Thương mại làm cho mọi người đều có lợi
Phần I: MỞ ĐẦU
1.1 Trình bày khái quát tính cấp thiết (ý nghĩa) của vấn đề (Lý do).
Các nguyên lý của kinh tế học là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có
thể xảy ra trong nền kinh tế. Trên thực tế, hộ gia đình là một bộ phận nằm trong nền kinh tế; và
hộ gia đình và nền kinh tế có rất nhiều điểm chung. Kinh tế học là bộ môn khoa học nghiên cứu
phương thức xã hội quản lý nguồn lực khan hiếm của mình. Nó được đặt trên cơ sở của một số ý
ởng cơ bản chi phối hành vi cá nhân, sự tương tác giữa các cá nhân và nền kinh tế với tư cách
một tổng thể - Các nhà kinh tế gọi chúng là các nguyên lý của kinh tế học.
Thương mại là chìa khoá mở ra con đường đi đến thịnh vượng. Các nhà kinh tế đã từ lâu hiểu
rằng thương mại làm tăng của cải. Trên thực tế, thương mại tạo ra của cải ngay trong các quốc
gia và giữa các quốc gia với nhau. Ðó là bởi vì thương mại khuyến khích các địa phương, tỉnh và
quốcgia chuyên sâu vào những hàng hoá họ có thể sản xuất khá hiệu quả.Thương mại không
giống như một cuộc thi đấu thể thao, trong đó luôn có kẻ thắng, người thua. Trong thương mại
quốc tê thì là điều ngược lại: Thương mại giữa hai nước có thể làm cả hai bên cùng được lợi.
Thương mại cho phép mỗi người chuyên môn hóa vào một lĩnh vực mà mình làm tốt nhất, cho
dù đó là trồng trọt, may mặc hay xây nhà.Thông qua hoạt động thương mại với những người
khác, con người có thể mua được những hàng hóa và dịch vụ đa dạng hơn với chi phí thấp
hơn.Đi sâu tìm hiểu em xin chọn đề tài “Nguyên lý Thương mại làm cho mọi người đều có lợi .
Liên hệ với thực tiễn nước ta hiện nay em có kiến nghị gì ”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ Nguyên lý Thương mại làm cho mọi người đều có lợi , sau đó Liên hệ với thực tiễn nước
ta hiện nay và rút ra bài học ý nghĩa
Phần II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp thu thập số liệu
Giáo trình kinh tế vi mô
Mạng internet
2.2 Phương pháp phân tích
Phương pháp nghị luận
Phương pháp thống kê kinh tế
Phương pháp quy nạp , diễn dãi
Phần III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THẢO LUẬN
3.1 Tìm hiểu về Nguyên lý Thương mại làm cho mọi người đều có lợi
3.1.1. Thương mại là gì
Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ v.v giữa hai hay
nhiều đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng
hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi hàng. Trong quá trình này, người bán
là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ... cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả cho
người bán một giá trị tương đương nào đó. Thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác…
Thị trường là cơ chế để thương mại hoạt động được. Dạng nguyên thủy của thương mại là hàng
đổi hàng, trong đó người ta trao đổi trực tiếp hàng hóa hay dịch vụ mà không cần thông qua các
phương tiện thanh toán.
Ví dụ, chị T trao đổi một 5 mét vải lấy 10kg thóc của chị B .Hình thức này còn tồn tại đến ngày
nay do nhiều nguyên nhân (chẳng hạn do bên bán không tin tưởng vào tỷ giá hối đoái của đồng
tiền sử dụng để thanh toán). Trong hình thức này không có sự phân biệt rõ ràng giữa người bán
và người mua, do người bán mặt hàng T lại là người mua mặt hàng B đồng thời điểm.
Vì thế tiền được hình thành như một phương tiện trao đổi đa năng để đơn giản hóa thương mại.
Nếu như trước kia tiền thường được kiên kết với các phương tiện trao đổi hiện thực có giá trị thí
dụ như đồng tiền bằng vàng thì tiền ngày nay thông thường là từ vật liệu mà chính nó không có
giá trị (tiền giấy).
Trong trao đổi quốc tế người ta gọi các loại tiền khác nhau là tiền tệ. Giá trị của tiền hình thành
từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện cho chúng. Ngày xưa vàng và bạc là các vật bảo đảm giá trị
của tiền tại châu Âu. Ngày nay việc này không còn thông dụng nữa và tiền là tượng trưng cho
giá trị của hàng hóa mà người ta có thể mua được. Chính vì thế mà khi đưa thêm tiền giấy hay
tiền kim loại vào sử dụng thì tổng giá trị của tiền lưu thông trong một nền kinh tế không được
nâng cao thêm mà chỉ dẫn đến lạm phát.
3.1.2. Thương mại tồn tại vì nhiều lý do.
Nguyên nhân cơ bản của nó là sự chuyên môn hóa và phân chia lao động, trong đó các nhóm
người nhất định nào đó chỉ tập trung vào việc sản xuất để cung ứng các hàng hóa hay dịch vụ
thuộc về một lĩnh vực nào đó để đổi lại hàng hóa hay dịch vụ của các nhóm người khác.
Thương mại cũng tồn tại giữa các khu vực là do sự khác biệt giữa các khu vực này đem lại lợi
thế so sánh hay lợi thế tuyệt đối trong quá trình sản xuất ra các hàng hóa hay dịch vụ có tính
thương mại hoặc do sự khác biệt trong các kích thước của khu vực (dân số chẳng hạn) cho phép
thu được lợi thế trong sản xuất hàng loạt. Vì thế, thương mại theo các giá cả thị trường đem lại
lợi ích cho cả hai khu vực.
Thương mại là chìa khoá mở ra con đường đi đến thịnh vượng. Các nhà kinh tế đã từ lâu hiểu
rằng thương mại làm tăng của cải. Trên thực tế, thương mại tạo ra của cải ngay trong các quốc
gia và giữa các quốc gia với nhau. Ðó là bởi vì thương mại khuyến khích các địa phương, tỉnh và
quốc gia chuyên sâu vào những hàng hoá họ có thể sản xuất khá hiệu quả, những mặt hàng có lợi
thế so sánh.
Lợi thế so sánh của một quốc gia nằm trong lực lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên, văn hoá
và kiến thức của người dân quốc gia đó. Tất cả các nước đều có lợi thế so sánh trong một số sản
phẩm. Những nước có nguồn nhân công rẻ có xu hướng tập trung vào các ngành nghề sử dụng
nhiều nhân công.
Những nước có giá thuê nhân công đắt đỏ lại có xu hướng tập trung vào các ngành sản xuất đòi
hỏi đầu tư vào những công nghệ cần đến ít nhân công.
Khi các quốc gia tiến hành hoạt động thương mại, họ có xu hướng mua từ ớc ngoài những sản
phẩm mà sản xuất trong nước tương đối khó và đắt, và bán ra những sản sản xuất với giá thành
tương đối rẻ.
Thương mại hai chiều như vậy làm giảm giá thành, mở rộng sản xuất, tăng tuyển dụng nhân
công, tăng thu nhập và phúc lợi xã hội ở cả hai nước. Thương mại không bao giờ chỉ đem lại lợi
ích cho quốc gia này còn quốc gia kia thì chịu thiệt.
Với một số người, khó có thể tin rằng thương mại tự do thực sự làm tăng thu nhập và của cải của
tất cả các quốc gia, nhưng lịch sử thế giới đã chứng minh điều này.Thực tế thì tất cả các quốc gia
giàu có trên thế giới đều giành được vị trí của họ chủ yếu nhờ một yếu tố - họ là những quốc gia
thương mại lớn.
Không một quốc gia nào có thể đạt được mức tăng trưởng kinh tế bền vững mà không hạ thấp
hàng rào thương mại nước mình. Nếu một nước đóng cửa thị trường, nước đó sẽ buộc người lao
động phải làm việc vất vả hơn với thu nhập ít hơn. Rốt cuộc, các ngành công nghiệp của nước đó
sẽ phải chịu lỗ và suy thoái.
Để tăng trưởng kinh tế, các quốc gia phải mở cửa thị trường với nhau. Nhận thức được thực tế cơ
bản này, những nước ASEAN đã đồng ý mở cửa thị trường khu vực của họ, giống như thị trường
khu vực rộng lớn đã mở ở Châu Âu và Bắc Mỹ.
3.1.3. Thương mại hoạt động theo nguyên tắc phát huy lợi thế so sánh .
Lợi thế so sánh hay Ưu thế so sánh là một nguyên tắc trong kinh tế học phát biểu rằng mỗi quốc
gia sẽ được lợi khi nó chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà mình có thể
sản xuất với chi phí tương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại,
mỗi quốc gia sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí
tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các nước khác). Nguyên tắc lợi thế so sánh
cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó tuyệt đối có hiệu quả hơn hay
tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản xuất mọi hàng hóa. Nguyên tắc lợi
thế so sánhlà khái niệm trọng yếu trong nghiên cứu thương mại quốc tế. Nhà kinh tế học được
giải thưởng Nobel năm 1970 Paul Samuelson đã viết: "Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi
thế so sánh vẫn là một trong những chân lý sâu sắc nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia
không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng
trưởng kinh tế của chính mình."
3.1.3.1 Mở rộng phân tích lợi thế so sánh cho nhiều hàng hóa và nhiều quốc gia
Trường hợp có nhiều hàng hoá với chi phí Không đổi và có hai quốc gia thì lợi thế so sánh của
từng hàng hoá sẽ được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ hàng hoá có lợi thế so sánh cao nhất đến
hàng hoá có lợi thế so sánh thấp nhất và mỗi nước sẽ tập trung vào sản xuất những mặt hàng có
lợi thế so sánh từ cao nhất đến cao ở mức cân bằng. Ranh giới mặt hàng nào là có lợi thế so sánh
cao ở mức cân bằng sẽ do cung cầu trên thị trường quốc tế quyết định.
Trường hợp có nhiều nước thì có thể gộp chung tất cả các nước khác thành một nước gọi là phần
còn lại của thế giới và những phân tích trên vẫn giữ nguyên tính đúng đắn của nó. Lợi thế so
sánh không những áp dụng trong trường hợp thương mại quốc tế mà còn có thể áp dụng cho các
vùng trong một quốc gia một cách hoàn toàn tương tự.
3.1.3.2 Lợi thế so sánh về giá yếu tố đầu vào
Toàn bộ phân tích của Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự khác nhau giữa các nước
trong công nghệ sản xuất dẫn đến năng suất vật chất và đòi hỏi lao động đơn vị khác nhau. Xét
trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công nghệ như nhau:
Các yếu tố đầu vào có cung yếu tố đầu vào về tư bản nhiều hơn các nước đang phát triển dẫn đến
số ợng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên một đơn vị tư bản của
các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy giá thuê tư bản ở các nước
phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại ở các nước đang phát triển giá
thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản. Nói một cách khác, các nước phát
triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước đang phát triển có lợi thế so sánh về giá
thuê nhân công.
Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế so sánh cao
một cách tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có lợi thế so sánh về
những hàng hóa này.
Điều này lý giải vì sao Việt Nam lại xuất khẩu nhiều sản phẩm thô (dầu thô, than đá...) hoặc hàng
hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc, thiết bị từ
các nước phát triển.
3.2 Liên hệ với thực tiễn nước ta hiện nay em có kiến nghị gì
Gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO là một bước nhảy quan trọng giúp cho nên thương
mại VN phát triển.
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế nói chung và việc khẳng định vi thế chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tchức thương mại (WTO)
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995 và là một
bước phát triển toàn diện của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). WTO quản
lý các Hiệp định thương mại do các Thành viên ký kết, đặc biệt là Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại (GATT), Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) và Hiệp định về quyền
sở hữu trí tuệ (TRIPs).
Các Thành viên WTO có trình độ kinh tế khác nhau, từ những nền kinh tế kém phát triển nhất
cho tới những nền kinh tế phát triển nhất. Sự thành công của tổ chức này được thể hiện ở sự phát
triển liên tục số ợng các nước tham gia. Kể từ khi tổ chức này được thành lập, đã có hai mươi
hai nước – kể cả Việt Nam – gia nhập WTO, đưa tổng số Thành viên lên tới 150 (tới thời điểm
tháng 10 năm 2007), chiếm trên 90% tổng thương mại toàn cầu. Các Thành viên mới của châu Á
gia nhập WTO trước Việt Nam là Trung Quốc và Đài Loan, hai nền kinh tế gia nhập năm 2001
và 2002, Ácmênia (2003), Campuchia (2004) và Nêpan (2004).
WTO coi việc không phân biệt đối xử, mở cửa thị trường và cạnh tranh toàn cầu trong thương
mại quốc tế sẽ thúc đẩy phúc lợi quốc gia tại tất cả các nước là triết lý nền tảng của mình. Một lý
do khiến WTO tồn tại là các hạn chế về chính trị đã ngăn cản các Chính phủ áp dụng các chính
sách thương mại hiệu quả hơn, và thông qua sự trao đổi có đi có lại các cam kết tự do hóa, các
nước có thể vượt qua các hạn chế chính trị này.
Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 7-11-2006, và được công nhận là thành viên chính thức của tổ
chức này vào ngày 11-1-2007. Việc gia nhập WTO đã mở ra cơ hội lớn cho hàng hóa và dịch vụ
của Việt Nam với thị trường rộng lớn, gồm 155 nước thành viên, chiếm 97% GDP toàn cầu.
Lợi ích của Việt Nam khi gia nhập WTO
Trong phân tích về tác động gia nhập WTO thì lợi ích đầu tiên và rõ nhất thường được nhắc đến
VN sẽ nhanh chóng thu hút đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu. Phân tích về điều này, là thành viên
WTO, VN có điều kiện để xuất khẩu vào thị trường 149 nước thành viên theo mức thuế được cắt
giảm. Hàng hoá VN được đối xử bình đẳng và không bị phân biệt. Đây là cơ sở để VN có thể
đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng lợi thế, khai thác thêm thị trường. Điều này hết sức có ý nghĩa
vì xuất khẩu hiện chiếm tới 60% GDP của cả nước.
Gia nhập WTO, môi trường kinh doanh VN sẽ dần cải thiện theo hướng phù hợp với thông lệ
quốc tế, tạo ra niềm tin và sức hút cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc ngày càng có nhiều nhà
sản xuất hàng đầu thế giới đến VN đầu tư cơ sở sản xuất sẽ tạo ra năng lực sản xuất mới cho VN,
tăng khả năng xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó, gia tăng đầu tư nước ngoài
sẽ giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào dây chuyên phân công sản xuất trên thế giới, cơ hội xuất
khẩu mở ra và doanh nghiệp VN sẽ gắn chặt hơn với DN và thị trường thế giới.
Đặc biệt, gia nhập WTO, VN có địa vị bình đẳng với các thành viên khác trong việc hoạch định
chính sách thương mại toàn cầu nhằm thiết lập một trật tự kinh tế công bằng trong việc đấu tranh
bảo vệ quyền lợi cho đất nước và DN. Điều này có ý nghĩa lớn, giúp DN tránh và giải quyết
thuận lợi các cuộc tranh chấp thương mại theo nguyên tắc WTO, không còn bị thiệt thòi như
trước đây.
Hiện nay trên thị trường quốc tế, Nhật Bản là đối thủ cạnh tranh của Hoa Kỳ. Xét trên một vài
khía cạnh, điều này là đúng vì các công ty Nhật và Mỹ sản xuất nhiều mặt hàng giống nhau.
Hãng Ford và hãng Toyota cạnh tranh để thu hút cùng một nhóm khách hàng trên thị trường ô tô.
Hewlett-Packard HP cũng cạnh tranh với Sony Vaio trên thị trường máy tính cá nhân để thu hút
cùng một nhóm hàng.
Vì vậy, người ta rất dễ mắc sai lầm khi nghĩ về sự cạnh tranh giữa các nước. Thương mại giữa
Nhật và Mỹ không giống như một cuộc thi đấu thể thao, trong đó luôn có kẻ thắng, người thua.
Sự thật thì điều ngược lại mới đúng:
Thương mại giữa hai nước có thể làm cả hai bên cùng được lợi.
3.3 Bài học rút ra sau khi nghiên cứu
3.3.1 Tầm quan trọng của Thương mại
Một nền kinh tế mà không có thương mại đó là nền kinh tế đóng. Khi có thương mại thì tất cả
các loại hàng hoá không còn ở dạng trao đổi mà được thông qua trên thị trường vì vậy hàng hoá
trở nên phong phú, đa dạng, tạo ra nhiều sự lựa chọn.
Từ đó ta thấy thương mại không phải là trận đấu mà các hoạt động thương mại là sự kết nối
người này với người khác , nước này trao đổi với nước khác giúp con người có thể mua được
những hàng hoá, dịch vụ đa dạng, phong phú và chi phí thấp.Và thương mại cũng giúp các nước
có lợi từ khả năng trao đổi này.
Thương mại cho phép các nước chuyên môn hoá vào lĩnh vực mà họ làm tốt nhất và sử dụng
hàng hoá phong phú hơn. Dù vậy ta có thể thấy rằng thương mại là 1 con dao 2 lưỡi, đối với các
nước có nền kinh tế phát triển thì thương mại đóng vai trò quan trọng trong nên kinh tế quốc dân
và đem lại những cơ hội phát triển tốt nhất. Những đối với những nước có nền kinh tế chưa phát
triển thì thương mại lại kém hơn, phát triển chậm gây ra nhiều khó khăn trong việc hội nhập.
3.3.2 Đối với người tiêu dùng:
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay nhu cầu của con người càng cao đòi hỏi
thị trường phải phát triển mạnh mẽ, đa dạng về hàng hoá, mẫu mã, chất lượng sản phẩm tốt hơn,
bền hơn, rẻ hơn. Và thương mại đó giải quyết được vấn đề này, người tiêu dùng có nhiều sự lựa
chọn hơn về hàng hoá.
Ví dụ : Với ngành dịch vụ viễn thông, các công ty cung cấp dịch vụ như: Viettel, HT, Mobile,
S-phone…luôn có những cuộc cạnh tranh về giá cả, dịch vụ chăm sóc khách hàng, chất lượng
sản phẩm…Giúp cho người tiêu dùng có được những sản phẩm có chất lượng tốt và chi phí hợp
lý , có nhiều loại hình dịch vụ để lựa chọn… 3.3.3. Đối với doanh nghiệp
Qua thương mại , các doanh nghiệp cũng có lợi và giữ đúng vai trò quan trọng. Khi không có
thương mại doanh nghiệp chỉ có thể trao đổi hàng hoá cho nhau, lợi nhuận thấp, còn khi có
thương mại tiếp sức các doanh nghiệp có thể bán hàng trong khuôn khổ thương mại tự do làm
cho cả 2 bên đều có lợi.
Ví dụ: Giữa 2 hãng sản xuất sản xuất điện thoại là iphone và samsung luôn có những cạnh
tranh khốc liệt về thị trường để thu hút một nhóm khách hàng trên thị trường điện thoại di động .
Trong cuộc tranh này không có người thắng người thua mà nó giúp 2 công ty cùng có những
thay đổi tư duy và công nghệ…. Và nó trực tiếp giúp nền thương mại của thế giới phát triển.
3.3.4 Đối với người lao động
Khi có thương mại thì cầu lao động cũng tăng theo, kéo theo đó là nhiều người có việc làm, giải
quyết vấn đề về nạn thất nghiệp. Đối với chính phủ thì thương mại giúp mở rộng thị trường kinh
tế giữa các nước, đưa ra các chính sách hợp lý nhằm thúc đẩy nên thương mại phát triển
Phần IV: KẾT LUẬN
Tóm Lại Thương mại làm cho mọi người đều có lợi cái lợi về sản xuất và tiêu dùng mà các nước
có thể thu được nhờ tham gia vào nền thương mại quốc tế. Cũng như cá nhân, doanh nghiệp và
khu vực trong một quốc gia, các nước buôn bán với nhau trước hết nhằm thu được các mối lợi từ
chuyên môn hóa. Bằng cách trao đổi một số sản phẩm của mình lấy sản phẩm của nước khác,
một nước có thể nhận được nhiều hàng hóa đa dạng và rẻ hơn so với trường hợp tự sản xuất tất
cả những thứ cần thiết. Quá trình phân công lao động quốc tế, trong đó mỗi nước chuyên môn
hóa vào một số sản phẩm mà nó có lợi thế so sánh, làm cho sản lượng thế giới tăng, qua đó góp
phần nâng cao mức sống thực tế của các nước.
Khi tham gia vào WTO, chúng ta có thể thy những ảnh hưởng lớn trên cả cấp vĩ mô và vi mô.
Lợi ích lớn nhất mà Việt Nam thu được từ hội nhập là thị trường xuất khẩu thuận lợi cho Việt
Nam mở rộng.Do VN được hưởng qui chế MFN vô điều kiện, theo đó hàng hóa Việt Nam sẽ
được cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ khác, không còn vướng nhiều rào cản về thuế và hạn
ngạch như hiện nay nữa (Hiện nay, thương mại giữa các nước thành viên WTO chiếm tới 90%
khối lượng thương mại thế giới). Từ đó sẽ tăng cường tiềm lực kinh tế thông qua việc đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài.

Preview text:

Thương mại làm cho mọi người đều có lợi Phần I: MỞ ĐẦU
1.1 Trình bày khái quát tính cấp thiết (ý nghĩa) của vấn đề (Lý do).
Các nguyên lý của kinh tế học là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có
thể xảy ra trong nền kinh tế. Trên thực tế, hộ gia đình là một bộ phận nằm trong nền kinh tế; và
hộ gia đình và nền kinh tế có rất nhiều điểm chung. Kinh tế học là bộ môn khoa học nghiên cứu
phương thức xã hội quản lý nguồn lực khan hiếm của mình. Nó được đặt trên cơ sở của một số ý
tưởng cơ bản chi phối hành vi cá nhân, sự tương tác giữa các cá nhân và nền kinh tế với tư cách
một tổng thể - Các nhà kinh tế gọi chúng là các nguyên lý của kinh tế học.
Thương mại là chìa khoá mở ra con đường đi đến thịnh vượng. Các nhà kinh tế đã từ lâu hiểu
rằng thương mại làm tăng của cải. Trên thực tế, thương mại tạo ra của cải ngay trong các quốc
gia và giữa các quốc gia với nhau. Ðó là bởi vì thương mại khuyến khích các địa phương, tỉnh và
quốcgia chuyên sâu vào những hàng hoá họ có thể sản xuất khá hiệu quả.Thương mại không
giống như một cuộc thi đấu thể thao, trong đó luôn có kẻ thắng, người thua. Trong thương mại
quốc tê thì là điều ngược lại: Thương mại giữa hai nước có thể làm cả hai bên cùng được lợi.
Thương mại cho phép mỗi người chuyên môn hóa vào một lĩnh vực mà mình làm tốt nhất, cho
dù đó là trồng trọt, may mặc hay xây nhà.Thông qua hoạt động thương mại với những người
khác, con người có thể mua được những hàng hóa và dịch vụ đa dạng hơn với chi phí thấp
hơn.Đi sâu tìm hiểu em xin chọn đề tài “Nguyên lý Thương mại làm cho mọi người đều có lợi .
Liên hệ với thực tiễn nước ta hiện nay em có kiến nghị gì ”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ Nguyên lý Thương mại làm cho mọi người đều có lợi , sau đó Liên hệ với thực tiễn nước
ta hiện nay và rút ra bài học ý nghĩa
Phần II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp thu thập số liệu Giáo trình kinh tế vi mô Mạng internet
2.2 Phương pháp phân tích Phương pháp nghị luận
Phương pháp thống kê kinh tế
Phương pháp quy nạp , diễn dãi
Phần III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU – THẢO LUẬN
3.1 Tìm hiểu về Nguyên lý Thương mại làm cho mọi người đều có lợi
3.1.1. Thương mại là gì
Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ v.v giữa hai hay
nhiều đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng
hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi hàng. Trong quá trình này, người bán
là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ... cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả cho
người bán một giá trị tương đương nào đó. Thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác…
Thị trường là cơ chế để thương mại hoạt động được. Dạng nguyên thủy của thương mại là hàng
đổi hàng, trong đó người ta trao đổi trực tiếp hàng hóa hay dịch vụ mà không cần thông qua các phương tiện thanh toán.
Ví dụ, chị T trao đổi một 5 mét vải lấy 10kg thóc của chị B .Hình thức này còn tồn tại đến ngày
nay do nhiều nguyên nhân (chẳng hạn do bên bán không tin tưởng vào tỷ giá hối đoái của đồng
tiền sử dụng để thanh toán). Trong hình thức này không có sự phân biệt rõ ràng giữa người bán
và người mua, do người bán mặt hàng T lại là người mua mặt hàng B đồng thời điểm.
Vì thế tiền được hình thành như một phương tiện trao đổi đa năng để đơn giản hóa thương mại.
Nếu như trước kia tiền thường được kiên kết với các phương tiện trao đổi hiện thực có giá trị thí
dụ như đồng tiền bằng vàng thì tiền ngày nay thông thường là từ vật liệu mà chính nó không có giá trị (tiền giấy).
Trong trao đổi quốc tế người ta gọi các loại tiền khác nhau là tiền tệ. Giá trị của tiền hình thành
từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện cho chúng. Ngày xưa vàng và bạc là các vật bảo đảm giá trị
của tiền tại châu Âu. Ngày nay việc này không còn thông dụng nữa và tiền là tượng trưng cho
giá trị của hàng hóa mà người ta có thể mua được. Chính vì thế mà khi đưa thêm tiền giấy hay
tiền kim loại vào sử dụng thì tổng giá trị của tiền lưu thông trong một nền kinh tế không được
nâng cao thêm mà chỉ dẫn đến lạm phát.
3.1.2. Thương mại tồn tại vì nhiều lý do.
Nguyên nhân cơ bản của nó là sự chuyên môn hóa và phân chia lao động, trong đó các nhóm
người nhất định nào đó chỉ tập trung vào việc sản xuất để cung ứng các hàng hóa hay dịch vụ
thuộc về một lĩnh vực nào đó để đổi lại hàng hóa hay dịch vụ của các nhóm người khác.
Thương mại cũng tồn tại giữa các khu vực là do sự khác biệt giữa các khu vực này đem lại lợi
thế so sánh hay lợi thế tuyệt đối trong quá trình sản xuất ra các hàng hóa hay dịch vụ có tính
thương mại hoặc do sự khác biệt trong các kích thước của khu vực (dân số chẳng hạn) cho phép
thu được lợi thế trong sản xuất hàng loạt. Vì thế, thương mại theo các giá cả thị trường đem lại
lợi ích cho cả hai khu vực.
Thương mại là chìa khoá mở ra con đường đi đến thịnh vượng. Các nhà kinh tế đã từ lâu hiểu
rằng thương mại làm tăng của cải. Trên thực tế, thương mại tạo ra của cải ngay trong các quốc
gia và giữa các quốc gia với nhau. Ðó là bởi vì thương mại khuyến khích các địa phương, tỉnh và
quốc gia chuyên sâu vào những hàng hoá họ có thể sản xuất khá hiệu quả, những mặt hàng có lợi thế so sánh.
Lợi thế so sánh của một quốc gia nằm trong lực lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên, văn hoá
và kiến thức của người dân quốc gia đó. Tất cả các nước đều có lợi thế so sánh trong một số sản
phẩm. Những nước có nguồn nhân công rẻ có xu hướng tập trung vào các ngành nghề sử dụng nhiều nhân công.
Những nước có giá thuê nhân công đắt đỏ lại có xu hướng tập trung vào các ngành sản xuất đòi
hỏi đầu tư vào những công nghệ cần đến ít nhân công.
Khi các quốc gia tiến hành hoạt động thương mại, họ có xu hướng mua từ nước ngoài những sản
phẩm mà sản xuất trong nước tương đối khó và đắt, và bán ra những sản sản xuất với giá thành tương đối rẻ.
Thương mại hai chiều như vậy làm giảm giá thành, mở rộng sản xuất, tăng tuyển dụng nhân
công, tăng thu nhập và phúc lợi xã hội ở cả hai nước. Thương mại không bao giờ chỉ đem lại lợi
ích cho quốc gia này còn quốc gia kia thì chịu thiệt.
Với một số người, khó có thể tin rằng thương mại tự do thực sự làm tăng thu nhập và của cải của
tất cả các quốc gia, nhưng lịch sử thế giới đã chứng minh điều này.Thực tế thì tất cả các quốc gia
giàu có trên thế giới đều giành được vị trí của họ chủ yếu nhờ một yếu tố - họ là những quốc gia thương mại lớn.
Không một quốc gia nào có thể đạt được mức tăng trưởng kinh tế bền vững mà không hạ thấp
hàng rào thương mại nước mình. Nếu một nước đóng cửa thị trường, nước đó sẽ buộc người lao
động phải làm việc vất vả hơn với thu nhập ít hơn. Rốt cuộc, các ngành công nghiệp của nước đó
sẽ phải chịu lỗ và suy thoái.
Để tăng trưởng kinh tế, các quốc gia phải mở cửa thị trường với nhau. Nhận thức được thực tế cơ
bản này, những nước ASEAN đã đồng ý mở cửa thị trường khu vực của họ, giống như thị trường
khu vực rộng lớn đã mở ở Châu Âu và Bắc Mỹ.
3.1.3. Thương mại hoạt động theo nguyên tắc phát huy lợi thế so sánh .
Lợi thế so sánh hay Ưu thế so sánh là một nguyên tắc trong kinh tế học phát biểu rằng mỗi quốc
gia sẽ được lợi khi nó chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà mình có thể
sản xuất với chi phí tương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại,
mỗi quốc gia sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí
tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các nước khác). Nguyên tắc lợi thế so sánh
cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó tuyệt đối có hiệu quả hơn hay
tuyệt đối không hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản xuất mọi hàng hóa. Nguyên tắc lợi
thế so sánhlà khái niệm trọng yếu trong nghiên cứu thương mại quốc tế. Nhà kinh tế học được
giải thưởng Nobel năm 1970 Paul Samuelson đã viết: "Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết lợi
thế so sánh vẫn là một trong những chân lý sâu sắc nhất của mọi môn kinh tế học. Các quốc gia
không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng
trưởng kinh tế của chính mình."
3.1.3.1 Mở rộng phân tích lợi thế so sánh cho nhiều hàng hóa và nhiều quốc gia
Trường hợp có nhiều hàng hoá với chi phí Không đổi và có hai quốc gia thì lợi thế so sánh của
từng hàng hoá sẽ được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên từ hàng hoá có lợi thế so sánh cao nhất đến
hàng hoá có lợi thế so sánh thấp nhất và mỗi nước sẽ tập trung vào sản xuất những mặt hàng có
lợi thế so sánh từ cao nhất đến cao ở mức cân bằng. Ranh giới mặt hàng nào là có lợi thế so sánh
cao ở mức cân bằng sẽ do cung cầu trên thị trường quốc tế quyết định.
Trường hợp có nhiều nước thì có thể gộp chung tất cả các nước khác thành một nước gọi là phần
còn lại của thế giới và những phân tích trên vẫn giữ nguyên tính đúng đắn của nó. Lợi thế so
sánh không những áp dụng trong trường hợp thương mại quốc tế mà còn có thể áp dụng cho các
vùng trong một quốc gia một cách hoàn toàn tương tự.
3.1.3.2 Lợi thế so sánh về giá yếu tố đầu vào
Toàn bộ phân tích của Ricardo về lợi thế so sánh thực chất dựa trên sự khác nhau giữa các nước
trong công nghệ sản xuất dẫn đến năng suất vật chất và đòi hỏi lao động đơn vị khác nhau. Xét
trên góc độ giá yếu tố đầu vào cũng dẫn đến lợi thế so sánh với nền tảng công nghệ như nhau:
Các yếu tố đầu vào có cung yếu tố đầu vào về tư bản nhiều hơn các nước đang phát triển dẫn đến
số lượng tư bản trên mỗi nhân công lớn hơn. Ngược lại số nhân công trên một đơn vị tư bản của
các nước đang phát triển lại lớn hơn các nước phát triển. Như vậy giá thuê tư bản ở các nước
phát triển rẻ hơn tương đối so với giá thuê nhân công; ngược lại ở các nước đang phát triển giá
thuê nhân công lại rẻ hơn tương đối so với giá thuê tư bản. Nói một cách khác, các nước phát
triển có lợi thế so sánh về giá thuê tư bản còn các nước đang phát triển có lợi thế so sánh về giá thuê nhân công.
Quốc gia nào sản xuất hàng hóa có hàm lượng nhân tố đầu vào mà mình có lợi thế so sánh cao
một cách tương đối thì sẽ sản xuất được hàng hóa rẻ hơn tương đối và sẽ có lợi thế so sánh về những hàng hóa này.
Điều này lý giải vì sao Việt Nam lại xuất khẩu nhiều sản phẩm thô (dầu thô, than đá...) hoặc hàng
hóa có hàm lượng nhân công cao như dệt may, giày dép... còn nhập khẩu máy móc, thiết bị từ các nước phát triển.
3.2 Liên hệ với thực tiễn nước ta hiện nay em có kiến nghị gì
Gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO là một bước nhảy quan trọng giúp cho nên thương mại VN phát triển.
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế nói chung và việc khẳng định vi thế chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tổ chức thương mại (WTO)
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995 và là một
bước phát triển toàn diện của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). WTO quản
lý các Hiệp định thương mại do các Thành viên ký kết, đặc biệt là Hiệp định chung về thuế quan
và thương mại (GATT), Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) và Hiệp định về quyền
sở hữu trí tuệ (TRIPs).
Các Thành viên WTO có trình độ kinh tế khác nhau, từ những nền kinh tế kém phát triển nhất
cho tới những nền kinh tế phát triển nhất. Sự thành công của tổ chức này được thể hiện ở sự phát
triển liên tục số lượng các nước tham gia. Kể từ khi tổ chức này được thành lập, đã có hai mươi
hai nước – kể cả Việt Nam – gia nhập WTO, đưa tổng số Thành viên lên tới 150 (tới thời điểm
tháng 10 năm 2007), chiếm trên 90% tổng thương mại toàn cầu. Các Thành viên mới của châu Á
gia nhập WTO trước Việt Nam là Trung Quốc và Đài Loan, hai nền kinh tế gia nhập năm 2001
và 2002, Ácmênia (2003), Campuchia (2004) và Nêpan (2004).
WTO coi việc không phân biệt đối xử, mở cửa thị trường và cạnh tranh toàn cầu trong thương
mại quốc tế sẽ thúc đẩy phúc lợi quốc gia tại tất cả các nước là triết lý nền tảng của mình. Một lý
do khiến WTO tồn tại là các hạn chế về chính trị đã ngăn cản các Chính phủ áp dụng các chính
sách thương mại hiệu quả hơn, và thông qua sự trao đổi có đi có lại các cam kết tự do hóa, các
nước có thể vượt qua các hạn chế chính trị này.
Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 7-11-2006, và được công nhận là thành viên chính thức của tổ
chức này vào ngày 11-1-2007. Việc gia nhập WTO đã mở ra cơ hội lớn cho hàng hóa và dịch vụ
của Việt Nam với thị trường rộng lớn, gồm 155 nước thành viên, chiếm 97% GDP toàn cầu.
Lợi ích của Việt Nam khi gia nhập WTO
Trong phân tích về tác động gia nhập WTO thì lợi ích đầu tiên và rõ nhất thường được nhắc đến
là VN sẽ nhanh chóng thu hút đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu. Phân tích về điều này, là thành viên
WTO, VN có điều kiện để xuất khẩu vào thị trường 149 nước thành viên theo mức thuế được cắt
giảm. Hàng hoá VN được đối xử bình đẳng và không bị phân biệt. Đây là cơ sở để VN có thể
đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng lợi thế, khai thác thêm thị trường. Điều này hết sức có ý nghĩa
vì xuất khẩu hiện chiếm tới 60% GDP của cả nước.
Gia nhập WTO, môi trường kinh doanh VN sẽ dần cải thiện theo hướng phù hợp với thông lệ
quốc tế, tạo ra niềm tin và sức hút cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc ngày càng có nhiều nhà
sản xuất hàng đầu thế giới đến VN đầu tư cơ sở sản xuất sẽ tạo ra năng lực sản xuất mới cho VN,
tăng khả năng xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó, gia tăng đầu tư nước ngoài
sẽ giúp Việt Nam tham gia sâu hơn vào dây chuyên phân công sản xuất trên thế giới, cơ hội xuất
khẩu mở ra và doanh nghiệp VN sẽ gắn chặt hơn với DN và thị trường thế giới.
Đặc biệt, gia nhập WTO, VN có địa vị bình đẳng với các thành viên khác trong việc hoạch định
chính sách thương mại toàn cầu nhằm thiết lập một trật tự kinh tế công bằng trong việc đấu tranh
bảo vệ quyền lợi cho đất nước và DN. Điều này có ý nghĩa lớn, giúp DN tránh và giải quyết
thuận lợi các cuộc tranh chấp thương mại theo nguyên tắc WTO, không còn bị thiệt thòi như trước đây.
Hiện nay trên thị trường quốc tế, Nhật Bản là đối thủ cạnh tranh của Hoa Kỳ. Xét trên một vài
khía cạnh, điều này là đúng vì các công ty Nhật và Mỹ sản xuất nhiều mặt hàng giống nhau.
Hãng Ford và hãng Toyota cạnh tranh để thu hút cùng một nhóm khách hàng trên thị trường ô tô.
Hewlett-Packard HP cũng cạnh tranh với Sony Vaio trên thị trường máy tính cá nhân để thu hút cùng một nhóm hàng.
Vì vậy, người ta rất dễ mắc sai lầm khi nghĩ về sự cạnh tranh giữa các nước. Thương mại giữa
Nhật và Mỹ không giống như một cuộc thi đấu thể thao, trong đó luôn có kẻ thắng, người thua.
Sự thật thì điều ngược lại mới đúng:
Thương mại giữa hai nước có thể làm cả hai bên cùng được lợi.
3.3 Bài học rút ra sau khi nghiên cứu
3.3.1 Tầm quan trọng của Thương mại
Một nền kinh tế mà không có thương mại đó là nền kinh tế đóng. Khi có thương mại thì tất cả
các loại hàng hoá không còn ở dạng trao đổi mà được thông qua trên thị trường vì vậy hàng hoá
trở nên phong phú, đa dạng, tạo ra nhiều sự lựa chọn.
Từ đó ta thấy thương mại không phải là trận đấu mà các hoạt động thương mại là sự kết nối
người này với người khác , nước này trao đổi với nước khác giúp con người có thể mua được
những hàng hoá, dịch vụ đa dạng, phong phú và chi phí thấp.Và thương mại cũng giúp các nước
có lợi từ khả năng trao đổi này.
Thương mại cho phép các nước chuyên môn hoá vào lĩnh vực mà họ làm tốt nhất và sử dụng
hàng hoá phong phú hơn. Dù vậy ta có thể thấy rằng thương mại là 1 con dao 2 lưỡi, đối với các
nước có nền kinh tế phát triển thì thương mại đóng vai trò quan trọng trong nên kinh tế quốc dân
và đem lại những cơ hội phát triển tốt nhất. Những đối với những nước có nền kinh tế chưa phát
triển thì thương mại lại kém hơn, phát triển chậm gây ra nhiều khó khăn trong việc hội nhập.
3.3.2 Đối với người tiêu dùng:
Trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay nhu cầu của con người càng cao đòi hỏi
thị trường phải phát triển mạnh mẽ, đa dạng về hàng hoá, mẫu mã, chất lượng sản phẩm tốt hơn,
bền hơn, rẻ hơn. Và thương mại đó giải quyết được vấn đề này, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn về hàng hoá.
Ví dụ : Với ngành dịch vụ viễn thông, các công ty cung cấp dịch vụ như: Viettel, HT, Mobile,
S-phone…luôn có những cuộc cạnh tranh về giá cả, dịch vụ chăm sóc khách hàng, chất lượng
sản phẩm…Giúp cho người tiêu dùng có được những sản phẩm có chất lượng tốt và chi phí hợp
lý , có nhiều loại hình dịch vụ để lựa chọn… 3.3.3. Đối với doanh nghiệp
Qua thương mại , các doanh nghiệp cũng có lợi và giữ đúng vai trò quan trọng. Khi không có
thương mại doanh nghiệp chỉ có thể trao đổi hàng hoá cho nhau, lợi nhuận thấp, còn khi có
thương mại tiếp sức các doanh nghiệp có thể bán hàng trong khuôn khổ thương mại tự do làm
cho cả 2 bên đều có lợi.
Ví dụ: Giữa 2 hãng sản xuất sản xuất điện thoại là iphone và samsung luôn có những cạnh
tranh khốc liệt về thị trường để thu hút một nhóm khách hàng trên thị trường điện thoại di động .
Trong cuộc tranh này không có người thắng người thua mà nó giúp 2 công ty cùng có những
thay đổi tư duy và công nghệ…. Và nó trực tiếp giúp nền thương mại của thế giới phát triển.
3.3.4 Đối với người lao động
Khi có thương mại thì cầu lao động cũng tăng theo, kéo theo đó là nhiều người có việc làm, giải
quyết vấn đề về nạn thất nghiệp. Đối với chính phủ thì thương mại giúp mở rộng thị trường kinh
tế giữa các nước, đưa ra các chính sách hợp lý nhằm thúc đẩy nên thương mại phát triển
Phần IV: KẾT LUẬN
Tóm Lại Thương mại làm cho mọi người đều có lợi cái lợi về sản xuất và tiêu dùng mà các nước
có thể thu được nhờ tham gia vào nền thương mại quốc tế. Cũng như cá nhân, doanh nghiệp và
khu vực trong một quốc gia, các nước buôn bán với nhau trước hết nhằm thu được các mối lợi từ
chuyên môn hóa. Bằng cách trao đổi một số sản phẩm của mình lấy sản phẩm của nước khác,
một nước có thể nhận được nhiều hàng hóa đa dạng và rẻ hơn so với trường hợp tự sản xuất tất
cả những thứ cần thiết. Quá trình phân công lao động quốc tế, trong đó mỗi nước chuyên môn
hóa vào một số sản phẩm mà nó có lợi thế so sánh, làm cho sản lượng thế giới tăng, qua đó góp
phần nâng cao mức sống thực tế của các nước.
Khi tham gia vào WTO, chúng ta có thể thấy những ảnh hưởng lớn trên cả cấp vĩ mô và vi mô.
Lợi ích lớn nhất mà Việt Nam thu được từ hội nhập là thị trường xuất khẩu thuận lợi cho Việt
Nam mở rộng.Do VN được hưởng qui chế MFN vô điều kiện, theo đó hàng hóa Việt Nam sẽ
được cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ khác, không còn vướng nhiều rào cản về thuế và hạn
ngạch như hiện nay nữa (Hiện nay, thương mại giữa các nước thành viên WTO chiếm tới 90%
khối lượng thương mại thế giới). Từ đó sẽ tăng cường tiềm lực kinh tế thông qua việc đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài.