lOMoARcPSD| 58833082
Thực trạng tiếp cận thông tin trong lĩnh vực tư pháp
Đối với Viện kiểm sát nhân dân, Tán nhân dân, cùng với quá trình xây dựng hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền, chủ trương từng bước công khai các bản án, phán quyết của
Tán đã xây dựng nền tảng cho việc ng khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ
quan tư pháp. Luật Tổ chức Tán nhân dân xác định nguyên tắc: Toà án xét xử công khai,
trừ trường hợp cần xét xử kín để giữ gìn bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc
hoặc để giữ bí mật của các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.
Ngày 18/7/2017, Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức Lễ khai trương Trang thông tin điện
tử công bố bản án, quyết định của Tòa án. Lễ khai trương được Tòa án nhân dân tối cao
kết nối trực tuyến đến 778 điểm cầu thuộc các Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân
và Tòa án quân sự các cấp. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến ợc cải cách pháp đến năm 2020, Đảng ta đã chủ trương phải thực hiện
công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án nói chung và việc công khai bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nói riêng. Thể chế hóa chủ trương trên của Đảng, tại
Hội nghị triển khai ng tác Tòa án năm 2017, Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Tóa án nhân dân
tối cao đã quyết định triển khai thực hiện việc công bố các bản án, quyết định hiệu lực
pháp luật trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án. Đây một trong sáu giải pháp đột phá
của hệ thống Tòa án nhân dân để thực hiện nhiệm vụ, chủ đề của năm công tác 2017
xuyên suốt trong các năm tiếp theo, đó là “Trách nhiệm, kỷ cương, chất lượng, công lý”.
Để thực hiện việc ng bố các bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án,
nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của Tòa án, ngày 16/3/2017,
Hội đồng Thẩm phán Tóa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số
03/2017/NQHĐTP quy định nguyên tắc, thủ tục, trách nhiệm của c Tòa án trong việc
công bố các bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án. Đồng thời, Tóa án
nhân dân các cấp khẩn trương triển khai rất nhiều công việc và chuẩn bị các điều kiện cần
thiết cho việc thực hiện chủ trương lớn này của hệ thống Tòa án. Tóa án nhân dân tối cao
đã xây dựng, ban hành hệ thống mẫu trong tố tụng, trong đó có mẫu bản án, quyết định; tổ
chức hội nghị trực tuyến về tập huấn viết các bản án, quyết định cho toàn bộ Thẩm phán,
Thẩm tra viên, Thư ký của các Tòa án.
Sau một thời gian chuẩn bị, Tóa án nhân dân tối cao đã hoàn thành việc xây dựng Trang
thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của T án địa chỉ trên Internet là:
congbobanan.toaan.gov.vn; tổ chức tập huấn ớng dẫn cách đăng tải bản án, quyết định
lên Trang thông tin bằng hình thức trực tuyến cho hơn 5.000 Thẩm phán của Tóa án nhân
dân các cấp và các cán bộ Tòa án có liên quan. Trang thông tin điện tử này cho phép công
dân, quan, tổ chức thực hiện việc tìm kiếm, xem trực tiếp nội dung bản án, quyết định
được công bố; đồng thời cho phép xem chi tiết các thông tin liên quan đến bản án, quyết
định đã công bố như: các bản án, quyết định thuộc lĩnh vực có liên quan; các án lệ đã được
áp dụng... Bên cạnh đó, người dân thể trực tiếp cho ý kiến đối với các bản án, quyết
lOMoARcPSD| 58833082
định đã được công bố thông qua nhiều tiện ích trong đó tiện ích “ý kiến phản hồi đối
với bản án, quyết định”.
Trong hơn 1 tuần sau khi Trang thông tin điện tử đi vào hoạt động, các Thẩm phán đã đăng
tải được gần 700 bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử thu hút được hơn
103.000 lượt truy cập; có bản án thu hút được hơn 600 lượt người xem và tải về để nghiên
cứu. Nhiều bản án, quyết định nhận được nhiều ý kiến góp ý về nội dung, hình thức; trong
đó những bản án, quyết định được đánh gcao được đề xuất đưa vào nguồn phát
triển án lệ.
Việc công khai, minh bạch các hoạt động quyền tư pháp như: xét xử công khai, cải cách
hành chính tư pháp, tăng cường hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin như công bố tài
liệu, kết quả giải quyết đơn, chứng cứ, xét xử trực tuyến, xây dựng hồ sơ tố tụng điện tử
đã tạo tính thuận tiện cho nhân dân, nâng cao uy tín và hiệu quả hoạt động. Công dân dễ
dàng tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng để tiếp cận thông tin. Nội dung thông
tin được công bố chi tiết cụ thể, bao gồm tiến độ giải quyết vụ án, kế hoạch xét xử vụ án,
văn bản tố tụng, thủ tục tố tụng, quá trình xét xử, Thẩm phán và quy trình bổ nhiệm, tư
chất và tiêu chuẩn của Thẩm phán, quá trình thi hành án
Các quy định pháp luật về tố tụng thi hành án như quy định về quy trình thụ lý và giải
quyết các vụ án, quy định việc cung cấp thông tin cho các đương sự trong vụ kiện dân sự,
quy định công khai, minh bạch trong quá trình tranh tụng, quy định cho phép luật sư được
tiếp cận với vụ án cũng như sao chụp các tài liệu phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp... đã
mang lại nhiều ý nghĩa trong việc công khai, minh bạch hoạt động tư pháp trong thời gian
qua, điển hình như quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự trong tố tụng dân
sự.
Một là, giúp đương sự khác thực hiện quyền biết ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ trong
vụ án. Theo các khoản 7, 8 Điều 70 BLTTDS, đương sự có quyền đề nghị Tòa án yêu cầu
đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; được biết, ghi chép, sao chụp
tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng
cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS. Cho nên, với quy định nghĩa vụ công khai
chứng cứ của đương sự sẽ giúp đương sự khác thực hiện quyền ghi chép, sao chụp tài liệu,
chứng cứ trong vụ án.
Hai là, giúp các đương sự lựa chọn cách thức xử sự hợp đối với vấn đề mâu thuẫn, chủ
động thỏa thuận với nhau để tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Trên sở tài liệu,
chứng cứ do đương sự công khai, các bên đương sự hiểu được bản chất sự việc, chủ động
trao đổi chứng cứ, xác định rõ vấn đề chưa hiểu giảm bớt sự bất ngờ, xác định vấn đề còn
mâu thuẫn, tiếp tục tranh chấp, dự kiến đề xuất về chứng cứ, tính tiết pháp để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Qua đó, các đương sự thể cân nhắc thiệt hơn để tự
lOMoARcPSD| 58833082
thỏa thuận hoặc tham gia tích cực vào phiên hòa giải do Tòa án tiến hành để sớm kết thúc
vụ án (có thể trước phiên tòa hoặc tại phiên tòa).
Ba là, giúp thực hiện tốt việc tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Theo đó, để đảm
bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự, bên cạnh việc quy định trách nhiệm
của Tòa án bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tranh tụng; quy định quyền thu thập,
giao nộp tài liệu, chứng cứ của đương sự; quy định trách nhiệm xem xét đầy đủ, khách
quan, toàn diện mọi tài liệu, chứng cứ của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, BLTTDS
còn quy định đương sự có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp
và việc công khai chứng cứ của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Mặc dù, đương
sự có thể tiếp cận được tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp thông qua phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Tuy nhiên, sau thời điểm Tòa án mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, ng khai chứng cứ sẽ kết thúc một số quyền
của đương sự, trong đó, quyền yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập, bổ sung yêu cầu khởi
kiện khác với yêu cầu khởi kiện ban đầu. Cho nên, nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương
sự sẽ giúp đương sự khác chủ động trong việc chuẩn bị lập luận, tài liệu, chứng cứ để trình
bày trong các hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành, quyết định trong việc đưa ra yêu cầu
khởi kiện bổ sung, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập. Từ đó, chất lượng tranh tụng sẽ nâng
lên.
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất trong công khai, minh bạch hoạt động trong lĩnh vực tư pháp
hiện nay các quan pháp chưa chủ động niêm yết, công bố công khai, rộng rãi thủ
tục, trình tự trong hoạt động pháp nên người dân gặp khó khăn khi yêu cầu quan
pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ngày 4/3/2022, Một ng dân Khánh Hòa (ông Nguyễn Văn Bình) đã kiện UBND tỉnh
này ra tòa vì bị từ chối cung cấp thông tin (về hồ sơ pháp lý dự án mà công dân này có đất
bị thu hồi). Đây có lẽ là vụ kiện hành chính đầu tiên được người dân tiến hành để buộc cơ
quan nhà nước đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin của mình theo luật định.
Qua vụ kiện này, có thể thấy dù đã có đầy đủ luật và nghị định quy định chi tiết để quyền
tiếp cận thông tin của người dân có đầy đủ cơ sở pháp lý nhưng việc tiếp cận trên thực tế
chưa dễ dàng. Trong trường hợp nêu trên, UBND tỉnh Khánh Hòa đã thu hồi văn bản từ
chối nhưng thông tin mà người dân yêu cầu xem vẫn không được cung cấp.
Theo Luật Tiếp cận thông tin thì người dân được quyền tiếp cận rộng rãi với các thông tin
do nhà nước thu thập, trừ một số lĩnh vực bí mật mới bị hạn chế, như: Thông tin thuộc bí
mật nhà nước, thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an
ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác theo quy định
của luật. Chỉ khi những thông tin này được giải mật, công dân mới được tiếp cận.
Ngoài ra công dân cũng không được tiếp cận thông tin nếu việc tiếp cận gây nguy hại đến
lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế,
lOMoARcPSD| 58833082
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng, gây nguy hại đến tính
mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin
về các cuộc họp nội bộ của cơ quan; các tài liệu do cơ quan soạn thảo cho công việc nội
bộ.
Rõ ràng đối chiếu với quy định này thì cơ sở từ chối cung cấp thông tin cho ông Nguyễn
Văn Bình không nằm trong phạm vi bị từ chối. Tiếc là vấn đề cốt lõi về luật mà lẽ ra
phiên tòa nói trên phải giải quyết thì đã bị bỏ qua. Thiết nghĩ, Luật Tiếp cận thông tin đã
có, các văn bản hướng dẫn cũng có rồi, cần tạo điều kiện để người dân sử dụng quyền
tiếp cận thông tin của mình. Có như thế pháp luật mới đi vào cuộc sống được.
Ngoài ra, chế tài xử lý vi phạm còn chưa nghiêm nên dễ bị các phần tử chống phá N
nước lợi dụng lỗ hổng để xuyên tạc, hướng lái vụ án đang hoặc đã xét xử. Ví dụ điển hình
như vụ án tại Tịnh thất Bồng Lai, sau khi bản án sơ thẩm được đưa ra, bản chất vụ án bị
xuyên tạc thành đàn áp tôn giáo bởi các trang đưa tin sai sự thật nhằm bôi nhọ hình ảnh,
làm giảm uy tín Việt Nam. Kiểm soát các trang mạng xã hội, dịch vụ trực tuyến đối mặt
nhiều hạn chế, thách thức kỹ thuật liên quan tới thông tin xuyên tạc, tài khoản giả mạo.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58833082
Thực trạng tiếp cận thông tin trong lĩnh vực tư pháp
Đối với Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, cùng với quá trình xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền, chủ trương từng bước công khai các bản án, phán quyết của
Toà án đã xây dựng nền tảng cho việc công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ
quan tư pháp. Luật Tổ chức Toà án nhân dân xác định nguyên tắc: Toà án xét xử công khai,
trừ trường hợp cần xét xử kín để giữ gìn bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc
hoặc để giữ bí mật của các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.
Ngày 18/7/2017, Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức Lễ khai trương Trang thông tin điện
tử công bố bản án, quyết định của Tòa án. Lễ khai trương được Tòa án nhân dân tối cao
kết nối trực tuyến đến 778 điểm cầu thuộc các Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân
và Tòa án quân sự các cấp. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Đảng ta đã chủ trương là phải thực hiện
công khai, minh bạch các hoạt động của Tòa án nói chung và việc công khai bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án nói riêng. Thể chế hóa chủ trương trên của Đảng, tại
Hội nghị triển khai công tác Tòa án năm 2017, Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Tóa án nhân dân
tối cao đã quyết định triển khai thực hiện việc công bố các bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án. Đây là một trong sáu giải pháp đột phá
của hệ thống Tòa án nhân dân để thực hiện nhiệm vụ, chủ đề của năm công tác 2017 và
xuyên suốt trong các năm tiếp theo, đó là “Trách nhiệm, kỷ cương, chất lượng, vì công lý”.
Để thực hiện việc công bố các bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án,
nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của Tòa án, ngày 16/3/2017,
Hội đồng Thẩm phán Tóa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số
03/2017/NQHĐTP quy định nguyên tắc, thủ tục, trách nhiệm của các Tòa án trong việc
công bố các bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án. Đồng thời, Tóa án
nhân dân các cấp khẩn trương triển khai rất nhiều công việc và chuẩn bị các điều kiện cần
thiết cho việc thực hiện chủ trương lớn này của hệ thống Tòa án. Tóa án nhân dân tối cao
đã xây dựng, ban hành hệ thống mẫu trong tố tụng, trong đó có mẫu bản án, quyết định; tổ
chức hội nghị trực tuyến về tập huấn viết các bản án, quyết định cho toàn bộ Thẩm phán,
Thẩm tra viên, Thư ký của các Tòa án.
Sau một thời gian chuẩn bị, Tóa án nhân dân tối cao đã hoàn thành việc xây dựng Trang
thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của Toà án có địa chỉ trên Internet là:
congbobanan.toaan.gov.vn; tổ chức tập huấn hướng dẫn cách đăng tải bản án, quyết định
lên Trang thông tin bằng hình thức trực tuyến cho hơn 5.000 Thẩm phán của Tóa án nhân
dân các cấp và các cán bộ Tòa án có liên quan. Trang thông tin điện tử này cho phép công
dân, cơ quan, tổ chức thực hiện việc tìm kiếm, xem trực tiếp nội dung bản án, quyết định
được công bố; đồng thời cho phép xem chi tiết các thông tin liên quan đến bản án, quyết
định đã công bố như: các bản án, quyết định thuộc lĩnh vực có liên quan; các án lệ đã được
áp dụng... Bên cạnh đó, người dân có thể trực tiếp cho ý kiến đối với các bản án, quyết lOMoAR cPSD| 58833082
định đã được công bố thông qua nhiều tiện ích trong đó có tiện ích “ý kiến phản hồi đối
với bản án, quyết định”.
Trong hơn 1 tuần sau khi Trang thông tin điện tử đi vào hoạt động, các Thẩm phán đã đăng
tải được gần 700 bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử và thu hút được hơn
103.000 lượt truy cập; có bản án thu hút được hơn 600 lượt người xem và tải về để nghiên
cứu. Nhiều bản án, quyết định nhận được nhiều ý kiến góp ý về nội dung, hình thức; trong
đó có những bản án, quyết định được đánh giá cao và được đề xuất đưa vào nguồn phát triển án lệ.
Việc công khai, minh bạch các hoạt động quyền tư pháp như: xét xử công khai, cải cách
hành chính tư pháp, tăng cường hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin như công bố tài
liệu, kết quả giải quyết đơn, chứng cứ, xét xử trực tuyến, xây dựng hồ sơ tố tụng điện tử
đã tạo tính thuận tiện cho nhân dân, nâng cao uy tín và hiệu quả hoạt động. Công dân dễ
dàng tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng để tiếp cận thông tin. Nội dung thông
tin được công bố chi tiết cụ thể, bao gồm tiến độ giải quyết vụ án, kế hoạch xét xử vụ án,
văn bản tố tụng, thủ tục tố tụng, quá trình xét xử, Thẩm phán và quy trình bổ nhiệm, tư
chất và tiêu chuẩn của Thẩm phán, quá trình thi hành án…
Các quy định pháp luật về tố tụng và thi hành án như quy định về quy trình thụ lý và giải
quyết các vụ án, quy định việc cung cấp thông tin cho các đương sự trong vụ kiện dân sự,
quy định công khai, minh bạch trong quá trình tranh tụng, quy định cho phép luật sư được
tiếp cận với vụ án cũng như sao chụp các tài liệu phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp... đã
mang lại nhiều ý nghĩa trong việc công khai, minh bạch hoạt động tư pháp trong thời gian
qua, điển hình như quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự trong tố tụng dân sự.
Một là, giúp đương sự khác thực hiện quyền biết ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ trong
vụ án. Theo các khoản 7, 8 Điều 70 BLTTDS, đương sự có quyền đề nghị Tòa án yêu cầu
đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; được biết, ghi chép, sao chụp
tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng
cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS. Cho nên, với quy định nghĩa vụ công khai
chứng cứ của đương sự sẽ giúp đương sự khác thực hiện quyền ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ trong vụ án.
Hai là, giúp các đương sự lựa chọn cách thức xử sự hợp lý đối với vấn đề mâu thuẫn, chủ
động thỏa thuận với nhau để tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Trên cơ sở tài liệu,
chứng cứ do đương sự công khai, các bên đương sự hiểu được bản chất sự việc, chủ động
trao đổi chứng cứ, xác định rõ vấn đề chưa hiểu giảm bớt sự bất ngờ, xác định vấn đề còn
mâu thuẫn, tiếp tục tranh chấp, dự kiến đề xuất về chứng cứ, tính tiết pháp lý để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Qua đó, các đương sự có thể cân nhắc thiệt hơn để tự lOMoAR cPSD| 58833082
thỏa thuận hoặc tham gia tích cực vào phiên hòa giải do Tòa án tiến hành để sớm kết thúc
vụ án (có thể trước phiên tòa hoặc tại phiên tòa).
Ba là, giúp thực hiện tốt việc tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Theo đó, để đảm
bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự, bên cạnh việc quy định trách nhiệm
của Tòa án bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tranh tụng; quy định quyền thu thập,
giao nộp tài liệu, chứng cứ của đương sự; quy định trách nhiệm xem xét đầy đủ, khách
quan, toàn diện mọi tài liệu, chứng cứ của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, BLTTDS
còn quy định đương sự có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp
và việc công khai chứng cứ của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Mặc dù, đương
sự có thể tiếp cận được tài liệu, chứng cứ do đương sự khác cung cấp thông qua phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Tuy nhiên, sau thời điểm Tòa án mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ sẽ kết thúc một số quyền
của đương sự, trong đó, có quyền yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập, bổ sung yêu cầu khởi
kiện khác với yêu cầu khởi kiện ban đầu. Cho nên, nghĩa vụ công khai chứng cứ của đương
sự sẽ giúp đương sự khác chủ động trong việc chuẩn bị lập luận, tài liệu, chứng cứ để trình
bày trong các hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành, quyết định trong việc đưa ra yêu cầu
khởi kiện bổ sung, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập. Từ đó, chất lượng tranh tụng sẽ nâng lên.
Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất trong công khai, minh bạch hoạt động trong lĩnh vực tư pháp
hiện nay là các cơ quan tư pháp chưa chủ động niêm yết, công bố công khai, rộng rãi thủ
tục, trình tự trong hoạt động tư pháp nên người dân gặp khó khăn khi yêu cầu cơ quan tư
pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Ngày 4/3/2022, Một công dân ở Khánh Hòa (ông Nguyễn Văn Bình) đã kiện UBND tỉnh
này ra tòa vì bị từ chối cung cấp thông tin (về hồ sơ pháp lý dự án mà công dân này có đất
bị thu hồi). Đây có lẽ là vụ kiện hành chính đầu tiên được người dân tiến hành để buộc cơ
quan nhà nước đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin của mình theo luật định.
Qua vụ kiện này, có thể thấy dù đã có đầy đủ luật và nghị định quy định chi tiết để quyền
tiếp cận thông tin của người dân có đầy đủ cơ sở pháp lý nhưng việc tiếp cận trên thực tế
chưa dễ dàng. Trong trường hợp nêu trên, UBND tỉnh Khánh Hòa đã thu hồi văn bản từ
chối nhưng thông tin mà người dân yêu cầu xem vẫn không được cung cấp.
Theo Luật Tiếp cận thông tin thì người dân được quyền tiếp cận rộng rãi với các thông tin
do nhà nước thu thập, trừ một số lĩnh vực bí mật mới bị hạn chế, như: Thông tin thuộc bí
mật nhà nước, thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an
ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác theo quy định
của luật. Chỉ khi những thông tin này được giải mật, công dân mới được tiếp cận.
Ngoài ra công dân cũng không được tiếp cận thông tin nếu việc tiếp cận gây nguy hại đến
lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, lOMoAR cPSD| 58833082
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng, gây nguy hại đến tính
mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin
về các cuộc họp nội bộ của cơ quan; các tài liệu do cơ quan soạn thảo cho công việc nội bộ.
Rõ ràng đối chiếu với quy định này thì cơ sở từ chối cung cấp thông tin cho ông Nguyễn
Văn Bình không nằm trong phạm vi bị từ chối. Tiếc là vấn đề cốt lõi về luật mà lẽ ra
phiên tòa nói trên phải giải quyết thì đã bị bỏ qua. Thiết nghĩ, Luật Tiếp cận thông tin đã
có, các văn bản hướng dẫn cũng có rồi, cần tạo điều kiện để người dân sử dụng quyền
tiếp cận thông tin của mình. Có như thế pháp luật mới đi vào cuộc sống được.
Ngoài ra, chế tài xử lý vi phạm còn chưa nghiêm nên dễ bị các phần tử chống phá Nhà
nước lợi dụng lỗ hổng để xuyên tạc, hướng lái vụ án đang hoặc đã xét xử. Ví dụ điển hình
như vụ án tại Tịnh thất Bồng Lai, sau khi bản án sơ thẩm được đưa ra, bản chất vụ án bị
xuyên tạc thành đàn áp tôn giáo bởi các trang đưa tin sai sự thật nhằm bôi nhọ hình ảnh,
làm giảm uy tín Việt Nam. Kiểm soát các trang mạng xã hội, dịch vụ trực tuyến đối mặt
nhiều hạn chế, thách thức kỹ thuật liên quan tới thông tin xuyên tạc, tài khoản giả mạo.