lOMoARcPSD| 59062190
VIETNAM NATIONAL UNIVERSITY
UNIVERSITY OF LANGUAGES AND INTERNATIONAL STUDIES
—--------------------------------
Western Civilizaon
Lecturer: Đặng Ngọc Sinh
The Reformaon, the Development of Overseas
Empires, and the Coming of Capitalism: A
Historical Interconnecon
Full name Student ID
Table of conent
lOMoARcPSD| 59062190
I. Giới thiệu (Quỳnh Anh) Thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là giai đoạn chuyển giao quan
trọng trong lịch sử châu Âu, khi những biến đổi sâu sắc về mặt tôn giáo, chính trị, kinh tế
xã hội diễn ra đồng thời đan xen. Trong bức tranh lịch sử rộng lớn ấy, ba hiện tượng nổi
bật mang tính quyết định đã tạo nên những bước ngoặt trọng đại: Phong trào Cải cách
(Reformation), sự phát triển mạnh mcủa các đế quốc hải ngoại, strỗi dậy của chủ nghĩa
tư bản hiện đại. Những hiện tượng này không chỉ tồn tại song song mà có mối quan hệ chặt
chẽ, tác động qua lại, tạo thành một chuỗi sự kiện và xu hướng lịch sử liên kết chặt chẽ, góp
phần định hình nền tảng của châu Âu hiện đại cả thế giới sau này. Việc nghiên cứu mối
liên hệ này không những giúp làm sáng tcác quá trình lịch sử phức tạp còn cung cấp
cái nhìn sâu sắc về cách thức xã hội – kinh tế – chính trị châu Âu được tái cấu trúc trong giai
đoạn chuyển tiếp từ Trung cổ sang thời cận đại. Phong trào Cải ch xuất phát từ những phản
ứng chống lại sự suy thoái và độc quyền quyền lực của Giáo hội Công giáo, với những nhà
cải cách như Martin Luther, John Calvin Ulrich Zwingli. Mặc ban đầu mang tính tôn
giáo, phong trào y nhanh chóng vượt ra ngoài lĩnh vực tín ngưỡng, trở thành động lực thúc
đẩy sự thay đổi hội sâu rộng. Việc phá vỡ sự thống trị tôn giáo duy nhất không chỉ làm
thay đổi nhận thức cá nhân mà còn tạo ra sự phân hóa chính trị mới, làm suy yếu các thể chế
phong kiến tăng cường quyền lực cho các quốc gia thành viên. Ngoài ra, Phong trào cải
cách còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giáo dục, tăng ờng tinh thần tự chủ
đặt nền móng cho một hệ tưởng mới tôn vinh sự cần cù, tiết kiệm tự chịu trách
nhiệm những yếu tố được xem nền tảng đạo đức của chủ nghĩa bản theo luận điểm
của nhội học Max Weber. Song song với sự biến chuyển về tôn giáo, châu Âu ớc
vào một thời kỳ mở rộng mạnh mẽ ra bên ngoài lãnh thổ lục địa. Các quốc gia như Bồ Đào
Nha Tây Ban Nha đi đầu trong công cuộc thám hiểm biển, mở rộng đế quốc hải ngoại với
những thuộc địa rộng lớn tại châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Các quốc gia khác như Hà Lan,
Anh và Pháp cũng nhanh chóng tham gia vào cuộc đua chiếm lĩnh và khai thác thuộc địa. Sự
phát triển của các đế quốc hải ngoại không chỉ đơn thuần là mở rộng lãnh thổ mà còn mở ra
một kỷ nguyên mới trong thương mại toàn cầu, với dòng chảy nguyên liệu thô, vàng bạc, lao
động lệ hàng a giữa các châu lục. Nhờ vào c thuộc địa, châu Âu thể tiếp cận
nguồn tài nguyên phong phú và thị trường rộng lớn, góp phần làm tăng tích lũy tư bản và tạo
ra cơ sở vật chất cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chủ nghĩa bản, vốn đã
bắt đầu hình thành châu Âu tthời Trung cthông qua các hoạt động thương mại tài
chính, nhưng chỉ thực sự bùng nổ phát triển mạnh mtrong thời kỳ cận đại này. Skết
hợp giữa những giá trị đạo đức mới của phong trào Cải cách và nguồn tài nguyên, thị trường
toàn cầu từ các đế quốc hải ngoại đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản phát triển.
lOMoARcPSD| 59062190
Các chế kinh tế mới như công ty cổ phần, ngân hàng, thị trường chứng khoán bắt đầu xuất
hiện, thúc đẩy tích lũy bản đầu mở rộng sản xuất. Tinh thần kinh doanh, ý chí đổi
mới và cạnh tranh trở thành đặc trưng của nền kinh tế tư bản mới. Các trung tâm kinh tế như
Lan, Anh nhanh chóng trở thành những đầu tàu của nền kinh tế toàn cầu mới này, đặt nền
móng cho sự xuất hiện của nền kinh tế công nghiệp hiện đại sau đó.
Mục tiêu của tiểu luận này là phân tích sự tác động qua lại giữa ba hiện tượng lịch sử quan
trọng này trong suốt giai đoạn từ thế kỷ XVI đến XVIII. Qua việc xem xét một cách tổng thể,
tiểu luận mong muốn làm rõ rằng Phong trào cải cách không chỉ là cuộc cải cách tôn giáo mà
còn là nguồn gốc của những thay đổi xã hội và kinh tế lớn; sự mở rộng các đế quốc hải ngoại
không chỉ là câu chuyện về lãnh thổ mà còn là động lực thúc đẩy sự tích lũy và phân phối của
cải trên quy mô toàn cầu; và chủ nghĩa tư bản hiện đại không phải là sản phẩm đơn lẻ của
một tiến trình kinh tế, mà là kết quả của sự giao thoa giữa các yếu tố tôn giáo, chính trị và
kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu tập trung vào khu vực Tây Âu, nơi các yếu tố này có sự hội tụ rõ nét
nhất, bao gồm các quốc gia như Đức, Hà Lan, Anh, Pháp – những trung tâm chính của phong
trào Cải cách, các cuộc thám hiểm hải ngoại và sự phát triển kinh tế tư bản. Về mặt thời gian,
tiểu luận nghiên cứu giai đoạn từ đầu thế kỷ XVI, khi Phong trào cải cách khởi phát, đến cuối
thế kỷ XVIII, trước thềm Cách mạng Công nghiệp, thời điểm đánh dấu bước chuyển đổi sâu
rộng tiếp theo trong lịch sử kinh tế thế giới. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng là
phương pháp lịch sử phân tích, sử dụng nguồn tư liệu sơ cấp như các văn bản tôn giáo, tài
liệu thương mại, chính sách thuộc địa cùng các công trình nghiên cứu học thuật thứ cấp nhằm
nhận diện mối quan hệ nhân quả và sự tác động qua lại giữa các hiện tượng. Bài tiểu luận
gồm bốn phần nghiên cứu: Phong trào Cải cách và những tác động xã hội – kinh tế của nó;
Sự mở rộng của đế quốc hải ngoại; Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và cuối cùng đó là sự liên
kết giữa phong trào cải cách, sự phát triển của đế quốc hải ngoại và sự ra đời của chủ nghĩa.
Thông qua việc phân tích các vấn đề đã nêu, tiểu luận nhằm xây dựng một bức tranh toàn
diện và đa chiều về sự tương tác phức tạp giữa ba yếu tố then chốt: tôn giáo, đế quốc hải
ngoại và kinh tế. Đây không phải là những hiện tượng riêng rẽ, mà là những mặt liên kết chặt
chẽ và tác động qua lại lẫn nhau, tạo nên một mạng lưới lịch sử phức tạp, ảnh hưởng sâu rộng
đến sự phát triển của xã hội châu Âu trong các thế kỷ XVI đến XVIII. Phong trào Cải cách
không chỉ làm thay đổi niềm tin tôn giáo và cấu trúc quyền lực trong các quốc gia châu Âu,
mà còn tác động sâu sắc đến các giá trị văn hóa, quan niệm về lao động, tích lũy tài sản và
lOMoARcPSD| 59062190
quản lý kinh tế. Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của các đế quốc hải ngoại cung cấp nền
tảng vật chất, thị trường mới và nguồn lực dồi dào cho sự bùng nổ kinh tế, thúc đẩy quá trình
tích lũy tư bản và mở rộng thương mại toàn cầu. Việc nhận diện và hiểu rõ mối quan hệ biện
chứng này là điều kiện tiên quyết để có thể tiếp cận một cách sâu sắc và toàn diện về những
biến động xã hội, kinh tế và chính trị của châu Âu trong giai đoạn chuyển mình quan trọng
này. Bởi lẽ, sự hình thành thế giới hiện đại – với các thiết chế kinh tế tư bản chủ nghĩa, các
cường quốc đế quốc, và các hệ thống xã hội chính trị mới – không thể được lý giải một cách
đầy đủ nếu tách rời khỏi mạng lưới các hiện tượng lịch sử gắn bó mật thiết này. Hơn nữa,
nghiên cứu này còn giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về gốc rễ và quá trình phát triển của nền
kinh tế toàn cầu hóa ngày nay, vốn được hình thành từ các tương tác lịch sử giữa tôn giáo,
quyền lực đế quốc và các mô hình kinh tế mới. Qua đó, bài tiểu luận không chỉ đóng góp vào
việc làm sáng tỏ các bước ngoặt trong lịch sử châu Âu mà còn cung cấp những hiểu biết quan
trọng để phân tích các xu hướng xã hội và kinh tế hiện đại trong bối cảnh toàn cầu.
II. Phong trào Cải cách và những ảnh hưởng kinh tế - xã hội ( Anh Kiều ) 1.
Tổng quan về phong trào Cải cách
Phong trào Cải cách là một cuộc cách mạng tôn giáo diễn ra ở các nhà thờ phương Tây được
coi là một trong những sự kiện mang tính ớc ngoặt ý nghĩa sâu sắc trong lịch sử châu Âu.
Bùng nổ từ năm 1517 tại Wittenberg, Đức với sự kiện Martin Luther đã công bố Chín mươi
lăm luận đề” tạo ra nhiều tác động lớn đến nền tảng của Giáo hội Công giáo từ lâu vốn trụ
cột cho quyền lực tối cao Tây Âu suốt thời Trung cổ. Không những tạo ra nhiều chuyển
biến mới về chính trị mà Phong trào Cải cách còn có những tác động lớn đến kinh tế và xã hội
lúc bấy giờ trở thành nền tảng cho việc thành lập Tin lành , một trong ba nhánh chính của
Cơ đốc giáo .
Martin Luther không chỉ một nhà thần học còn một trong những nhà cải cách đại
nhất trong lịch sử châu Âu. Đến đầu thế kỷ XVI, Giáo hội Công giáo La Mã đã trở nên cực kỳ
hùng mạnh trong cả tôn giáo lẫn các hoạt động chính trị, kinh tế hội. Nhưng quyền lực
này khi nắm trong tay thì sẽ luôn có sự xuất hiện của tham nhũng trong nội bộ: giới tăng lữ tận
hưởng cuộc sống xa hoa, nạn tham nhũng lan tràn, và đặc biệt là việc mua bán ân xá, một hình
thức trả tiền của người dân để được tha thứ những sai phạm. Đối với Luther, đây không chỉ là
một hành vi đạo đức mà còn hoàn toàn trái ngược với những giáo cơ bản của Kitô giáo.
Khi Luther công bố “Chín mươi lăm luận đề” của mình tại Nhà thờ Wittenberg vào năm 1517,
ông không chỉ phản đối một hệ thống hoạt động của nhà thờ còn đặt câu hỏi cho toàn bộ
lOMoARcPSD| 59062190
những giáo lý, nghi lễ cấu trúc tổ chức của Kitô giáo thời trung cổ. Một trong những điểm
chính cho “sự cứu rỗi chbởi đức tin”. Theo Luther, sự cứu rỗi không thể bị tác động
bởi những hành động bên ngoài như hành hương, dâng lễ vật hoặc mua ân chỉ thể
dựa vào đức tin của từng cá nhân trước Chúa sự cầu mong sự tha thứ từ Chúa. Đây một
sự thay đổi sâu sắc trong thần học, giải phóng con người khỏi tưởng phụ thuộc vào
giáo sĩ là “người trung gian” duy nhất giữa con người Chúa. Tư tưởng của Luther cũng yêu
cầu bác bỏ quyền tối cao của giáo hoàng, bãi bỏ chế độ giáo sĩ , cho phép việc kết hôn giữa các
linh mục và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc được tiếp cận hiểu Kinh thánh bằng ngôn
ngữ của riêng của từng người. Nhờ sự phát triển của công nghệ in ấn vào thời điểm đó, bản
dịch Kinh thánh tiếng Đức của Luther đã được phân phối rộng rãi, làm thay đổi nền kiến thức
phổ thông. Tư tưởng của Luther nhanh chóng lan truyền khắp nước Đức nhiều nước châu
Âu khác, đặt nền móng cho nhiều giáo phái Tin Lành, chẳng hạn như Luther (ở Đức
Scandinavia), Anh giáo (ở Anh) và các giáo phái Cải cách khác.
Bên cạnh Martin Luther, John Calvin, ở Geneva (Thụy Sĩ), cũng đóng vai tquan trọng không
kém trong sự phát triển của thần học Cải cách. Trong khi Luther tập trung vào đức tin cá nhân,
Calvin còn đi xa hơn khi xây dựng một thần học Calvin nghiêm ngặt có tính tổ chức cao tập
trung vào khái niệm chính "tiền định tuyệt đối". Theo Calvin, Chúa, bằng quyền năng
biên của mình, đã định trước số phận của mỗi người, dù được cứu rỗi hay bị nguyền rủa, và sẽ
không bị bất cứ điều trong cuộc sống này thay đổi. Tuy nhiên, học thuyết tiền định không
làm cho những người theo thuyết Calvin trở nên thụ động hay bi quan. Ngược lại, ông khuyến
khích mọi người sống đạo đức, lao động, làm việc nghiêm túc kluật, bởi thành
công trong cuộc sống hàng ngày có thể được coi là dấu hiệu thuộc về dân tộc "phồn vinh". Đây
là một điểm quan trọng vì nó tạo ra mối liên hệ giữa niềm tin và hành vi kinh tế xã hội, và hình
thành nên s Max Weber gọi "tinh thần của chủ nghĩa bản". Trong hội, theo
thuyết Calvin, lao động không còn được coi là hình phạt của Chúa như một số quan niệm thời
trung cổ, mà là phương tiện để phục vụ Chúa và tuân theo mệnh lệnh của Chúa. Từ đó, những
giá trị như tiết kiệm, tái đầu tư lợi nhuận, sống giản dị và chống lãng phí được coi là đức tính.
Sự hình thành các cộng đồng Tin Lành theo tinh thần Calvin cũng mang lại một hình
hội tổ chức dân chủ hơn, tập trung vào trách nhiệm của nhân tập thể. Geneva,
Scotland, Lan hay các thuộc địa Bắc Mỹ, hệ thống tưởng Calvin không chỉ điều chỉnh
đời sống tinh thần còn định hình trách nhiệm đối với kinh doanh, tài chính quản
hội, mở đường cho sự phát triển của các thể chế dân chủ, pháp quyền và nền kinh tế thị trường.
lOMoARcPSD| 59062190
Những nhà cải cách nhà thờ thời Trung cổ như Thánh Phanxicô thành Assisi, Waldes (người
sáng lập ra phái Waldensians), Jan Hus và John Wycliffe đã đề cập đến các khía cạnh của đời
sống nhà thờ trong nhiều thế kỷ trước. Erasmus tại thành Rotterdam, một học giả nhân văn vĩ
đại, một người ủng hộ tích cực cho cải cách Công giáo tự do đã chỉ trích những mê tín dị đoan
phổ biến trong nhà thờ và thúc giục những n đnoi gương Chúa Kitô như một người thầy đạo
đức tối cao trong thế kỉ XVI. Những dữ liệu này cho thấy mối quan tâm liên tục về sự đổi mới
trong Giáo hội trước khi “Chín mươi lăm luận đề” được dán lên cửa các nhà thờ ở Wittenberg,
Đức, vào ngày 31 tháng 10 m 1517, đêm trước Lễ Các Thánh, ngày đánh dấu sự khởi đầu
của Phong trào Cải cách.
Phong trào Cải cách ở Đức gần như ngay lập tức nổi lên ở nhiều nơi và các lực lượng cải cách
khác nổi lên bên cạnh với tư tưởng của Luther. Ulrich Zwingli đã xây dựng một nền thần quyền
Cơ đốc giáo tại Zurich, bao gồm Giáo hội và Nhà nước được cho là để phục vụ Chúa. Zwingli
cũng đã đồng nh với Luther về tính trung tâm của học thuyết vsự biện minh bởi đức tin,
nhưng lại ủng hộ một cách hiểu khác về Bích Thánh Thể. Luther bác bỏ học thuyết biến thể
của Giáo hội Công giáo, cho rằng bánh và rượu trong Bí tích Thánh Thể là da thịt và máu của
Chúa Kitô. Theo quan điểm của Luther, thần thcủa Chúa Kitô hiện diện hữu hình Chúa
Kitô hiện diện ở khắp mọi nơi, trong khi Zwingli lập luận rằng điều đó đòi hỏi lòng tin vào sự
hiện diện linh hồn của Chúa Kitô và sự tuyên xưng đức tin của người tiếp nhận.
Một hình thức quan trọng khác của đạo Tin Lành là thuyết Calvin, được đặt theo tên của John
Calvin, một luật người Pháp đã chạy trốn khỏi nước Pháp sau khi cải sang đạo Tin Lành.
Tại Basel, Thụy Sĩ, Calvin đã xuất bản ấn bản đầu tiên của cuốn sách Institutions of the
Christian Religion vào năm 1536, hệ thống luận thần học đầu tiên của phong trào Cải cách
mới. Calvin đồng tình với quan điểm của Luther về những biện minh của đức tin. Tuy nhiên,
ông lại tìm ra một điểm tích cực hơn của luật pháp trong cộng đồng Cơ đốc giáo so với Luther.
Tại Geneva, Calvin đã có thể đưa ra những tưởng của nh về một cộng đồng kỷ luật.
Calvin cũng nhấn mạnh đến học thuyết tiền định và giải thích rằng Bí tích Thánh Thể là sự kết
nối thiêng liêng giữa da thịt máu của Chúa Kitô. tưởng của Calvin cuối cùng đã hòa nhập
với tưởng của Zwingli trong phong trào Cải cách, thể hiện qua thần học trong Tuyên ngôn
Helvetic (lần thứ hai) năm 1561.
Phong trào Cải cách cũng lan rộng sang các nước châu Âu khác trong suốt thế kỷ XVI. Đến
khoảng giữa thế kỷ, đạo Luther đã thống trị Bắc Âu. Những cá thể Tin Lành cấp tiến hơn tiếp
tục được truyền bá tới Đông Âu, một mảnh đất màu mỡ đang phải chịu đựng sự yếu kém của
lOMoARcPSD| 59062190
các vị vua, sức mạnh của giới quý tộc, sự khan hiếm các thành phố sự tồn tại lâu dài của chủ
nghĩa đa tôn giáo.Mặt khác, Tây Ban Nha Ý sẽ trở thành những trung m lớn của phong
trào Phản cải cách Công giáo, và đạo Tin lành sẽ khó có thể xuất hiện ở đó. Anh, nguồn gốc
của cuộc Cải cách có ý nghĩa về cả chính trị lẫn tôn giáo. Do tức giận vì Giáo hoàng Clement
VII từ chối hủy bỏ hôn nhân, Vua Henry VIII đã bãi bỏ quyền lực của Giáo hoàng và thành lập
Giáo hội Anh giáo vào năm 1534 trong đó người đứng đầu nhà vua . Bất chấp những tác
động chính trị, việc tái thiết lập lại hệ thống Giáo hội đã tạo điều kiện cho tôn giáo những
sự thay đổi ở Anh , bao gồm việc chuẩn bị nghi lriêng của nước Anh, tạo ra “Sách Cầu
nguyện” chung. Ở Scotland, John Knox, người lại Geneva đã chịu những ảnh ởng lớn từ
John Calvin, đã đứng lên nh đạo việc thành lập Giáo hội Trưởng lão từ đó giúp Scotland cuối
cùng có thể thống nhất với Anh.
Phong trào Cải cách không chỉ đơn thuần là một sự kiện thần học mà còn là bước ngoặt lịch sử
mang tính quyết định đối với bối cảnh chính trị, xã hội văn hóa của châu Âu hiện đại. Hậu
quả trực tiếp ràng nhất là sự chia rẽ sâu sắc trong Kitô giáo phương Tây: các nước phía
bắc như Đức, Anh, Thụy các vùng Bắc Âu dần dần cải sang đạo Tin lành, trong khi các
nước phía nam như Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha hầu hết nước Pháp vẫn trung thành với
Công giáo La Mã. Bản đồ tôn giáo của châu Âu đã được định nghĩa lại, tạo ra một thực tế chính
trị mới với những xung đột tiềm ẩn trong nhiều thế kỷ. Sự chia rẽ tôn giáo này nhanh chóng
dẫn đến các cuộc chiến tranh tôn giáo dữ dội, đáng chú ý nhất Chiến tranh Ba mươi năm
(1618-1648), một trong những cuộc xung đột tôn giáo chính trị tàn khốc nhất trong lịch sử
châu Âu. Thay vì mang lại hòa bình tôn giáo như mong đợi, cuộc Cải cách đã làm trầm trọng
thêm sự không khoan dung và đàn áp lẫn nhau, vì cả người Công giáo và Tin lành đều coi giáo
lý của nhau là dị giáo và cần phải tiêu diệt. Từ đó trở đi, quyền tự do tín ngưỡng trở thành cuộc
đấu tranh gian khổ chỉ dần được công nhận sau nhiều thế kỷ đối đầu. Trong lĩnh vực văn
hóa và nghệ thuật, cuộc Cải cách cũng để lại dấu ấn sâu sắc. Trong khi Giáo hội Công giáo tiếp
tục phát triển phong cách nghệ thuật Baroque công phu và tráng lệ để khẳng định quyền uy và
sự lộng lẫy của đức tin truyền thống, Giáo hội Tin lành lại nhấn mạnh o sự giản dị, trang
trọng và thanh khiết, phản ánh tinh thần ôn hòa và tập trung vào đức tin bên trong hơn là hình
thức bên ngoài. Hai thái cực này tạo nên sự đối lập trong không gian thẩm mỹ biểu tượng
tôn giáo, đánh dấu sự thay đổi sâu sắc trong khái niệm nghệ thuật ở thời kỳ hậu trung cổ. Một
ảnh hưởng tích cực khác không thể bỏ qua chính là sự phát triển đáng kể của giáo dục. Đối với
người Tin Lành, mọi người đều có quyền tiếp cận Kinh thánh và đọc trực tiếp, vì vậy việc phổ
biến Kinh thánh và giáo dục đại chúng trở thành một nhiệm vụ tôn giáo. Mặt khác, Công giáo
lOMoARcPSD| 59062190
cũng khuyến khích hệ thống giáo dục giải thích và bảo vệ giáo lý cũng như bác bỏ các lập luận
của cuộc Cải cách, do đó tạo ra một môi trường học thuật năng động và hòa giải. thể nói,
cuộc Cải cách tôn giáo đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phong trào học thuật, giải
phóng tư tưởng cá nhân và đặt nền móng cho các quá trình cải cách chính trị - xã hội sau này.
2. Tư tưởng kinh tế mới hình thành từ Cải cách
2.1. Đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản
Trong tác phẩm “Đạo đức Tin lành tinh thần của chủ nghĩa bản( The Protestant Ethic
and the Spirit of Capitalism (1905), Max Weber minh họa mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và cơ
cấu kinh tế. Mặc dù các nhà phê bình hầu hết chỉ trích ông vì ủng hộ cơ chế nhân quả sai lầm,
nhưng đây không phải ý định của ông. Thay vào đó, ông cho rằng hệ tưởng Thanh giáo
đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản.
Bằng cách xem các khái niệm về công việc và sự giàu có là phước lành, “Tin Lành khổ hạnh”
cụ thể chủ nghĩa Calvin, chủ nghĩa Pietism, chủ nghĩa Giám chủ nghĩa Rửa tội đã
tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Theo Weber, quá trình
này diễn ra thông qua khái niệm tiền định của Calvin, trong đó thiên đường được dành riêng
cho một số ít người được đặc ân và tiền định (certudo salutis), và phần còn lại của nhân loại bị
kết án sphải chịu sự nguyền rủa. Số phận của mỗi con người đã được định đoạt: được ban
phước hay bị nguyền rủa, và không thể dùng nỗ lực của con người hay các bất kì nghi lễ thiêng
liêng nào để đảm bảo được vào thiên đàng. vậy, những người theo tưởng Calvin luôn
sống trong sợ hãi. Để bác bỏ điều đó, họ tìm kiếm những dấu hiệu có thể có về sự lựa chọn của
mình, vừa để chứng minh sự lựa chọn củanh là đúng đắn, vừa để thuyết phục với bản thân
rằng chắc chắn sẽ được vào thiên đàng.
Vì vậy, những người theo chủ nghĩa Calvin thường có hành vi ủng hộ chủ nghĩa tư bản: họ làm
việc không biết mệt mỏi và tái đầu tư số tiền tích lũy từ nỗ lực của họ. Họ làm như vậy để cho
thấy dấu hiệu hữu hình về sự linh hoạt của một con người; Bằng cách đạt được kết quả lao
động của mình với Chúa qua sự tin tưởng và kiên trì, họ sẽ được coi là những cá thể được ban
phước lành. Mặc quan điểm ch cực như vậy về công việc vẻ trực quan với ngày nay,
nhưng đó chỉ chúng ta đã quên mất chế chính chịu trách nhiệm cho mối liên hệ giữa
công việc lòng tin . Mối liên hệ này xuất hiện trong ttiếng Đức, “beruf”, là sự kết hợp giữa
những ngày nay chúng ta xem t về thiên chức hoặc tiếng gọi của một người. Từ y thường
chỉ xuất hiện trong các nghi lễ Thiên chúa giáo sau cuộc Cải cách Tin lành và rất khó dịch
lOMoARcPSD| 59062190
bản thân ý tưởng của từ này rất tách biệt mang ý nghĩa độc lập. Nói cách khác, từ “beruf”
ám chỉ một loại lao động hoặc công việc được coi cả thiên chức cá nhân của một người cái
Chúa kêu gọi họ làm. Qua cách siêng năng thực hiện “beruf”, người Thanh giáo đã hoàn
thành hai nhiệm vụ: thứ nhất, họ tuân theo mệnh lệnh thiêng liêng, cao cả liên quan đến trách
nhiệm và bổn phận của mình trên Ti đất, và thứ hai, họ chứng minh sự lựa chọn thiêng liêng
đúng đắn của nh cho thế giới bên kia. Ngược lại, bỏ công việc của mình và lười biếng lao
động đồng nghĩa với việc trốn tránh các lời ban phước của Chúa và là dấu hiệu của sự nguyền
rủa.
Điều này tách biệt xã hội Thanh giáo khỏi cái mà Weber gọi là "chủ nghĩa truyền thống". Theo
Weber, bản chất con người chỉ nên làm những cần thiết để tồn tại. Làm việc quá sức để kiếm
tiền thể dẫn đến tích lũy của cải cho nhân, theo cách này, trước Phong trào Cải cách
bị coi tội lỗi. Trong khi giáo lý đốc giáo định nghĩa ràng sự giàu điều ghê tởm
(tức là con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Vương quốc của Chúa), và trong
khi thời xa xưa, những người ngoan đạo hầu như không bao giờ làm việc (như trường hợp của
nhiều dòng tu sĩ), thì chủ nghĩa Thanh giáo lại coi sự giàu có là một phước lành và lao động là
sự tận tụy với Chúa. Theo cách này, học thuyết này phá vỡ các hệ tư tưởng đương thời và kết
nối đức tin với công việc lao động đồng thời cũng thúc đẩy những người Thanh giáo lao
động, coi công việc là một nghề nghiệp.
Tuy nhiên, chủ nghĩa bản không cần đến chủ nghĩa Tin Lành khổ hạnh để tồn tại. Sự gia tăng
giới hóa sự tận dụng nguồn lao động vốn đã cho phép chnghĩa bản thoát khỏi sự ràng
buộc về tôn giáo sự ủng hộ về mặt ý thức mà nó từng được hưởng trong những thế kỷ trước.
Những người Thanh giáo thể những người duy nhất cảm thấy buộc phải thực hiện công
việc kiểu “beruf” với cường độ cao , nhưng ngày nay nghĩa vụ phải làm việc, lời kêu gọi
phải làm việc hiệu quả đều là trách nhiệm của mọi người trong xã hội bản. Cuối cùng, chủ
nghĩa bản phương Tây đã đạt đến điểm “cá nhân tồn tại lợi ích của các tập thể, chứ
không phải ngược lại”.
Phần lớn những lời chỉ trích nhằm vào đạo đức Tin Lành của Weber khi ông tập trung vào mối
quan hệ nhân quđược cho là giữa cuộc Cải ch Tin nh sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản.
Đây là sự thù địch xuất phát từ sự hiểu lầm. Weber đã cẩn thận tránh bị cáo buộc xây dựng
một lập luận yếu ớt như vậy, chỉ ra rằng i luận của ông phát triển một thuyết hồ hơn
nhiều về cái Goethe gọi là “sự tương thích có chọn lọc”. Ông đã mượn thuyết về tương
tác và hành vi con người của Goethe, bắt nguồn từ hóa học, để phát triển lý thuyết xã hội học
lOMoARcPSD| 59062190
của riêng mình về động lực của con người và tác động của nó đến lịch sử nhân loại. Xét trong
bối cảnh xã hội học nói chung, khái niệm như vậy dường như không mấy nổi bật. Như Weber
đã làm trong các xuất bản sau này của ông về tôn giáo ở Trung Quốc Ấn Độ, Đạo đức Tin
lành luôn tìm cách phân tích những R.H. Tawney gọi “các điều kiện tâm tạo n sphát
triển của nền văn minh tư bản chủ nghĩa”.
Trong nhiều thập kỷ, Weber đã tbào chữa rằng ông chưa bao giờ ý định nói rằng sự trỗi
dậy của đạo Tin lành đã kéo theo chủ nghĩa bản. Trong phần giới thiệu của nghiên cứu vào
năm 1920, ông tả mục đích của công trình chính trong cuộc đời mình giải thích “ảnh
hưởng của một số ý tưởng tôn giáo đối với sự phát triển của tinh thần kinh tế hoặc đạo đức của
một hệ thống kinh tế”. Điều này không bao giờ có nghĩa là tôn giáo thúc đẩy sự phát triển của
một hệ thống kinh tế, đúng hơn tôn giáo có thể đóng một vai trò độc nhất trong việc
hướng dẫn hành động của con người. Chủ nghĩa Thanh giáo đã cung cấp một khuôn khổ để
phá vỡ các mô hình truyền thống và tạo ra “sự khởi nguồn của thói quen tâm lý cho phép con
người thỏa mãn nhu cầu của chủ nghĩa tư bản hiện đại ban đầu”. Cho đến lúc đó, chủ nghĩa tư
bản bị xã hội truyền thống lên án tinh thần của thời đại lên án công việc và sự giàu có. Không
chỉ biện minh còn tôn vinh sự cống hiến cho một nghề nghiệp, cuộc Cải cách đã mở ra cánh
cửa cho các loại hình lao động theo kiểu bản chủ nghĩa. Đây không phải mối quan hệ nhân
quả sự thúc đẩy các điều kiện thuận lợi cho sự tiến triển của một hệ thống kinh tế. Một
lập luận như vậy nhìn vẻ không ràng, nhưng Weber nhận thức được những hạn chế
phạm vi của nó. Những cuộc tấn công vào mô hình nhân quả được cho là của ông dễ dàng phá
vỡ một lập luận đơn giản hơn nhiều so với lập luận mà Weber định đưa ra.
Weber nổi tiếng hơn Karl Marx và Georg W.F. Hegel trong việc nhấn mạnh vai trò của các hệ
thống tư tưởng và tác động của chúng lên hành vi con người như là đòn bẩy lịch sử. Trong khi
thuyết của Marx luôn trích dẫn các lực lượng vật chất Hegel chỉ ra con người (tức người
Đức hoặc người Pháp) là những khối xây dựng thiết yếu đang được đề cập, Weber lại chỉ ra cá
nhân là đơn vị chính để giải thích sự thay đổi. Mục tiêu của ông với tư cách là một nhà xã hội
học xác định các động lực thúc đẩy hành động của con người thông qua verstehen, hay sự
hiểu biết đồng cảm về hành vi của con người. Do đó, Weber thu hẹp các giải thích về xu hướng
lịch sử xuống cấp độ vi mô và bảo vệ tầm quan trọng của các ý tưởng trong hành vi con người
và con người khi hành vi thay đổi.
Sự khác biệt thứ hai giữa Weber và Hegel, Marx và các nhà thuyết hiện đại hóa đương thời
nằm ở thái độ bi quan của ông. Mặc dù Hegel và Marx không đồng tình sâu sắc về việc liệu
lOMoARcPSD| 59062190
hội tự do phải mục tiêu cuối cùng của lịch sthế giới hay không, nhưng họ đều đồng ý
rằng hành trình dài của nhân loại sẽ tiến về phía trước không hồi kết. Trong phép biện
chứng của Hegel, lịch sử vươn tới những ý tưởng cao hơn khi các hệ thống tư tưởng xung đột
giải quyết những mâu thuẫn của chúng. Đối với Marx, những mâu thuẫn này không biểu hiện
ở ý tưởng mà ở mâu thuẫn vật chất về lực lượng sản xuất: từ sự sụp đổ của chế độ phong kiến
đến sự trỗi dậy của giai cấp tư sản và sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, mọi tiến bộ đều có thể
được giải thích bằng đấu tranh giai cấp bắt nguồn từ động lực vật chất của sản xuất. Đối với
Marx, chủ nghĩa tư bản cũng cần phải được khắc phục. Cả hai nhà tư tưởng đều phát triển các
hệ tư tưởng tiến bộ và có sức thuyết phục.
Chủ nghĩa duy và chủ nghĩa thế tục ngày càng phát triển trong lịch sử đã đưa Werber đến kết
luận rằng nhân loại thậm chí còn không đi đúng hướng . Vào trước đêm Thế chiến thứ nhất nổ
ra, Weber đã coi sự tiến triển của lịch sđến một thời điểm nhất định là một sai lầm. Chủ nghĩa
Thanh giáo đã lan truyền một sự vỡ mộng chung, bằng cách phơi bày những sự thật về sự thần
của các bí tích của Cơ đốc giáo nhằm cứu chuộc linh hồn con người. Niềm tin của ông vào
thuyết tiền định đã bác bỏ mọi hình thức phô trương, âm nhạc và nghi lễ của Công giáo vì cho
rằng chúng vô lý và mang tính ngoại giáo. Sau đó, thời kỳ Khai sáng và sự phát triển của khoa
học tiến tới không chỉ cho phép con người có cái nhìn rõ ràng về thứ họ nhìn thấy, qua đó phá
hủy những thần thoại của mê tín và truyền thống, mà còn tạo ra cơ giới hóa thông qua đổi mới
công nghệ. Tất cả những điều này kết hợp lại đã thúc đẩy sự bành trướng không thể tránh khỏi
của chủ nghĩa bản. Chủ nghĩa bản đã thoát khỏi chủ nghĩa Thanh giáo và thoát khỏi lồng
giam”. Nói cách khác, mối liên hệ giữa chủ nghĩa bản chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo đã
biến mất từ lâu. Chỉ còn lại những yêu cầu về nguồn lao động và sức lao động của con người,
tách biệt khỏi mọi hệ tưởng vượt ra ngoài chủ nghĩa duy vật. Suy cho cùng, chủ nghĩa
bản là một “hệ thống kinh tế không dựa trên phong tục hay truyền thống, mà dựa trên sự điều
chỉnh có chủ đích và có hệ thống các phương tiện kinh tế để đạt được mục tiêu lợi nhuận tiền
tệ”. Hệ thống này stiếp tục trói buộc cuộc sống con người cho đến khi “tấn than hóa thạch
cuối cùng bị đốt cháy”. Đây được đánh giá không phải một triển vọng khả quan tại thời điểm
hiện tại.
Ngày nay, sự bi quan của Weber có vẻ đúng hơn so với suy nghĩ từ trước của ông. Mặc dù đã
xuất hiện từ hơn một thế kỷ trước, nhưng đạo đức nghề nghiệp của người Tin Lành vẫn rất
quen thuộc trong đời sống. Weber bày tỏ quan ngại về một số yếu tố của xã hội Đức khi trong
đó “con người tồn tại công việc kinh doanh của mình, thay ngược lại”, và công dân không
thể biện minh cho lao động không ngừng của mình bằng bất cứ lý do nào khác ngoài nhu cầu
lOMoARcPSD| 59062190
“chu cấp cho con cháu của họ”. Chủ nghĩa bản không những tiếp tục phát triển không ngừng
, luôn né tránh các thí nghiệm xã hội chủ nghĩa, mà còn khiến cho những người theo chủ nghĩa
này quên mất vai tquan trọng của đạo Tin lành khổ hạnh trong sự trỗi dậy của nó. Quan niệm
lao động vì mục đích của dường như không bị đặt dấu hỏi các nước phương Tây và nguồn
gốc của cũng chẳng bị xem xét tới. Ngày nay, với sự phát triển của robot tự động hóa,
câu hỏi “tại sao chúng ta làm việc?” được đặt ra đó điều không thể tránh khỏi. Nghiên cứu
này của Weber rất xứng đáng được đọc lại nhiều lần, dù chỉ để nhắc nhở chúng ta rằng chúng
ta không nên coi chủ nghĩa tư bản là điều hiển nhiên.
2.2. Tác động của Cải cách đến hành vi kinh tế và các thiết chế kinh tế Cuộc Cải cách
tôn giáo thế kỷ 16, bắt đầu với tưởng của Martin Luther phát triển mạnh mẽ dưới ảnh
hưởng của John Calvin, không chỉ làm cách mạng hóa tôn giáo còn mang lại những thay
đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế và xã hội ở châu Âu. Trong tác phẩm kinh điển “Đạo đức Tin
Lành tinh thần của chủ nghĩa bản” (The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism
(1905) , Max Weber đã đưa ra một lập luận cơ bản: chính đạo đức khổ hạnh của đạo Tin Lành,
và đặc biệt là của chủ nghĩa Calvin, đã góp phần định hình nên hành vi kinh tế hiện đại và các
thể chế kinh tế bản. Weber lập luận rằng trong khi Công giáo truyền thống coi đời sống tu
viện tâm linh tách biệt với lao động của nhân loại, Calvin nhấn mạnh rằng mỗi cá nhân
đều một “thiên chức(Beruf) để thực hiện trong thế giới vật chất, tức trong công việc
hàng ngày của họ. Đặc biệt, học thuyết tiền định của Calvin cho rằng Chúa đã định trước số
phận cứu rỗi của con người, nhưng con người không thể biết liệu họ có được chọn hay không.
vậy, những người theo chủ nghĩa Calvin đều phải cgắng làm việc chăm chỉ, sống có đạo
đức, tránh xa thú vui vật chất và tích lũy của cải như một phương tiện để khẳng định lại mình
thuộc về nhóm người được ban phước và cứu rỗi khỏi những sai lầm từ Chúa. Từ đó nảy sinh
một hình thức đạo đức nghề nghiệp mới: kỷ luật, tiết kiệm, làm việc chăm chỉ, tái đầu tư thay
chi tiêu quá mức; những phẩm chất Weber gọi “tinh thần của chủ nghĩa bản”. Những
hành vi kinh tế này không xuất phát từ lợi ích nhân thuần túy xuất phát từ niềm tin tôn
giáo sâu sắc. Theo thời gian, khi tôn giáo mất đi ảnh hưởng, tinh thần này vẫn tồn tại trong xã
hội như một giá trị kế thừa, trở thành nền tảng đạo đức của giai cấp tư sản và doanh nhân hiện
đại.
Những thay đổi trong hành vi của cá nhân đã dẫn đến những chuyển đổi đáng kể trong các thể
chế kinh tế. Các quốc gia theo đạo Tin lành như Bắc Đức, Hà Lan và Anh những nước tiên
phong trong việc áp dụng các hình thức minh bạch vào trong hệ thống các công ty, ngân hàng,
công ty cổ phần, hệ thống sổ kế toán kép và quản lý tài chính. Đây không phải là sự trùng hợp
lOMoARcPSD| 59062190
ngẫu nhiên sphản ánh của một quá trình trong đó đạo đức song song với tính hợp
trong tổ chức kinh tế. Quản chuyên nghiệp, hiệu quả và hợp pháp đã dần thay thế các hình
thức kinh tế truyền thống, chủ nghĩa cá nhân hoặc phi lý. Hơn nữa, cuộc Cải cách đã góp phần
làm suy yếu vai trò độc quyền của Giáo hội Công giáo, tạo điều kiện cho các xã hội phát triển
theo hướng thế tục đa nguyên, do đó tạo ra môi trường cạnh tranh tự do pháp quyền,
những yếu tố cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường hiện đại. Các cộng đồng Tin
lành không chỉ tổ chức đời sống tôn giáo của mình mà còn phát triển các hình thức quản lý đô
thị và thương mại tự chủ, qua đó thúc đẩy phân công lao động, thương mại xuyên biên giới và
tích lũy vốn.
Tuy nhiên, Weber cũng cảnh báo rằng khi các giá trị tôn giáo nguyên thủy phai nhạt, các thể
chế kinh tế hiện đại sẽ tiếp tục hoạt động theo cách vô thức và vô đạo đức, ép con người vào
“lồng sắt” của lý trí công cụ, nơi cá nhân bị ràng buộc bởi một hệ thống các quy tắc, luật lệ
và hiệu suất, nhưng không có ý nghĩa tâm linh. Đây là mâu thuẫn cố hữu của chủ nghĩa hiện
đại: các thể chế ra đời từ lý tưởng tôn giáo, nhưng chúng trở thành những cỗ máy vô nhân
đạo khi chúng tách rời nguồn gốc của mình. Như vậy có thể thấy rằng, cuộc Cải cách tôn
giáo thế kỷ XVI không chỉ là một sự kiện tôn giáo mà còn là nhân tố quyết định trong việc
hình thành tư tưởng kinh tế hiện đại và thể chế quản lý của chủ nghĩa tư bản.
3. Sự sụp đổ của chế độ phong kiến (Thu Hà)
Trong bối cảnh lịch sử đầy biến động của châu Âu từ thế kỷ XVI đến XVIII, sự suy tàn của
chế độ phong kiến không phải là một sự kiện đơn lẻ mà là kết quả của sự tương tác phức tạp
giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và tư tưởng. Phong trào Cải cách tôn giáo, sự phát triển của
các đế chế hải ngoại, và sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đóng vai trò then chốt trong quá trình
này, dẫn đến sự suy yếu của quyền lực truyền thống và sự trỗi dậy của những tầng lớp xã hội
mới.
Sự sụp đổ của chế độ phong kiến là một quá trình kéo dài, không phải là một sự kiện đột
ngột. Nó được thúc đẩy bởi sự xói mòn từ bên trong và những áp lực mạnh mẽ từ bên ngoài,
đặc biệt là do những hệ quả của Phong trào Cải cách và sự bùng nổ của chủ nghĩa tư bản.
3.1. Suy giảm quyền lực của giáo hội và quý tộc truyền thống
Sự suy yếu của Giáo hội và quý tộc truyền thống là một trong những cột mốc quan trọng
nhất. Trước hết, Cải cách tôn giáo đã giáng một đòn mạnh vào quyền uy của Giáo hội Công
lOMoARcPSD| 59062190
giáo La Mã. Những lạm dụng, tham nhũng nội bộ và sự xa hoa của Giáo hội đã gây ra làn
sóng bất mãn trong dân chúng. Khi Martin Luther khởi xướng Cải cách, ông không chỉ thách
thức quyền lực của Giáo hoàng mà còn khuyến khích việc đọc và diễn giải Kinh Thánh bằng
ngôn ngữ bản địa, phá vỡ sự độc quyền về tư tưởng của giới tăng lữ. Ở nhiều nơi, các nhà cai
trị đã lợi dụng Cải cách để tịch thu tài sản của Giáo hội, làm suy yếu nghiêm trọng khả năng
tài chính và quyền lực chính trị của họ. Sự chia rẽ tôn giáo cũng dẫn đến các cuộc chiến tranh
kéo dài, càng củng cố quyền lực của các nhà nước thế tục khi họ trở thành trọng tài hoặc
người bảo hộ cho một phe phái.
Cùng lúc đó, tầng lớp quý tộc phong kiến cũng dần mất đi vị thế. Sự ra đời của thuốc súng và
pháo binh đã làm giảm tầm quan trọng của kỵ binh bọc thép, vốn là xương sống của quân đội
phong kiến. Các cuộc chiến tranh hiện đại đòi hỏi quân đội chuyên nghiệp được tài trợ bởi
nhà nước, thay vì phụ thuộc vào nghĩa vụ quân sự của chư hầu. Kinh tế tiền tệ phát triển cũng
khiến đất đai không còn là nguồn tài sản duy nhất. Các vị vua có thể thu thuế bằng tiền để
xây dựng quân đội và bộ máy hành chính, giảm bớt sự phụ thuộc vào các lãnh chúa. Dần dà,
quyền lực tập trung vào tay quân chủ, biến quý tộc từ những lãnh chúa tự trị thành tầng lớp
sống phụ thuộc vào triều đình
3.2. Gia tăng vai trò của tầng lớp thương nhân và thị dân
Sự suy tàn của chế độ phong kiến và sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản không thể tách rời khỏi
vai trò ngày càng tăng của một tầng lớp mới: tầng lớp thương nhân và thị dân, hay còn gọi là
bourgeoisie. Họ không chỉ là những người làm giàu từ các hoạt động kinh tế, mà còn là động
lực thúc đẩy những thay đổi sâu rộng về xã hội, chính trị và tư tưởng, định hình lại cục diện
châu Âu.
Sự phát triển vượt bậc của thương mại và đô thị chính là nền tảng cho sự lớn mạnh của tầng
lớp này. Sau các cuộc phát kiến địa lý, các tuyến đường thương mại mở rộng, biến các thành
phố thành những trung tâm kinh tế sầm uất, nơi hàng hóa được sản xuất, trao đổi và dòng tài
chính luân chuyển không ngừng. Chính tại đây, các thương nhân, chủ ngân hàng, thợ thủ
công và những người làm nghề tự do đã tích lũy được khối tài sản khổng lồ, tạo nên một lực
lượng kinh tế mới đầy quyền lực.
Để hoạt động kinh doanh phát triển, tầng lớp tư sản cần một môi trường ổn định, minh bạch.
Họ khao khát một thị trường tự do với luật pháp rõ ràng, đảm bảo quyền sở hữu và loại bỏ
những rào cản thương mại chồng chéo của chế độ phong kiến. Chính vì vậy, họ sẵn sàng ủng
hộ những nhà cai trị mạnh mẽ, những người có khả năng thống nhất quốc gia và thiết lập một
hệ thống kinh tế, pháp luật đồng nhất. Sự liên kết này không chỉ mang lại lợi ích cho tầng lớp
tư sản mà còn củng cố quyền lực cho các vị vua, tạo tiền đề cho sự ra đời của các quốc gia
dân tộc tập quyền.
Với tiềm lực tài chính dồi dào, tầng lớp tư sản đã trở thành nguồn cung cấp tài chính quan
trọng cho nhà nước. Họ đóng góp không nhỏ vào việc xây dựng quân đội, củng cố bộ máy
hành chính và thực hiện các dự án quy mô lớn của triều đình. Đổi lại, các vị vua đã trao cho
họ những đặc quyền, giảm bớt sự kiểm soát của quý tộc và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
hoạt động kinh doanh. Đây là một cuộc trao đổi có lợi cho cả hai bên, đẩy nhanh quá trình
suy yếu của quyền lực phong kiến truyền thống.
lOMoARcPSD| 59062190
Không chỉ dừng lại ở kinh tế, tầng lớp tư sản còn là những người tiên phong trong việc thúc
đẩy các tư tưởng mới. Với sự coi trọng tự do cá nhân, quyền sở hữu và lợi nhuận, họ đã góp
phần truyền bá các khái niệm như chủ nghĩa cá nhân, tự do kinh tế và pháp quyền. Những tư
tưởng này không chỉ thách thức trực tiếp các giá trị và cấu trúc phong kiến dựa trên đặc
quyền và địa vị xã hội, mà còn mở đường cho một cách nhìn mới về xã hội và con người.
Cuối cùng, sự ra đời của các thể chế tài chính hiện đại là minh chứng rõ ràng cho tầm ảnh
hưởng của tầng lớp tư sản. Để đáp ứng nhu cầu của thương mại và đầu tư, họ đã phát triển
các mô hình mới như ngân hàng, công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Những thể chế
này không chỉ giúp tích lũy vốn hiệu quả hơn mà còn thay đổi bản chất của quyền lực kinh tế,
từ việc dựa vào đất đai chuyển sang dựa vào tiền tệ và vốn đầu tư.
Tóm lại, sự suy yếu của quyền lực Giáo hội và quý tộc, song hành với sự trỗi dậy mạnh mẽ
của tầng lớp tư sản, đã tạo nên một làn sóng biến đổi sâu rộng, làm rung chuyển tận gốc r
chế độ phong kiến. Từ việc thúc đẩy thương mại, thay đổi tư duy đến kiến tạo các thể chế tài
chính, tầng lớp này đã góp phần định hình một trật tự xã hội và kinh tế hoàn toàn mới ở châu
Âu, đặt nền móng vững chắc cho chủ nghĩa tư bản.
III. Sự mở rộng của các đế quốc hải ngoại ( Trần Minh Huyền )
Thế kỷ XV-XVIII đánh dấu một trong những bước ngoặt vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại –
Thời đại Khám phá (1420-1620). Đây là giai đoạn mà các quốc gia châu Âu, với nền công
nghệ hàng hải vượt trội, đã mở rộng tầm ảnh hưởng ra toàn cầu, từ đó thiết lập nên những đế
quốc rộng lớn đầu tiên ngoài biên giới châu lục. Những cuộc thám hiểm đó không chỉ thay
đổi hiểu biết địa lý của con người mà còn tạo nên hệ thống kinh tế, chính trị và văn hóa liên
lục địa, đặt nền móng cho thế giới hiện đại.
1. Bồ Đào NhaTây Ban Nha – Những người tiên phong
Trong thế kỷ XV, Bồ Đào Nha đã trở thành quốc gia đi đầu trong các cuộc thám hiểm hàng
hải nhờ sự bảo trợ của Hoàng tử Henry the Navigator. Với mục tiêu tìm đường đến châu Á để
tránh sự độc quyền của các thương nhân Ả Rập, người Bồ Đào Nha đã dần mở rộng và khai
phá dọc theo bờ biển châu Phi. Năm 1488, Bartolomeu Dias vượt qua Mũi Hảo Vọng, và đến
năm 1498, Vasco da Gama đã cập bến Calicut (Ấn Độ), thiết lập tuyến đường biển trực tiếp
đến châu Á.
Trong khi đó, Tây Ban Nha lại chọn một hướng đi khác. Vào năm 1492, Christopher
Columbus, với sự tài trợ của Nữ hoàng Isabella, đã vượt Đại Tây Dương và đặt chân đến
vùng Caribe, mở đầu cho kỷ nguyên xâm chiếm châu Mỹ. Những đoàn chinh phạt như
Hernán Cortés (đánh bại Đế quốc Aztec năm 1521) và Francisco Pizarro (tiêu diệt Đế quốc
lOMoARcPSD| 59062190
Inca năm 1533) đã biến Tây Ban Nha thành cường quốc giàu có bậc nhất nhờ số vàng bạc
cướp được.
Hai quốc gia này đã phân chia thế giới bằng Hiệp ước Tordesillas (1494), trong đó Tây Ban
Nha chiếm phần lớn châu Mỹ còn Bồ Đào Nha kiểm soát châu Phi và châu Á. Tuy nhiên, sự
thống trị của họ không kéo dài lâu khi các nước châu Âu khác bắt đầu tham gia cuộc đua
thuộc địa.
2. Sự trỗi dậy của Anh, Hà Lan và Pháp
Vào những năm đầu tiên của thời đại khám phá, động lực chính thúc đẩy các quốc gia châu
Âu vươn ra biển lớn không gì khác chính là khát vọng về của cải và quyền lực. Thế kỷ 16
chứng kiến sự ra đời của chủ nghĩa trọng thương (mercantilism) - học thuyết kinh tế đầu tiên
của thời kỳ cận đại, coi vàng bạc là thước đo sự giàu có của một quốc gia. Các cường quốc
đua nhau tích trữ kim loại quý thông qua hệ thống thuộc địa, biến thương mại thành mặt trận
mới của chủ nghĩa dân tộc.
Trong bối cảnh đó, những công ty thương mại độc quyền ra đời như những "quốc gia trong
quốc gia". Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC), thành lập năm 1602, trở thành tập đoàn đa quốc
gia đầu tiên trên thế giới với quyền lực vượt xa một doanh nghiệp thông thường. Họ có thể ký
kết hiệp ước, xây dựng thành lũy, thậm chí phát động chiến tranh. Ở London, Công ty Đông
Ấn Anh (EIC) dần biến Ấn Độ thành thuộc địa khổng lồ dưới danh nghĩa buôn bán. Những
công ty này không chỉ thu lợi nhuận khổng lồ mà còn trở thành công cụ góp phần mở rộng
sức ảnh hưởng về mặt chính trị.
Tuy nhiên, mặt tối của nền kinh tế mới này chính là sự phát triển đáng sợ của chế độ buôn
bán nô lệ. Hệ thống "tam giác thương mại" vận hành nhịp nhàng như một cỗ máy tàn bạo:
Tàu buôn chở hàng hóa châu Âu sang Tây Phi, đổi lấy nô lệ để vận chuyển sang Tân Thế
giới, rồi chất đầy đường, bông, thuốc lá khi quay về. Mỗi chặng đường đều sinh lợi khủng
khiếp, nhưng cái giá phải trả là sinh mạng và nhân phẩm của hàng triệu con người. Thành
phố cảng Liverpool ở Anh hay Nantes ở Pháp đã vươn lên thịnh vượng nhờ máu và nước mắt
của những nô lệ da đen.
Sự tích lũy tư bản từ các hoạt động này đã tạo tiền đề cho cuộc Cách mạng Công nghiệp sau
này. Các ngân hàng đầu tiên ra đời để phục vụ nhu cầu tài chính cho những chuyến hải hành
xa xôi. Thị trường chứng khoán sơ khai hình thành ở Amsterdam, nơi cổ phiếu của VOC
lOMoARcPSD| 59062190
được mua bán sôi nổi. Thế giới đã và đang chứng kiến sự ra đời của một trật tự kinh tế mới -
nơi tiền bạc và lợi nhuận trở thành động lực mấu chốt thay thế dần các giá trị phong kiến cũ.
Nhìn lại toàn bộ quá trình, có thể thấy động lực kinh tế chính là yếu tố then chốt thúc đẩy quá
trình thuộc địa hóa. Khát vọng về vàng bạc, nhu cầu về nguyên liệu và tham vọng kiểm soát
thương mại đã khiến các quốc gia châu Âu không ngừng mở rộng ảnh hưởng. Hệ quả là một
nền kinh tế toàn cầu đầu tiên trong lịch sử đã hình thành, với những mối liên kết chặt chẽ
giữa các châu lục - dù được xây dựng trên nền tảng bất công và bóc lột tàn nhẫn.
3. Sự ra đời của nền kinh tế toàn cầu và những hệ lụy
Thế kỷ 16-17 chứng kiến sự hình thành hệ thống kinh tế toàn cầu đầu tiên trong lịch sử nhân
loại. Các tuyến đường thương mại xuyên lục địa nối liền châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu
Á tạo nên một mạng lưới buôn bán phức tạp. Tuy nhiên, sự phát triển này đi kèm với nhiều
hệ lụy đau lòng.
Các thuộc địa trở thành bánh răng quan trọng trong cỗ máy kinh tế châu Âu. Tại vùng Caribe,
những đồn điền mía khổng lồ mọc lên đầy rẫy. Ở Brazil, các nhà thầu Bồ Đào Nha thiết lập
hệ thống khai thác gỗ đỏ quy mô công nghiệp. Còn tại Bắc Mỹ, người Anh phát triển các đồn
điền thuốc lá rộng lớn. Tất cả đều dựa trên sức lao động của hàng triệu nô lệ châu Phi. Hệ
thống tam giác thương mại hoạt động như một vòng tuần hoàn tàn khốc. Tàu buôn chở vũ
khí, vải vóc từ châu Âu sang châu Phi để đổi lấy nô lệ. Những con người xấu số này sau đó bị
nhồi nhét trong các khoang tàu chật chội vượt Đại Tây Dương - hành trình được mệnh danh
là "Con đường giữa" đầy kinh hoàng với tỷ lệ tử vong lên tới 20%. Số người sống sót bị bán
cho các chủ đồn điền ở Tân Thế giới. Chuyến hàng cuối cùng là đường, bông, thuốc lá
chuyển về châu Âu, hoàn tất vòng tuần hoàn sinh lợi nhưng đẫm máu này.
4. Những biến đổi sâu sắc tại châu Âu
Của cải khổng lồ từ thuộc địa đổ về châu Âu tạo ra những thay đổi quan trọng. Các thành phố
cảng như Lisbon, Seville, Amsterdam, London phát triển nhanh chóng, trở thành trung tâm
thương mại sầm uất. Tầng lớp tư sản mới nổi lên nhờ buôn bán thuộc địa, dần thay thế giới
quý tộc phong kiến trong việc nắm giữ của cải và quyền lực.
Tuy nhiên, lượng vàng bạc khổng lồ từ châu Mỹ cũng gây ra lạm phát nghiêm trọng ở châu
Âu. Giá cả tăng vọt trong khi tiền lương không theo kịp, đẩy hàng triệu nông dân vào cảnh
nghèo đói. Nhiều người phải rời bỏ quê hương đến các thành phố kiếm sống, trở thành lực
lượng lao động cho cuộc cách mạng công nghiệp sau này.
lOMoARcPSD| 59062190
Những mặt hàng mới từ thuộc địa như đường, cà phê, thuốc lá dần trở nên phổ biến, thay đổi
thói quen tiêu dùng của người châu Âu. Các quán cà phê mọc lên khắp London, Paris trở
thành nơi gặp gỡ của giới trí thức. Tuy nhiên, sự xa xỉ này được đánh đổi bằng mồ hôi và
máu của hàng triệu nô lệ ở thuộc địa. 5. Di sản để lại của thời đại thuộc địa
Thời đại khám phá và thuộc địa hóa để lại một di sản vô cùng phức tạp. Về mặt tích cực, nó
mở ra kỷ nguyên toàn cầu hóa đầu tiên, kết nối các nền văn minh vốn phát triển độc lập trước
đó. Những tiến bộ về hàng hải, bản đồ học và giao thương quốc tế trở thành nền tảng cho thế
giới hiện đại.
Nhưng mặt khác, đây cũng là thời kỳ đẫm máu với nạn diệt chủng văn hóa, buôn bán nô lệ và
bóc lột tài nguyên quy mô lớn. Các nền văn minh bản địa ở châu Mỹ bị xóa sổ, châu Phi mất
đi hàng triệu thanh niên khỏe mạnh, trong khi châu Á dần rơi vào vòng kiểm soát của thực
dân châu Âu.
Ngày nay, chúng ta vẫn thấy rõ hậu quả của thời kỳ này. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa các
quốc gia, những xung đột sắc tộc và vấn đề phân biệt chủng tộc đều có nguồn gốc từ thời đại
thuộc địa. Tuy nhiên đồng thời, sự giao thoa văn hóa do quá trình này mang lại cũng tạo nên
một thế giới đa dạng và phong phú hơn.
IV. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản (Sơn Tùng)
1. Định nghĩa và các hình thức sơ khai của chủ nghĩa tư bản thương nghiệp
Marx coi chủ nghĩa tư bản thương mại là một hình thái chuyển tiếp, không phải là hình thái
chủ nghĩa tư bản hoàn chỉnh, vì nó không dựa vào sản xuất hàng hóa quy mô công nghiệp,
mà chủ yếu dựa vào mua rẻ – bán đắt, khai thác chênh lệch giá giữa các vùng/thuộc địa.
Thương nhân không sản xuất ra giá trị thặng dư, mà chỉ phân phối lại hàng hóa do người
khác sản xuất, như nông dân và thợ thủ công.Chủ nghĩa tư bản thương mại không làm thay
đổi tận gốc cách sản xuất, mà nó ký sinh lên các hình thái sản xuất đã tồn tại: chế độ nông nô,
tiểu nông, thủ công nghiệp. Điều này góp phần tích lũy tư bản nguyên thủy (primitive
accumulation), mở rộng thị trường, tạo áp lực phá vỡ quan hệ sản xuất phong kiến, nhưng
không thể tự nó tạo ra chủ nghĩa tư bản công nghiệp.
Các hình thức ban đầu của chủ nghĩa tư bản thương mại phát triển vào thế kỷ thứ 9, trong
Thời kỳ hoàng kim của Hồi giáo, trong khi ở châu Âu thời trung cổ từ thế kỷ thứ 12. Phong
trào hướng tới chủ nghĩa tư bản thương mại trên khắp hệ thống thành phố và phường hội cũ
đã rõ ràng trong ngành buôn bán len ngay từ thời Chaucer. Ở châu Âu, chủ nghĩa tư bản
lOMoARcPSD| 59062190
thương mại đã trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng vào thế kỷ 16.Vào năm 1800, kỷ
nguyên thương mại dần suy tàn. Tuy ở nhiều nhiều nơi trên thế giới, thương mại vẫn là xương
sống kinh tế, đặc biệt trong các đế chế thực dân như Anh, Pháp, Bồ Đào Nha. Thay vào đó,
chủ nghĩa tư bản công nghiệp bắt đầu. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản thương mại vẫn ăn sâu
bén rễ ở một số vùng của phương Tây cho đến tận thế kỷ 19, đặc biệt là miền Nam Hoa Kỳ,
nơi hệ thống đồn điền hạn chế sự phát triển của chủ nghĩa tư bản công nghiệp có các biểu
hiện chính trị ngăn cản các nhà lập pháp miền Bắc thông qua các gói kinh tế rộng lớn , ví dụ
như cải cách tiền tệ và ngân hàng, tuyến đường sắt xuyên lục địa và các ưu đãi cho việc định
cư ở miền Tây nước Mỹ để hội nhập nền kinh tế của các tiểu bang và thúc đẩy sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản công nghiệp.
Chủ nghĩa tư bản thương mại được phân biệt với chủ nghĩa tư bản phát triển đầy đủ hơn ở
chỗ nó tập trung vào việc đơn giản là di chuyển hàng hóa từ thị trường nơi chúng rẻ đến thị
trường nơi chúng đắt , thiếu công nghiệp hóa và tài chính thương mại. Các nhà buôn được hỗ
trợ bởi các nhà tài chính tư nhân tương đối nhỏ đóng vai trò là trung gian giữa những người
sản xuất hàng hóa đơn giản và bằng cách trao đổi nợ với nhau. Do đó, chủ nghĩa tư bản
thương mại đã đi trước phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa như một hình thức tích lũy
vốn. Một quá trình tích lũy vốn nguyên thủy, trên đó các hoạt động tài chính thương mại có
thể dựa vào và làm cho việc áp dụng lao động trả lương hàng loạt và công nghiệp hóa trở nên
khả thi, là điều kiện tiên quyết cần thiết để chuyển đổi chủ nghĩa tư bản thương mại thành chủ
nghĩa tư bản công nghiệp
2. Quá độ từ nền kinh tế trọng thương sang nền kinh tế thị trường tự do
Chủ nghĩa trọng thương, lần đầu tiên xuất hiện ở châu Âu vào những năm 1500, được thành
lập dựa trên khái niệm rằng tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu là cách tốt nhất để tăng sự
giàu có và ảnh hưởng của một quốc gia. Ở Tây Âu, chủ nghĩa trọng thương đã thay thế chế
độ phong kiến. Anh là trung tâm của Đế quốc Anh vào thời điểm đó, nhưng lại sở hữu ít tài
nguyên thiên nhiên.Để tăng sự giàu có của mình, Anh đã thực hiện các chính sách tài khóa
cấm những người thực dân mua các mặt hàng nước ngoài trong khi tạo ra các ưu đãi để chỉ
mua hàng hóa của Anh. Ví dụ, Đạo luật Đường năm 1764 đã tăng thuế đối với đường tinh
luyện và mật mía nước ngoài do các thuộc địa nhập khẩu. Mức thuế bổ sung này nhằm mục
đích trao cho những người trồng mía Anh ở Tây Ấn độc quyền thị trường thuộc địa. Đạo luật
Hàng hải năm 1651 cấm các tàu nước ngoài buôn bán dọc theo bờ biển Anh và yêu cầu các
sản phẩm thuộc địa phải thông qua thẩm quyền của Anh trước khi được phân phối lại trên
lOMoARcPSD| 59062190
khắp châu Âu. Các chương trình này dẫn đến cán cân thương mại thuận lợi, làm tăng sự giàu
có quốc gia của Vương quốc Anh.
Theo chủ nghĩa trọng thương, các quốc gia thường sử dụng vũ lực quân sự để bảo vệ thị
trường địa phương và các nguồn cung ứng. Những người theo chủ nghĩa trọng thương cũng
tin rằng sức khỏe kinh tế của một quốc gia có thể được xác định bằng việc quốc gia đó sở
hữu các kim loại quý như vàng hoặc bạc. Mức độ của chúng có xu hướng tăng lên khi những
ngôi nhà mới được xây dựng, sản lượng nông nghiệp tăng lên và một tàu buôn mạnh cung
cấp hàng hóa và nguyên liệu thô cho các thị trường mới.
3. Đạo đức nghề nghiệp của người Tin Lành
Đạo đức nghề nghiệp Tin Lành, thường được gọi là đạo đức nghề nghiệp Calvin hoặc Thanh
giáo, là một khái niệm xã hội học, kinh tế và lịch sử. Đức tin nhấn mạnh cách tuân thủ các
nguyên lý của đức tin Tin Lành, đặc biệt là Calvin, dẫn đến sự siêng năng, kỷ luật và tiết
kiệm. Đó là một nét văn hóa tạo nên môi trường thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản hiện đại,
thành lập dựa trên khái niệm khổ hạnh thế gian này, tức là sự tận tụy với Chúa thông qua một
tiếng gọi hoặc thiên chức, chẳng hạn như công việc kinh tế, bắt nguồn từ một phần cụ thể của
thần học được gọi là tiền định, được tìm thấy trong niềm tin của một giáo phái Tin lành được
gọi là Calvin. Khái niệm tiền định nêu rằng số phận của con người ở thiên đường hay địa
ngục đã được xác định trước khi họ bị thiêu đốt, nhưng họ không thể tìm ra nơi họ sẽ đến.
Điều này gây ra sự hoảng loạn về sự cứu rỗi trong số những người theo chủ nghĩa Calvin,
những người coi thành công trong kinh doanh là dấu hiệu từ Chúa rằng họ đã được chọn hoặc
được định sẵn lên thiên đường. Kết quả là, họ làm việc chăm chỉ, sống tiết kiệm và tích lũy
của cải. Theo Weber, đạo đức lao động Tin lành đóng vai trò là nền tảng cho các mối quan h
xã hội của chủ nghĩa tư bản hiện đại, và cũng là yếu tố chính tạo nên sự khác biệt về kinh tế
giữa các nước châu Âu trong thời đại hiện đại. Nghiên cứu của giáo sư Bernadett Bassala cho
thấy rằng Các họa sĩ Tin lành mô tả nhiều chủ đề tôn giáo hơn trong bối cảnh thương mại so
với các họa sĩ Công giáo. Trong thế kỷ 16 và 17, Hà Lan đã trải qua những thay đổi xã hội
đáng kể do cải cách. John Smith lãnh đạo việc thành lập Jamestown, khu định cư đầu tiên của
người Anh tại Mỹ, vào năm 1607. Ông đã đào tạo những người định cư Anh đầu tiên về nghề
nông và nghề đánh cá. Những người định cư này không được chuẩn bị để tồn tại trong các
khu định cư của người Anh vào đầu những năm 1600 và đang bên bờ vực của cái chết. John
Smith nhấn mạnh đến đạo đức nghề nghiệp của người Tin lành và giúp truyền bá đạo đức này
bằng cách nói rằng, "Ai không muốn làm việc, thì không được ăn", một sự ám chỉ rõ ràng

Preview text:

lOMoARcP SD| 59062 190 VIETNAM NATIONAL UNIVERSITY
UNIVERSITY OF LANGUAGES AND INTERNATIONAL STUDIES
—-------------------------------- Western Civiliza on Lecturer: Đặng Ngọc Sinh
The Reforma on, the Development of Overseas
Empires, and the Coming of Capitalism: A Historical Interconnec on Full name Student ID Table of conent lOMoARcP SD| 59062190 I.
Giới thiệu (Quỳnh Anh) Thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII là giai đoạn chuyển giao quan
trọng trong lịch sử châu Âu, khi những biến đổi sâu sắc về mặt tôn giáo, chính trị, kinh tế và
xã hội diễn ra đồng thời và đan xen. Trong bức tranh lịch sử rộng lớn ấy, ba hiện tượng nổi
bật và mang tính quyết định đã tạo nên những bước ngoặt trọng đại: Phong trào Cải cách
(Reformation), sự phát triển mạnh mẽ của các đế quốc hải ngoại, và sự trỗi dậy của chủ nghĩa
tư bản hiện đại. Những hiện tượng này không chỉ tồn tại song song mà có mối quan hệ chặt
chẽ, tác động qua lại, tạo thành một chuỗi sự kiện và xu hướng lịch sử liên kết chặt chẽ, góp
phần định hình nền tảng của châu Âu hiện đại và cả thế giới sau này. Việc nghiên cứu mối
liên hệ này không những giúp làm sáng tỏ các quá trình lịch sử phức tạp mà còn cung cấp
cái nhìn sâu sắc về cách thức xã hội – kinh tế – chính trị châu Âu được tái cấu trúc trong giai
đoạn chuyển tiếp từ Trung cổ sang thời cận đại. Phong trào Cải cách xuất phát từ những phản
ứng chống lại sự suy thoái và độc quyền quyền lực của Giáo hội Công giáo, với những nhà
cải cách như Martin Luther, John Calvin và Ulrich Zwingli. Mặc dù ban đầu mang tính tôn
giáo, phong trào này nhanh chóng vượt ra ngoài lĩnh vực tín ngưỡng, trở thành động lực thúc
đẩy sự thay đổi xã hội sâu rộng. Việc phá vỡ sự thống trị tôn giáo duy nhất không chỉ làm
thay đổi nhận thức cá nhân mà còn tạo ra sự phân hóa chính trị mới, làm suy yếu các thể chế
phong kiến và tăng cường quyền lực cho các quốc gia thành viên. Ngoài ra, Phong trào cải
cách còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giáo dục, tăng cường tinh thần tự chủ
và đặt nền móng cho một hệ tư tưởng mới tôn vinh sự cần cù, tiết kiệm và tự chịu trách
nhiệm – những yếu tố được xem là nền tảng đạo đức của chủ nghĩa tư bản theo luận điểm
của nhà xã hội học Max Weber. Song song với sự biến chuyển về tôn giáo, châu Âu bước
vào một thời kỳ mở rộng mạnh mẽ ra bên ngoài lãnh thổ lục địa. Các quốc gia như Bồ Đào
Nha và Tây Ban Nha đi đầu trong công cuộc thám hiểm biển, mở rộng đế quốc hải ngoại với
những thuộc địa rộng lớn tại châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Các quốc gia khác như Hà Lan,
Anh và Pháp cũng nhanh chóng tham gia vào cuộc đua chiếm lĩnh và khai thác thuộc địa. Sự
phát triển của các đế quốc hải ngoại không chỉ đơn thuần là mở rộng lãnh thổ mà còn mở ra
một kỷ nguyên mới trong thương mại toàn cầu, với dòng chảy nguyên liệu thô, vàng bạc, lao
động nô lệ và hàng hóa giữa các châu lục. Nhờ vào các thuộc địa, châu Âu có thể tiếp cận
nguồn tài nguyên phong phú và thị trường rộng lớn, góp phần làm tăng tích lũy tư bản và tạo
ra cơ sở vật chất cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chủ nghĩa tư bản, vốn đã
bắt đầu hình thành ở châu Âu từ thời Trung cổ thông qua các hoạt động thương mại và tài
chính, nhưng chỉ thực sự bùng nổ và phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ cận đại này. Sự kết
hợp giữa những giá trị đạo đức mới của phong trào Cải cách và nguồn tài nguyên, thị trường
toàn cầu từ các đế quốc hải ngoại đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản phát triển. lOMoARcP SD| 59062190
Các cơ chế kinh tế mới như công ty cổ phần, ngân hàng, thị trường chứng khoán bắt đầu xuất
hiện, thúc đẩy tích lũy tư bản và đầu tư mở rộng sản xuất. Tinh thần kinh doanh, ý chí đổi
mới và cạnh tranh trở thành đặc trưng của nền kinh tế tư bản mới. Các trung tâm kinh tế như
Hà Lan, Anh nhanh chóng trở thành những đầu tàu của nền kinh tế toàn cầu mới này, đặt nền
móng cho sự xuất hiện của nền kinh tế công nghiệp hiện đại sau đó.
Mục tiêu của tiểu luận này là phân tích sự tác động qua lại giữa ba hiện tượng lịch sử quan
trọng này trong suốt giai đoạn từ thế kỷ XVI đến XVIII. Qua việc xem xét một cách tổng thể,
tiểu luận mong muốn làm rõ rằng Phong trào cải cách không chỉ là cuộc cải cách tôn giáo mà
còn là nguồn gốc của những thay đổi xã hội và kinh tế lớn; sự mở rộng các đế quốc hải ngoại
không chỉ là câu chuyện về lãnh thổ mà còn là động lực thúc đẩy sự tích lũy và phân phối của
cải trên quy mô toàn cầu; và chủ nghĩa tư bản hiện đại không phải là sản phẩm đơn lẻ của
một tiến trình kinh tế, mà là kết quả của sự giao thoa giữa các yếu tố tôn giáo, chính trị và kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu tập trung vào khu vực Tây Âu, nơi các yếu tố này có sự hội tụ rõ nét
nhất, bao gồm các quốc gia như Đức, Hà Lan, Anh, Pháp – những trung tâm chính của phong
trào Cải cách, các cuộc thám hiểm hải ngoại và sự phát triển kinh tế tư bản. Về mặt thời gian,
tiểu luận nghiên cứu giai đoạn từ đầu thế kỷ XVI, khi Phong trào cải cách khởi phát, đến cuối
thế kỷ XVIII, trước thềm Cách mạng Công nghiệp, thời điểm đánh dấu bước chuyển đổi sâu
rộng tiếp theo trong lịch sử kinh tế thế giới. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng là
phương pháp lịch sử phân tích, sử dụng nguồn tư liệu sơ cấp như các văn bản tôn giáo, tài
liệu thương mại, chính sách thuộc địa cùng các công trình nghiên cứu học thuật thứ cấp nhằm
nhận diện mối quan hệ nhân quả và sự tác động qua lại giữa các hiện tượng. Bài tiểu luận
gồm bốn phần nghiên cứu: Phong trào Cải cách và những tác động xã hội – kinh tế của nó;
Sự mở rộng của đế quốc hải ngoại; Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và cuối cùng đó là sự liên
kết giữa phong trào cải cách, sự phát triển của đế quốc hải ngoại và sự ra đời của chủ nghĩa.
Thông qua việc phân tích các vấn đề đã nêu, tiểu luận nhằm xây dựng một bức tranh toàn
diện và đa chiều về sự tương tác phức tạp giữa ba yếu tố then chốt: tôn giáo, đế quốc hải
ngoại và kinh tế. Đây không phải là những hiện tượng riêng rẽ, mà là những mặt liên kết chặt
chẽ và tác động qua lại lẫn nhau, tạo nên một mạng lưới lịch sử phức tạp, ảnh hưởng sâu rộng
đến sự phát triển của xã hội châu Âu trong các thế kỷ XVI đến XVIII. Phong trào Cải cách
không chỉ làm thay đổi niềm tin tôn giáo và cấu trúc quyền lực trong các quốc gia châu Âu,
mà còn tác động sâu sắc đến các giá trị văn hóa, quan niệm về lao động, tích lũy tài sản và lOMoARcP SD| 59062190
quản lý kinh tế. Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của các đế quốc hải ngoại cung cấp nền
tảng vật chất, thị trường mới và nguồn lực dồi dào cho sự bùng nổ kinh tế, thúc đẩy quá trình
tích lũy tư bản và mở rộng thương mại toàn cầu. Việc nhận diện và hiểu rõ mối quan hệ biện
chứng này là điều kiện tiên quyết để có thể tiếp cận một cách sâu sắc và toàn diện về những
biến động xã hội, kinh tế và chính trị của châu Âu trong giai đoạn chuyển mình quan trọng
này. Bởi lẽ, sự hình thành thế giới hiện đại – với các thiết chế kinh tế tư bản chủ nghĩa, các
cường quốc đế quốc, và các hệ thống xã hội chính trị mới – không thể được lý giải một cách
đầy đủ nếu tách rời khỏi mạng lưới các hiện tượng lịch sử gắn bó mật thiết này. Hơn nữa,
nghiên cứu này còn giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về gốc rễ và quá trình phát triển của nền
kinh tế toàn cầu hóa ngày nay, vốn được hình thành từ các tương tác lịch sử giữa tôn giáo,
quyền lực đế quốc và các mô hình kinh tế mới. Qua đó, bài tiểu luận không chỉ đóng góp vào
việc làm sáng tỏ các bước ngoặt trong lịch sử châu Âu mà còn cung cấp những hiểu biết quan
trọng để phân tích các xu hướng xã hội và kinh tế hiện đại trong bối cảnh toàn cầu. II.
Phong trào Cải cách và những ảnh hưởng kinh tế - xã hội ( Anh Kiều ) 1.
Tổng quan về phong trào Cải cách
Phong trào Cải cách là một cuộc cách mạng tôn giáo diễn ra ở các nhà thờ phương Tây và được
coi là một trong những sự kiện mang tính bước ngoặt có ý nghĩa sâu sắc trong lịch sử châu Âu.
Bùng nổ từ năm 1517 tại Wittenberg, Đức với sự kiện Martin Luther đã công bố “ Chín mươi
lăm luận đề” tạo ra nhiều tác động lớn đến nền tảng của Giáo hội Công giáo từ lâu vốn là trụ
cột cho quyền lực tối cao ở Tây Âu suốt thời kì Trung cổ. Không những tạo ra nhiều chuyển
biến mới về chính trị mà Phong trào Cải cách còn có những tác động lớn đến kinh tế và xã hội
lúc bấy giờ và trở thành nền tảng cho việc thành lập Tin lành , một trong ba nhánh chính của Cơ đốc giáo .
Martin Luther không chỉ là một nhà thần học mà còn là một trong những nhà cải cách vĩ đại
nhất trong lịch sử châu Âu. Đến đầu thế kỷ XVI, Giáo hội Công giáo La Mã đã trở nên cực kỳ
hùng mạnh trong cả tôn giáo lẫn các hoạt động chính trị, kinh tế và xã hội. Nhưng quyền lực
này khi nắm trong tay thì sẽ luôn có sự xuất hiện của tham nhũng trong nội bộ: giới tăng lữ tận
hưởng cuộc sống xa hoa, nạn tham nhũng lan tràn, và đặc biệt là việc mua bán ân xá, một hình
thức trả tiền của người dân để được tha thứ những sai phạm. Đối với Luther, đây không chỉ là
một hành vi vô đạo đức mà còn hoàn toàn trái ngược với những giáo lý cơ bản của Kitô giáo.
Khi Luther công bố “Chín mươi lăm luận đề” của mình tại Nhà thờ Wittenberg vào năm 1517,
ông không chỉ phản đối một hệ thống hoạt động của nhà thờ mà còn đặt câu hỏi cho toàn bộ lOMoARcP SD| 59062190
những giáo lý, nghi lễ và cấu trúc tổ chức của Kitô giáo thời trung cổ. Một trong những điểm
chính mà cho là “sự cứu rỗi chỉ bởi đức tin”. Theo Luther, sự cứu rỗi không thể bị tác động
bởi những hành động bên ngoài như hành hương, dâng lễ vật hoặc mua ân xá mà chỉ có thể
dựa vào đức tin của từng cá nhân trước Chúa và sự cầu mong sự tha thứ từ Chúa. Đây là một
sự thay đổi sâu sắc trong thần học, vì nó giải phóng con người khỏi tư tưởng phụ thuộc vào
giáo sĩ là “người trung gian” duy nhất giữa con người và Chúa. Tư tưởng của Luther cũng yêu
cầu bác bỏ quyền tối cao của giáo hoàng, bãi bỏ chế độ giáo sĩ , cho phép việc kết hôn giữa các
linh mục và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc được tiếp cận và hiểu Kinh thánh bằng ngôn
ngữ của riêng của từng người. Nhờ sự phát triển của công nghệ in ấn vào thời điểm đó, bản
dịch Kinh thánh tiếng Đức của Luther đã được phân phối rộng rãi, làm thay đổi nền kiến thức
phổ thông. Tư tưởng của Luther nhanh chóng lan truyền khắp nước Đức và nhiều nước châu
Âu khác, đặt nền móng cho nhiều giáo phái Tin Lành, chẳng hạn như Luther (ở Đức và
Scandinavia), Anh giáo (ở Anh) và các giáo phái Cải cách khác.
Bên cạnh Martin Luther, John Calvin, ở Geneva (Thụy Sĩ), cũng đóng vai trò quan trọng không
kém trong sự phát triển của thần học Cải cách. Trong khi Luther tập trung vào đức tin cá nhân,
Calvin còn đi xa hơn khi xây dựng một thần học Calvin nghiêm ngặt và có tính tổ chức cao tập
trung vào khái niệm chính là "tiền định tuyệt đối". Theo Calvin, Chúa, bằng quyền năng vô
biên của mình, đã định trước số phận của mỗi người, dù được cứu rỗi hay bị nguyền rủa, và sẽ
không bị bất cứ điều gì trong cuộc sống này thay đổi. Tuy nhiên, học thuyết tiền định không
làm cho những người theo thuyết Calvin trở nên thụ động hay bi quan. Ngược lại, ông khuyến
khích mọi người sống có đạo đức, lao động, làm việc nghiêm túc và có kỷ luật, bởi vì thành
công trong cuộc sống hàng ngày có thể được coi là dấu hiệu thuộc về dân tộc "phồn vinh". Đây
là một điểm quan trọng vì nó tạo ra mối liên hệ giữa niềm tin và hành vi kinh tế xã hội, và hình
thành nên cơ sở mà Max Weber gọi là "tinh thần của chủ nghĩa tư bản". Trong xã hội, theo
thuyết Calvin, lao động không còn được coi là hình phạt của Chúa như một số quan niệm thời
trung cổ, mà là phương tiện để phục vụ Chúa và tuân theo mệnh lệnh của Chúa. Từ đó, những
giá trị như tiết kiệm, tái đầu tư lợi nhuận, sống giản dị và chống lãng phí được coi là đức tính.
Sự hình thành các cộng đồng Tin Lành theo tinh thần Calvin cũng mang lại một mô hình xã
hội có tổ chức và dân chủ hơn, tập trung vào trách nhiệm của cá nhân và tập thể. Ở Geneva,
Scotland, Hà Lan hay các thuộc địa Bắc Mỹ, hệ thống tư tưởng Calvin không chỉ điều chỉnh
đời sống tinh thần mà còn định hình trách nhiệm đối với kinh doanh, tài chính và quản lý xã
hội, mở đường cho sự phát triển của các thể chế dân chủ, pháp quyền và nền kinh tế thị trường. lOMoARcP SD| 59062190
Những nhà cải cách nhà thờ thời Trung cổ như Thánh Phanxicô thành Assisi, Waldes (người
sáng lập ra phái Waldensians), Jan Hus và John Wycliffe đã đề cập đến các khía cạnh của đời
sống nhà thờ trong nhiều thế kỷ trước. Erasmus tại thành Rotterdam, một học giả nhân văn vĩ
đại, một người ủng hộ tích cực cho cải cách Công giáo tự do đã chỉ trích những mê tín dị đoan
phổ biến trong nhà thờ và thúc giục những tín đồ noi gương Chúa Kitô như một người thầy đạo
đức tối cao trong thế kỉ XVI. Những dữ liệu này cho thấy mối quan tâm liên tục về sự đổi mới
trong Giáo hội trước khi “Chín mươi lăm luận đề” được dán lên cửa các nhà thờ ở Wittenberg,
Đức, vào ngày 31 tháng 10 năm 1517, đêm trước Lễ Các Thánh, ngày đánh dấu sự khởi đầu
của Phong trào Cải cách.
Phong trào Cải cách ở Đức gần như ngay lập tức nổi lên ở nhiều nơi và các lực lượng cải cách
khác nổi lên bên cạnh với tư tưởng của Luther. Ulrich Zwingli đã xây dựng một nền thần quyền
Cơ đốc giáo tại Zurich, bao gồm Giáo hội và Nhà nước được cho là để phục vụ Chúa. Zwingli
cũng đã đồng tình với Luther về tính trung tâm của học thuyết về sự biện minh bởi đức tin,
nhưng lại ủng hộ một cách hiểu khác về Bí tích Thánh Thể. Luther bác bỏ học thuyết biến thể
của Giáo hội Công giáo, cho rằng bánh và rượu trong Bí tích Thánh Thể là da thịt và máu của
Chúa Kitô. Theo quan điểm của Luther, thần thể của Chúa Kitô hiện diện hữu hình vì Chúa
Kitô hiện diện ở khắp mọi nơi, trong khi Zwingli lập luận rằng điều đó đòi hỏi lòng tin vào sự
hiện diện linh hồn của Chúa Kitô và sự tuyên xưng đức tin của người tiếp nhận.
Một hình thức quan trọng khác của đạo Tin Lành là thuyết Calvin, được đặt theo tên của John
Calvin, một luật sư người Pháp đã chạy trốn khỏi nước Pháp sau khi cải sang đạo Tin Lành.
Tại Basel, Thụy Sĩ, Calvin đã xuất bản ấn bản đầu tiên của cuốn sách Institutions of the
Christian Religion vào năm 1536, hệ thống luận thần học đầu tiên của phong trào Cải cách
mới. Calvin đồng tình với quan điểm của Luther về những biện minh của đức tin. Tuy nhiên,
ông lại tìm ra một điểm tích cực hơn của luật pháp trong cộng đồng Cơ đốc giáo so với Luther.
Tại Geneva, Calvin đã có thể đưa ra những lý tưởng của mình về một cộng đồng có kỷ luật.
Calvin cũng nhấn mạnh đến học thuyết tiền định và giải thích rằng Bí tích Thánh Thể là sự kết
nối thiêng liêng giữa da thịt và máu của Chúa Kitô. Tư tưởng của Calvin cuối cùng đã hòa nhập
với tư tưởng của Zwingli trong phong trào Cải cách, thể hiện qua thần học trong Tuyên ngôn
Helvetic (lần thứ hai) năm 1561.
Phong trào Cải cách cũng lan rộng sang các nước châu Âu khác trong suốt thế kỷ XVI. Đến
khoảng giữa thế kỷ, đạo Luther đã thống trị Bắc Âu. Những cá thể Tin Lành cấp tiến hơn tiếp
tục được truyền bá tới Đông Âu, một mảnh đất màu mỡ đang phải chịu đựng sự yếu kém của lOMoARcP SD| 59062190
các vị vua, sức mạnh của giới quý tộc, sự khan hiếm các thành phố và sự tồn tại lâu dài của chủ
nghĩa đa tôn giáo.Mặt khác, Tây Ban Nha và Ý sẽ trở thành những trung tâm lớn của phong
trào Phản cải cách Công giáo, và đạo Tin lành sẽ khó có thể xuất hiện ở đó. Ở Anh, nguồn gốc
của cuộc Cải cách có ý nghĩa về cả chính trị lẫn tôn giáo. Do tức giận vì Giáo hoàng Clement
VII từ chối hủy bỏ hôn nhân, Vua Henry VIII đã bãi bỏ quyền lực của Giáo hoàng và thành lập
Giáo hội Anh giáo vào năm 1534 trong đó người đứng đầu là nhà vua . Bất chấp những tác
động chính trị, việc tái thiết lập lại hệ thống Giáo hội đã tạo điều kiện cho tôn giáo có những
sự thay đổi ở Anh , bao gồm việc chuẩn bị nghi lễ riêng của nước Anh, tạo ra “Sách Cầu
nguyện” chung. Ở Scotland, John Knox, người ở lại Geneva đã chịu những ảnh hưởng lớn từ
John Calvin, đã đứng lên lãnh đạo việc thành lập Giáo hội Trưởng lão từ đó giúp Scotland cuối
cùng có thể thống nhất với Anh.
Phong trào Cải cách không chỉ đơn thuần là một sự kiện thần học mà còn là bước ngoặt lịch sử
mang tính quyết định đối với bối cảnh chính trị, xã hội và văn hóa của châu Âu hiện đại. Hậu
quả trực tiếp và rõ ràng nhất là sự chia rẽ sâu sắc trong Kitô giáo phương Tây: các nước phía
bắc như Đức, Anh, Thụy Sĩ và các vùng Bắc Âu dần dần cải sang đạo Tin lành, trong khi các
nước phía nam như Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha và hầu hết nước Pháp vẫn trung thành với
Công giáo La Mã. Bản đồ tôn giáo của châu Âu đã được định nghĩa lại, tạo ra một thực tế chính
trị mới với những xung đột tiềm ẩn trong nhiều thế kỷ. Sự chia rẽ tôn giáo này nhanh chóng
dẫn đến các cuộc chiến tranh tôn giáo dữ dội, đáng chú ý nhất là Chiến tranh Ba mươi năm
(1618-1648), một trong những cuộc xung đột tôn giáo và chính trị tàn khốc nhất trong lịch sử
châu Âu. Thay vì mang lại hòa bình tôn giáo như mong đợi, cuộc Cải cách đã làm trầm trọng
thêm sự không khoan dung và đàn áp lẫn nhau, vì cả người Công giáo và Tin lành đều coi giáo
lý của nhau là dị giáo và cần phải tiêu diệt. Từ đó trở đi, quyền tự do tín ngưỡng trở thành cuộc
đấu tranh gian khổ và chỉ dần được công nhận sau nhiều thế kỷ đối đầu. Trong lĩnh vực văn
hóa và nghệ thuật, cuộc Cải cách cũng để lại dấu ấn sâu sắc. Trong khi Giáo hội Công giáo tiếp
tục phát triển phong cách nghệ thuật Baroque công phu và tráng lệ để khẳng định quyền uy và
sự lộng lẫy của đức tin truyền thống, Giáo hội Tin lành lại nhấn mạnh vào sự giản dị, trang
trọng và thanh khiết, phản ánh tinh thần ôn hòa và tập trung vào đức tin bên trong hơn là hình
thức bên ngoài. Hai thái cực này tạo nên sự đối lập trong không gian thẩm mỹ và biểu tượng
tôn giáo, đánh dấu sự thay đổi sâu sắc trong khái niệm nghệ thuật ở thời kỳ hậu trung cổ. Một
ảnh hưởng tích cực khác không thể bỏ qua chính là sự phát triển đáng kể của giáo dục. Đối với
người Tin Lành, mọi người đều có quyền tiếp cận Kinh thánh và đọc trực tiếp, vì vậy việc phổ
biến Kinh thánh và giáo dục đại chúng trở thành một nhiệm vụ tôn giáo. Mặt khác, Công giáo lOMoARcP SD| 59062190
cũng khuyến khích hệ thống giáo dục giải thích và bảo vệ giáo lý cũng như bác bỏ các lập luận
của cuộc Cải cách, do đó tạo ra một môi trường học thuật năng động và hòa giải. Có thể nói,
cuộc Cải cách tôn giáo đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phong trào học thuật, giải
phóng tư tưởng cá nhân và đặt nền móng cho các quá trình cải cách chính trị - xã hội sau này.
2. Tư tưởng kinh tế mới hình thành từ Cải cách
2.1. Đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản
Trong tác phẩm “Đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản” ( The Protestant Ethic
and the Spirit of Capitalism (1905), Max Weber minh họa mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và cơ
cấu kinh tế. Mặc dù các nhà phê bình hầu hết chỉ trích ông vì ủng hộ cơ chế nhân quả sai lầm,
nhưng đây không phải là ý định của ông. Thay vào đó, ông cho rằng hệ tư tưởng Thanh giáo
đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản.
Bằng cách xem các khái niệm về công việc và sự giàu có là phước lành, “Tin Lành khổ hạnh”
cụ thể là chủ nghĩa Calvin, chủ nghĩa Pietism, chủ nghĩa Giám Lý và chủ nghĩa Rửa tội – đã
tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Theo Weber, quá trình
này diễn ra thông qua khái niệm tiền định của Calvin, trong đó thiên đường được dành riêng
cho một số ít người được đặc ân và tiền định (certudo salutis), và phần còn lại của nhân loại bị
kết án sẽ phải chịu sự nguyền rủa. Số phận của mỗi con người đã được định đoạt: được ban
phước hay bị nguyền rủa, và không thể dùng nỗ lực của con người hay các bất kì nghi lễ thiêng
liêng nào để đảm bảo được vào thiên đàng. Vì vậy, những người theo tư tưởng Calvin luôn
sống trong sợ hãi. Để bác bỏ điều đó, họ tìm kiếm những dấu hiệu có thể có về sự lựa chọn của
mình, vừa để chứng minh sự lựa chọn của mình là đúng đắn, vừa để thuyết phục với bản thân
rằng chắc chắn sẽ được vào thiên đàng.
Vì vậy, những người theo chủ nghĩa Calvin thường có hành vi ủng hộ chủ nghĩa tư bản: họ làm
việc không biết mệt mỏi và tái đầu tư số tiền tích lũy từ nỗ lực của họ. Họ làm như vậy để cho
thấy dấu hiệu hữu hình về sự linh hoạt của một con người; Bằng cách đạt được kết quả lao
động của mình với Chúa qua sự tin tưởng và kiên trì, họ sẽ được coi là những cá thể được ban
phước lành. Mặc dù quan điểm tích cực như vậy về công việc có vẻ trực quan với ngày nay,
nhưng đó chỉ là vì chúng ta đã quên mất cơ chế chính chịu trách nhiệm cho mối liên hệ giữa
công việc và lòng tin . Mối liên hệ này xuất hiện trong từ tiếng Đức, “beruf”, là sự kết hợp giữa
những gì ngày nay chúng ta xem xét về thiên chức hoặc tiếng gọi của một người. Từ này thường
chỉ xuất hiện trong các nghi lễ Thiên chúa giáo sau cuộc Cải cách Tin lành và rất khó dịch vì lOMoARcP SD| 59062190
bản thân ý tưởng của từ này rất tách biệt và mang ý nghĩa độc lập. Nói cách khác, từ “beruf”
ám chỉ một loại lao động hoặc công việc được coi là cả thiên chức cá nhân của một người cái
mà Chúa kêu gọi họ làm. Qua cách siêng năng thực hiện “beruf”, người Thanh giáo đã hoàn
thành hai nhiệm vụ: thứ nhất, họ tuân theo mệnh lệnh thiêng liêng, cao cả liên quan đến trách
nhiệm và bổn phận của mình trên Trái đất, và thứ hai, họ chứng minh sự lựa chọn thiêng liêng
đúng đắn của mình cho thế giới bên kia. Ngược lại, bỏ bê công việc của mình và lười biếng lao
động đồng nghĩa với việc trốn tránh các lời ban phước của Chúa và là dấu hiệu của sự nguyền rủa.
Điều này tách biệt xã hội Thanh giáo khỏi cái mà Weber gọi là "chủ nghĩa truyền thống". Theo
Weber, bản chất con người chỉ nên làm những cần thiết để tồn tại. Làm việc quá sức để kiếm
tiền có thể dẫn đến tích lũy của cải cho cá nhân, và theo cách này, trước Phong trào Cải cách
bị coi là tội lỗi. Trong khi giáo lý Cơ đốc giáo định nghĩa rõ ràng sự giàu có là điều ghê tởm
(tức là con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Vương quốc của Chúa), và trong
khi thời xa xưa, những người ngoan đạo hầu như không bao giờ làm việc (như trường hợp của
nhiều dòng tu sĩ), thì chủ nghĩa Thanh giáo lại coi sự giàu có là một phước lành và lao động là
sự tận tụy với Chúa. Theo cách này, học thuyết này phá vỡ các hệ tư tưởng đương thời và kết
nối đức tin với công việc và lao động đồng thời cũng thúc đẩy những người Thanh giáo lao
động, coi công việc là một nghề nghiệp.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản không cần đến chủ nghĩa Tin Lành khổ hạnh để tồn tại. Sự gia tăng
cơ giới hóa và sự tận dụng nguồn lao động vốn đã cho phép chủ nghĩa tư bản thoát khỏi sự ràng
buộc về tôn giáo và sự ủng hộ về mặt ý thức mà nó từng được hưởng trong những thế kỷ trước.
Những người Thanh giáo có thể là những người duy nhất cảm thấy buộc phải thực hiện công
việc kiểu “beruf” với cường độ cao , nhưng ngày nay nghĩa vụ là phải làm việc, lời kêu gọi
phải làm việc hiệu quả đều là trách nhiệm của mọi người trong xã hội tư bản. Cuối cùng, chủ
nghĩa tư bản phương Tây đã đạt đến điểm mà “cá nhân tồn tại vì lợi ích của các tập thể, chứ
không phải ngược lại”.
Phần lớn những lời chỉ trích nhằm vào đạo đức Tin Lành của Weber khi ông tập trung vào mối
quan hệ nhân quả được cho là giữa cuộc Cải cách Tin Lành và sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản.
Đây là sự thù địch xuất phát từ sự hiểu lầm. Weber đã cẩn thận tránh bị cáo buộc là xây dựng
một lập luận yếu ớt như vậy, chỉ ra rằng bài luận của ông phát triển một lý thuyết mơ hồ hơn
nhiều về cái mà Goethe gọi là “sự tương thích có chọn lọc”. Ông đã mượn lý thuyết về tương
tác và hành vi con người của Goethe, bắt nguồn từ hóa học, để phát triển lý thuyết xã hội học lOMoARcP SD| 59062190
của riêng mình về động lực của con người và tác động của nó đến lịch sử nhân loại. Xét trong
bối cảnh xã hội học nói chung, khái niệm như vậy dường như không mấy nổi bật. Như Weber
đã làm trong các xuất bản sau này của ông về tôn giáo ở Trung Quốc và Ấn Độ, Đạo đức Tin
lành luôn tìm cách phân tích những gì R.H. Tawney gọi là “các điều kiện tâm lý tạo nên sự phát
triển của nền văn minh tư bản chủ nghĩa”.
Trong nhiều thập kỷ, Weber đã tự bào chữa rằng ông chưa bao giờ có ý định nói rằng sự trỗi
dậy của đạo Tin lành đã kéo theo chủ nghĩa tư bản. Trong phần giới thiệu của nghiên cứu vào
năm 1920, ông mô tả mục đích của công trình chính trong cuộc đời mình là giải thích “ảnh
hưởng của một số ý tưởng tôn giáo đối với sự phát triển của tinh thần kinh tế hoặc đạo đức của
một hệ thống kinh tế”. Điều này không bao giờ có nghĩa là tôn giáo thúc đẩy sự phát triển của
một hệ thống kinh tế, mà đúng hơn là tôn giáo có thể đóng một vai trò độc nhất trong việc
hướng dẫn hành động của con người. Chủ nghĩa Thanh giáo đã cung cấp một khuôn khổ để
phá vỡ các mô hình truyền thống và tạo ra “sự khởi nguồn của thói quen tâm lý cho phép con
người thỏa mãn nhu cầu của chủ nghĩa tư bản hiện đại ban đầu”. Cho đến lúc đó, chủ nghĩa tư
bản bị xã hội truyền thống lên án vì tinh thần của thời đại lên án công việc và sự giàu có. Không
chỉ biện minh mà còn tôn vinh sự cống hiến cho một nghề nghiệp, cuộc Cải cách đã mở ra cánh
cửa cho các loại hình lao động theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Đây không phải là mối quan hệ nhân
quả mà là sự thúc đẩy các điều kiện thuận lợi cho sự tiến triển của một hệ thống kinh tế. Một
lập luận như vậy nhìn có vẻ không rõ ràng, nhưng Weber nhận thức được những hạn chế và
phạm vi của nó. Những cuộc tấn công vào mô hình nhân quả được cho là của ông dễ dàng phá
vỡ một lập luận đơn giản hơn nhiều so với lập luận mà Weber định đưa ra.
Weber nổi tiếng hơn Karl Marx và Georg W.F. Hegel trong việc nhấn mạnh vai trò của các hệ
thống tư tưởng và tác động của chúng lên hành vi con người như là đòn bẩy lịch sử. Trong khi
lý thuyết của Marx luôn trích dẫn các lực lượng vật chất và Hegel chỉ ra con người (tức là người
Đức hoặc người Pháp) là những khối xây dựng thiết yếu đang được đề cập, Weber lại chỉ ra cá
nhân là đơn vị chính để giải thích sự thay đổi. Mục tiêu của ông với tư cách là một nhà xã hội
học là xác định các động lực thúc đẩy hành động của con người thông qua verstehen, hay sự
hiểu biết đồng cảm về hành vi của con người. Do đó, Weber thu hẹp các giải thích về xu hướng
lịch sử xuống cấp độ vi mô và bảo vệ tầm quan trọng của các ý tưởng trong hành vi con người
và con người khi hành vi thay đổi.
Sự khác biệt thứ hai giữa Weber và Hegel, Marx và các nhà lý thuyết hiện đại hóa đương thời
nằm ở thái độ bi quan của ông. Mặc dù Hegel và Marx không đồng tình sâu sắc về việc liệu xã lOMoARcP SD| 59062190
hội tự do có phải là mục tiêu cuối cùng của lịch sử thế giới hay không, nhưng họ đều đồng ý
rằng hành trình dài của nhân loại sẽ tiến về phía trước mà không có hồi kết. Trong phép biện
chứng của Hegel, lịch sử vươn tới những ý tưởng cao hơn khi các hệ thống tư tưởng xung đột
giải quyết những mâu thuẫn của chúng. Đối với Marx, những mâu thuẫn này không biểu hiện
ở ý tưởng mà ở mâu thuẫn vật chất về lực lượng sản xuất: từ sự sụp đổ của chế độ phong kiến
đến sự trỗi dậy của giai cấp tư sản và sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, mọi tiến bộ đều có thể
được giải thích bằng đấu tranh giai cấp bắt nguồn từ động lực vật chất của sản xuất. Đối với
Marx, chủ nghĩa tư bản cũng cần phải được khắc phục. Cả hai nhà tư tưởng đều phát triển các
hệ tư tưởng tiến bộ và có sức thuyết phục.
Chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa thế tục ngày càng phát triển trong lịch sử đã đưa Werber đến kết
luận rằng nhân loại thậm chí còn không đi đúng hướng . Vào trước đêm Thế chiến thứ nhất nổ
ra, Weber đã coi sự tiến triển của lịch sử đến một thời điểm nhất định là một sai lầm. Chủ nghĩa
Thanh giáo đã lan truyền một sự vỡ mộng chung, bằng cách phơi bày những sự thật về sự thần
kì của các bí tích của Cơ đốc giáo nhằm cứu chuộc linh hồn con người. Niềm tin của ông vào
thuyết tiền định đã bác bỏ mọi hình thức phô trương, âm nhạc và nghi lễ của Công giáo vì cho
rằng chúng vô lý và mang tính ngoại giáo. Sau đó, thời kỳ Khai sáng và sự phát triển của khoa
học tiến tới không chỉ cho phép con người có cái nhìn rõ ràng về thứ họ nhìn thấy, qua đó phá
hủy những thần thoại của mê tín và truyền thống, mà còn tạo ra cơ giới hóa thông qua đổi mới
công nghệ. Tất cả những điều này kết hợp lại đã thúc đẩy sự bành trướng không thể tránh khỏi
của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã thoát khỏi chủ nghĩa Thanh giáo và “thoát khỏi lồng
giam”. Nói cách khác, mối liên hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo đã
biến mất từ lâu. Chỉ còn lại những yêu cầu về nguồn lao động và sức lao động của con người,
tách biệt khỏi mọi hệ tư tưởng vượt ra ngoài chủ nghĩa duy vật. Suy cho cùng, chủ nghĩa tư
bản là một “hệ thống kinh tế không dựa trên phong tục hay truyền thống, mà dựa trên sự điều
chỉnh có chủ đích và có hệ thống các phương tiện kinh tế để đạt được mục tiêu lợi nhuận tiền
tệ”. Hệ thống này sẽ tiếp tục trói buộc cuộc sống con người cho đến khi “tấn than hóa thạch
cuối cùng bị đốt cháy”. Đây được đánh giá không phải là một triển vọng khả quan tại thời điểm hiện tại.
Ngày nay, sự bi quan của Weber có vẻ đúng hơn so với suy nghĩ từ trước của ông. Mặc dù đã
xuất hiện từ hơn một thế kỷ trước, nhưng đạo đức nghề nghiệp của người Tin Lành vẫn rất
quen thuộc trong đời sống. Weber bày tỏ quan ngại về một số yếu tố của xã hội Đức khi trong
đó “con người tồn tại vì công việc kinh doanh của mình, thay vì ngược lại”, và công dân không
thể biện minh cho lao động không ngừng của mình bằng bất cứ lý do nào khác ngoài nhu cầu lOMoARcP SD| 59062190
“chu cấp cho con cháu của họ”. Chủ nghĩa tư bản không những tiếp tục phát triển không ngừng
, luôn né tránh các thí nghiệm xã hội chủ nghĩa, mà còn khiến cho những người theo chủ nghĩa
này quên mất vai trò quan trọng của đạo Tin lành khổ hạnh trong sự trỗi dậy của nó. Quan niệm
lao động vì mục đích của nó dường như không bị đặt dấu hỏi ở các nước phương Tây và nguồn
gốc của nó cũng chẳng bị xem xét tới. Ngày nay, với sự phát triển của robot và tự động hóa,
câu hỏi “tại sao chúng ta làm việc?” được đặt ra đó là điều không thể tránh khỏi. Nghiên cứu
này của Weber rất xứng đáng được đọc lại nhiều lần, dù chỉ để nhắc nhở chúng ta rằng chúng
ta không nên coi chủ nghĩa tư bản là điều hiển nhiên.
2.2. Tác động của Cải cách đến hành vi kinh tế và các thiết chế kinh tế Cuộc Cải cách
tôn giáo thế kỷ 16, bắt đầu với tư tưởng của Martin Luther và phát triển mạnh mẽ dưới ảnh
hưởng của John Calvin, không chỉ làm cách mạng hóa tôn giáo mà còn mang lại những thay
đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế và xã hội ở châu Âu. Trong tác phẩm kinh điển “Đạo đức Tin
Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản” (The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism
(1905) , Max Weber đã đưa ra một lập luận cơ bản: chính đạo đức khổ hạnh của đạo Tin Lành,
và đặc biệt là của chủ nghĩa Calvin, đã góp phần định hình nên hành vi kinh tế hiện đại và các
thể chế kinh tế tư bản. Weber lập luận rằng trong khi Công giáo truyền thống coi đời sống tu
viện và tâm linh là tách biệt với lao động của nhân loại, Calvin nhấn mạnh rằng mỗi cá nhân
đều có một “thiên chức” (Beruf) để thực hiện trong thế giới vật chất, tức là trong công việc
hàng ngày của họ. Đặc biệt, học thuyết tiền định của Calvin cho rằng Chúa đã định trước số
phận cứu rỗi của con người, nhưng con người không thể biết liệu họ có được chọn hay không.
Vì vậy, những người theo chủ nghĩa Calvin đều phải cố gắng làm việc chăm chỉ, sống có đạo
đức, tránh xa thú vui vật chất và tích lũy của cải như một phương tiện để khẳng định lại mình
thuộc về nhóm người được ban phước và cứu rỗi khỏi những sai lầm từ Chúa. Từ đó nảy sinh
một hình thức đạo đức nghề nghiệp mới: kỷ luật, tiết kiệm, làm việc chăm chỉ, tái đầu tư thay
vì chi tiêu quá mức; những phẩm chất mà Weber gọi là “tinh thần của chủ nghĩa tư bản”. Những
hành vi kinh tế này không xuất phát từ lợi ích cá nhân thuần túy mà xuất phát từ niềm tin tôn
giáo sâu sắc. Theo thời gian, khi tôn giáo mất đi ảnh hưởng, tinh thần này vẫn tồn tại trong xã
hội như một giá trị kế thừa, trở thành nền tảng đạo đức của giai cấp tư sản và doanh nhân hiện đại.
Những thay đổi trong hành vi của cá nhân đã dẫn đến những chuyển đổi đáng kể trong các thể
chế kinh tế. Các quốc gia theo đạo Tin lành như Bắc Đức, Hà Lan và Anh là những nước tiên
phong trong việc áp dụng các hình thức minh bạch vào trong hệ thống các công ty, ngân hàng,
công ty cổ phần, hệ thống sổ kế toán kép và quản lý tài chính. Đây không phải là sự trùng hợp lOMoARcP SD| 59062190
ngẫu nhiên mà là sự phản ánh của một quá trình trong đó đạo đức song song với tính hợp lý
trong tổ chức kinh tế. Quản lý chuyên nghiệp, hiệu quả và hợp pháp đã dần thay thế các hình
thức kinh tế truyền thống, chủ nghĩa cá nhân hoặc phi lý. Hơn nữa, cuộc Cải cách đã góp phần
làm suy yếu vai trò độc quyền của Giáo hội Công giáo, tạo điều kiện cho các xã hội phát triển
theo hướng thế tục và đa nguyên, do đó tạo ra môi trường cạnh tranh tự do và pháp quyền,
những yếu tố cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường hiện đại. Các cộng đồng Tin
lành không chỉ tổ chức đời sống tôn giáo của mình mà còn phát triển các hình thức quản lý đô
thị và thương mại tự chủ, qua đó thúc đẩy phân công lao động, thương mại xuyên biên giới và tích lũy vốn.
Tuy nhiên, Weber cũng cảnh báo rằng khi các giá trị tôn giáo nguyên thủy phai nhạt, các thể
chế kinh tế hiện đại sẽ tiếp tục hoạt động theo cách vô thức và vô đạo đức, ép con người vào
“lồng sắt” của lý trí công cụ, nơi cá nhân bị ràng buộc bởi một hệ thống các quy tắc, luật lệ
và hiệu suất, nhưng không có ý nghĩa tâm linh. Đây là mâu thuẫn cố hữu của chủ nghĩa hiện
đại: các thể chế ra đời từ lý tưởng tôn giáo, nhưng chúng trở thành những cỗ máy vô nhân
đạo khi chúng tách rời nguồn gốc của mình. Như vậy có thể thấy rằng, cuộc Cải cách tôn
giáo thế kỷ XVI không chỉ là một sự kiện tôn giáo mà còn là nhân tố quyết định trong việc
hình thành tư tưởng kinh tế hiện đại và thể chế quản lý của chủ nghĩa tư bản.
3. Sự sụp đổ của chế độ phong kiến (Thu Hà)
Trong bối cảnh lịch sử đầy biến động của châu Âu từ thế kỷ XVI đến XVIII, sự suy tàn của
chế độ phong kiến không phải là một sự kiện đơn lẻ mà là kết quả của sự tương tác phức tạp
giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và tư tưởng. Phong trào Cải cách tôn giáo, sự phát triển của
các đế chế hải ngoại, và sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đóng vai trò then chốt trong quá trình
này, dẫn đến sự suy yếu của quyền lực truyền thống và sự trỗi dậy của những tầng lớp xã hội mới.
Sự sụp đổ của chế độ phong kiến là một quá trình kéo dài, không phải là một sự kiện đột
ngột. Nó được thúc đẩy bởi sự xói mòn từ bên trong và những áp lực mạnh mẽ từ bên ngoài,
đặc biệt là do những hệ quả của Phong trào Cải cách và sự bùng nổ của chủ nghĩa tư bản.
3.1. Suy giảm quyền lực của giáo hội và quý tộc truyền thống
Sự suy yếu của Giáo hội và quý tộc truyền thống là một trong những cột mốc quan trọng
nhất. Trước hết, Cải cách tôn giáo đã giáng một đòn mạnh vào quyền uy của Giáo hội Công lOMoARcP SD| 59062190
giáo La Mã. Những lạm dụng, tham nhũng nội bộ và sự xa hoa của Giáo hội đã gây ra làn
sóng bất mãn trong dân chúng. Khi Martin Luther khởi xướng Cải cách, ông không chỉ thách
thức quyền lực của Giáo hoàng mà còn khuyến khích việc đọc và diễn giải Kinh Thánh bằng
ngôn ngữ bản địa, phá vỡ sự độc quyền về tư tưởng của giới tăng lữ. Ở nhiều nơi, các nhà cai
trị đã lợi dụng Cải cách để tịch thu tài sản của Giáo hội, làm suy yếu nghiêm trọng khả năng
tài chính và quyền lực chính trị của họ. Sự chia rẽ tôn giáo cũng dẫn đến các cuộc chiến tranh
kéo dài, càng củng cố quyền lực của các nhà nước thế tục khi họ trở thành trọng tài hoặc
người bảo hộ cho một phe phái.
Cùng lúc đó, tầng lớp quý tộc phong kiến cũng dần mất đi vị thế. Sự ra đời của thuốc súng và
pháo binh đã làm giảm tầm quan trọng của kỵ binh bọc thép, vốn là xương sống của quân đội
phong kiến. Các cuộc chiến tranh hiện đại đòi hỏi quân đội chuyên nghiệp được tài trợ bởi
nhà nước, thay vì phụ thuộc vào nghĩa vụ quân sự của chư hầu. Kinh tế tiền tệ phát triển cũng
khiến đất đai không còn là nguồn tài sản duy nhất. Các vị vua có thể thu thuế bằng tiền để
xây dựng quân đội và bộ máy hành chính, giảm bớt sự phụ thuộc vào các lãnh chúa. Dần dà,
quyền lực tập trung vào tay quân chủ, biến quý tộc từ những lãnh chúa tự trị thành tầng lớp
sống phụ thuộc vào triều đình
3.2. Gia tăng vai trò của tầng lớp thương nhân và thị dân
Sự suy tàn của chế độ phong kiến và sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản không thể tách rời khỏi
vai trò ngày càng tăng của một tầng lớp mới: tầng lớp thương nhân và thị dân, hay còn gọi là
bourgeoisie. Họ không chỉ là những người làm giàu từ các hoạt động kinh tế, mà còn là động
lực thúc đẩy những thay đổi sâu rộng về xã hội, chính trị và tư tưởng, định hình lại cục diện châu Âu.
Sự phát triển vượt bậc của thương mại và đô thị chính là nền tảng cho sự lớn mạnh của tầng
lớp này. Sau các cuộc phát kiến địa lý, các tuyến đường thương mại mở rộng, biến các thành
phố thành những trung tâm kinh tế sầm uất, nơi hàng hóa được sản xuất, trao đổi và dòng tài
chính luân chuyển không ngừng. Chính tại đây, các thương nhân, chủ ngân hàng, thợ thủ
công và những người làm nghề tự do đã tích lũy được khối tài sản khổng lồ, tạo nên một lực
lượng kinh tế mới đầy quyền lực.
Để hoạt động kinh doanh phát triển, tầng lớp tư sản cần một môi trường ổn định, minh bạch.
Họ khao khát một thị trường tự do với luật pháp rõ ràng, đảm bảo quyền sở hữu và loại bỏ
những rào cản thương mại chồng chéo của chế độ phong kiến. Chính vì vậy, họ sẵn sàng ủng
hộ những nhà cai trị mạnh mẽ, những người có khả năng thống nhất quốc gia và thiết lập một
hệ thống kinh tế, pháp luật đồng nhất. Sự liên kết này không chỉ mang lại lợi ích cho tầng lớp
tư sản mà còn củng cố quyền lực cho các vị vua, tạo tiền đề cho sự ra đời của các quốc gia dân tộc tập quyền.
Với tiềm lực tài chính dồi dào, tầng lớp tư sản đã trở thành nguồn cung cấp tài chính quan
trọng cho nhà nước. Họ đóng góp không nhỏ vào việc xây dựng quân đội, củng cố bộ máy
hành chính và thực hiện các dự án quy mô lớn của triều đình. Đổi lại, các vị vua đã trao cho
họ những đặc quyền, giảm bớt sự kiểm soát của quý tộc và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
hoạt động kinh doanh. Đây là một cuộc trao đổi có lợi cho cả hai bên, đẩy nhanh quá trình
suy yếu của quyền lực phong kiến truyền thống. lOMoARcP SD| 59062190
Không chỉ dừng lại ở kinh tế, tầng lớp tư sản còn là những người tiên phong trong việc thúc
đẩy các tư tưởng mới. Với sự coi trọng tự do cá nhân, quyền sở hữu và lợi nhuận, họ đã góp
phần truyền bá các khái niệm như chủ nghĩa cá nhân, tự do kinh tế và pháp quyền. Những tư
tưởng này không chỉ thách thức trực tiếp các giá trị và cấu trúc phong kiến dựa trên đặc
quyền và địa vị xã hội, mà còn mở đường cho một cách nhìn mới về xã hội và con người.
Cuối cùng, sự ra đời của các thể chế tài chính hiện đại là minh chứng rõ ràng cho tầm ảnh
hưởng của tầng lớp tư sản. Để đáp ứng nhu cầu của thương mại và đầu tư, họ đã phát triển
các mô hình mới như ngân hàng, công ty cổ phần và thị trường chứng khoán. Những thể chế
này không chỉ giúp tích lũy vốn hiệu quả hơn mà còn thay đổi bản chất của quyền lực kinh tế,
từ việc dựa vào đất đai chuyển sang dựa vào tiền tệ và vốn đầu tư.
Tóm lại, sự suy yếu của quyền lực Giáo hội và quý tộc, song hành với sự trỗi dậy mạnh mẽ
của tầng lớp tư sản, đã tạo nên một làn sóng biến đổi sâu rộng, làm rung chuyển tận gốc rễ
chế độ phong kiến. Từ việc thúc đẩy thương mại, thay đổi tư duy đến kiến tạo các thể chế tài
chính, tầng lớp này đã góp phần định hình một trật tự xã hội và kinh tế hoàn toàn mới ở châu
Âu, đặt nền móng vững chắc cho chủ nghĩa tư bản.
III. Sự mở rộng của các đế quốc hải ngoại ( Trần Minh Huyền )
Thế kỷ XV-XVIII đánh dấu một trong những bước ngoặt vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại –
Thời đại Khám phá (1420-1620). Đây là giai đoạn mà các quốc gia châu Âu, với nền công
nghệ hàng hải vượt trội, đã mở rộng tầm ảnh hưởng ra toàn cầu, từ đó thiết lập nên những đế
quốc rộng lớn đầu tiên ngoài biên giới châu lục. Những cuộc thám hiểm đó không chỉ thay
đổi hiểu biết địa lý của con người mà còn tạo nên hệ thống kinh tế, chính trị và văn hóa liên
lục địa, đặt nền móng cho thế giới hiện đại.
1. Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha – Những người tiên phong
Trong thế kỷ XV, Bồ Đào Nha đã trở thành quốc gia đi đầu trong các cuộc thám hiểm hàng
hải nhờ sự bảo trợ của Hoàng tử Henry the Navigator. Với mục tiêu tìm đường đến châu Á để
tránh sự độc quyền của các thương nhân Ả Rập, người Bồ Đào Nha đã dần mở rộng và khai
phá dọc theo bờ biển châu Phi. Năm 1488, Bartolomeu Dias vượt qua Mũi Hảo Vọng, và đến
năm 1498, Vasco da Gama đã cập bến Calicut (Ấn Độ), thiết lập tuyến đường biển trực tiếp đến châu Á.
Trong khi đó, Tây Ban Nha lại chọn một hướng đi khác. Vào năm 1492, Christopher
Columbus, với sự tài trợ của Nữ hoàng Isabella, đã vượt Đại Tây Dương và đặt chân đến
vùng Caribe, mở đầu cho kỷ nguyên xâm chiếm châu Mỹ. Những đoàn chinh phạt như
Hernán Cortés (đánh bại Đế quốc Aztec năm 1521) và Francisco Pizarro (tiêu diệt Đế quốc lOMoARcP SD| 59062190
Inca năm 1533) đã biến Tây Ban Nha thành cường quốc giàu có bậc nhất nhờ số vàng bạc cướp được.
Hai quốc gia này đã phân chia thế giới bằng Hiệp ước Tordesillas (1494), trong đó Tây Ban
Nha chiếm phần lớn châu Mỹ còn Bồ Đào Nha kiểm soát châu Phi và châu Á. Tuy nhiên, sự
thống trị của họ không kéo dài lâu khi các nước châu Âu khác bắt đầu tham gia cuộc đua thuộc địa.
2. Sự trỗi dậy của Anh, Hà Lan và Pháp
Vào những năm đầu tiên của thời đại khám phá, động lực chính thúc đẩy các quốc gia châu
Âu vươn ra biển lớn không gì khác chính là khát vọng về của cải và quyền lực. Thế kỷ 16
chứng kiến sự ra đời của chủ nghĩa trọng thương (mercantilism) - học thuyết kinh tế đầu tiên
của thời kỳ cận đại, coi vàng bạc là thước đo sự giàu có của một quốc gia. Các cường quốc
đua nhau tích trữ kim loại quý thông qua hệ thống thuộc địa, biến thương mại thành mặt trận
mới của chủ nghĩa dân tộc.
Trong bối cảnh đó, những công ty thương mại độc quyền ra đời như những "quốc gia trong
quốc gia". Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC), thành lập năm 1602, trở thành tập đoàn đa quốc
gia đầu tiên trên thế giới với quyền lực vượt xa một doanh nghiệp thông thường. Họ có thể ký
kết hiệp ước, xây dựng thành lũy, thậm chí phát động chiến tranh. Ở London, Công ty Đông
Ấn Anh (EIC) dần biến Ấn Độ thành thuộc địa khổng lồ dưới danh nghĩa buôn bán. Những
công ty này không chỉ thu lợi nhuận khổng lồ mà còn trở thành công cụ góp phần mở rộng
sức ảnh hưởng về mặt chính trị.
Tuy nhiên, mặt tối của nền kinh tế mới này chính là sự phát triển đáng sợ của chế độ buôn
bán nô lệ. Hệ thống "tam giác thương mại" vận hành nhịp nhàng như một cỗ máy tàn bạo:
Tàu buôn chở hàng hóa châu Âu sang Tây Phi, đổi lấy nô lệ để vận chuyển sang Tân Thế
giới, rồi chất đầy đường, bông, thuốc lá khi quay về. Mỗi chặng đường đều sinh lợi khủng
khiếp, nhưng cái giá phải trả là sinh mạng và nhân phẩm của hàng triệu con người. Thành
phố cảng Liverpool ở Anh hay Nantes ở Pháp đã vươn lên thịnh vượng nhờ máu và nước mắt
của những nô lệ da đen.
Sự tích lũy tư bản từ các hoạt động này đã tạo tiền đề cho cuộc Cách mạng Công nghiệp sau
này. Các ngân hàng đầu tiên ra đời để phục vụ nhu cầu tài chính cho những chuyến hải hành
xa xôi. Thị trường chứng khoán sơ khai hình thành ở Amsterdam, nơi cổ phiếu của VOC lOMoARcP SD| 59062190
được mua bán sôi nổi. Thế giới đã và đang chứng kiến sự ra đời của một trật tự kinh tế mới -
nơi tiền bạc và lợi nhuận trở thành động lực mấu chốt thay thế dần các giá trị phong kiến cũ.
Nhìn lại toàn bộ quá trình, có thể thấy động lực kinh tế chính là yếu tố then chốt thúc đẩy quá
trình thuộc địa hóa. Khát vọng về vàng bạc, nhu cầu về nguyên liệu và tham vọng kiểm soát
thương mại đã khiến các quốc gia châu Âu không ngừng mở rộng ảnh hưởng. Hệ quả là một
nền kinh tế toàn cầu đầu tiên trong lịch sử đã hình thành, với những mối liên kết chặt chẽ
giữa các châu lục - dù được xây dựng trên nền tảng bất công và bóc lột tàn nhẫn.
3. Sự ra đời của nền kinh tế toàn cầu và những hệ lụy
Thế kỷ 16-17 chứng kiến sự hình thành hệ thống kinh tế toàn cầu đầu tiên trong lịch sử nhân
loại. Các tuyến đường thương mại xuyên lục địa nối liền châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu
Á tạo nên một mạng lưới buôn bán phức tạp. Tuy nhiên, sự phát triển này đi kèm với nhiều hệ lụy đau lòng.
Các thuộc địa trở thành bánh răng quan trọng trong cỗ máy kinh tế châu Âu. Tại vùng Caribe,
những đồn điền mía khổng lồ mọc lên đầy rẫy. Ở Brazil, các nhà thầu Bồ Đào Nha thiết lập
hệ thống khai thác gỗ đỏ quy mô công nghiệp. Còn tại Bắc Mỹ, người Anh phát triển các đồn
điền thuốc lá rộng lớn. Tất cả đều dựa trên sức lao động của hàng triệu nô lệ châu Phi. Hệ
thống tam giác thương mại hoạt động như một vòng tuần hoàn tàn khốc. Tàu buôn chở vũ
khí, vải vóc từ châu Âu sang châu Phi để đổi lấy nô lệ. Những con người xấu số này sau đó bị
nhồi nhét trong các khoang tàu chật chội vượt Đại Tây Dương - hành trình được mệnh danh
là "Con đường giữa" đầy kinh hoàng với tỷ lệ tử vong lên tới 20%. Số người sống sót bị bán
cho các chủ đồn điền ở Tân Thế giới. Chuyến hàng cuối cùng là đường, bông, thuốc lá
chuyển về châu Âu, hoàn tất vòng tuần hoàn sinh lợi nhưng đẫm máu này.
4. Những biến đổi sâu sắc tại châu Âu
Của cải khổng lồ từ thuộc địa đổ về châu Âu tạo ra những thay đổi quan trọng. Các thành phố
cảng như Lisbon, Seville, Amsterdam, London phát triển nhanh chóng, trở thành trung tâm
thương mại sầm uất. Tầng lớp tư sản mới nổi lên nhờ buôn bán thuộc địa, dần thay thế giới
quý tộc phong kiến trong việc nắm giữ của cải và quyền lực.
Tuy nhiên, lượng vàng bạc khổng lồ từ châu Mỹ cũng gây ra lạm phát nghiêm trọng ở châu
Âu. Giá cả tăng vọt trong khi tiền lương không theo kịp, đẩy hàng triệu nông dân vào cảnh
nghèo đói. Nhiều người phải rời bỏ quê hương đến các thành phố kiếm sống, trở thành lực
lượng lao động cho cuộc cách mạng công nghiệp sau này. lOMoARcP SD| 59062190
Những mặt hàng mới từ thuộc địa như đường, cà phê, thuốc lá dần trở nên phổ biến, thay đổi
thói quen tiêu dùng của người châu Âu. Các quán cà phê mọc lên khắp London, Paris trở
thành nơi gặp gỡ của giới trí thức. Tuy nhiên, sự xa xỉ này được đánh đổi bằng mồ hôi và
máu của hàng triệu nô lệ ở thuộc địa. 5. Di sản để lại của thời đại thuộc địa
Thời đại khám phá và thuộc địa hóa để lại một di sản vô cùng phức tạp. Về mặt tích cực, nó
mở ra kỷ nguyên toàn cầu hóa đầu tiên, kết nối các nền văn minh vốn phát triển độc lập trước
đó. Những tiến bộ về hàng hải, bản đồ học và giao thương quốc tế trở thành nền tảng cho thế giới hiện đại.
Nhưng mặt khác, đây cũng là thời kỳ đẫm máu với nạn diệt chủng văn hóa, buôn bán nô lệ và
bóc lột tài nguyên quy mô lớn. Các nền văn minh bản địa ở châu Mỹ bị xóa sổ, châu Phi mất
đi hàng triệu thanh niên khỏe mạnh, trong khi châu Á dần rơi vào vòng kiểm soát của thực dân châu Âu.
Ngày nay, chúng ta vẫn thấy rõ hậu quả của thời kỳ này. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa các
quốc gia, những xung đột sắc tộc và vấn đề phân biệt chủng tộc đều có nguồn gốc từ thời đại
thuộc địa. Tuy nhiên đồng thời, sự giao thoa văn hóa do quá trình này mang lại cũng tạo nên
một thế giới đa dạng và phong phú hơn.
IV. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản (Sơn Tùng)
1. Định nghĩa và các hình thức sơ khai của chủ nghĩa tư bản thương nghiệp
Marx coi chủ nghĩa tư bản thương mại là một hình thái chuyển tiếp, không phải là hình thái
chủ nghĩa tư bản hoàn chỉnh, vì nó không dựa vào sản xuất hàng hóa quy mô công nghiệp,
mà chủ yếu dựa vào mua rẻ – bán đắt, khai thác chênh lệch giá giữa các vùng/thuộc địa.
Thương nhân không sản xuất ra giá trị thặng dư, mà chỉ phân phối lại hàng hóa do người
khác sản xuất, như nông dân và thợ thủ công.Chủ nghĩa tư bản thương mại không làm thay
đổi tận gốc cách sản xuất, mà nó ký sinh lên các hình thái sản xuất đã tồn tại: chế độ nông nô,
tiểu nông, thủ công nghiệp. Điều này góp phần tích lũy tư bản nguyên thủy (primitive
accumulation), mở rộng thị trường, tạo áp lực phá vỡ quan hệ sản xuất phong kiến, nhưng
không thể tự nó tạo ra chủ nghĩa tư bản công nghiệp.
Các hình thức ban đầu của chủ nghĩa tư bản thương mại phát triển vào thế kỷ thứ 9, trong
Thời kỳ hoàng kim của Hồi giáo, trong khi ở châu Âu thời trung cổ từ thế kỷ thứ 12. Phong
trào hướng tới chủ nghĩa tư bản thương mại trên khắp hệ thống thành phố và phường hội cũ
đã rõ ràng trong ngành buôn bán len ngay từ thời Chaucer. Ở châu Âu, chủ nghĩa tư bản lOMoARcP SD| 59062190
thương mại đã trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng vào thế kỷ 16.Vào năm 1800, kỷ
nguyên thương mại dần suy tàn. Tuy ở nhiều nhiều nơi trên thế giới, thương mại vẫn là xương
sống kinh tế, đặc biệt trong các đế chế thực dân như Anh, Pháp, Bồ Đào Nha. Thay vào đó,
chủ nghĩa tư bản công nghiệp bắt đầu. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản thương mại vẫn ăn sâu
bén rễ ở một số vùng của phương Tây cho đến tận thế kỷ 19, đặc biệt là miền Nam Hoa Kỳ,
nơi hệ thống đồn điền hạn chế sự phát triển của chủ nghĩa tư bản công nghiệp có các biểu
hiện chính trị ngăn cản các nhà lập pháp miền Bắc thông qua các gói kinh tế rộng lớn , ví dụ
như cải cách tiền tệ và ngân hàng, tuyến đường sắt xuyên lục địa và các ưu đãi cho việc định
cư ở miền Tây nước Mỹ để hội nhập nền kinh tế của các tiểu bang và thúc đẩy sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản công nghiệp.
Chủ nghĩa tư bản thương mại được phân biệt với chủ nghĩa tư bản phát triển đầy đủ hơn ở
chỗ nó tập trung vào việc đơn giản là di chuyển hàng hóa từ thị trường nơi chúng rẻ đến thị
trường nơi chúng đắt , thiếu công nghiệp hóa và tài chính thương mại. Các nhà buôn được hỗ
trợ bởi các nhà tài chính tư nhân tương đối nhỏ đóng vai trò là trung gian giữa những người
sản xuất hàng hóa đơn giản và bằng cách trao đổi nợ với nhau. Do đó, chủ nghĩa tư bản
thương mại đã đi trước phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa như một hình thức tích lũy
vốn. Một quá trình tích lũy vốn nguyên thủy, trên đó các hoạt động tài chính thương mại có
thể dựa vào và làm cho việc áp dụng lao động trả lương hàng loạt và công nghiệp hóa trở nên
khả thi, là điều kiện tiên quyết cần thiết để chuyển đổi chủ nghĩa tư bản thương mại thành chủ
nghĩa tư bản công nghiệp
2. Quá độ từ nền kinh tế trọng thương sang nền kinh tế thị trường tự do
Chủ nghĩa trọng thương, lần đầu tiên xuất hiện ở châu Âu vào những năm 1500, được thành
lập dựa trên khái niệm rằng tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu là cách tốt nhất để tăng sự
giàu có và ảnh hưởng của một quốc gia. Ở Tây Âu, chủ nghĩa trọng thương đã thay thế chế
độ phong kiến. Anh là trung tâm của Đế quốc Anh vào thời điểm đó, nhưng lại sở hữu ít tài
nguyên thiên nhiên.Để tăng sự giàu có của mình, Anh đã thực hiện các chính sách tài khóa
cấm những người thực dân mua các mặt hàng nước ngoài trong khi tạo ra các ưu đãi để chỉ
mua hàng hóa của Anh. Ví dụ, Đạo luật Đường năm 1764 đã tăng thuế đối với đường tinh
luyện và mật mía nước ngoài do các thuộc địa nhập khẩu. Mức thuế bổ sung này nhằm mục
đích trao cho những người trồng mía Anh ở Tây Ấn độc quyền thị trường thuộc địa. Đạo luật
Hàng hải năm 1651 cấm các tàu nước ngoài buôn bán dọc theo bờ biển Anh và yêu cầu các
sản phẩm thuộc địa phải thông qua thẩm quyền của Anh trước khi được phân phối lại trên lOMoARcP SD| 59062190
khắp châu Âu. Các chương trình này dẫn đến cán cân thương mại thuận lợi, làm tăng sự giàu
có quốc gia của Vương quốc Anh.
Theo chủ nghĩa trọng thương, các quốc gia thường sử dụng vũ lực quân sự để bảo vệ thị
trường địa phương và các nguồn cung ứng. Những người theo chủ nghĩa trọng thương cũng
tin rằng sức khỏe kinh tế của một quốc gia có thể được xác định bằng việc quốc gia đó sở
hữu các kim loại quý như vàng hoặc bạc. Mức độ của chúng có xu hướng tăng lên khi những
ngôi nhà mới được xây dựng, sản lượng nông nghiệp tăng lên và một tàu buôn mạnh cung
cấp hàng hóa và nguyên liệu thô cho các thị trường mới.
3. Đạo đức nghề nghiệp của người Tin Lành
Đạo đức nghề nghiệp Tin Lành, thường được gọi là đạo đức nghề nghiệp Calvin hoặc Thanh
giáo, là một khái niệm xã hội học, kinh tế và lịch sử. Đức tin nhấn mạnh cách tuân thủ các
nguyên lý của đức tin Tin Lành, đặc biệt là Calvin, dẫn đến sự siêng năng, kỷ luật và tiết
kiệm. Đó là một nét văn hóa tạo nên môi trường thuận lợi cho chủ nghĩa tư bản hiện đại,
thành lập dựa trên khái niệm khổ hạnh thế gian này, tức là sự tận tụy với Chúa thông qua một
tiếng gọi hoặc thiên chức, chẳng hạn như công việc kinh tế, bắt nguồn từ một phần cụ thể của
thần học được gọi là tiền định, được tìm thấy trong niềm tin của một giáo phái Tin lành được
gọi là Calvin. Khái niệm tiền định nêu rằng số phận của con người ở thiên đường hay địa
ngục đã được xác định trước khi họ bị thiêu đốt, nhưng họ không thể tìm ra nơi họ sẽ đến.
Điều này gây ra sự hoảng loạn về sự cứu rỗi trong số những người theo chủ nghĩa Calvin,
những người coi thành công trong kinh doanh là dấu hiệu từ Chúa rằng họ đã được chọn hoặc
được định sẵn lên thiên đường. Kết quả là, họ làm việc chăm chỉ, sống tiết kiệm và tích lũy
của cải. Theo Weber, đạo đức lao động Tin lành đóng vai trò là nền tảng cho các mối quan hệ
xã hội của chủ nghĩa tư bản hiện đại, và cũng là yếu tố chính tạo nên sự khác biệt về kinh tế
giữa các nước châu Âu trong thời đại hiện đại. Nghiên cứu của giáo sư Bernadett Bassala cho
thấy rằng Các họa sĩ Tin lành mô tả nhiều chủ đề tôn giáo hơn trong bối cảnh thương mại so
với các họa sĩ Công giáo. Trong thế kỷ 16 và 17, Hà Lan đã trải qua những thay đổi xã hội
đáng kể do cải cách. John Smith lãnh đạo việc thành lập Jamestown, khu định cư đầu tiên của
người Anh tại Mỹ, vào năm 1607. Ông đã đào tạo những người định cư Anh đầu tiên về nghề
nông và nghề đánh cá. Những người định cư này không được chuẩn bị để tồn tại trong các
khu định cư của người Anh vào đầu những năm 1600 và đang bên bờ vực của cái chết. John
Smith nhấn mạnh đến đạo đức nghề nghiệp của người Tin lành và giúp truyền bá đạo đức này
bằng cách nói rằng, "Ai không muốn làm việc, thì không được ăn", một sự ám chỉ rõ ràng