



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58097008 TÊN ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC
HIỆN NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƯƠNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG CÔNG CUỘC TÁI THIẾT SAU SÁT NHẬP
BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN Mã phách: :
……………………………………...
Quảng Nam, tháng 6 năm 2025 CQĐP
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG HĐND
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN UBND UỶ BAN NHÂN DÂN CQĐT
CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ lOMoAR cPSD| 58097008 CCHC
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH lOMoAR cPSD| 58097008 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh cả nước đang đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy nhà
nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương, việc nghiên
cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương tại thành phố Đà Nẵng trong công cuộc tái
thiết sau sáp nhập” mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đặc biệt, đối với sinh viên
ngành Luật, đây không chỉ là cơ hội để tiếp cận thực tiễn pháp lý tại địa phương mà còn
là dịp để rèn luyện tư duy phản biện, kỹ năng nghiên cứu và đề xuất chính sách.
Thành phố Đà Nẵng là một trong ba đô thị lớn trực thuộc Trung ương, có vị trí chiến lược
về kinh tế, chính trị và quốc phòng. Sau quá trình sáp nhập các đơn vị hành chính theo
chủ trương của Trung ương, Đà Nẵng đang bước vào giai đoạn tái thiết với nhiều thách
thức trong việc tổ chức lại bộ máy chính quyền địa phương, đảm bảo nguyên tắc tổ chức
theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Việc nghiên cứu
thực trạng và đề xuất giải pháp trong bối cảnh này là rất cần thiết để đảm bảo tính thống
nhất, hiệu quả và phù hợp với đặc thù đô thị.
Từ góc độ lý luận, việc nghiên cứu đề tài này dưới ánh sáng của Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2025 (số 72/2025/QH15) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi Luật
mới đã xác lập một nền tảng pháp lý hoàn toàn mới cho mô hình chính quyền địa phương
hai cấp – cấp tỉnh và cấp xã – thay thế cho mô hình ba cấp trước đây.
Luật tổ chức CQĐP 16/6/2025 thể hiện rõ tư duy đổi mới trong quản trị địa phương, nhấn
mạnh các nguyên tắc tổ chức và hoạt động như: tập trung dân chủ, tinh gọn bộ máy, hiệu
lực – hiệu quả, gần dân – sát dân, và đặc biệt là nguyên tắc “địa phương quyết, địa phương
làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Đây là bước chuyển mạnh mẽ từ mô hình hành chính
truyền thống sang mô hình quản trị hiện đại, đề cao tính tự chủ, sáng tạo và trách nhiệm
giải trình của chính quyền địa phương.
Từ đó, sinh viên Luật khi tiếp cận đề tài này không chỉ có cơ hội phân tích các nguyên tắc
tổ chức bộ máy nhà nước trong điều kiện pháp lý mới, mà còn được rèn luyện tư duy pháp
lý trong việc đánh giá tính phù hợp, khả năng vận dụng và hiệu quả thực thi của các quy
định pháp luật trong thực tiễn tái thiết đô thị – cụ thể là tại thành phố Đà Nẵng sau sáp nhập.
Từ góc độ thực tiễn, đề tài cho phép sinh viên tiếp cận với các vấn đề cụ thể như:
sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức chính quyền sau sáp nhập; những khó khăn trong việc
phân định thẩm quyền giữa các cấp chính quyền; thách thức trong việc đảm bảo quyền đại
diện của người dân khi một số đơn vị hành chính bị giải thể hoặc sáp nhập; và đặc biệt là lOMoAR cPSD| 58097008
vấn đề nâng cao năng lực quản trị địa phương trong bối cảnh mới. Những vấn đề này
không chỉ mang tính học thuật mà còn có giá trị ứng dụng cao trong hoạch định chính
sách và cải cách hành chính.
Là một sinh viên ngành Luật, việc lựa chọn đề tài này thể hiện tinh thần trách nhiệm với
xã hội, sự quan tâm đến các vấn đề pháp lý gắn liền với đời sống chính trị - hành chính tại
địa phương. Qua quá trình nghiên cứu, sinh viên có cơ hội vận dụng kiến thức lý thuyết
vào phân tích thực tiễn, từ đó nâng cao năng lực tư duy pháp lý, kỹ năng nghiên cứu độc
lập và khả năng đề xuất giải pháp phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững của chính quyền đô thị.
Ngoài ra, đề tài còn góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên về vai trò của pháp luật
trong việc điều chỉnh tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Pháp luật không chỉ là
công cụ quản lý mà còn là nền tảng để xây dựng một nền hành chính hiện đại, dân chủ và
hiệu quả. Việc nghiên cứu đề tài này giúp sinh viên hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa pháp
luật và thực tiễn quản lý nhà nước, từ đó hình thành tư duy pháp lý toàn diện và sâu sắc hơn.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu: Làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương; đánh giá thực tiễn vận dụng các nguyên tắc này tại Tp Đà Nẵng; đề
xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế tổ chức và vận hành chính quyền địa phương tại địa phương này.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Hệ thống hóa các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương theo quy định pháp luật hiện hành. Phân tích thực tiễn vận dụng các nguyên
tắc đó tại Đà Nẵng. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương ở tỉnh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương theo quy định của pháp luật hiện hành (như Hiến pháp, Luật Tổ chức chính
quyền địa phương…), cùng với việc áp dụng các nguyên tắc đó tại Thành phố Đà Nẵng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau: -
Phân tích – tổng hợp: Làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý liên quan. -
So sánh – đối chiếu: Giữa quy định pháp luật với thực tiễn áp dụng tại Thành Phố Đà Nẵng lOMoAR cPSD| 58097008
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƯƠNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Các khái niệm Chính Quyền Địa Phương
Để có khái niệm về các cơ quan chính quyền địa phương, trước tiên phải làm rõ một
số khái niệm liên quan, đó là: địa phương, đơn vị hành chính, đơn vị hành chính - lãnh
thổ, chính quyền địa phương, ở ý nghĩa thông thường cũng như theo góc nhìn luật học.
1.1.1. Một số khái niệm chung liên quan đến Chính Quyền Địa Phương
Địa phương (Local) là một từ khá thông dụng, tuy nhiên không thấy một văn bản
pháp lý nào định nghĩa trực tiếp thuật ngữ này. Ở Việt Nam cũng vậy, tỉnh đến nay vẫn
chưa có một văn bản pháp luật nào chính thức định nghĩa, kể cả Hiến pháp hiện hành năm
2013. Do đó, khái niệm này chỉ được hiểu thông qua các định nghĩa thông thưởng hoặc
qua các tài liệu của giới nghiên cứu luật học. Địa phương được định nghĩa là: 1. Khu vực
trong quan hệ với những vùng, khu vực khác: 2. Vùng, khu vực trong quan hệ với trung
ương, với cả nước. 170, 501) Đây là định nghĩa theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ học, một tài liệu tuy không phải là văn bản pháp lý nhưng cũng rất chính thống. Khái
niệm địa phương được phân thành hai tầng nghĩa. "Vùng, khu vực" trong quan hệ với các
vùng, khu vực khác và trong quan hệ với trung ương, với cả nước là không trùng nhau.
Vùng, khu vực khác này có thể là những tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhưng
cũng có thể là những huyện bên cạnh, hay chỉ là những “xã bạn" trong phạm vi một huyện
nào đó. Và, “Địa phương" này có thể chứa đựng được địa phương kia. Như vậy, địa
phương theo cách hiểu thông thường là khái niệm để chỉ chung cho tất cả những đơn vị
hành chính - lãnh thổ không phải là trung ương, không phải là cả nước má không xác định
rõ đỏ phải là một cấp đơn vị nào cụ thể. Đối với các nhà luật học, yếu tố “đa cấp độ" của
khái niệm địa phương đã được xác định rõ hơn: Địa phương được xem là Vùng, khu vực
trong quan hệ với trung ương. với cả nước: Địa phương là một phần của lãnh thổ quốc
gia. Địa phương được chia thành nhiều cấp khác nhau. lOMoAR cPSD| 58097008
Địa phương có thể là những tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
1.1.2. Khái niệm về chính quyền địa phương
Trong phạm vi không gian của những đơn vị địa phương đã được xác định, hệ thống
các cơ quan điều khiển, quản lý công việc chung đã được lập nên. Đó chính là khái niệm
ban đầu về các cơ quan CQĐP. Tuy nhiên, để quan niệm đúng về khái niệm các cơ quan
chỉnh quyền địa phương, cần phải hiểu rõ hơn về khái niệm chỉnh quyền địa phương. -
Chính quyền địa phương – khái niệm tổng quát của hệ thống các cơ quan chính quyền địa
phương Trước hết, hãy xem xét khái niệm một cách thông dụng ở các từ điện nước ngoài.
CQDP là hệ thống chính quyền của một đô thị hay một khu vực lãnh thổ (được điều hành)
bởi những người đại diện do nhân dân địa phương bầu ra. Hay đơn giản hơn nữa là: "CQĐP
là một nhóm người chịu trách nhiệm quản lý hành chính của một vùng lãnh thổ. Có những
định nghĩa mà mức độ cụ thể rất cao, xác định rõ nhiệm vụ của CQĐP, như: "CQĐP là các
tổ chức cung cấp những dịch vụ công trong một đô thị hoặc một khu vực lãnh thổ được
điều hành (kiểm soát) bởi các công chức được lựa chọn trong bầu cử địa phương". Ở góc
nhìn của các nhà luật học, CQĐP được định nghĩa rõ hơn cả cơ cấu tổ chức quyền lực của
nó: CQDP: Hệ thống chính quyền của những thị trấn, ở những khu vực (quận, huyện, được
điều hành bởi những hội đồng dân cư và những viên chức chấp hành
So với những định nghĩa trên, các từ điển của Việt Nam định nghĩa về CQĐP khả
khác biệt. Các từ điển phổ thông của Việt Nam không định nghĩa riêng về CQĐP, chỉ có
khái niệm chính quyền: “Bộ máy điều khiển, quản lý công việc của nhà nước Từ điển
Tiếng Việt 2010. Từ điển Luật học cũng định nghĩa chung như vậy. Bộ máy điều hành,
quản lý công việc của nhà nước. Chính quyền được phân thành chỉnh quyền trung ương
và các cấp CQĐP. Chính quyền trung ương là tập hợp tất cả các cơ quan nhà nước trung
ương. Theo luật tổ chức chính quyền địa phương 16/6/2025 ta sẽ nhận thấy rằng CQĐP là
tập hợp tất cả các cơ quan nhà nước ở địa phương CQDP gồm có chính quyền cấp tỉnh,
chính quyền cấp xã. Tuy chưa thực sự đầy đủ, nhưng cả Từ điển Tiếng Việt cũng như Từ
điển Luật học đã thể hiện quan điểm của Việt Nam về CQDP: nhấn mạnh đến yếu tố thống
nhất quyền lực (chức năng, nhiệm vụ của CQĐP là quản lý các công việc của nhà nước).
Trong khi đó, các định nghĩa ở nước ngoài chỉ đề cập đến vấn đề tính tự quản địa phương
của hệ thống cơ quan này. Căn cứ vào Hiến pháp (Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001 và
Hiến pháp hiện hành năm 2013) và thực tiễn quy định của pháp luật nước ta về CQDP,
Khái niệm chính quyền địa phương là một khái niệm vô ùng rộng và cũng rất khó
định nghĩa hết được vì từ nhiều góc độ khác nhau mà ta có thể nhận thấy được các khái
niệm khác nhau bởi vậy việc nghiên cứu về vấn đề này nhằm có một góc nhìn đa chiều là
việc vô cùng cần thiết. lOMoAR cPSD| 58097008
1.2. Đặc điểm của Chính Quyền Địa Phương
1.2.1. Đặc điểm của Chính Quyền Địa Phương trên thế giới
Để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về sự phát triển của chính quyền địa phương
tại Việt Nam, việc nghiên cứu và so sánh với các đặc điểm chính quyền địa phương tiêu
biểu trên thế giới là điều cần thiết. Mỗi đặc điểm phản ánh một triết lý quản trị nhà nước
khác nhau, gắn liền với điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế và văn hóa của từng quốc gia.
Dưới đây là phân tích mở rộng ba đặc điểm tổ chức chính quyền địa phương phổ biến trên
thế giới, từ đó rút ra những bài học có giá trị cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện mô
hình chính quyền địa phương hiện đại.
Thứ nhất, đặc điểm mô hình tập quyền (Centralized Characteristics) là kiểu tổ chức
trong đó toàn bộ quyền lực hành chính tập trung vào chính phủ trung ương. Các cơ quan
chính quyền địa phương chỉ đóng vai trò là cánh tay nối dài của trung ương, thực hiện các
nhiệm vụ được giao mà không có quyền tự quyết về tài chính, nhân sự hay chính sách phát
triển. Đặc điểm này thường xuất hiện ở các quốc gia có quy mô nhỏ hoặc trong giai đoạn
cần kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo sự thống nhất. Tuy nhiên, hạn chế lớn là dễ dẫn đến
tình trạng quan liêu, chậm phản ứng với nhu cầu thực tiễn và làm giảm tính chủ động của địa phương.
Thứ hai, đặc điểm phân quyền (Decentralized Characteristics) thể hiện ở việc chính
quyền trung ương trao quyền tự chủ tương đối cho các địa phương trong nhiều lĩnh vực
như tài chính, quy hoạch, giáo dục, y tế và phát triển kinh tế – xã hội. Các địa phương có
thể ban hành chính sách phù hợp với đặc thù của mình và chịu trách nhiệm giải trình trước
người dân. Đặc điểm này phổ biến tại các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Thụy Điển,
Pháp. Ưu điểm là tăng hiệu quả quản lý, nâng cao sự hài lòng của người dân và khuyến
khích đổi mới. Tuy nhiên, nếu thiếu cơ chế phối hợp và kiểm soát, có thể dẫn đến phân
mảnh chính sách hoặc bất bình đẳng vùng miền.
Thứ ba, đặc điểm liên bang (Federal Characteristics) là kiểu tổ chức trong đó quyền
lực nhà nước được phân chia rõ ràng giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương (thường là các bang hoặc vùng). Mỗi cấp có hệ thống pháp luật, ngân sách và cơ
quan lập pháp riêng, hoạt động độc lập trong phạm vi hiến pháp quy định. Đặc điểm này
phổ biến ở các quốc gia có lãnh thổ rộng lớn và đa dạng như Hoa Kỳ, Đức, Ấn Độ, Canada.
Ưu điểm là đảm bảo sự linh hoạt trong quản lý và tôn trọng tính đa dạng, nhưng cũng đòi
hỏi hệ thống pháp lý chặt chẽ để tránh xung đột thẩm quyền.
Từ việc phân tích ba đặc điểm trên, có thể thấy rằng mỗi quốc gia lựa chọn cách tổ
chức chính quyền địa phương phù hợp với điều kiện thực tiễn của mình. Đối với Việt Nam
– một quốc gia đơn nhất đang trong quá trình cải cách hành chính – việc chuyển từ đặc lOMoAR cPSD| 58097008
điểm tập quyền sang đặc điểm phân quyền có kiểm soát là bước đi đúng đắn. Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2025 đã thể hiện rõ định hướng này, thông qua việc xác lập
mô hình hai cấp và tăng cường phân cấp, phân quyền cho địa phương. Đây là cơ sở quan
trọng để xây dựng một nền hành chính hiện đại, hiệu quả và gần dân hơn.
1.2.2. Đặc điểm của Chính Quyền Địa Phương Ở Việt Nam
+ CQĐP nước ta là một bộ phận thống nhất hợp thành chính quyền nhà nước.
+ Không phải mọi cơ quan nhà nước tổ chức và hoạt động ở địa phương, giải quyết
các vấn đề phát sinh ở địa phương đều nằm trong cơ cấu tổ chức của CQĐP mà chỉ những
cơ quan dân cử (đại diện cho nhân dân địa phương để quyết nghị những vẫn đề của họ) và
những cơ quan chấp hành được nhân dân trực tiếp bầu hoặc do cơ quan dân cử bầu ra.
+ Bởi địa phương là một khái niệm nhiều cấp cho nên khái niệm “chính quyền địa
phương" ở Việt Nam cũng được chia thành hai cấp đơn vị hành chính, là: Tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh),), Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
+ Các cơ quan CQĐP hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, có chức tổ
chức và đảm bảo viêc thi hành hiến pháp và pháp luậ t taị điạ phương, có sựkếṭ hơp giữa
lơị ích nhân dân điạ phương và lơị ích chung của cả nước.̣
1.3. Vai trò của chính quyền địa phương trong bộ máy nhà nước
Các cơ quan CQĐP là những tổ chức công quyền, là những cơ quan nhà nước ở địa
phương. Tuy nhiên, các cơ quan này được thành lập và nhận quyền lực từ hai nguồn: nhà
nước cấp trên và nhân dân địa phương, nên chúng phải hoạt động theo ý chí và phục vụ
cho quyền lợi của cả hai chủ thể đó. Đây chính là tính chất của các cơ quan CQDP trong
tổng thể bộ máy nhà nước. Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu hiện nay, vai trò của
CQĐP được nhìn nhận ở hai phương diện:
- Phương diện thứ nhất:
CQĐP là cơ quan nhà nước ở địa phương, là cánh tay nối dài của chính quyền trung
ương trong thực hiện quyền lực nhà nước. Như vậy, trong mối quan hệ với quyền lực nhà
nước thống nhất, CQĐP là cái bộ phận trong cái toàn thể - một kết cấu trong hệ thống cơ
quan nhà nước thống nhất. Nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích tính chất này qua so sánh
hai cụm từ cơ quan nhà nước ở địa phương và cơ quan nhà nước của địa phương và cho
rằng, sự khác biệt giữa hai cụm từ này rất lớn. CQĐP luôn là một bộ phận thuộc nhà nước
thống nhất và không thể tồn tại quan niệm: CQDP là "nhà nước địa phương" Hay nói cách
khác, việc cho rằng có "nhà nước trung ương" và "nhà nước địa phương" là một quan điểm thực sự nhầm lẫn. lOMoAR cPSD| 58097008 - Phương diện thứ hai
Tuy nhiên, CQDP không chỉ đại diện cho quyền lực nhà nước của cả quốc gia mà
còn đại diện cho lợi ích, ý chỉ, nguyện vọng của các công đồng dân cư trong phạm vi lãnh
thổ. Phai thấy rằng, CQĐP luôn là thiết chế do nhân dân địa phương bầu ra nên tất yếu nó
phải là tổ chức của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong phạm vì một địa phương
cụ thể. Và do vậy, CQĐP mỗi cấp cần được xem xét, nhìn nhận là một tổ chức dân chủ
địa phương. Được nhân dân địa phương bầu ra, được giao những quyền tự chủ cần thiết
để độc lập giải quyết các công việc, CQĐP là cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ
thực hiện những nhu cầu sát thực của nhân dân trong một cộng đồng dân cư nhất định.
Lịch sử phát triển các mô hình CQĐP trên thế giới đã hình thành nên nhiều mô hình CQĐP
là những tổ chức mang tính tự quản. Chế độ tự quản địa phương đang dần trở thành một
xu hương tất yếu trong nền chính trị, hành chính đương đại. -Phương diện thứ ba
CQĐP là một thiết chế nhà nước "ở địa phương, và do vậy, mối quan hệ giữa CQĐP
với cộng đồng và các tổ chức, thiết chế xã hội khác là mối quan hệ giữa chủ thể quản lý,
với quyền lực được nhân dân giao cho để thực hiện hoạt động quản lý xã hội. Tuy nhiên
trong đời sống chính trị - hành chính hiện đại, nhà nước còn phải là thiết chế thực hiện
những nhiệm vụ mới, ví dụ như: - Làm trung tâm điều hòa, phối hợp tất cả các cơ quan
nhà mước đông trên địa bản với cộng đồng dân cư, các tổ chức chính trị. chính trị - xã hội
ở địa phương. - Làm tổ chức thực hiện các hoạt động hỗ trợ cộng đồng Những hoạt động
này không mang tính quyền lực nhưng lại gắn liền với 43 vị trì, địa vị pháp lý của các cơ
quan CQĐP. Những nhiệm vụ này ngày càng được phát triển, mở rộng đòi hỏi các cơ quan
CQĐP phải đảm trách. Có thể khái quát những hoạt đông, nhiệm vụ này của CQĐP là
chức năng liên kết – hỗ trợ cộng đồng.
1.4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
Theo Điều 4 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2025 thì nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương như sau: -
Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật; thực
hiệnnguyên tắc tập trung dân chủ.
Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Ủy ban
nhân dân ở cấp chính quyền địa phương hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban nhân dân
kết hợp với đề cao trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân. lOMoAR cPSD| 58097008 -
Tổ chức chính quyền địa phương tinh, gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả,đáp
ứng yêu cầu quản trị địa phương chuyên nghiệp, hiện đại, minh bạch, bảo đảm trách nhiệm
giải trình gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực. -
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân; phát huy quyền làm chủ
củaNhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân. -
Bảo đảm nền hành chính thống nhất, thông suốt, liên tục. -
Những công việc thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương phải dođịa
phương quyết định, địa phương tổ chức thực hiện và tự chịu trách nhiệm. từ những khái
niệm do luật định ta có thể đúc két ra được một số nguyên tắc hoat dộng của chính quyền địa phương.
1.4.1. Nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật và tập trung dân chủ
Nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật giúp
đảm bảo việc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương không tiến hành một cách
tuỳ tiện, độc đoán theo ý chí cá nhân của người cầm quyền mà phải tuân thủ đầy đủ các
quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi trong tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương vừa phải bảo đảm sự chỉ đạo, lãnh đạo tập trung, thống nhất của cấp trên với
cấp dưới và vừa phải mở rộng dân chủ, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của cấp
dưới; phải coi trọng vai trò của tập thể và đề cao vai trò, trách nhiệm cá nhân của người
lãnh đạo; phát huy tính năng động, sáng tạo của cấp dưới và đảm bảo sự chỉ đạo tập trung
thống nhất của cấp trên; quyết định thuộc về số đông nhưng phải lắng nghe ý kiến của
thiểu số. Đây là nguyên tắc đặc thù trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, một mặt luôn coi trọng mở rộng dân chủ,
nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò chỉ đạo, lãnh đạo tập trung. Chính vì vậy, trong
tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng cũng như hoạt động
của xã hội nói chung đều luôn coi trọng nguyên tắc này.
1.4.2. Nguyên tắc nguyên tắc hiện đại, minh bạch, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân.
Ở nước ta quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân, do nhân dân ủy thác cho
các cơ quan trong bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương là một bộ phận cấu thành
của bộ máy nhà nước. Bởi vậy Nhân dân là người chủ tối cao của đất nước, là người thành
lập ra nhà nước, trao quyền cho nhà nước và kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước.
Nhân dân có quyền quyết định tối cao các vấn đề quan trọng của đất nước, nhà nước phải
phục tùng các quyết định của nhân dân. Bên cạnh đó, Nhân dân cũng có quyền giám sát lOMoAR cPSD| 58097008
hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung hay chính quyền địa phương nói riêng. Nguyên
tắc này đặt ra cũng giúp tăng cường sự chủ động, minh bạch, trách nhiệm giải trình và
năng lực giải quyết các công việc của các cơ quan chính quyền địa phương.
1.4.5. Nguyên tắc Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số.
Hội đồng nhân dân là một mắt khâu quan trọng trong hệ thống cơ quan nhà nước,
vừa là chủ thể quyền lực đại diện cho nhân dân địa phương, có quyền quyết định những
vấn đề quan trọng và vừa có quyền giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội ở địa phương. Bời vậy nguyên tắc làm việc theo chế độ hội nghị
sẽ giúp quán triệt, tổ chức triển khai những chủ trương, chính sách lớn, quan trọng và cấp
bách của Đảng và nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý được phân công; tổ chức hội nghị sơ
kết, tổng kết chuyên đề; tổ chức hội nghị sơ kết, tổng kết đánh giá chương trình công tác
hàng năm. Từ đó giúp tăng cường sự phát triển kinh tế, xã hội, đưa ra những chính sách
đúng đắn cho việc phát triển, phát huy được thế mạnh của mỗi địa phương.
1.4.6. Nguyên tắc Ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban
nhân dân kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
Với vị trị vai trò hết sức quan trọng của UBND ở địa phương, nguyên tắc tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách đảm bảo việc quyết định các vấn đề thông qua cơ chế thảo
luận tập thể, quyết định theo đa số; người đứng đầu có trách nhiệm đề xuất, chủ trì và có
một số quyền ưu tiên. Điều này để đảm bảo khi tập thể lãnh đạo nhưng đã đưa ra những
chủ trương, quyết định sai lầm thì bên cạnh truy cứu trách nhiệm của cá nhân, cũng cần
xem xét đầy đủ trách nhiệm của tập thể và có biện pháp xử lý sai sót, sai phạm của tập thể.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Tổng quan về tổ chức chính quyền địa phương Thành phố Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng là đô thị loại I trực thuộc Trung ương, có vị trí chiến lược quan
trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng – an ninh ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên.
Với vai trò là trung tâm động lực phát triển của vùng, Đà Nẵng đã và đang thực hiện nhiều
cải cách mạnh mẽ trong tổ chức bộ máy chính quyền địa phương nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tính đến đầu năm 2025, Đà Nẵng có 6 quận nội
thành (Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu, Cẩm Lệ) và 1 huyện
ngoại thành (Hòa Vang), với tổng số 56 phường và 11 xã. Tuy nhiên, sau khi thực hiện sáp
nhập một số đơn vị hành chính theo chủ trương của Trung ương, số lượng phường, xã đã lOMoAR cPSD| 58097008
được điều chỉnh giảm còn 48 phường và 8 xã, góp phần tinh gọn bộ máy và tiết kiệm ngân sách.
Theo báo cáo của UBND thành phố, trong năm 2024, Đà Nẵng đã bố trí hơn 6.400
tỷ đồng cho các hoạt động cải cách hành chính, đầu tư hạ tầng và nâng cao năng lực quản
trị địa phương. Đồng thời, thành phố cũng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, triển
khai dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 tại 100% phường, góp phần nâng cao sự hài lòng
của người dân và doanh nghiệp.
Một điểm nổi bật trong tổ chức chính quyền địa phương tại Đà Nẵng là việc thực
hiện nguyên tắc “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, thể
hiện rõ trong việc phân cấp, ủy quyền cho UBND quận, phường trong các lĩnh vực như
quản lý đất đai, cấp phép xây dựng, giải quyết thủ tục hành chính, quản lý trật tự đô thị và
an sinh xã hội. Điều này giúp rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, tăng tính chủ động và trách
nhiệm của chính quyền cơ sở.
Ngoài ra, Đà Nẵng cũng là địa phương đầu tiên được thí điểm thành lập Khu thương
mại tự do gắn với cảng biển Liên Chiểu, theo quy định tại Nghị quyết Quyết định
1142/QĐ-TTg. Đây là mô hình đặc thù, có cơ chế quản lý riêng, nhằm thu hút đầu tư chiến
lược trong các lĩnh vực tài chính, logistics, công nghệ cao và dịch vụ chất lượng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tổ chức chính quyền địa phương tại
Đà Nẵng vẫn còn đối mặt với một số thách thức như: thiếu hụt nhân lực chất lượng cao ở
cấp phường, khó khăn trong việc sắp xếp trụ sở sau sáp nhập, và áp lực trong việc đảm
bảo tính liên tục, hiệu quả của hoạt động hành chính. Thành phố đang tích cực triển khai
các giải pháp như đào tạo lại cán bộ, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong quản lý công vụ, và
xây dựng cơ chế đánh giá hiệu quả công việc dựa trên kết quả đầu ra.
2.1.1. Cơ cấu tổ chức HĐND, UBND các cấp
Tại Hội nghị Thành ủy Đà Nẵng - nhóm họp sáng 2.10 đã quán triệt một số nội dung
chính của Nghị quyết 119 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình
Chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng.
Được biết, Nghị quyết 119 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình
Chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng,
cho phép thí điểm tổ chức chính quyền đô thị theo hướng xây dựng tổ chức một cấp chính
quyền địa phương ở cấp thành phố gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và 2 cấp
hành chính quận và phường.
Như vậy, ở cấp quận và phường sẽ không tổ chức hội đồng nhân dân mà chỉ tổ chức
cơ quan hành chính là UBND quận và UBND phường. Vì vậy, Hội đồng nhân dân, Ủy lOMoAR cPSD| 58097008
ban nhân dân quận, phường nhiệm kỳ 2016 - 2021 kết thúc nhiệm vụ vào ngày 30 tháng 6 năm 2021.
Ông Lê Trung Chinh, Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng cho biết: “Việc thí
điểm này có nhiều điểm khác so với thí điểm trước đây. Việc thí điểm này đặt ra vấn đề tổ
chức chính quyền hoàn chỉnh hơn, phù hợp với đặc điểm tổ chức chính quyền đô thị Đà
Nẵng. Khi không tổ chức HĐND quận và phường thì một số nhiệm vụ của HĐND quận
và phường được chuyển lên cho HĐND và UBND thành phố. Một số nhiệm vụ của HĐND
phường được chuyển lên cho HĐND quận cho phù hợp. Theo đó, tăng cường vai trò giám
sát của quận và phường”. Nhưng kể từ ngày 16/6/2025 khi luật tổ chưc CQĐp mới ra đời
các đơn vị hành chính trên cả nước sewx không còn cấp huyện nên điểm đặc trưng không
tổ chức HĐND ở cấp quận của Tp Đà Nẵng cũng sẽ khôgn còn.
2.1.2. Một số đặc điểm hành chính, dân cư, kinh tế
Trước đây khi chưa thực hiện sáp nhập Thành phố Đà Nẵng làđơn vị hành chính
trực thuộc Trung ương từ ngày 01-01-1997, có diện tích tự nhiên là 1.255 km2. Đà Nẵng
là thành phố lớn thứ tư ở Việt Nam sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Hải Phòng, là
một trong những thành phố cảng có vị trí chiến lược, là cửa ngõ giao thông quan trọng
của cả miền Trung và Tây Nguyên, là điểm đầu của hành lang kinh tế Đông - Tây. Thành
phố Đà Nẵng có 08 quận, huyện và 56 phường, xã; 2.911 thôn, tổ dân phố. Hiện nay, thành
phố có 06 quận và 45 phường thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND cấp quận, phường.
Tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính thành phố gồm có: 06 cơ quan tham mưu, giúp
việc Thành ủy; 02 đơn vị sự nghiệp trực thuộc Thành ủy; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và 05 tổ chức chính trị - xã hội thành phố; 04 Ban thuộc HĐND thành phố và Văn
phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND thành phố; 21 sở, ban, ngành thuộc UBND thành
phố; 11 đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc UBND thành phố. Biên chế của thành phố
Đà Nẵng năm 2024 được Ban Tổ chức Trung ương giao là 20.120 chỉ tiêu biên chế, đến
ngày 30-9-2024 có 18.462 chỉ tiêu biên chế hiện sử dụng, 1.658 chỉ tiêu biên chế chưa sử dụng
Sau khi thực hiện sáp nhập với tỉnh Quảng Nam đơn vị hành chính của Đà Nẵng có
nhiểu thây đổi được biết thông tin từ cuộc họp của Ban Chấp hành Đảng bộ TP Đà Nẵng
thống nhất nghị quyết sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã. Dự kiến thành phố còn 18 xã,
phường, một đặc khu Hoàng Sa. Sau khi hợp nhất Quảng Nam và Đà Nẵng, UBND TP
Đà Nẵng mới sẽ có 14 sở ngành, 5 ban quản lý dự án, 106 xã phường và một đặc khu Hoàng sa.
Theo phương án, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Đà Nẵng và Quảng Nam
được hợp nhất, gồm 9 đầu mối. 48 tổ chức hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm lOMoAR cPSD| 58097008
vụ trước mắt được giữ nguyên, sau đó từng bước sắp xếp theo đề án của Trung ương. Bộ
phận giúp việc Thành ủy sẽ được hợp nhất 5 cơ quan của Tỉnh ủy Quảng Nam và Thành
ủy Đà Nẵng, gồm: Văn phòng, Ban Tổ chức, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra, Ban Tuyên giáo
và Dân vận và Ban Nội chính Thành ủy.
Sau khi hợp nhất nguyên trạng hai đoàn đại biểu Quốc hội của Quảng Nam và Đà
Nẵng, đoàn đại biểu Quốc hội TP.Đà Nẵng mới có 12 người. HĐND TP.Đà Nẵng mới gồm
98 đại biểu, chia thành 4 ban là Pháp chế, Kinh tế – Ngân sách, Đô thị và Ban Văn hóa – Xã hội.
Cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP.Đà Nẵng mới có 14 sở, gồm: Tài chính, Nội
vụ, Ngoại vụ, Xây dựng, Nông nghiệp và Môi trường, Công Thương, Khoa học và Công
nghệ, Giáo dục và Đào tạo, Y tế, Tư pháp, Văn hóa Thể thao và Du lịch, Văn phòng
UBND, Thanh tra, Dân tộc và Tôn giáo. Các đơn vị đặc thù được giữ nguyên là Ban Quản
lý Khu công nghệ cao và các khu công nghiệp; Ban Quản lý các khu kinh tế.
2.2. Thực tiễn thực hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
2.2.1. Về nguyên tắc pháp quyền
Việc áp dụng nguyên tắc pháp quyền tại thành phố Đà Nẵng trong những năm gần
đây đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng nền hành chính hiện đại, minh
bạch và phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy vẫn còn tồn tại những thách
thức cần được nhận diện và khắc phục để nguyên tắc pháp quyền thực sự trở thành nền
tảng trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
Trước hết, nguyên tắc pháp quyền – với nội hàm là “mọi tổ chức, cá nhân đều bình đẳng
trước pháp luật; quyền lực nhà nước được tổ chức và thực thi trên cơ sở pháp luật; pháp
luật là tối thượng” – đã được Đà Nẵng cụ thể hóa thông qua nhiều chương trình hành động.
Đặc biệt, sau khi Trung ương ban hành Nghị quyết số 27NQ/TW về tiếp tục xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thành ủy Đà Nẵng đã triển khai Chương
trình hành động số 29-CTr/TU, nhấn mạnh các nội dung như: thượng tôn Hiến pháp và
pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, kiểm soát quyền lực, phòng chống
tham nhũng, và xây dựng nền tư pháp công bằng, liêm chính.
Trên thực tế, Đà Nẵng là một trong những địa phương tiên phong trong việc xây
dựng chính quyền điện tử, hướng tới chính quyền số. Việc triển khai đồng bộ các dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3 và 4, tích hợp dữ liệu dân cư, đất đai, doanh nghiệp vào hệ thống
quản lý tập trung đã góp phần nâng cao tính minh bạch, giảm thiểu nhũng nhiễu và tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận pháp luật. Đồng thời, thành phố cũng chú trọng
xây dựng cơ chế đối thoại định kỳ giữa chính quyền và nhân dân, công khai hóa các quyết lOMoAR cPSD| 58097008
định hành chính, và tăng cường vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn cũng cho thấy việc áp dụng
nguyên tắc pháp quyền tại Đà Nẵng vẫn còn đối mặt với không ít thách thức. Một số cơ
quan, đơn vị chưa thực sự nghiêm túc trong việc tuân thủ quy định pháp luật; tình trạng
chồng chéo trong phân cấp, phân quyền vẫn còn tồn tại; và năng lực thực thi pháp luật
của một bộ phận cán bộ, công chức cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu. Những hạn chế này nếu
không được khắc phục kịp thời sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước và niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.
Trước yêu cầu phát triển mới, việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, xây dựng văn hóa pháp quyền trong toàn xã hội là nhiệm vụ cấp thiết.
Chính quyền thành phố cần kiên định với nguyên tắc “sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật”, đồng thời phát huy vai trò nêu gương của người đứng đầu, tăng cường kiểm
tra, giám sát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ.
2.2.2. Về nguyên tắc dân chủ
Trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương tại Việt Nam nói chung
và thành phố Đà Nẵng nói riêng, nguyên tắc dân chủ đã và đang được thể hiện ngày càng
rõ nét, trở thành nền tảng quan trọng trong xây dựng chính quyền phục vụ nhân dân, minh bạch và hiệu quả.
Trước hết, nguyên tắc dân chủ được thể hiện qua việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách. Tại Đà Nẵng, các cơ quan chính
quyền địa phương thường xuyên tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri, đối thoại trực tiếp giữa
lãnh đạo và người dân, cũng như lấy ý kiến cộng đồng trong các dự án quy hoạch, đầu tư
công, giải phóng mặt bằng. Đây là minh chứng cho việc thực hiện dân chủ trực tiếp, nơi
người dân có thể bày tỏ nguyện vọng, phản ánh kiến nghị và giám sát hoạt động của chính quyền.
Thứ hai, nguyên tắc dân chủ còn được thể hiện thông qua cơ chế dân chủ đại diện, với vai
trò của Hội đồng nhân dân các cấp. Tại Đà Nẵng, HĐND thành phố hoạt động ngày càng
chuyên nghiệp, tổ chức các kỳ họp công khai, chất vấn trực tiếp các cơ quan hành chính,
ban hành nghị quyết sát với thực tiễn và nguyện vọng của cử tri. Việc truyền hình trực tiếp
các kỳ họp HĐND cũng là một bước tiến trong việc thực hiện dân chủ công khai, minh bạch. lOMoAR cPSD| 58097008
Thứ ba, chính quyền thành phố đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để mở rộng
không gian dân chủ. Cổng thông tin điện tử, hệ thống dịch vụ công trực tuyến, các nền
tảng phản ánh hiện trường như “1022 Đà Nẵng” cho phép người dân tham gia giám sát,
phản ánh vi phạm và đề xuất giải pháp. Đây là hình thức dân chủ điện tử, góp phần nâng
cao hiệu quả quản trị và tăng cường sự tương tác giữa chính quyền và công dân.
Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy một số hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc dân
chủ. Ở một số nơi, việc lấy ý kiến người dân còn mang tính hình thức; công tác phản hồi
kiến nghị chưa kịp thời; năng lực tiếp thu và xử lý thông tin từ cơ sở còn hạn chế. Ngoài
ra, một bộ phận cán bộ, công chức chưa thực sự thấm nhuần tinh thần “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”, dẫn đến tình trạng hành chính hóa, thiếu lắng nghe và chia sẻ. Để
khắc phục những tồn tại đó, thành phố Đà Nẵng đang tiếp tục hoàn thiện thể chế dân chủ
cơ sở, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, tăng cường công khai minh bạch trong hoạt
động công vụ, đồng thời phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị –
xã hội trong giám sát và phản biện xã hội.
Tóm lại, nguyên tắc dân chủ không chỉ là một yêu cầu pháp lý mà còn là một giá trị cốt
lõi trong xây dựng chính quyền địa phương hiện đại. Việc hiện thực hóa nguyên tắc này
tại Đà Nẵng là minh chứng cho nỗ lực xây dựng một chính quyền “của dân, do dân và vì
dân” trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
2.2.3. Về nguyên tắc phân cấp , phân quyền
Theo Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 16-6-2020 của Quốc hội về tổ chức chính
quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng
thì mô hình chính quyền đô thị (CQĐT) tại thành phố Đà Nẵng là cấp chính quyền địa
phương, gồm có HĐND thành phố và UBND thành phố; chính quyền địa phương ở các
quận là UBND quận - cơ quan hành chính nhà nước ở quận, thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn theo phân cấp, ủy quyền của UBND, Chủ tịch UBND thành phố. Chính quyền địa
phương ở các phường thuộc quận là UBND phường - là cơ quan hành chính nhà nước ở
phường, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo phân cấp, ủy quyền của UBND, Chủ tịch
UBND thành phố, UBND quận. UBND các cấp được phân cấp, ủy quyền thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình trên các lĩnh vực như đầu tư, quản lý nhân sự, quy hoạch đô thị
với những nét đặc thù. Việc thí điểm tổ chức mô hình CQĐT tại thành phố Đà Nẵng được
thực hiện từ ngày 01-7-2021.
Thực hiện Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 16-6-2020 của Quốc hội, UBND
thành phố Đà Nẵng đã ban hành Đề án số 7796/ĐA-UBND về phân cấp, ủy quyền quản
lý nhà nước gắn với thí điểm mô hình tổ chức CQĐT giai đoạn 2021 2026. Đề án được
xây dựng trên nguyên tắc phù hợp và chi tiết hóa quy định của Luật Tổ chức chính quyền
địa phương, Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 24-6-2020 của Chính phủ về đẩy mạnh phân lOMoAR cPSD| 58097008
cấp quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực và thực tiễn triển khai thí điểm mô hình CQĐT
theo Nghị quyết số 119/2020/QH14 (nay là Nghị quyết số 136/2020/QH14 ngày 26-6-
2024 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm một số cơ chế, chính sách
đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng).
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn phân cấp, ủy quyền giai đoạn 2016-2020, thành phố
Đà Nẵng đã mở rộng phạm vi một số nội dung phân cấp đối với 05 lĩnh vực; định hướng
các lĩnh vực ủy quyền quản lý nhà nước giữa UBND thành phố, Chủ tịch UBND thành
phố với sở, ngành, quận, huyện nhằm tăng tính chủ động, trách nhiệm của người đứng
đầu, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả vận hành bộ máy hành chính nhà nước trên địa bàn.
Phân cấp, ủy quyền về tổ chức bộ máy, nhân sự. Để thực hiện phân cấp, ủy quyền
về tổ chức bộ máy và nhân sự, thành phố ban hành Quyết định số 21/2021/QĐ-UBND và
Quyết định số 22/2021/QĐ-UBND ngày 30-8-2021 quy định quản lý tổ chức bộ máy, biên
chế, vị trí việc làm, công chức, viên chức trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công
lập thông qua phân cấp cho UBND quận, huyện ra quyết định thành lập, tổ chức lại, giải
thể phòng chuyên môn thuộc UBND quận, huyện theo số lượng, tên gọi cụ thể được
UBND thành phố quy định; phân cấp Chủ tịch UBND quận, huyện nâng bậc lương trước
thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý; tiếp nhận vào làm
viên chức tại đơn vị sự nghiệp phù hợp với cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập trong từng ngành, lĩnh vực; được tổ chức tuyển dụng công chức
phường khi thí điểm tổ chức mô hình CQĐT. Những nội dung phân cấp này đã tăng cường
tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, vai trò của thủ trưởng các cơ quan chuyên môn, đơn vị
sự nghiệp và Chủ tịch UBND quận, huyện trong xác định biên chế và cơ cấu tổ chức phù
hợp với đặc điểm địa phương, ngành, từ đó tạo ra tính chủ động trong hoạt động của CQĐT.
Nhằm tăng cường phân cấp, ủy quyền về nhân sự, UBND thành phố Đà Nẵng đã
giao cho các cơ quan chuyên môn, UBND quận, huyện quyết định phê duyệt, điều chỉnh
đề án vị trí việc làm của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc. Người đứng đầu cơ
quan chuyên môn thuộc UBND thành phố, Chủ tịch UBND quận, huyện, các đơn vị sự
nghiệp công lập trực thuộc UBND thành phố triển khai thực hiện tổ chức xét thăng hạng
chức danh nghề nghiệp; dựa trên cơ sở đó để xếp lương chức danh nghề nghiệp, nâng
lương, hưởng phụ cấp thâm niên đối với viên chức thuộc thẩm quyền quản lý theo thẩm
quyền của từng đơn vị.
Phân cấp, ủy quyền trong lĩnh vực đầu tư. Thành phố ban hành Quyết định số
32/2021/QĐ-UBND ngày 29-10-2021 quy định một số nội dung về quản lý đầu tư và xây
dựng trên địa bàn trên tinh thần cập nhật các quy định pháp luật về đầu tư mới được ban
hành và thí điểm tổ chức mô hình CQĐT để bổ sung, điều chỉnh phù hợp. Đó là: bổ sung lOMoAR cPSD| 58097008
các quy định về giao nhiệm vụ chủ đầu tư; về hạn mức phân bổ vốn đối với các công trình
dân sinh cho UBND các quận; thẩm quyền và trường hợp ủy quyền quyết định chủ trương
đầu tư các dự án nhóm B, C; thẩm quyền thẩm định dự án đầu tư, thẩm quyền quyết định
đầu tư dự án, trong đó tăng cường thẩm quyền cho giám đốc các sở, ban, ngành, UBND
các quận, huyện và các đơn vị khác; quy định về phê duyệt hồ sơ thiết kế - dự toán, điều
chỉnh hồ sơ thiết kế - dự toán; bổ sung một số quy định trong công tác lựa chọn nhà thầu
và về tăng mức tạm ứng giá trị hợp đồng… Thực hiện phân cấp thẩm tra, phê duyệt quyết
toán dự án hoàn thành cho các cơ quan, đơn vị, địa phương.
2.2.4. Về nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan
Nguyên tắc phối hợp được thành phố cụ thể hóa thông qua các quy chế, quy định
và chương trình hành động, trong đó nhấn mạnh yêu cầu phân định rõ chức năng, nhiệm
vụ của từng cơ quan, đồng thời thiết lập cơ chế liên thông, chia sẻ thông tin và phối hợp
xử lý công việc một cách đồng bộ, kịp thời. Việc phối hợp không chỉ dừng lại ở cấp thành
phố mà còn được mở rộng đến cấp quận, phường, bảo đảm tính thống nhất trong chỉ đạo,
điều hành và triển khai nhiệm vụ. Đặc biệt, trong các lĩnh vực liên ngành như quản lý đất
đai, đầu tư công, giải phóng mặt bằng, môi trường và an sinh xã hội, thành phố đã ban
hành các quy chế phối hợp cụ thể, xác định rõ cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp và cơ chế
xử lý trách nhiệm khi xảy ra vi phạm hoặc chậm trễ.
Thực tiễn cho thấy, việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc phối hợp đã góp phần
nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, giảm thiểu
phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, thông qua việc ứng dụng công nghệ
thông tin và chuyển đổi số, các cơ quan hành chính tại Đà Nẵng đã thiết lập hệ thống quản
lý dữ liệu tập trung, cho phép chia sẻ thông tin theo thời gian thực, tăng cường tính liên
thông và giảm thiểu tình trạng “cát cứ thông tin”. Đây là bước tiến quan trọng trong việc
xây dựng chính quyền số, hướng tới nền hành chính phục vụ, lấy người dân làm trung tâm.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần
được khắc phục. Một số cơ quan chưa thực sự chủ động trong phối hợp, còn biểu hiện cục
bộ, thiếu tinh thần trách nhiệm chung. Việc xử lý các tình huống liên ngành đôi khi còn
lúng túng, thiếu cơ chế điều phối hiệu quả. Để khắc phục tình trạng này, thành phố cần
tiếp tục hoàn thiện thể chế phối hợp, nâng cao năng lực điều hành của đội ngũ cán bộ,
đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các hành vi thiếu trách nhiệm
trong phối hợp công vụ. lOMoAR cPSD| 58097008
2.3. Những kết quả đạt được
Trong quá trình xây dựng và phát triển, thành phố Đà Nẵng đã đạt được nhiều thành
quả quan trọng trong việc đảm bảo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và phục vụ nhân dân.
Trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa
đổi năm 2025), Đà Nẵng đã triển khai đồng bộ các nguyên tắc như tập trung dân chủ, công
khai minh bạch, phân cấp – phân quyền rõ ràng, và đề cao trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ.
Một trong những thành quả nổi bật là việc thực hiện mô hình chính quyền đô thị hai
cấp (cấp thành phố và cấp xã/phường) từ ngày 1/7/2025 theo quy định của Luật Tổ chức
chính quyền địa phương mới. Việc không tổ chức Hội đồng nhân dân ở cấp quận và
phường đã giúp tinh gọn bộ máy, giảm tầng nấc trung gian, đồng thời tăng cường vai trò
điều hành của Ủy ban nhân dân các cấp. Theo báo cáo của UBND thành phố, sau khi sắp
xếp lại các đơn vị hành chính, số lượng phường, xã giảm từ 67 xuống còn 56 đơn vị, giúp
tiết kiệm ngân sách thường xuyên khoảng 120 tỷ đồng mỗi năm và giảm hơn 1.000 biên chế hành chính.
Về cải cách hành chính, Đà Nẵng liên tục nằm trong nhóm 5 địa phương dẫn đầu
cả nước về Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index), với điểm số năm 2023 đạt 90,12/100
điểm, đứng thứ 2 toàn quốc. Tỷ lệ giải quyết hồ sơ đúng hạn đạt 99,7%, trong đó hơn 85%
hồ sơ được xử lý qua dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4. Thành phố cũng là địa
phương đầu tiên triển khai thành công hệ thống quản lý văn bản điện tử liên thông 4 cấp
chính quyền, góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả điều hành.
Trong lĩnh vực phân cấp, phân quyền, Đà Nẵng đã ban hành Quyết định số
15/2023/QĐ-UBND về phân cấp quản lý nhà nước trong 12 lĩnh vực trọng điểm như đầu
tư công, đất đai, xây dựng, môi trường, giáo dục và y tế. Nhờ đó, thời gian giải quyết thủ
tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư giảm trung bình 30%, riêng thủ tục cấp phép xây
dựng giảm từ 20 ngày xuống còn 10 ngày làm việc. Tỷ lệ hài lòng của người dân và doanh
nghiệp đối với dịch vụ hành chính công đạt 94,6% trong năm 2024.
Về nguyên tắc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, thành phố đã công
bố công khai 100% các quyết định hành chính trên Cổng thông tin điện tử, tổ chức hơn
150 cuộc đối thoại trực tiếp giữa chính quyền và người dân trong năm 2023, tiếp nhận và
xử lý hơn 12.000 phản ánh qua hệ thống 1022, với tỷ lệ xử lý đúng hạn đạt 98,3%. Đồng
thời, Đà Nẵng cũng tăng cường vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội thông qua hơn 60 cuộc giám sát chuyên đề mỗi năm. lOMoAR cPSD| 58097008
ề tổ chức bộ máy, thành phố đã hoàn thành việc sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp thành phố và quận, giảm từ 27 xuống còn 21 đơn vị, đồng thời kiện toàn
chức năng, nhiệm vụ theo hướng chuyên sâu, không chồng chéo. Tỷ lệ cán bộ, công chức
đạt chuẩn trình độ chuyên môn từ đại học trở lên đạt 98,5%, trong đó hơn 35% có trình
độ sau đại học. Thành phố cũng triển khai đánh giá cán bộ theo kết quả đầu ra, gắn với
mức độ hoàn thành nhiệm vụ và sự hài lòng của người dân.
Những kết quả nêu trên cho thấy, việc đảm bảo nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương tại Đà Nẵng không chỉ là yêu cầu pháp lý mà đã trở thành
thực tiễn sinh động, góp phần xây dựng một chính quyền liêm chính, kiến tạo và phục vụ.
Đây là nền tảng quan trọng để thành phố tiếp tục phát triển nhanh, bền vững và hội nhập
sâu rộng trong thời kỳ mới.
2.4. Những hạn chế và nguyên nhân
2.4.1. Những hạn chế
Mặc dù thành phố Đà Nẵng đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc đảm bảo
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, thực tiễn vẫn cho thấy tồn
tại không ít hạn chế, bất cập cần được nhận diện và khắc phục để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước và phục vụ nhân dân. Trước hết, một trong những hạn chế nổi bật
là tính chủ động và tự chủ của chính quyền cấp dưới còn chưa cao. Dù đã có nhiều nỗ lực
trong phân cấp, phân quyền, song phần lớn các quyết định quan trọng về đầu tư công,
ngân sách, quy hoạch và tổ chức bộ máy vẫn phụ thuộc vào cấp trên. Theo báo cáo của
Sở Nội vụ Đà Nẵng năm 2024, có tới 63% hồ sơ đầu tư công cấp quận, huyện phải xin ý
kiến thẩm định lại từ cấp thành phố, gây chậm trễ trong triển khai và làm giảm tính linh hoạt trong điều hành.
Thứ hai, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hành chính còn thiếu đồng bộ, dẫn đến
tình trạng chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm trong xử lý công việc liên ngành. Trong lĩnh
vực cấp phép xây dựng và quản lý đất đai, theo thống kê của Văn phòng UBND thành
phố, năm 2023 có hơn 1.200 hồ sơ bị trả lại do thiếu thông tin liên thông giữa Sở Tài
nguyên và Môi trường và Sở Xây dựng, gây bức xúc cho người dân và doanh nghiệp. Điều
này cho thấy nguyên tắc phối hợp và trách nhiệm giải trình chưa được thực hiện đầy đủ,
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền.
Thứ ba, việc thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trì nh
còn chưa đồng đều giữa các cấp chính quyền. Dù thành phố đã triển khai hệ thống phản
ánh hiện trường 1022 và công khai hóa các quyết định hành chính trên cổng thông tin điện
tử, nhưng theo khảo sát của Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế – xã hội Đà Nẵng năm
2024, chỉ có 78% người dân được hỏi cho biết họ dễ dàng tiếp cận thông tin về quy