-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Thơ Đường luật là gì? Đặc điểm của thơ Đường luật
Thơ Đường luật hay thơ luật Đường là một thể thơ Đường với các luật xuất hiện vào thời nhà Đường ở Trung Quốc. Đây là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh thơ cổ phong (cổ thể thi). Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Tài liệu chung Ngữ Văn 10 56 tài liệu
Ngữ Văn 10 1.2 K tài liệu
Thơ Đường luật là gì? Đặc điểm của thơ Đường luật
Thơ Đường luật hay thơ luật Đường là một thể thơ Đường với các luật xuất hiện vào thời nhà Đường ở Trung Quốc. Đây là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh thơ cổ phong (cổ thể thi). Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Chủ đề: Tài liệu chung Ngữ Văn 10 56 tài liệu
Môn: Ngữ Văn 10 1.2 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Ngữ Văn 10
Preview text:
Thơ Đường luật là gì? Đặc điểm của thơ Đường luật
1. Thơ Đường luật là gì?
Thơ Đường luật hay thơ luật Đường là một thể thơ Đường với các luật xuất hiện vào thời nhà
Đường ở Trung Quốc. Đây là một trong những dạng thơ Đường bên cạnh thơ cổ phong (cổ thể
thi), từ, thơ Đường luật đã phát triển mạnh mẽ chính tại quê hương của nó và lan toả ra nhiều quốc
gia lân bang với tư cách thể loại tiêu biểu nhất của thơ Đường nói riêng và tinh hoa thi ca Trung
Hoa nói chung. Thơ Đường luật còn được gọi với thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn không theo cách luật ấy.
Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điều sau: Luật, Niêm, Vần,
Đối và Bố cục. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng: thất ngôn bát cú - được xem là dạng
chuẩn; biến thể có các dạng như thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú cũng như các dạng ít phổ biến.
2. Nguồn gốc của thơ Đường luật
Thơ Đường luật là một trong những thể loại văn chương xuất hiện từ rất sớm trong văn học Trung
Quốc, đây cũng là một thể loại thơ phổ biến trong văn hoá thơ ca khu vực Đông Á thời trung đại.
Thể thơ thất ngôn bát cú là cổ thi, xuất hiện sớm ở Trung Quốc. Đến đời nhà Đường mới được các
nhà thơ đặt ra quy định cụ thể, rõ rằng kéo dài trong chế độ phong kiến. Thể thơ này đã được các
đời vua Trung Quốc và Việt Nam dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài và rất phổ biến ở Việt
Nam vào thời Bắc thuộc, chủ yếu là được các cây bút quyd tộc sử dụng.
Thể thơ có luật rất chặt chẽ, tuy nhiên trong quá trình sáng tác, nhất là vào phong trào thơ mới tại
Việt Nam từ năm 1925, bằng sự sáng tạo của mình các tác giả đã làm giamr bớt tính gò bó, nghiêm
ngặt của luật bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.
3. Thơ Đường luật tại một số quốc gia 3.1. Việt Nam
Vì văn chương chính thống, giáo dục và hệ thống khoa cử thời trung đại đều sử dụng tiếng Hán,
nên từ lâu người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng Hán trong đó có thơ theo luật Đường.
Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp
thơ Đường luật với các thể thơ khác của dân tộc Việt.
Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỉ XX. Kể từ phong
trào thơ mới trở đi, số người còn làm thể thơ này đã bị giảm đi đáng kể. 3.2. Nhật Bản
Khoảng vào thế kỷ thứ 5, chữ Hán truyền từ Trung Hoa tới Nhật. Năm 593, thái tử Shotoku
(Thượng Đức) nhiếp chính đã ban hiến pháp "Thập thất điều", gửi nhiều phái đoàn sang nhà Đường
du học. Năm 710, nữ hoàng Genmei thiên đô về Nara, đặt tên là Bình Thành Kinh. Năm 794 Thiên
hoàng Kammu thiên đô về Heian và lập kinh đô. Đây là thời kỳ người Nhật mô phỏng Trung Hoa
thời nhà Đường toàn diện từ kiến trúc đô thành (theo mô hình kinh đô Tràng An nhà Đường và
thành Lạc Dương triều Bắc Nguỵ) đến nghi thức, văn hoá và thời kỳ này kéo dài ít nhất tính đến
thời điểm Nhật Bản ngừng phái sứ giả sang giao lưu với đại lục năm 894. Thơ văn chữ Hán trở
thành văn học của công và đồng nghĩa với sinh hoạt cung đình.
Thành tựu đáng chú ý đầu tiên của người Nhật đối với thể loại thơ Đường luật có thể kể đến
Kaifuso (Hoài phong tảo, 751). Thi tập này bao gồm 120 bài thơ chữ Hán, quy tụ các nhà thơ tiêu
biểu từ hoàng đế, thành viên của hoàng tộc, quý tộc, tăng lữ cho đến những Hoa kiều nhập quốc
tịch Nhật. Sáng tác đa phần được thực hiện từ thế kỷ thứ 7 và 8, hình thức thơ chủ yếu là thơ ngũ
ngôn, tứ tuyệt, bát cú.
4. Đặc điểm của thơ Đường luật
Thơ Đường luật có các đặc điểm như sau:
- Thơ Đường luật là một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điều sau: Luật, Niêm, Vần, Đối và Bố cục
- Về hình thức: thơ Đường luật có dạng thất ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn
- Các dạng biến thể: thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), ngũ ngôn tứ tuyệt (bốn câu,
mỗi câu năm chữ), ngũ ngôn bát cú (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến
khác, người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn theo các quy tắc này.
- Luật Đối âm (luật bằng trắc)
Luật thơ Đường sẽ căn cứ dựa trên thanh trắc và thanh bằng, dùng các chữ thứ 2 - 4 - 6 và 7 trong
cùng một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm những chữ không có dấu hoặc dấu
huyền, thanh trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại: sắc, hỏi, ngã, nặng
Những bài có luật bằng là bài sử dụng thanh bằng trong chữ thứ hai của câu đầu tiên; ngược lại,
nếu chữ thứ hai trong câu đầu tiên mà sử dụng thanh trắc thì được gọi là luật trắc. Chữ thứ hai
và chữ thứ sáu trong cùng một câu phải giống nhau về thanh điệu và đồng thời chữ thứ tư không
được có thanh điệu giống với hai chữ kia. - Luật Đối ý
Một nguyên tắc cố định trong một bài thơ được sáng tác theo thể loại Đường luật chính là ý nghĩa
của câu thứ ba, thứ tư phải đối nhau và cả hai câu thứ năm, thứ sáu cũng phải đối nhau
Đối chính là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép và nó bao gồm cả sự
tương đương trong cách mà tác giả sử dụng từ ngữ. Đối chữ là động từ đối động từ, danh từ với
danh từ. Đối cảnh là cảnh động đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới
Nếu trong một bài thơ Đường luật mà các câu ba, bốn không đối nhau hoặc những câu năm, sáu
không đối nhau thì được gọi là thất đối. 5. Bố cục
Một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống được chia thành bốn phần: đề, thực,
luận, kết. Đề gồm hai câu đầu, trong đó câu đầu tiên gọi là câu phá đề, câu thứ hai gọi là câu thừa
đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau. Thực gồm hai câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. Luận
gồm hai câu tiếp sau nữa, bình luận hai câu thực. Kết là hai câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó
câu số 7 là câu thúc và câu cuối là câu hợp. Thơ thấy ngôn bát cú có luật lệ gò bó khó làm nhất,
nhưng chính điều này lại được người xưa ưa thích, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm
vịnh, xướng hoạ... và trong tất cả các kì thi xưa đều dùng để chọn người tài.
Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc 2 - 4 - 2 cho bài thơ thất ngôn bát cú, Theo đó, quan niệm
này dứng ở góc độ không gian - thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn bài dựa theo logic hai câu
đầu và hai câu cuối của bài thơ Đường luật thì thường yếu tố thời gian sẽ chiếm vị trí chủ đạo, bốn
câu giữa trật tự không gian là chủ đạo và tác giả dường như dừng lại để quan sát sự vật.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu có xu hướng không cố tìm quy luật chung về bố cụ để áp dụng trong
hàng loạt bài thơ mà áp dụng quan điểm nghiên cứu bám sát và tuân thủ theo cách phân chia bố
cục của từng bài thơ theo mạch cảm xúc của thi nhân biển hiện trong bài. Một ví dụ đó là bài thơ
Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được tách theo bố cục 1/7, hoặc Bạn
đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến có thể tác bố cục 7/1 hoặc 1/6/1.
6. Một số dạng thơ Đường luật
6.1. Thất ngôn bát cú
Thơ thất ngôn bát cú chính là một thể loại thơ cổ xuất hiện rất sớm ở Trung Hoa, đến thời Đường
đã được các nhà thơ đặt lại quy tắc rõ ràng, cụ thể hơn và bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ đó. Đặc
điểm của thể loại thơ này chính là mỗi bài thơ sẽ có tám câu và mỗi câu có bảy chữ, đồng thời tuân
theo một quy tắc rất chăt chẽ.
6.2. Thất ngôn tứ tuyệt
Thực chất đây chính là một bài "thất ngôn bát cú" nhưng đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu
cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn được giữ nguyên, tuy nhiên có thể bỏ luật đối ở hai câu 3,
4 hoặc 5, 6. Lúc này sẽ trở thành một bài thơ "bốn câu ba vần".
6.3. Ngũ ngôn tứ tuyệt
Thực chất chính là một bài thất ngôn tứ tuyệt nhưng đem bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ và
luật sử dụng còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.
6.4. Ngũ ngôn bát cú
Cũng là biến thể từ bài thất ngôn bát cú nhưng bỏ hai chữ đầu ở mỗi câu mà thành, vẫn giữ nguyên
luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại.