tung vó ngựa
phi trên đồng cỏ bằng những động tác nhảy cao, nhảy dài, những bước xoạc
cẳng rộng, những động tác quay tròn cho áo váy tung lên mạnh mẽ.
Trong sân khấu Chèo ở các làng quê, tính biểu cảm được thể hiện khi
vai trò của người phụ nữ luôn được nhấn mạnh và tô đậm; từ bi như Thị Kính,
lẳng tính như phị Mầu; hiếu thảo như Thị Phương; tiết hạnh như Châu Long
hoặc si tình và phụ bạc như Xúy Vân,..
4.2.2. Trong nghệ thuật hình khối, TÍNH BIỂU CẢM cũng thể
hiện đậm nét không kém.
Người Việt tuy phải chịu chiến tranh liên miên, nhưng với bản tính
trọng tình, hiền hòa, họ hiếm khi tạo ra những tranh tượng với cảnh đầu rơi
máu chảy rùng rợn như các nước phương Tây. Trong khi đó tranh tượng thể
hiện tình cảm thì lại rất nhiều. Tranh Hứng dừa tả một gia đình hạnh phúc có
hai đứa con chơi ở gốc cây, còn người mẹ trẻ vẫn hồn nhiên một cách đáng
yêu trong động tác nâng vạt váy để đón cặp dừa từ tay chồng trên cây thả
xuống (dù trên thực tế chẳng có ai hứng dừa bằng vạt váy). Bên góc trái tờ
tranh là hai câu thơ Nôm: Khen ai khéo dựng nên dừa, đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi...
Bên cạnh đó, tình cảm của loài lật cũng được thể hiện mạnh mẽ không
kém: Ở đền vua Đinh Tiên Hoàng có một bia đá hắc k
cảnh những đôi khỉ ôm
nhau. Đáng lưu ý là các tranh đều trưng nơi đình, đền là những chốn linh
thiêng mà nhân dân ta rất coi trọng.
Có những thể loại nghệ thuật hội họa truyền thống độc đáo như tranh
lụa, tranh sơn mài dường như sinh ra chỉ thích hợp cho một loại đề tài - đó là
đề tài tĩnh, âm tính, thiên về tình cảm (như phong cảnh thiên nhiên, hoa lá, thiếu nữ, bà mẹ...).
4.3. Tính tổng hợp của nghệ thuật thanh sắc và hình khối
4.3.1. TÍNH TỔNG HỢP bộc lộ rõ nét trong nghệ thuật thanh sắc
và hình khối Việt Nam.
Khác với phương Tây, sân khấu truyền thống Việt Nam không phân biệt
các loại hình ca, múa, nhạc mà đồng thời có mặt trong một vở diễn. Người
Việt có cách nói tưởng chừng phi lí là “xem hát” nhưng chỉ nó mới diễn đạt
được khái niệm về một nền nghệ thuật tổng hợp có cả xem (diễn) và nghe
(hát). Sân khấu truyền thống Việt Nam tổng hợp mọi thể thơ, mọi loại văn,
mọi điệu hát, mọi phong cách ngôn ngữ đan xen vào nhau như thực tế ngoài
đời. Trong khi phương Tây phân biệt từng vở diễn là bi hay hài thì một vở
diễn Việt Nam lại có cả hai thứ: yếu tố hài thường trực với các vai hề môi, hề
gậy; có những vai không phải hề nhưng cũng gây cười như thầy bói, thầy
cúng... Trong vở chèo Quan âm Thị Kính, không có gì bi hơn là cuộc đời của
Thị Kính, nhưng cũng không có gì hài hơn những cảnh Thị Mầu lên chùa.
Người xem khóc đâu rồi lại cười ngay đấy.
Việt Nam còn có những nhạc cụ như ĐÀN BẦU một mình mang đủ cả
ba đặc trưng - tổng hợp, linh hoạt, và biểu cảm: Tổng hợp vì chỉ có một dây
mà cho đủ mọi âm thanh, cung bậc. Linh hoạt, vì chơi đàn bầu phải phối hợp
hai tay một cách linh hoạt (tay phải gảy dây, tay trái rung, ghìm cần đàn);
tay dương, tay âm tạo nên những âm thanh rung/phẳng, những cung bậc
ngắn/dài hài hòa tuyệt vời theo ý muốn. Biểu cảm, vì đàn bầu rất thích hợp
để thể hiện những cảm xúc âm tính, phù hợp với tâm hồn Việt Nam.
4.3.2. Ở nghệ thuật hình khối Việt Nam, về quan hệ hình thức -
nội dung, ta có sự tổng hợp của biểu trưng và biểu cảm.
Có những tác phẩm hình thức biểu trưng còn nội dung lại biểu cảm: ví
dụ các bức trai gái đùa vui. Ngược lại, có những tác phẩm hình thức biểu cảm
còn nội dung thì ước lệ: những con rồng hiểu trưng cho uy lực và quyền năng
lại có hình dáng rất mềm mại dịu dàng.
Về phong cách thể hiện, có sự tổng hợp của biểu trưng và tả thực.
Tranh Đám cướt chuột phá vỡ tỉ lệ kích thước các con vật thông thường, cắt
đôi đoàn rước để xếp theo thứ tự trên dưới, nhưng lại vẽ 12 con chuột mỗi
con một vẻ một cách chính xác theo lối tả thực. Tượng hổ đá ở lăng Trần Thủ
Độ tả thực toàn thân với những bắp thịt rắn chắc, riêng phần đuôi lại như
một khối thép vuông thành sắc cạnh theo lối biểu trưng. Người Việt Nam vốn
tĩnh tại, hiếu hòa, nhưng mang một sức mạnh nội tâm sôi động, giống như
cái đuôi con hổ chứa đựng sức mạnh ngầm ẩn, giúp con vật tăng sức mạnh
của mình lên bội phần khi nó quật đuôi xuống đất mà phóng đi.
4.4 Nghệ thuật thanh sắc Việt Nam còn cho thấy rõ TÍNH LINH
HOẠT của văn hoá nông nghiệp.
Âm nhạc truyền thống không đòi hỏi mọi nhạc công chơi giống hệt
nhau. Chỉ cần bắt đầu và kết thúc giống nhau và chơi đúng theo hai quy định
(ví dụ bắt đầu bằng chữ “xang”, kết thúc bằng chữ “xê” theo hơi Nam hay
hơi Xuân), còn ở các phách giữa thì mỗi nghệ nhân có thể bộc lộ hết tài năng của mình.
Sân khấu truyền thống không đòi hỏi diễn viên tuân thủ một cách chặt
chẽ bài bản của tích diễn. Mang trong dạ cái thần, cái ý chính của vở, người
nghệ nhân có thể biến báo là diện cho thích hợp. Tới nơi thích nghe hát thì
nghệ nhân cho thêm làn điệu này, câu hát nọ, tới nơi thích hài thì vai hề cài
thêm những câu ngoài tích, nơi thiên về khoa cử thì đưa thêm những câu lắm
chữ nghĩa... Chính sự linh hoạt này giải thích tại sao một bản nhạc, một tích
tuồng chèo thường có nhiều dị bản.
Tính linh hoạt còn thể hiện ở chỗ sân khấu truyền thống có sự giao lưu
rất mật thiết với người xem. Sàn diễn thường là sân đình, bốn manh chíếu
trải ngay trước của chính. Khác với sân khấu phương Tây đẩy người xem ngồi
ra xa để có cảm giác cảnh trên sàn diễn là thực, sân khấu Việt Nam coi mọi
thứ trên sàn diễn đều là ước lệ, để mặc người xem ngồi vây kín ba mặt, sát
tận mép chiếu. Người xem có thể tham gia bình phẩm khen chê hay chen
vào những câu ngẫu hứng. Diễn viên không thể "bỏ ngoài tai" mà phải có
phản ứng thích hợp. Quan hệ “diễn viên - khán giả” ở văn hóa nông nghiệp
mang tính dân chủ hơn nhiều so với quan hệ “diễn viên - khán giả” ở phương
Tây. Như trong chèo Quan âm Thị Kính, ở cảnh Thị Mầu lên chùa, khi Mầu
đang lượn những vòng tròn mỗi lúc một hẹp quanh Kính Tâm, buông những
lời tỏ tình mỗi lúc một công khai và nồng cháy thì trong số khán giả có người
tinh nghịch “phá đám” – họ nói chen vào. Mầu ơi, ở nhà mày người ta bắt hết
bò rồi! Nếu lúc đó diễn viên tỏ ra bối rối là coi như hỏng, diễn viên đã nhanh
trí chống tay hai bên hông, cong cớn mà rằng: Nhà tao còn ối trâu! Để rồi lai
quay vào tiếp tục tấn công tiểu Kính.
Lời của người xem đế vào ngẫu hứng như vậy, vở diễn sau lại có người
bắt chước, cứ dần trở thành lời thoại đặc biệt. “Tiếng đế” trở nên mang tính
nước đôi: nó vừa là tiếng nói của người xem ngoài vở diễn, lại vừa là một bộ
phận của vở diễn. Tiếng đế làm cho không khí của vở diễn trở nên uyển
chuyển, linh hoạt - đang bi chuyển thành hài, đang nghiêm trang chuyển thành bỡn cợt.
Sự giao lưu sân khấu với người xem còn được thể hiện ở vai trò của
người cầm chầu. Người cầm chầu được mỗi làng cử ra, phải là người sành
nghệ thuật, thuộc nhiều tích, biết nhiều làn điệu để đại diện cho dân làng nói
lên tiếng nói đánh giá thưởng phạt khen chê. Việc cầm trịch và khen chê
thưởng phạt được thể hiện qua tiếng trống chầu.
Trong trường hợp đặc biệt, người cầm chầu có thể cho hiệu lệnh đuổi
diễn viên khỏi chiếu diễn, buộc phải đưa người khác thế vào...
Sự giao lưu của sân khấu với người xem cũng thể hiện rất đậm nét
trong múa rối nước. Ở đây có những con rối chuyên lo việc giao lưu với khán
giả (điển hình là nhân vật chú Tiểu): đi mời khán giả ăn trầu, dẹp trật tự, giáo
trò, khép trò... Lại cũng do kĩ thuật trên nước phức tạp, dễ xảy ra tình huống
bất ngờ nên diễn viên rối nước thường có khả năng rất cao trong việc ứng
diễn, ứng tác một cách linh hoạt.