Thực trạng Kinh tế thị trường định hướng XHCN| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tối và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨAVIỆT NAM HIỆN NAY
Họ tên sinh viên:
Mã số sinh viên:
Lớp tín chỉ :
HÀ NỘI 4/2023
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA............................................................................2
1.1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa........2
1.2. Sự cần thiết tồn tại của kinh tế thị trường..................................................2
1.3. Đặc trưng của nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa........5
1.4. Bản chất của nền kinh tế thị trưng định hướng xã hội chủ nghĩa..........6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY................................8
2.1. Thực trạng hiện nay......................................................................................8
2.2. Những hạn chế còn tồn tại của nền kinh tế thị trường ở nước ta...........10
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế của nền kinh tế thị trường hiện nay
..............................................................................................................................11
2.3.1. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp........................................11
2.3.2. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn rất yếu.
...........................................................................................................................12
2.3.3. Khả năng hội nhập còn hạn chế, trình độ cơ sở vật chất, khoa học kĩ
thuật còn thấp...................................................................................................13
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY..............................15
3.2. Hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý.....15
3.3. Giải quyết hài hòa mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội............16
3.4. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp..............................................................................17
KẾT LUẬN.........................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................19
MỞ ĐẦU
Việt Nam một nước đang phát triển, kinh tế - kỹ thuật mức trung bình,
trình độhội còn thấp, lại bị chiến tranh kéo dài dẫn đến những hệ lụy kéo theo.
Tiến lên chủ nghĩa hội mục đích, tưởng của toàn bộ lãnh đạo nhân
dân Việt Nam, là khát vọng vươn lên phát triển thoát khỏi cảnh nghèo khó là nhiệm
vụ thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội là một con
đường nhiều khó khăn thách thức. Đó câu hỏi lớn cực kỳ hệ trọng,
muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như các
nước hội chủ nghĩa, đã thực hiện kiểu nhà nước chủ nghĩa hội Xô-viết,
hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Tuy nhiên mô hình này chỉ phù
hợp trong nền kinh tế thời chiến, ngày nay với sự hòa bình phát triển đòi hỏi
phải có những sự thay đổi, ứng biến phù hợp mới có thể phát triển.
Trước sự sụp đổ của hình nhà nước Liên Xô, Đảng ta đã ý thức ngay
được tình thế của thời địa ngay lúc bấy giờ và vẫn kiên trì đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, phá bỏ chế quan liêu tập trung bao cấp
nhằm thực hiện hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội. Đảng đã
cho rằng sự sụp đổ của Liên do vẫn dụng thực hiện chủ nghĩa hội thiếu
phù hợp chứ không phải sụp đổ của kiểu nhà nước hội chủ nghĩa. Đại hội đã
thực hiệu mở cửa cho nền kinh tế, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kể từ đó cho tới nay, với việc mở cửa phát
triển kinh tế thị trường, nước ta đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Chính
vậy, muốn cái nhìn toàn diện, khách quan cụ thể hơn về quá trình phát
triển, thay đổi cùng với thực trạng hiện nay nên em đã chọn đề tài “Thực trạng
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài kết thúc học phần cho mình.
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo chế thị trường sự quản của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam. Nó được mô tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó
nhà nước giữ vai trò chủ đạo trách nhiệm định hướng nề kinh tế, với mục
tiêu dài hạn là xây dựng .chủ nghĩa xã hội
1.2. Sự cần thiết tồn tại của kinh tế thị trường
Trong thời quá độ lên chủ nghĩa hội Việt Nam thì nền kinh tế hàng
hóa, kinh tế thị trường đóng những vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt
chúng là cơ sở là nền tảng của nền kinh tế nước ta. Vì vậy kinh tế hàng hóa, kinh tế
thị trường tồn tại như là một sự tất yếu khách quan trong xã hội nước ta.
+ Phân công lao độnghội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vẫn
tồn tại ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu nước ta hiện nay.
Sự phân hóa, phân chia giai cấp, nghề nghiệp, định hướng tạo nên sự phân công về
công việc và nhiệm vụ ở Việt Nam là vô cùng phong phú. Việc phân công lao động
đã và đang tác động đến kinh tế nước ta trên nhiều mặt khác nhau như:
2
Xóa bỏ đi chế tưởng làm việc sinh hoạt tập trung quan liêu bao cấp
đã quá lạc hậu ăn sâu vào suy nghĩ của mỗi người dân. Thúc đẩy việc mua
bán trao đổi hàng hóa, đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế thị trường.
Năng suất lao động của người dân được nâng cao đáng kể, qua hoạt động
mua bán, trao đổi sản xuất đã tạo ra nhiều giá tr thặng hơn, đời sống con
người được thay đổi. Từ đó nền kinh tế ngày càng được mở rộng và phát triển, nhu
cầu của con người được đáp ứng đầy đủ kịp thời.
+ Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế: Cùng lúc xuất tại nhiều hình thức
kinh doanh cùng với sở hữu, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu nhân, sở
hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại các chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên mối quan
hệ kinh tế giữa đơn giản chỉ là hàng hóa và trao đổi lợi nhuận.
+ Tuy cả thành phần kinh tế nhà nước nhân đều dựa trên chế độ công
hữu về liệu sản xuất nhưng cách vận hành, công cụ cách thức trên thực tế
chúng khác nhau. Ở kinh tế tư nhân thì mọi người đều phải chịu trách nhiệm trước
việc sản xuất của doanh nghiệp mình. Tự chủ sản xuất, công cụ lao động, thúc đẩy
phát triển khoa học kĩ thuật trong quá trình thực hiện sản xuất.
+ Trong việc trao đổi nguồn nhân lực lao động trên thế giới trong thời điểm
kinh tế thị trường mang tính chất quan hệ ngoại giao, hỗ trợ cùng phát triển. Nguồn
lao động và nhân lực lao động được trao đổi trên cơ sở ngang giá.
Trong các văn kiện đại hội đảng, nghị quyết, các đại hội Đảng thì Đảng đã
đều khẳng định nền kinh tế Việt Nam một nền kinh tế đi lên theo con đường
kinh tế thị trường nhiều thành phần trong đó thành phố kinh tế nhà nước chiếm vai
trò lớn, dưới sự định hướng, quản của nhà nước. Sự lựa chọn này bắt nguồn thì
3
thực tiễn yêu cầu của thời đại dựa trên những lợi ích về kinh tế - hội
mô hình này đem lại.
+ Tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp
thực hiện sản xuất cạnh tranh với nhau rất gay gắt vậy đòi hỏi từng doanh
nghiệp phải thực hiện cải tiến chất lượng sản phẩm. Quá trình sản xuất phải tiết
kiệm chi phí, tiêu hao nhiên liên liệu để được lợi nhuận cao nhất. Phải áp dụng
khoa học thuật vào trong sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao sản lượng, chất
lượng sản phẩm.
Kinh tế thị trường thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước
Kinh tế thị trường là một phát hiện vĩ đại của con người và là một thành tựu
phát triển văn minh của nhân loại trong sản xuất và trao đổi sản phẩm. Từ đó giúp
con người có thể đạt được những thứ mà chưa bao giờ có thể tưởng tượng nổi nó
tiền đề cho mọi sự phát triển của xã hội hiện tài và trong cả tương lai.
Thông qua quy luật thị trường mà con người, máy móc và cả nền kinh tế đều
phát triển theo hướng hiện đại, năng động, kích thích sự phát triển về kinh tế xã hội
và khoa học kĩ thuật.
Nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa phù hợp với ý chí
nguyện vọng và nhu cầu của người dân.
Với những ưu điểm vượt trội phù hợp với nền kinh tế nước ta thì đã
đem lại những điểm tích cục cùng to lớn trong hoạt động sản xuất trao đổi.
Chính những đặc điểm của thực tế hoàn cảnh lịch sử nên nước ta không thể
lựa chọn đi theo con đường kinh tế thị trường bản chủ nghĩa nguyên tắc vận
hành của khác đi ngược lại với một số quan điểm của Đảng nhà nước ta.
4
Để đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của người dân về một hội công bằng,
dân chủ, văn mình thì buộc chúng ta phải đi theo con đường kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua đó ta thể nhận thấy rằng việc phát triển nền kinh tế theo hình
kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa một quyết định đúng đắn, sáng
suốt phù hợp với tình hình thực tế đất nước. Lựa chọn kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa còn là một khách quan của xã hội Việt Nam đáp ứng nhu cầu tâm tư, ý chí và
nguyện vọng của nhân dân về một xã hội giàu đẹp, phát triển, văn minh.
1.3. Đặc trưng của nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa phát
triển công cụ, lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng sở hạ tầng vật
chất kỹ thuật phục vụ cho việc đi lên hội chủ nghĩa, nâng cao mức sống nhân
dân và tất cả các tầng lớp trong xã hội. Sáng tạo, phát triển lực lượng sản xuất tiến
bộ, hiện đại phù hợp với xu thế của quốc tế.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đa dạng hình thức, thể loại
trong đó vai trò của kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đó.
Tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá hiệu quả xây dựng nền kinh tế hàng hóa định hướng
hội chủ nghĩa thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống con
người và thực hiện công bằng xã hội thông qua việc công hữu tư liệu sản xuất một
cách chắc chắn có hiệu quả, từng bước hiện đại thông mình chứ không phảiồ ạt
để rồi nhận lại những kết quả thất bại
Về quản trong kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa phải đặt
dưới sự quản của nhà nước hội chủ nghĩa. Đảng Nhà nước sẽ thực hiện
quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chính ch, chiến lược lâu dài
ngắn hạn sao cho phù hợp với tình hình của thực tế, các hình thức kinh tế
5
phương thức quản kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát triển nền kinh
tế toàn dân, đồng bộ giải phóng sản xuất.
Về phân phối kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa dựa trên kết
quả lao động. Làm việc theo yêu cầu hưởng lương theo năng lực phản ánh đúng
thực tại của bản thân, cá nhân mỗi con người. Phát triển kinh tế thị trường gắn liền
với sự phát triển của hội, hội kinh tế mối quan hệ liên quan mật thiết
với nhau. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa đậm đà
bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu những thành tựu khoa học kĩ thuật của
Thế giới. Phát huy mạnh mẽ hơn sức ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh và Mác
– LêNin trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.4. Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Sở Đảng ta lựa chọn hình kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa không phải là sự nhân định chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã
Mô hình kinh tế này xuất hiện là điều vô cùng mới mẻ trong nền kinh tế thị trường
mà chỉ xuất hiện ở Việt Nam chúng ta. Bởi vì nó bắt nguồn từ chính việc nhà nước
ta chọn đi lên chủ nghĩa hội theo con đường quá độ lên hội chủ nghĩa, ta đã
đang đốt cháy giai đoạn thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ quan trọng nên việc nền
kinh tế chịu ảnh hưởng của sự chỉ đạo đó điều hiển nhiên. Chúng ta thể goi
kinh tế thị trường cái “phổ biến”, còn kinh tế thị trường định hướng hội chủ
nghĩa “riêng biệt” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện đặc điểm cụ thể của
Việt Nam.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam là đặc biệt nhất và mới lạ bởi vì chúng ta hoàn
toàn không đi theo nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vìdo chúng không phù hợp với
những khác biệt về chính trị. Nước ta cũng không đi theo nên kinh tế quan liêu bao
cấp bởi hình này trước đó đã xuất hiện Việt Nam đã bị ta xóa bỏ
6
những sự phát triển nó đem lại là rất chậm chạp. Nói nước ta là đi theo con đường
kinh tế thị trường hội chủ nghĩa cũng không đúng nước ta chưa thể tiến tới
chủ nghĩa hội. Chủ nghĩa hộiđỉnh cao của phát triển chưa quốc gia
nào đạt được đến vị trí này.
Nhà nước ta chủ trường đi theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tiến tới xóa bỏ khoảng cách giàu và nghèo. Nỗ lựcsử dụng tối đa nguồn
nhân lực lao động để phát triển kinh tế trên sở công hữu về liệu sản xuất,
không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Nói đi theo nền kinh tế thị trường
đinh hướng hội chủ nghĩa không nghĩa ta bài trừ, xóa bỏ các tiến bộ văn
minh đại của các quốc gia đi theo hình kinh tế khác. Ngược lại, phải không
ngừng giao lưu kinh tế cùng với tiếp thu những thành tựu khoa học thuật. Phải
tạo ra thật nhiều của cải vật chất, phục vụ đời sống của nhân dân xây dựng nền
móng vững trãi của nền kinh tế. Hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như
chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột phân hóa giàu
nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng sự lựa chọn
tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác - Lê-nin,
nắm bắt đúng quy luật khách quan vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam.
7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Thực trạng hiện nay
Trên thực tế, quá trình đổi mới về thay đổi của nước ta sau 37 năm thực hiện
thay đổi từ năm 1986 cho tới nay về mặt kinh tế đã những thành quả rệt.
Bằng cách lựa chọn hình phát triển kinh tế thị trường thay cho chế quản
nhà nước quan liêu bao cấp từ trước những năm 1986. Dẫn theo sau đómột loạt
những thay đổi về thể chế kinh tế, kế hoạch sản xuất tập chung tất cả đều công
hữu sang những sở triển đa ngành nghề, đa lĩnh vực nhiều chủ sử hữu khác
nhau. Quá trình thay đổi bộ mặt đó được thể hiện trên các mặt thông qua sự dân
chủ trong đời sống hội Việt Nam. Xây dựng sở kinh tế, hội nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quản lý chặt chẽ đời sống kinh tế bằng phát luật. Tôn
trong quyền tự chủ của nhân dân, phát triển đất nước giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Trong đại hội IX, Đảng ta đã nhận định rõ về định hướng phát triển của nền
kinh tế nước ta là con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do nhà
nước quản lý bằng pháp luật trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bằng cơ chế
quản lý trên, hàng năm nước ta có các chỉ số về phát triển kinh tế vượt bậc, thu hút
hàng trăm nghìn nhà đầu tư từ nước ngoài, kim ngạch xuất nhập khẩu cũng trên đà
phát triển phi mã. Trong các quy định về pháp luật dân sự được điều chỉnh phù hợp
hơn đã thu hút các nguồn vốn nước ngoài được rót vào Việt Nam như các quan hệ
về pháp luật dân sự, bảo vệ tài sản của doanh nghiệp, bảo hiểm,…
Trên bảng xếp hạng các tiêu chí quan trọng trên thế giới Việt Nam đều được
cải thiện vị trí đáng kể. Tuy chỉ số GDP/người của nước ta chưa cao vẫn chỉ ở mức
trung bình thấp nhưng lại thứ tự xếp khá ổn vị trí thứ 70 về môi trường kinh
8
doanh vào năm 2019, thứ 67 vào năm 2020. Qua đó thể thấy được bước
chuyển mình rệt của ta trên trường quốc tế. Trong thời buổi dịch COVID 19
diễn ra phức tạp trên thế giới, Chính phủ ta đã nỗ lực trong việc phòng ngừa
phục hồi sau khi đại dịch qua đi bằng những chính sách hỗ trợ ưu ái lớn dành cho
những doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Tạo môi trường kinh doanh ổn
định, tiện lợi, thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và mạnh mẽ hơn ngay cả trước khi
dịch bệnh kéo tới.
Việt Namđất nướcnhiều yếu tố về nguồn lực cao để phát triển kinh tế
thị trường định hướng hội chủ nghĩa. thể nói không quá khi cho rằng Việt
Nam một trong các nước tình hình an ninh chính trị tốt nhất trên thế giới.
Đồng thời nước ta cũng có nhiều thuận lợi về di tích lịch sử, danh lam cảnh đẹp, có
nhiều tài nguyên thiên nhiên thuận lợi cho phát triển công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, “Rừng vàng, biển bạc”. Với đường bờ biển kéo dài phục vụ rất tốt cho an
ninh quốc phòng xây dựng các cảng biển phục vụ xuất nhập khẩu. Nền kinh tế
năng động, với số dân đông gần 100 triệu người và dộ tuổi trong lao động chiếm tỉ
lệ dân số vàng là yếu tố quan trọng phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Những thành tựu mà nước ta đạt được trong thời gian từ đổi mới đến nay thể
hiện qua những thông số cụ thể. Từ năm 1986-1990 mức tăng trưởng của Việt Nam
nằm ở con số 4,4%, đó là giai đoạn đầu tiên sau đổi mới. Bước sang giai đoạn tiếp
theo từ năm 1991-1995, mức tăng trưởng bình quân của nước ta đã nhảy vợt lên
8,2% so với giai đoạn trước đã tăng gần gấp đôi, đánh dấu sự hiệu quả của mô hình
kinh tế thị trường bắt đầu cho thấy hiệu quả đúng đắn. Các giai đoạn sau mức
tăng trưởng cũng mức cùng cao đỉnh cao giai đoạn 2016-2019 nước ta
vinh dự khi bước vào top 10 những đất nước sự phát triển kinh tế nhanh nhất
thế giới. Đây một thành quả lớn cho thấy những bước đi định hướng của
Đảng nhà nước cùng sáng suốt đúng đắn. Ngay cả trong khi thế giới
9
phải chịu đựng nững tổn thất mà dịch bệnh COVID 19 gây ra thì Việt Nam vẫn giữ
được mức tăng trưởng 2,91% trong khi những nền kinh tế lớn vững chắc tăng
trưởng âm và đi vào suy thoái cho tới tận hiện tại vẫn chưa thể phục hồi. Đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt, hiện nay mức thu nhập bình quân đầu người nước ta
trên 3500 USD, tỉ lệ nghèo giảm mạnh xuống dưới 7% năm 2018. Về bảng xếp
hạng tiêu chí phát triển bền vững, nhóm những nước cùng trình độ phát triển kinh
tế Việt Nam đứng thứ 49 (cao nhất trong khu vực)
2.2. Những hạn chế còn tồn tại của nền kinh tế thị trường ở nước ta
Trong qua trình thực hiện cải cách nên kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa, nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể, nhưng tuy nhiên thực tế
hiện nay chỉ ra rằng chúng ta vẫn còn gặp một số hạn chế như:
Thứ nhất, việc thực hiển đổi mới từ nên kinh tế tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường đã làm cho sở vật chất cũng như về tưởng có những bất
cập nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán trong quá trình quản lý và ban
hành thể chế pháp luật; do vậy, Nhà nước chưa phát huy hết được vai trò làm chủ,
quản lý của mình. Chưa tận dụng hết được các nguồn lực cũng như tiềm năng phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, sự tăng trưởng của nền kinh tế còn chậm, chưa có những bước phát
triển mạnh đột phá. Mức độ phát triển của nền kinh tế chỉ dừng mức tiềm năng.
Trên trường quốc tế, nền kinh tế của ta còn yếu, bị lệ thuộc vào các nền kinh tế lớn,
nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam cũng
không được đánh giá cao, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu chủ rau, củ, quả
không thể gia nhập vào các thị trường khó tính như Mĩ, Nhật và EU.
10
Thứ ba, vấn đề phân hóa giàu nghèo vẫn diễn ra ngày càng sâu sắc, trong khi
đó việc sử dụng các nguồn nhân lực, phần bổ nguồn lực còn dàn trải, lãng phí tài
nguyên thiên nhiên gây thất thoát lợi ích nhà nước. Chính vì kinh tế thị trường nên
dẫn đến một hiện trạng chính tham nhũng trong quản nhà nước, coi trọng
vật chất coi thường ý thức, ý chí đạo đức của con người. Do vậy, với việc
xuất hiện của nền kinh tế thị trường đã kéo theo nhiều cái mới đem lại hệ quả chưa
tốt trong quản lý nhà nước hiện nay.
Trong bối cảnh Thế giới đang thay đổi mạnh mẽ của cuộc cách mạng công
nghệ lần thứ tư. Toàn cầu cũng đang phải đối mặt với nhiều nguy đáng lo ngại
trong đo bao gồm cả Việt Nam. Nước chúng ta một nước đang phát triển lại
phải đối mặt với các vấn đề phức tạp như thiên tai, dịch bệnh, già hóa dân số, ô
nhiễm môi trường, an ninh chính trị. Như vậy đặt ra vấn đề đòi hỏi Đảng nhà
nước cần đưa ra các định hướng, chính sách phù hợp, đi trước đón đầu của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế của nền kinh tế thị trường hiện
nay
Đằng sau sự thành công của công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường thì nước ta còn gặp phải nhiều khó khăn và hạn chế như sau:
2.3.1. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp
- Việc phát triển kinh tế thị trường của nước ta là sự phát triển thiếu cân bằng
trong hội. Chỉ một vào ngành nghề, lĩnh vực trọng tâm mới được quan tâm
và phát triển về cơ sở vật chất, kĩ thuật. Hệ thống cơ sở hạ tầng thì còn yếu kém cũ
kĩ, mật độ giao thông đường sắt của nước ta chỉ chiếm khoàng 1% so với thế giới.
Đây con số đáng hổ thẹn khi đem ra so sánh với các nước đang phát triển trong
nhóm, lao động chủ yếu vẫn lao động thủ công, thôchất lượng của hàng hóa
11
sản phẩm cũng chưa cao, năng suất lao động thấp. Hệ thống thông tin liên lạc chưa
được áp dụng phổ biến nhiều nơi, trình độ khoa học công nghệ nước ta chỉ
mực 2/7 so với thế giới. Chúng ta vẫn sử dụng công nghẹ lạc hậu từ thế hệ thứ 2-3
trong khi thê giới đang ở thế hệ thứ 4-5.
- Hệ thông giao thông còn hạn chế và có chất lượng xuống cấp rất nhanh nên
gay khó khăn cho quá trình vận chuyển hàng hóa hay cung cấp nguồn nguyên vật
liệu. Nhiều khu vực kinh tế trọng điểm lại hệ thống giao thông không tốt gây
chia cắt với các vùng kinh tế khác, không thể liên kết phối hợp giúp các địa
phương khác cùng phát triển đồng bộ được đăc biệt là các khu vực Tây nguyên và
khu vực phía Nam. Chưa thể khai thác hết được các lợi thế về vị trí địa lý, các
nguồn lợi tối đa để giành cho sự phát triển toàn diện của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chính không được sở vật chất, thuật hạ tầng tốt nên đa số các
ngành nghề phát triển công nghệ cao bị hạn chế rất nhiều. Tuy tỉ trọng công nghiệp
chiếm phần lớn nhưng chủ yếu lao động thủ công, những ngành công nghiệp
thấp, còn những ngành công nghệ cao chỉ chiếm 26%.
2.3.2. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn rất yếu.
sở vật chất còn lạc hậu nên dẫn đến một số sản phẩm chất lượng
kém, không đủ tiêu chuẩn để gia nhập vào những thị trường khó tính phát triển
trên thế giới. Sản lượng sản phẩm ít không đáp ứng được đủ nhu cầu tiêu dùng,
chủng loại mẫu kém chất lượng, ít phong phú trong khi đó lại giá
thành mức rất cao. Do đó những mặt hàng trong nước không thể nào cạnh tranh
được với những sản phẩm tương tự ở nước ngoài. Nền kinh tế thì non trẻ nhạy cảm
yếu đuối không đủ sức cạnh tranh ngay cả khi có lợi thế “sân nhà” được hỗ trợ
từ Chính Phủ. Chưa đồng bộ được cơ sở vật chất và giao thông vận tải nên vẫn gây
tình trạng mất nguồn cung ứng. Trên thị trường hiện nay còn xuất hiện nhiều vấn
12
đề mới nảy sinh liên quan đến xuất xứ, nguồn gốc chất lượng của sản phẩm.
Nhiều mặt hàng chưa được quản tốt dẫn đến tình trạng hàng lậu, hàng giả, hàng
nhái tràn lan trên thị trường gây thất thoát kinh tế ảnh hưởng đến đời sống, lợi
ích người tiêu dùng.
Do nước ta một nước đang phát triển, nền kinh tế mời còn yếu hạn
chế nên các doanh nghiệp gặp phải rất nhiều khó khăn liên quan đến vốn, đặc biệt
là các doanh nghiệp tư nhân. Do thiếu vốn nên việc có thể vận hành kinh doanh sản
xuất thường xuyên bị ngắt quãng, vốn vay ngân hàng thì chỉ mang tính chất “chữa
cháy” chưa kể đến những quy trình thủ tục vay vốn rất rườm phức tạp. Thị
trường chứng khoán ra đời du nhập vào nước ta nhưng nhiều doanh nghiệp bị
hạn chế không mặn với thị trường này gặp nhiều rủi do kiên quan khi
tiềm lực tài chính không đủ mạnh để phát hành cổ phiếu.
2.3.3. Khả năng hội nhập còn hạn chế, trình độ cơ sở vật chất, khoa học
kĩ thuật còn thấp
Trước việc đặt raphải tham gia hội nhập kinh tế trong tình hình đất nước
chưa phát triển, nền kinh tế còn non trẻ nhạy cảm trước những biến động của thế
giới đi kèm đó nhiều nguy tiềm ẩn, khó khăn, thách thức đặt ra. Chính
vậy bài toán đặt ra là cần phải thích nghi ra sao cho phù hợp và an toàn nhất.
Phải chủ động đi trước đón đầu hội nhập, chuẩn bị những công tác tốt nhất
để chủ động gia nhập vào khu vực kinh tế thế giới kinh tế thị trường, tự nhận
thấy, vận dụng những điểm mạnh của nước ta làm sở để phát triển trong nền
kinh tế chung thế giới. Thực hiện giao lưu kinh tế, hội nhập tận dụng những điểm
mạnh về nội lực sức mạnh tổng hòa của cả đất nước, kết hợp với những yếu tố
khách quan trên thế giới nhằm phát triển kinh tế, văn hóa chính trị và xã hội. Chưa
trú trọng tiếp thu các khoa học kĩ thuật của các nền kinh tế phát triển.
13
Quản lý nhà nước về kinh tế còn yếu kém, những luật và bộ luật một số điều
còn chưa hợp lý, chưa đáp ứng và điều chỉnh được các quan hệ về kinh tế. Tạo điều
kiện cho nhiều tội phạm kinh tế thực hiền nhiều hành vi sai trái gây ảnh hưởng đến
kinh tế xã hội thất thoát cho ngân sách nhà nước. Các văn bản pháp luật thì chồng
chéo, phức tạp gây khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh
doanh khiến doanh nghiệp khó thể phát triển được. chế quản thì lạc hậu
thiếu chuyên nghiệp, thủ tục hành chính rườmkhiến doanh nghiệp tốn kém thời
gian và tiền bạc.
14
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chúng ta cần phải khẳng định ràng việc phát triển kinh tế thị trường
định hướng hội chủ nghĩa bước chuyển mình quan trọng của nước ta trong
quá trình tiến tới chủ nghĩa hội. Đây hình kinh tế, tưởng phù hợp
quy luật khách quan của thực tế, sáng tạo, hiện đại vận hành dưới sự quản lý, định
hướng của nhà nước. Để thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng hội
chủ nghĩa nhân dân và Đảng ta cần phải hoàn thành tốt một số giải pháp như sau:
3.1. Tập trung soát, sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn,
chưa hợp lý
một sự thật hiện nay pháp luật của Việt Nam về dân sự, quản thị
trường vô cùng nhiều phức tạp và chồng chéo lên nhau. Luật Dân sự, Luật Thương
mại, Luật Chứng khoán,… kèm theo đó rất nhiều các nghị định của Chính phủ,
thông của các bộ, quan ngang bộ khiến doanh nghiệp rất khó xử nắm
bắt. Những quy định này làm hạn chế năng lực sáng tạo, phát triển năng động của
doanh nghiệp.vậy Chính phủ Đảng cần phải tiếp tục soát, chỉnh sửa các
quy định của pháp luật, tạo cơ chế mới thuận lợi, hấp dẫn, nhanh chóng giúp doanh
ghiệp thể sản xuất trong môi trường tốt nhất. Phát triển môi trường sản xuất
lành mạnh, thúc đẩy sáng tạo khởi nghiệp, Chính phủ cần nhiều chính sách hỗ
trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Tiếp tục giao lưu với các nền kinh tế lớn, hợp tác kinh tế toàn diện trên
nhiều mặt thúc đẩy quan hệ hợp tác với khu vực lớn như Mĩ, EU, Nhật Bản,…
nhằm học tập hình kinh doanh tiếp thu những thành tựu khóa học thuật
mới trên cơ sở những thành tựu mà nên kinh tế nước nhà đã đạt được.
3.2. Hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý
15
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tập hợp toàn bộ các lực lượng xã hội, các nguồn
lực của dân tộc như quản nguồn lao động, quản về đất đai, tài nguyên thiên
nhiên để phục vụ như cầu sản xuất. Thực hiện phân bổ các nguồn tài nguyên đồng
đều, phát triển toàn diện giữa các ngành nghề lĩnh vực cho đến những địa phương
với nhau. Phát triển đồng bộ thị trường trong nền kinh tế thị trường, thực hiện quản
lí, điều chỉnh về mặt hàng, chất lượng cả giá cả mức ổn định luôn nằm
trong kiểm soát của nhà nước. Không chỉ đồng bộ về thị trường còn phải phát
triển dồng bộ về khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin một cách hiện đại, tiên tiến
làm sở cho phát triển các mặt hàng, chất lượng hàng hóa, sản phẩm. Tham gia
vào những thị trường mới như thị trường bất dộng sản, thị trường tài chính ngân
hàng thị trường chứng khoán nhằm kết nối những thị trường này lại với nhau.
Thực hiện triển khia hiều phương thức thanh toán mới hiện đại, giúp việc trao đổi
mua bán hàng hóa trở nên nhanh chóng thuận tiện cho cả doanh nghiệp người
tiêu dùng. Chuyển đổi số của Chính phủ ngày càng phải được đâye mạnh, triển
khai Chính phủ điện tử đến với nhân dân giảm thời gian, tiền bạc của nhân dân,
hạn chế tình trạng làm nhũng nhiễu, nhiêu khê trong giải quyết thủ tục hành chính
liên quan đến kinh tế.
3.3. Giải quyết hài hòa mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội
Nhà nước phải đóng vai trò lãnh đạo, quản lý thông qua hoạt động ban hành
các quy định pháp luật, điều tiết thị trường. Tuy nền kinh tế thị trường nhưng
thành phần kinh tế nhà nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế như các
ngành điện lực, dầu khí, than, khoáng sản,… Hoạt động điều tiết thị trường của nhà
nước thông quá chuyển đổi lưu thông hàng hóa, khuyến khích phát triển những
doanh nghiệp lớn, đồng thời những doanh nghiệp hoạt động động yếu kém thì cần
phải loại bỏ, đào thải khỏi thị trường không được để những doanh nghiệp này trở
thành gánh nặng cho nền kinh tế. Đổi mới không ngừng nền kinh tế sao cho phù
16
hợp với hoàn cảnh trong nước tình hình thế giới. Nhà nước phải ổn định nền
kinh tế, ban hành các chính sách, định hướng, cải cách thông qua nghị quyết của
Trung ương Đảng, phải cụ thể hóa những chính sách đó thông qua các văn bản
pháp luật, nhằm hỗ trợ, đảm bảo tốt nhất quyền lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp.
3.4. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp
Để các doanh nghiệp thể phát triển ổn định thì nhà nước cần phải điều
chỉnh từng thành phần kinh tế. Đối với khu vực thành phần thành phần
vốn đầu của nhà nước cần phải đẩy mạnh xử nợ xấu còn tồn đọng, nâng cao
trình độ chuyên môn, khoa học thuật làm cơ sở áp dụng công nghệ trình độ cao
một cách rộng rãi. Chính phủ Nhà nước cần siết chặt hơn nữa công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của những doanh nghiệp này không được để xảy
ra tiêu cực, thất thoát, lãng phí tài sản làm ảnh hưởng đến ngân sách của nhà nước.
Vẫn khuyến khích mô hình kinh doanh hợp tác xã, nông nghiệp nhỏ lẻ nhằm
duy trì và đáp ứng những nhu cầu thiết yếu thay vì kinh doanh nông nghiệp hộ gia
đình đem lại hiệu quả chưa cao. Tiếp tục điều chỉnh về chính sách doanh nghiệp tư
nhân, đề cao doanh nghiệp nhân đặt vai trò quan trong hơn trong nền
kinh tế.
Xây dựng, cụ thể hóa hệ tiêu chí xác định những đặc trưng của nền kinh tế
thị trường định hướng hội chủ nghĩa Việt Nam với các nội dung: Về cấu sở
hữu thành phần kinh tế: nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần; doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tự chủ, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng theo
pháp luật. Về cơ chế vận hành: là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự
17
quản của Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo.
18
KẾT LUẬN
thể nói việc lựa chọn con đường phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một bước đi đúng đắn, sáng suốt mà Đảng và Nhà nước
ta đã lựa chọn. Minh chứng ràng nhất cho việc đó việc kinh tế nước ta đang
những tiến triển vượt bậc cùng với đó tốc độ phát triển chóng mặt. Việc lựa
chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp
với thực tại khách quan của xã hội, của tiến trình phát triền và quan trọng hơn cả là
phù hợp với ý chí nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam. hoàn toàn
ưu thế vượt trội khiến nhân dân ta tin tưởng vào một nền kinh tế ổn định vững
mạnh, khát vọng về một hội công bằng , dân chủ, hiện đại văn minh. Tuy
nhiên việc phát triển kinh tế thị trường cũng đặt nước ta trước nhứng thử thách
khó khăn. Những vấn đề về ngoại giáo quốc tế, an ninh quốc phòng, nạn tham
nhũng cùng với đó nguy đánh mắt bản sắc dân tộc vẫn luôn thường trực,
chính vì vậy Đảngnhân dân cần phải luôn đề phòng, thích nghi kịp thời để ứng
phó trước những tình hình với.
Qua bài viết trên, dựa trên các phân tích, khái quát đánh giá đã cho thấy
đất nước ta đã sự đổi mới, phát triển mạnh mẽ tạo được vị thế lớn trong nền
kinh tế của thế giới. Tuy nhiên trước những diễn biến của tình hình thế giới đòi hỏi
chúng ta phải những nước đi mới không thể tụt lại phía sau so với thế giới.
Tôi cũng đã những kiến nghị giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường
của nước ta, rất mong những kiến nghị này sẽ được áp dụng vào trong thực tiễn
giải quyết những vấn đề còn gặp phải.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật
2. Nguyễn Phú Trọng (2007), Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển, Tạp chí Cộng sản
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/2081/kinh-te-thi-
truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia---quan-niem-va-giai-phap-phat-trien.aspx
3. Minh Tường (2022), Kinh tế thị trường gì? Ưu điểm, nhược điểm
của kinh tế thị trường, luật Minh Khuê https://luatminhkhue.vn/kinh-te-thi-truong-
la-gi.aspx
4. Tô Thị Nhung (2022), Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh mới, Tạp chí tài chính
https://tapchitaichinh.vn/phat-trien-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-
nghia-o-viet-nam-trong-boi-canh-moi.html
5. Vũ Tiến Lộc (2021), Kinh tế thị trường định hướng XHCN: Sự tiếp nối
tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần nước ta, Báo điện tử Chính
phủ https://baochinhphu.vn/kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xhcn-su-tiep-noi-tu-
tuong-ho-chi-minh-ve-nen-kinh-te-nhieu-thanh-phan-o-nuoc-ta-102297592.htm
20
| 1/22

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BÀI TẬP LỚN
ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Họ tên sinh viên: Mã số sinh viên: Lớp tín chỉ : HÀ NỘI 4/2023 MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA............................................................................2

1.1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa........2
1.2. Sự cần thiết tồn tại của kinh tế thị trường..................................................2
1.3. Đặc trưng của nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa........5
1.4. Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa..........6

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY................................8

2.1. Thực trạng hiện nay......................................................................................8
2.2. Những hạn chế còn tồn tại của nền kinh tế thị trường ở nước ta...........10
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế của nền kinh tế thị trường hiện nay
..............................................................................................................................11

2.3.1. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp........................................11
2.3.2. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn rất yếu.
...........................................................................................................................12
2.3.3. Khả năng hội nhập còn hạn chế, trình độ cơ sở vật chất, khoa học kĩ
thuật còn thấp
...................................................................................................13
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY..............................15

3.2. Hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý.....15
3.3.
Giải quyết hài hòa mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội............16
3.4.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp..............................................................................17
KẾT LUẬN.........................................................................................................18

TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................19 MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước đang phát triển, kinh tế - kỹ thuật ở mức trung bình,
trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh kéo dài dẫn đến những hệ lụy kéo theo.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục đích, là lý tưởng của toàn bộ lãnh đạo và nhân
dân Việt Nam, là khát vọng vươn lên phát triển thoát khỏi cảnh nghèo khó là nhiệm
vụ thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội là một con
đường có nhiều khó khăn và thách thức. Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng,
muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như các
nước xã hội chủ nghĩa, đã thực hiện kiểu nhà nước chủ nghĩa xã hội Xô-viết, mô
hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Tuy nhiên mô hình này chỉ phù
hợp trong nền kinh tế thời chiến, ngày nay với sự hòa bình và phát triển đòi hỏi
phải có những sự thay đổi, ứng biến phù hợp mới có thể phát triển.
Trước sự sụp đổ của mô hình nhà nước ở Liên Xô, Đảng ta đã ý thức ngay
được tình thế của thời địa ngay lúc bấy giờ và vẫn kiên trì đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước, phá bỏ cơ chế quan liêu tập trung bao cấp
nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng đã
cho rằng sự sụp đổ của Liên Xô là do vẫn dụng thực hiện chủ nghĩa xã hội thiếu
phù hợp chứ không phải sụp đổ của kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã
thực hiệu mở cửa cho nền kinh tế, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kể từ đó cho tới nay, với việc mở cửa phát
triển kinh tế thị trường, nước ta đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Chính
vì vậy, muốn có cái nhìn toàn diện, khách quan và cụ thể hơn về quá trình phát
triển, thay đổi cùng với thực trạng hiện nay nên em đã chọn đề tài “Thực trạng
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài kết thúc học phần cho mình. 1 NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam. Nó được mô tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó
nhà nước giữ vai trò chủ đạo và có trách nhiệm định hướng nề kinh tế, với mục
tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2. Sự cần thiết tồn tại của kinh tế thị trường
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì nền kinh tế hàng
hóa, kinh tế thị trường đóng những vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt
chúng là cơ sở là nền tảng của nền kinh tế nước ta. Vì vậy kinh tế hàng hóa, kinh tế
thị trường tồn tại như là một sự tất yếu khách quan trong xã hội nước ta.
+ Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vẫn
tồn tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện nay.
Sự phân hóa, phân chia giai cấp, nghề nghiệp, định hướng tạo nên sự phân công về
công việc và nhiệm vụ ở Việt Nam là vô cùng phong phú. Việc phân công lao động
đã và đang tác động đến kinh tế nước ta trên nhiều mặt khác nhau như: 2
– Xóa bỏ đi cơ chế tư tưởng làm việc sinh hoạt tập trung quan liêu bao cấp
đã quá cũ kĩ lạc hậu ăn sâu vào suy nghĩ của mỗi người dân. Thúc đẩy việc mua
bán trao đổi hàng hóa, đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế thị trường.
– Năng suất lao động của người dân được nâng cao đáng kể, qua hoạt động
mua bán, trao đổi và sản xuất đã tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn, đời sống con
người được thay đổi. Từ đó nền kinh tế ngày càng được mở rộng và phát triển, nhu
cầu của con người được đáp ứng đầy đủ kịp thời.
+ Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế: Cùng lúc xuất tại nhiều hình thức
kinh doanh cùng với sở hữu, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở
hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại các chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên mối quan
hệ kinh tế giữa đơn giản chỉ là hàng hóa và trao đổi lợi nhuận.
+ Tuy cả thành phần kinh tế nhà nước và tư nhân đều dựa trên chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất nhưng cách vận hành, công cụ và cách thức trên thực tế
chúng khác nhau. Ở kinh tế tư nhân thì mọi người đều phải chịu trách nhiệm trước
việc sản xuất của doanh nghiệp mình. Tự chủ sản xuất, công cụ lao động, thúc đẩy
phát triển khoa học kĩ thuật trong quá trình thực hiện sản xuất.
+ Trong việc trao đổi nguồn nhân lực lao động trên thế giới trong thời điểm
kinh tế thị trường mang tính chất quan hệ ngoại giao, hỗ trợ cùng phát triển. Nguồn
lao động và nhân lực lao động được trao đổi trên cơ sở ngang giá.
Trong các văn kiện đại hội đảng, nghị quyết, các đại hội Đảng thì Đảng đã
đều khẳng định nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế đi lên theo con đường
kinh tế thị trường nhiều thành phần trong đó thành phố kinh tế nhà nước chiếm vai
trò lớn, dưới sự định hướng, quản lý của nhà nước. Sự lựa chọn này bắt nguồn thì 3
thực tiễn yêu cầu của thời đại và là dựa trên những lợi ích về kinh tế - xã hội mà mô hình này đem lại.
+ Tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp
thực hiện sản xuất và cạnh tranh với nhau rất gay gắt vì vậy đòi hỏi từng doanh
nghiệp phải thực hiện cải tiến chất lượng sản phẩm. Quá trình sản xuất phải tiết
kiệm chi phí, tiêu hao nhiên liên liệu để có được lợi nhuận cao nhất. Phải áp dụng
khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất, kinh doanh nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm.
Kinh tế thị trường thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước
Kinh tế thị trường là một phát hiện vĩ đại của con người và là một thành tựu
phát triển văn minh của nhân loại trong sản xuất và trao đổi sản phẩm. Từ đó giúp
con người có thể đạt được những thứ mà chưa bao giờ có thể tưởng tượng nổi nó là
tiền đề cho mọi sự phát triển của xã hội hiện tài và trong cả tương lai.
Thông qua quy luật thị trường mà con người, máy móc và cả nền kinh tế đều
phát triển theo hướng hiện đại, năng động, kích thích sự phát triển về kinh tế xã hội và khoa học kĩ thuật.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với ý chí
nguyện vọng và nhu cầu của người dân.
Với những ưu điểm vượt trội và phù hợp với nền kinh tế nước ta thì nó đã
đem lại những điểm tích cục vô cùng to lớn trong hoạt động sản xuất và trao đổi.
Chính vì những đặc điểm của thực tế và hoàn cảnh lịch sử nên nước ta không thể
lựa chọn đi theo con đường kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa vì nguyên tắc vận
hành của nó khác và đi ngược lại với một số quan điểm của Đảng và nhà nước ta. 4
Để đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của người dân về một xã hội công bằng,
dân chủ, văn mình thì buộc chúng ta phải đi theo con đường kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua đó ta có thể nhận thấy rằng việc phát triển nền kinh tế theo mô hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quyết định đúng đắn, sáng
suốt phù hợp với tình hình thực tế đất nước. Lựa chọn kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa còn là một khách quan của xã hội Việt Nam đáp ứng nhu cầu tâm tư, ý chí và
nguyện vọng của nhân dân về một xã hội giàu đẹp, phát triển, văn minh.
1.3. Đặc trưng của nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển công cụ, lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở hạ tầng vật
chất kỹ thuật phục vụ cho việc đi lên xã hội chủ nghĩa, nâng cao mức sống nhân
dân và tất cả các tầng lớp trong xã hội. Sáng tạo, phát triển lực lượng sản xuất tiến
bộ, hiện đại phù hợp với xu thế của quốc tế.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đa dạng hình thức, thể loại
trong đó vai trò của kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đó.
Tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá hiệu quả xây dựng nền kinh tế hàng hóa định hướng
xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống con
người và thực hiện công bằng xã hội thông qua việc công hữu tư liệu sản xuất một
cách chắc chắn có hiệu quả, từng bước hiện đại thông mình chứ không phải là ồ ạt
để rồi nhận lại những kết quả thất bại
Về quản lý trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải đặt
dưới sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đảng và Nhà nước sẽ thực hiện
quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chính sách, chiến lược lâu dài và
ngắn hạn sao cho phù hợp với tình hình của thực tế, các hình thức kinh tế và 5
phương thức quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát triển nền kinh
tế toàn dân, đồng bộ giải phóng sản xuất.
Về phân phối kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên kết
quả lao động. Làm việc theo yêu cầu hưởng lương theo năng lực phản ánh đúng
thực tại của bản thân, cá nhân mỗi con người. Phát triển kinh tế thị trường gắn liền
với sự phát triển của xã hội, xã hội và kinh tế có mối quan hệ liên quan mật thiết
với nhau. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đậm đà
bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu những thành tựu khoa học kĩ thuật của
Thế giới. Phát huy mạnh mẽ hơn sức ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh và Mác
– LêNin trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.4. Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Sở dĩ Đảng ta lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa không phải là sự nhân định chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã
Mô hình kinh tế này xuất hiện là điều vô cùng mới mẻ trong nền kinh tế thị trường
mà chỉ xuất hiện ở Việt Nam chúng ta. Bởi vì nó bắt nguồn từ chính việc nhà nước
ta chọn đi lên chủ nghĩa xã hội theo con đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa, ta đã
đang đốt cháy giai đoạn thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ quan trọng nên việc nền
kinh tế chịu ảnh hưởng của sự chỉ đạo đó là điều hiển nhiên. Chúng ta có thể goi
kinh tế thị trường là cái “phổ biến”, còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là “riêng biệt” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam là đặc biệt nhất và mới lạ bởi vì chúng ta hoàn
toàn không đi theo nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vì lý do chúng không phù hợp với
những khác biệt về chính trị. Nước ta cũng không đi theo nên kinh tế quan liêu bao
cấp bởi vì mô hình này trước đó đã xuất hiện ở Việt Nam và đã bị ta xóa bỏ vì 6
những sự phát triển nó đem lại là rất chậm chạp. Nói nước ta là đi theo con đường
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cũng không đúng vì nước ta chưa thể tiến tới
chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là đỉnh cao của phát triển và chưa có quốc gia
nào đạt được đến vị trí này.
Nhà nước ta chủ trường đi theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tiến tới xóa bỏ khoảng cách giàu và nghèo. Nỗ lực và sử dụng tối đa nguồn
nhân lực lao động để phát triển kinh tế trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất,
không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Nói là đi theo nền kinh tế thị trường
đinh hướng xã hội chủ nghĩa không có nghĩa là ta bài trừ, xóa bỏ các tiến bộ văn
minh vĩ đại của các quốc gia đi theo mô hình kinh tế khác. Ngược lại, phải không
ngừng giao lưu kinh tế cùng với tiếp thu những thành tựu khoa học kĩ thuật. Phải
tạo ra thật nhiều của cải vật chất, phục vụ đời sống của nhân dân xây dựng nền
móng vững trãi của nền kinh tế. Hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như
chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hóa giàu
nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là sự lựa chọn
tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác - Lê-nin,
nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. 7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Thực trạng hiện nay
Trên thực tế, quá trình đổi mới về thay đổi của nước ta sau 37 năm thực hiện
thay đổi từ năm 1986 cho tới nay về mặt kinh tế đã có những thành quả rõ rệt.
Bằng cách lựa chọn mô hình phát triển kinh tế thị trường thay cho cơ chế quản lý
nhà nước quan liêu bao cấp từ trước những năm 1986. Dẫn theo sau đó là một loạt
những thay đổi về thể chế kinh tế, kế hoạch sản xuất tập chung tất cả đều là công
hữu sang những cơ sở triển đa ngành nghề, đa lĩnh vực nhiều chủ sử hữu khác
nhau. Quá trình thay đổi bộ mặt đó được thể hiện trên các mặt thông qua sự dân
chủ trong đời sống xã hội ở Việt Nam. Xây dựng cơ sở kinh tế, xã hội nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quản lý chặt chẽ đời sống kinh tế bằng phát luật. Tôn
trong quyền tự chủ của nhân dân, phát triển đất nước giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Trong đại hội IX, Đảng ta đã nhận định rõ về định hướng phát triển của nền
kinh tế nước ta là con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do nhà
nước quản lý bằng pháp luật trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bằng cơ chế
quản lý trên, hàng năm nước ta có các chỉ số về phát triển kinh tế vượt bậc, thu hút
hàng trăm nghìn nhà đầu tư từ nước ngoài, kim ngạch xuất nhập khẩu cũng trên đà
phát triển phi mã. Trong các quy định về pháp luật dân sự được điều chỉnh phù hợp
hơn đã thu hút các nguồn vốn nước ngoài được rót vào Việt Nam như các quan hệ
về pháp luật dân sự, bảo vệ tài sản của doanh nghiệp, bảo hiểm,…
Trên bảng xếp hạng các tiêu chí quan trọng trên thế giới Việt Nam đều được
cải thiện vị trí đáng kể. Tuy chỉ số GDP/người của nước ta chưa cao vẫn chỉ ở mức
trung bình thấp nhưng lại có thứ tự xếp khá ổn là vị trí thứ 70 về môi trường kinh 8
doanh vào năm 2019, và thứ 67 vào năm 2020. Qua đó có thể thấy được bước
chuyển mình rõ rệt của ta trên trường quốc tế. Trong thời buổi dịch COVID 19
diễn ra phức tạp trên thế giới, Chính phủ ta đã nỗ lực trong việc phòng ngừa và
phục hồi sau khi đại dịch qua đi bằng những chính sách hỗ trợ ưu ái lớn dành cho
những doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Tạo môi trường kinh doanh ổn
định, tiện lợi, thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và mạnh mẽ hơn ngay cả trước khi dịch bệnh kéo tới.
Việt Nam là đất nước có nhiều yếu tố về nguồn lực cao để phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói không quá khi cho rằng Việt
Nam là một trong các nước có tình hình an ninh chính trị tốt nhất trên thế giới.
Đồng thời nước ta cũng có nhiều thuận lợi về di tích lịch sử, danh lam cảnh đẹp, có
nhiều tài nguyên thiên nhiên thuận lợi cho phát triển công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, có “Rừng vàng, biển bạc”. Với đường bờ biển kéo dài phục vụ rất tốt cho an
ninh quốc phòng và xây dựng các cảng biển phục vụ xuất nhập khẩu. Nền kinh tế
năng động, với số dân đông gần 100 triệu người và dộ tuổi trong lao động chiếm tỉ
lệ dân số vàng là yếu tố quan trọng phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Những thành tựu mà nước ta đạt được trong thời gian từ đổi mới đến nay thể
hiện qua những thông số cụ thể. Từ năm 1986-1990 mức tăng trưởng của Việt Nam
nằm ở con số 4,4%, đó là giai đoạn đầu tiên sau đổi mới. Bước sang giai đoạn tiếp
theo từ năm 1991-1995, mức tăng trưởng bình quân của nước ta đã nhảy vợt lên
8,2% so với giai đoạn trước đã tăng gần gấp đôi, đánh dấu sự hiệu quả của mô hình
kinh tế thị trường bắt đầu cho thấy hiệu quả và đúng đắn. Các giai đoạn sau mức
tăng trưởng cũng ở mức vô cùng cao và đỉnh cao là giai đoạn 2016-2019 nước ta
vinh dự khi bước vào top 10 những đất nước có sự phát triển kinh tế nhanh nhất
thế giới. Đây là một thành quả lớn cho thấy những bước đi và định hướng của
Đảng và nhà nước là vô cùng sáng suốt và đúng đắn. Ngay cả trong khi thế giới 9
phải chịu đựng nững tổn thất mà dịch bệnh COVID 19 gây ra thì Việt Nam vẫn giữ
được mức tăng trưởng 2,91% trong khi những nền kinh tế lớn vững chắc tăng
trưởng âm và đi vào suy thoái cho tới tận hiện tại vẫn chưa thể phục hồi. Đời sống
nhân dân được cải thiện rõ rệt, hiện nay mức thu nhập bình quân đầu người nước ta
là trên 3500 USD, tỉ lệ nghèo giảm mạnh xuống dưới 7% năm 2018. Về bảng xếp
hạng tiêu chí phát triển bền vững, nhóm những nước cùng trình độ phát triển kinh
tế Việt Nam đứng thứ 49 (cao nhất trong khu vực)
2.2. Những hạn chế còn tồn tại của nền kinh tế thị trường ở nước ta
Trong qua trình thực hiện cải cách nên kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể, nhưng tuy nhiên thực tế
hiện nay chỉ ra rằng chúng ta vẫn còn gặp một số hạn chế như:
Thứ nhất, việc thực hiển đổi mới từ nên kinh tế tập trung bao cấp sang nền
kinh tế thị trường đã làm cho cơ sở vật chất cũng như là về tư tưởng có những bất
cập nên đã tạo ra sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán trong quá trình quản lý và ban
hành thể chế pháp luật; do vậy, Nhà nước chưa phát huy hết được vai trò làm chủ,
quản lý của mình. Chưa tận dụng hết được các nguồn lực cũng như tiềm năng phát
triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, sự tăng trưởng của nền kinh tế còn chậm, chưa có những bước phát
triển mạnh đột phá. Mức độ phát triển của nền kinh tế chỉ dừng ở mức tiềm năng.
Trên trường quốc tế, nền kinh tế của ta còn yếu, bị lệ thuộc vào các nền kinh tế lớn,
nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam cũng
không được đánh giá cao, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu chủ là rau, củ, quả và
không thể gia nhập vào các thị trường khó tính như Mĩ, Nhật và EU. 10
Thứ ba, vấn đề phân hóa giàu nghèo vẫn diễn ra ngày càng sâu sắc, trong khi
đó việc sử dụng các nguồn nhân lực, phần bổ nguồn lực còn dàn trải, lãng phí tài
nguyên thiên nhiên gây thất thoát lợi ích nhà nước. Chính vì kinh tế thị trường nên
dẫn đến một hiện trạng chính là tham nhũng ở trong quản lý nhà nước, coi trọng
vật chất mà coi thường ý thức, ý chí và đạo đức của con người. Do vậy, với việc
xuất hiện của nền kinh tế thị trường đã kéo theo nhiều cái mới đem lại hệ quả chưa
tốt trong quản lý nhà nước hiện nay.
Trong bối cảnh Thế giới đang thay đổi mạnh mẽ của cuộc cách mạng công
nghệ lần thứ tư. Toàn cầu cũng đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ đáng lo ngại
và trong đo bao gồm cả Việt Nam. Nước chúng ta là một nước đang phát triển lại
phải đối mặt với các vấn đề phức tạp như thiên tai, dịch bệnh, già hóa dân số, ô
nhiễm môi trường, an ninh chính trị. Như vậy đặt ra vấn đề đòi hỏi Đảng và nhà
nước cần đưa ra các định hướng, chính sách phù hợp, đi trước đón đầu của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế của nền kinh tế thị trường hiện nay
Đằng sau sự thành công của công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường thì nước ta còn gặp phải nhiều khó khăn và hạn chế như sau:
2.3.1. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp
- Việc phát triển kinh tế thị trường của nước ta là sự phát triển thiếu cân bằng
trong xã hội. Chỉ có một vào ngành nghề, lĩnh vực trọng tâm mới được quan tâm
và phát triển về cơ sở vật chất, kĩ thuật. Hệ thống cơ sở hạ tầng thì còn yếu kém cũ
kĩ, mật độ giao thông đường sắt của nước ta chỉ chiếm khoàng 1% so với thế giới.
Đây là con số đáng hổ thẹn khi đem ra so sánh với các nước đang phát triển trong
nhóm, lao động chủ yếu vẫn là lao động thủ công, thô sơ chất lượng của hàng hóa 11
sản phẩm cũng chưa cao, năng suất lao động thấp. Hệ thống thông tin liên lạc chưa
được áp dụng và phổ biến ở nhiều nơi, trình độ khoa học công nghệ nước ta chỉ ở
mực 2/7 so với thế giới. Chúng ta vẫn sử dụng công nghẹ lạc hậu từ thế hệ thứ 2-3
trong khi thê giới đang ở thế hệ thứ 4-5.
- Hệ thông giao thông còn hạn chế và có chất lượng xuống cấp rất nhanh nên
gay khó khăn cho quá trình vận chuyển hàng hóa hay cung cấp nguồn nguyên vật
liệu. Nhiều khu vực kinh tế trọng điểm lại có hệ thống giao thông không tốt gây
chia cắt với các vùng kinh tế khác, không thể liên kết phối hợp giúp các địa
phương khác cùng phát triển đồng bộ được đăc biệt là các khu vực Tây nguyên và
khu vực phía Nam. Chưa thể khai thác hết được các lợi thế về vị trí địa lý, các
nguồn lợi tối đa để giành cho sự phát triển toàn diện của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chính vì không có được cơ sở vật chất, kĩ thuật hạ tầng tốt nên đa số các
ngành nghề phát triển công nghệ cao bị hạn chế rất nhiều. Tuy tỉ trọng công nghiệp
chiếm phần lớn nhưng chủ yếu là lao động thủ công, những ngành công nghiệp
thấp, còn những ngành công nghệ cao chỉ chiếm 26%.
2.3.2. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn rất yếu.
Vì cơ sở vật chất còn lạc hậu nên dẫn đến một số sản phẩm có chất lượng
kém, không đủ tiêu chuẩn để gia nhập vào những thị trường khó tính và phát triển
trên thế giới. Sản lượng sản phẩm ít không đáp ứng được đủ nhu cầu tiêu dùng,
chủng loại và mẫu mã kém chất lượng, ít phong phú mà trong khi đó lại có giá
thành ở mức rất cao. Do đó những mặt hàng trong nước không thể nào cạnh tranh
được với những sản phẩm tương tự ở nước ngoài. Nền kinh tế thì non trẻ nhạy cảm
yếu đuối không đủ sức cạnh tranh ngay cả khi có lợi thế “sân nhà” và được hỗ trợ
từ Chính Phủ. Chưa đồng bộ được cơ sở vật chất và giao thông vận tải nên vẫn gây
tình trạng mất nguồn cung ứng. Trên thị trường hiện nay còn xuất hiện nhiều vấn 12
đề mới nảy sinh liên quan đến xuất xứ, nguồn gốc và chất lượng của sản phẩm.
Nhiều mặt hàng chưa được quản lý tốt dẫn đến tình trạng hàng lậu, hàng giả, hàng
nhái tràn lan trên thị trường gây thất thoát kinh tế và ảnh hưởng đến đời sống, lợi ích người tiêu dùng.
Do nước ta là một nước đang phát triển, có nền kinh tế mời còn yếu và hạn
chế nên các doanh nghiệp gặp phải rất nhiều khó khăn liên quan đến vốn, đặc biệt
là các doanh nghiệp tư nhân. Do thiếu vốn nên việc có thể vận hành kinh doanh sản
xuất thường xuyên bị ngắt quãng, vốn vay ngân hàng thì chỉ mang tính chất “chữa
cháy” chưa kể đến những quy trình thủ tục vay vốn rất rườm rà và phức tạp. Thị
trường chứng khoán ra đời và du nhập vào nước ta nhưng nhiều doanh nghiệp bị
hạn chế và không mặn mà với thị trường này vì gặp nhiều rủi do kiên quan khi
tiềm lực tài chính không đủ mạnh để phát hành cổ phiếu.
2.3.3. Khả năng hội nhập còn hạn chế, trình độ cơ sở vật chất, khoa học
kĩ thuật còn thấp
Trước việc đặt ra là phải tham gia hội nhập kinh tế trong tình hình đất nước
chưa phát triển, nền kinh tế còn non trẻ nhạy cảm trước những biến động của thế
giới và đi kèm đó là nhiều nguy cơ tiềm ẩn, khó khăn, thách thức đặt ra. Chính vì
vậy bài toán đặt ra là cần phải thích nghi ra sao cho phù hợp và an toàn nhất.
Phải chủ động đi trước đón đầu hội nhập, chuẩn bị những công tác tốt nhất
để chủ động gia nhập vào khu vực kinh tế thế giới và kinh tế thị trường, tự nhận
thấy, vận dụng những điểm mạnh của nước ta làm cơ sở để phát triển trong nền
kinh tế chung thế giới. Thực hiện giao lưu kinh tế, hội nhập tận dụng những điểm
mạnh về nội lực sức mạnh tổng hòa của cả đất nước, kết hợp với những yếu tố
khách quan trên thế giới nhằm phát triển kinh tế, văn hóa chính trị và xã hội. Chưa
trú trọng tiếp thu các khoa học kĩ thuật của các nền kinh tế phát triển. 13
Quản lý nhà nước về kinh tế còn yếu kém, những luật và bộ luật một số điều
còn chưa hợp lý, chưa đáp ứng và điều chỉnh được các quan hệ về kinh tế. Tạo điều
kiện cho nhiều tội phạm kinh tế thực hiền nhiều hành vi sai trái gây ảnh hưởng đến
kinh tế xã hội thất thoát cho ngân sách nhà nước. Các văn bản pháp luật thì chồng
chéo, phức tạp gây khó khăn cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh
doanh khiến doanh nghiệp khó có thể phát triển được. Cơ chế quản lý thì lạc hậu
thiếu chuyên nghiệp, thủ tục hành chính rườm rà khiến doanh nghiệp tốn kém thời gian và tiền bạc. 14
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Chúng ta cần phải khẳng định rõ ràng là việc phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là bước chuyển mình quan trọng của nước ta trong
quá trình tiến tới chủ nghĩa xã hội. Đây là mô hình kinh tế, lý tưởng và phù hợp
quy luật khách quan của thực tế, sáng tạo, hiện đại vận hành dưới sự quản lý, định
hướng của nhà nước. Để thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nhân dân và Đảng ta cần phải hoàn thành tốt một số giải pháp như sau:
3.1. Tập trung rà soát, sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa hợp lý
Có một sự thật là hiện nay pháp luật của Việt Nam về dân sự, quản lý thị
trường vô cùng nhiều phức tạp và chồng chéo lên nhau. Luật Dân sự, Luật Thương
mại, Luật Chứng khoán,… kèm theo đó là rất nhiều các nghị định của Chính phủ,
thông tư của các bộ, cơ quan ngang bộ khiến doanh nghiệp rất khó xử lý và nắm
bắt. Những quy định này làm hạn chế năng lực sáng tạo, phát triển năng động của
doanh nghiệp. Vì vậy Chính phủ và Đảng cần phải tiếp tục rà soát, chỉnh sửa các
quy định của pháp luật, tạo cơ chế mới thuận lợi, hấp dẫn, nhanh chóng giúp doanh
ghiệp có thể sản xuất trong môi trường tốt nhất. Phát triển môi trường sản xuất
lành mạnh, thúc đẩy sáng tạo khởi nghiệp, Chính phủ cần có nhiều chính sách hỗ
trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Tiếp tục giao lưu với các nền kinh tế lớn, hợp tác kinh tế toàn diện trên
nhiều mặt thúc đẩy quan hệ hợp tác với khu vực lớn như Mĩ, EU, Nhật Bản,…
nhằm học tập mô hình kinh doanh và tiếp thu những thành tựu khóa học kĩ thuật
mới trên cơ sở những thành tựu mà nên kinh tế nước nhà đã đạt được.
3.2. Hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ các nguồn lực, về quản lý 15
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tập hợp toàn bộ các lực lượng xã hội, các nguồn
lực của dân tộc như quản lý nguồn lao động, quản lý về đất đai, tài nguyên thiên
nhiên để phục vụ như cầu sản xuất. Thực hiện phân bổ các nguồn tài nguyên đồng
đều, phát triển toàn diện giữa các ngành nghề lĩnh vực cho đến những địa phương
với nhau. Phát triển đồng bộ thị trường trong nền kinh tế thị trường, thực hiện quản
lí, điều chỉnh về mặt hàng, chất lượng và cả giá cả ở mức ổn định cà luôn nằm
trong kiểm soát của nhà nước. Không chỉ đồng bộ về thị trường mà còn phải phát
triển dồng bộ về khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin một cách hiện đại, tiên tiến
làm cơ sở cho phát triển các mặt hàng, chất lượng hàng hóa, sản phẩm. Tham gia
vào những thị trường mới như thị trường bất dộng sản, thị trường tài chính ngân
hàng và thị trường chứng khoán nhằm kết nối những thị trường này lại với nhau.
Thực hiện triển khia hiều phương thức thanh toán mới hiện đại, giúp việc trao đổi
mua bán hàng hóa trở nên nhanh chóng thuận tiện cho cả doanh nghiệp và người
tiêu dùng. Chuyển đổi số của Chính phủ ngày càng phải được đâye mạnh, triển
khai Chính phủ điện tử đến với nhân dân giảm thời gian, tiền bạc của nhân dân,
hạn chế tình trạng làm nhũng nhiễu, nhiêu khê trong giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến kinh tế.
3.3. Giải quyết hài hòa mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội
Nhà nước phải đóng vai trò lãnh đạo, quản lý thông qua hoạt động ban hành
các quy định pháp luật, điều tiết thị trường. Tuy là nền kinh tế thị trường nhưng
thành phần kinh tế nhà nước vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế như các
ngành điện lực, dầu khí, than, khoáng sản,… Hoạt động điều tiết thị trường của nhà
nước thông quá chuyển đổi và lưu thông hàng hóa, khuyến khích phát triển những
doanh nghiệp lớn, đồng thời những doanh nghiệp hoạt động động yếu kém thì cần
phải loại bỏ, đào thải khỏi thị trường không được để những doanh nghiệp này trở
thành gánh nặng cho nền kinh tế. Đổi mới không ngừng nền kinh tế sao cho phù 16
hợp với hoàn cảnh trong nước và tình hình thế giới. Nhà nước phải ổn định nền
kinh tế, ban hành các chính sách, định hướng, cải cách thông qua nghị quyết của
Trung ương Đảng, phải cụ thể hóa những chính sách đó thông qua các văn bản
pháp luật, nhằm hỗ trợ, đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
3.4. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp
Để các doanh nghiệp có thể phát triển ổn định thì nhà nước cần phải điều
chỉnh từng thành phần kinh tế. Đối với khu vực có thành phần là thành phần có
vốn đầu tư của nhà nước cần phải đẩy mạnh xử lý nợ xấu còn tồn đọng, nâng cao
trình độ chuyên môn, khoa học kĩ thuật làm cơ sở áp dụng công nghệ trình độ cao
một cách rộng rãi. Chính phủ và Nhà nước cần siết chặt hơn nữa công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của những doanh nghiệp này không được để xảy
ra tiêu cực, thất thoát, lãng phí tài sản làm ảnh hưởng đến ngân sách của nhà nước.
Vẫn khuyến khích mô hình kinh doanh hợp tác xã, nông nghiệp nhỏ lẻ nhằm
duy trì và đáp ứng những nhu cầu thiết yếu thay vì kinh doanh nông nghiệp hộ gia
đình đem lại hiệu quả chưa cao. Tiếp tục điều chỉnh về chính sách doanh nghiệp tư
nhân, đề cao doanh nghiệp tư nhân và đặt nó có vai trò quan trong hơn trong nền kinh tế.
Xây dựng, cụ thể hóa hệ tiêu chí xác định những đặc trưng của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nội dung: Về cơ cấu sở
hữu và thành phần kinh tế: là nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần; doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tự chủ, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng theo
pháp luật. Về cơ chế vận hành: là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự 17
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. 18 KẾT LUẬN
Có thể nói việc lựa chọn con đường phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một bước đi đúng đắn, sáng suốt mà Đảng và Nhà nước
ta đã lựa chọn. Minh chứng rõ ràng nhất cho việc đó là việc kinh tế nước ta đang
có những tiến triển vượt bậc cùng với đó là tốc độ phát triển chóng mặt. Việc lựa
chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp
với thực tại khách quan của xã hội, của tiến trình phát triền và quan trọng hơn cả là
nó phù hợp với ý chí nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam. Nó hoàn toàn
ưu thế và vượt trội khiến nhân dân ta tin tưởng vào một nền kinh tế ổn định vững
mạnh, khát vọng về một xã hội công bằng , dân chủ, hiện đại và văn minh. Tuy
nhiên việc phát triển kinh tế thị trường cũng đặt nước ta trước nhứng thử thách và
khó khăn. Những vấn đề về ngoại giáo quốc tế, an ninh quốc phòng, nạn tham
nhũng cùng với đó là nguy cơ đánh mắt bản sắc dân tộc vẫn luôn thường trực,
chính vì vậy Đảng và nhân dân cần phải luôn đề phòng, thích nghi kịp thời để ứng
phó trước những tình hình với.
Qua bài viết trên, dựa trên các phân tích, khái quát và đánh giá đã cho thấy
đất nước ta đã có sự đổi mới, phát triển mạnh mẽ tạo được vị thế lớn trong nền
kinh tế của thế giới. Tuy nhiên trước những diễn biến của tình hình thế giới đòi hỏi
chúng ta phải có những nước đi mới không thể tụt lại ở phía sau so với thế giới.
Tôi cũng đã có những kiến nghị giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường
của nước ta, rất mong những kiến nghị này sẽ được áp dụng vào trong thực tiễn và
giải quyết những vấn đề còn gặp phải. 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật
2. Nguyễn Phú Trọng (2007), Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển, Tạp chí Cộng sản
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/2081/kinh-te-thi-
truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia---quan-niem-va-giai-phap-phat-trien.aspx
3. Lê Minh Tường (2022), Kinh tế thị trường là gì? Ưu điểm, nhược điểm
của kinh tế thị trường, luật Minh Khuê https://luatminhkhue.vn/kinh-te-thi-truong- la-gi.aspx
4. Tô Thị Nhung (2022), Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh mới, Tạp chí tài chính
https://tapchitaichinh.vn/phat-trien-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-
nghia-o-viet-nam-trong-boi-canh-moi.html
5. Vũ Tiến Lộc (2021), Kinh tế thị trường định hướng XHCN: Sự tiếp nối tư
tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, Báo điện tử Chính phủ
https://baochinhphu.vn/kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xhcn-su-tiep-noi-tu-
tuong-ho-chi-minh-ve-nen-kinh-te-nhieu-thanh-phan-o-nuoc-ta-102297592.htm 20