/3
lOMoARcPSD| 61622044
THUYẾT NHẬN THỨC – NHÓM 6
I/ Nguồn gốc và khái niệm:
- Thuyết nhận thức (Thuyết tri nhận - Cognitivism) ra đời trong nửa đầu của thế kỷ
20 và phát triển mạnh trong nửa sau của thế kỷ 20. Các đại diện lớn của thuyết này
nhà tâm học Jean Piaget cũng như các ntâm học viết như Vưgôtski,
Leontev…
- Thuyết nhận thức (cognitive theory) một thuyết trong lĩnh vực triết học, tâm
học giáo dục, tập trung vào quá trình nhận thức của con người hiểu biết về thế
giới xung quanh, cách kiến thức được xây dựng, tổ chức sử dụng. liên
quan đến quá trình nhận thức, hình thành kiến thức, suy nghĩ, cảm thụ và ý thức.
II/ Quan điểm cơ bản:
- Các thuyết nhận thức nghiên cứu quá trình nhận thức bên trong với cách
một quá trình xử lý thông tin. Bộ não xử các thông tin tương tự như một hệ thống
kỹ thuật.
- Theo thuyết nhận thức, quá trình nhận thức quá trình cấu trúc, ảnh
hưởng quyết định đến hành vi. Con người tiếp thu các thông tin bên ngoài, xử lý và
đánh giá chúng, từ đó quyết định các hành vi ứng xử.
- Trung tâm của quá trình nhận thức là các hoạt động trí tuệ như: xác định, phân tích
và hệ thống hóa các sự kiện và các hiện tượng, nhớ lại những kiến thức đã học, giải
quyết các vấn đề phát triển, hình thành các ý tưởng mới. Cấu trúc nhận thức
của con người không phải bẩm sinh mà hình thành qua kinh nghiệm.
- Mỗi người cấu trúc nhận thức riêng. vậy muốn sự thay đổi đối với một
người thì cần có tác động phù hợp nhằm thay đổi nhận thức của người đó.
- Con người thể tự điều chỉnh quá trình nhận thức: tự đặt mục đích, xây dựng kế
hoạch thực hiện. Trong đó thể tự quan sát, tự đánh giá và tự hưng phấn, không
cần kích thích từ bên ngoài.
- Sau hơn 30 năm nghiên cứu, Jean Piaget đã xác định là có 4 giai đoạn trong lịch sử
phát triển trí tuệ của trẻ em:
Vận động – cảm giác (0 – 2 tuổi):
Trẻ cảm nhận mọi vật qua tri giác, phản ứng mang tính phản xạ.
Tiền thao tác (2 – 7 tuổi):
Nhận thức hạn chế về hội: một cậu bé đánh vỡ 15 cái chén khi giúp mẹ dọn bàn được
coi như lỗi hơn là một cậu chỉ đánh vỡ một cái chén trong khi định ăn cắp bánh
bính qui để trên giá. Trchỉ đánh giá những yếu tố bên ngoài, không nhận thấy bản chất
bên trong.
lOMoARcPSD| 61622044
Lấy mình làm trung tâm (Tính duy kỷ): trẻ tặng ông bố mẹ một cái kẹo mút nghĩ
mình thích nên người lớn cũng sẽ thích. Trẻ nghĩ rằng người lớn sẽ thấy những trẻ
thấy. Trẻ luôn lấy mình làm trung tâm, cho rằng những gì mình làm là đúng nhất.
Tư duy cứng nhắc (Sự bảo thủ): Trong thí nghiệm người ta thấy khi đổ nước từ một chiếc
ly rộng và thấp sang một chiếc ly cao hẹp, trẻ ở tuổi mẫu giáo cho rằng nước bây giờ
nhiều hơn ly mới. Nó nhìn vẻ nhiều hơn nên nó nhiều hơn. Nếu 2 bạn đứng cạnh nhau,
bạn nữ cao hơn bạn nam thì trẻ cho rằng bạn nữ nhiều tuổi hơn. Trẻ nhìn nhận và đánh giá
mọi vật theo nghĩa đen, theo vẻ bề ngoài của nó.
Thời kỳ thao tác cụ thể (7 – 11 tuổi).
Trong giai đoạn này, trẻ bắt đầu suy nghĩ logic về các sự kiện cụ thể:
Tích lũy nhiều kinh nghiệm hơn, trẻ đã được hình thành tư duy đảo ngược, được ứng dụng
trong trường hợp trẻ biết lần theo đường cũ để tìm đồ bị mất.
Trẻ bắt đầu hiểu khái niệm bảo tồn một i đó vẫn giữ nguyên về số lượng mặc
ngoại hình của thay đổi. dụ, lượng chất lỏng trong một cốc ngắn, rộng bằng với ly
cao, hẹp.
Trong giai đoạn này, trẻ em cũng trở nên ít bình thường hơn bắt đầu suy nghĩ về cách
người khác có thể nghĩ và cảm nhận. Trẻ em trong giai đoạn vận hành cụ thể cũng bắt đầu
hiểu rằng suy nghĩ của chúng duy nhất đối với chúng không phải ai khác cũng nhất
thiết phải chia sẻ suy nghĩ, cảm xúc và ý kiến của chúng.
Giai đoạn hoạt động chính thức (12 tuổi – trưởng thành):
Trẻ giai đoạn này duy cao hơn, trẻ đã biết lập luận, giả thiết: Nếu thì. Trẻ tự đặt
ra câu hỏi: Nếu như nghỉ học thì điều gì xảy ra? Nếu như cho chất A vào lọ chứa chất B thì
xảy ra hiện tượng gì?
IV/ Ứng dụng:
- Thuyết nhận thức được áp dụng trong đào tạo trực tuyến theo cách người dạy xây
dựng bài giảng, bài thí nghiệm, bài thực hành mô phỏng có kết hợp âm thanh, hình
ảnh, hoạt hình, video và những nội dung mang tính tương tác nhằm kích thích sự
hưng phấn của người học thông qua hai kênh nghe và nhìn
- Những ứng dụng thuyết nhận thức mang lại thường phổ biến trong văn hóa nghệ
thuật, kinh tế, giaos dục, xây dựng y học,…
- Ứng dụng nhiều trong việc dạy học như: dạy học khám phá, dạy học giải quyết các
vấn đề, dạy học định hướng hành động, dạy học theo nhóm
lOMoARcPSD| 61622044
dụ đối với môn hóa học, trong đợt dịch covid vừa rồi giáo viên không thể trực tiếp
thực hành các thí nghiệm hóa học mà phải sử dụng các clip được quay sẳn để mô phỏng
lại toàn bộ quá trình thí nghiệm để học sinh có được cái nhìn trực quan nhất V/ Hạn chế:
- Giới hạn về thuyết nhận thức là những hạn chế mà con người gặp phải khi cố gắng
hiểu biết về thế giới xung quanh, bao gồm giới hạn của nhận thức cá nhân, giới hạn
của kiến thức hiện giới hạn của ngôn ngữ văn hoá. Điều này thể ảnh
hưởng đến khả năng hiểu biết duy của con người trong quá trình tiếp nhận
thông tin và xử lý kiến thức

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61622044
THUYẾT NHẬN THỨC – NHÓM 6
I/ Nguồn gốc và khái niệm:
- Thuyết nhận thức (Thuyết tri nhận - Cognitivism) ra đời trong nửa đầu của thế kỷ
20 và phát triển mạnh trong nửa sau của thế kỷ 20. Các đại diện lớn của thuyết này
là nhà tâm lý học Jean Piaget cũng như các nhà tâm lý học Xô viết như Vưgôtski, Leontev…
- Thuyết nhận thức (cognitive theory) là một lý thuyết trong lĩnh vực triết học, tâm lý
học và giáo dục, tập trung vào quá trình nhận thức của con người và hiểu biết về thế
giới xung quanh, cách mà kiến thức được xây dựng, tổ chức và sử dụng. Nó liên
quan đến quá trình nhận thức, hình thành kiến thức, suy nghĩ, cảm thụ và ý thức.
II/ Quan điểm cơ bản:
- Các lý thuyết nhận thức nghiên cứu quá trình nhận thức bên trong với tư cách là
một quá trình xử lý thông tin. Bộ não xử lý các thông tin tương tự như một hệ thống kỹ thuật.
- Theo lý thuyết nhận thức, quá trình nhận thức là quá trình có cấu trúc, và có ảnh
hưởng quyết định đến hành vi. Con người tiếp thu các thông tin bên ngoài, xử lý và
đánh giá chúng, từ đó quyết định các hành vi ứng xử.
- Trung tâm của quá trình nhận thức là các hoạt động trí tuệ như: xác định, phân tích
và hệ thống hóa các sự kiện và các hiện tượng, nhớ lại những kiến thức đã học, giải
quyết các vấn đề và phát triển, hình thành các ý tưởng mới. • Cấu trúc nhận thức
của con người không phải bẩm sinh mà hình thành qua kinh nghiệm.
- Mỗi người có cấu trúc nhận thức riêng. Vì vậy muốn có sự thay đổi đối với một
người thì cần có tác động phù hợp nhằm thay đổi nhận thức của người đó.
- Con người có thể tự điều chỉnh quá trình nhận thức: tự đặt mục đích, xây dựng kế
hoạch và thực hiện. Trong đó có thể tự quan sát, tự đánh giá và tự hưng phấn, không
cần kích thích từ bên ngoài.
- Sau hơn 30 năm nghiên cứu, Jean Piaget đã xác định là có 4 giai đoạn trong lịch sử
phát triển trí tuệ của trẻ em:
Vận động – cảm giác (0 – 2 tuổi):
Trẻ cảm nhận mọi vật qua tri giác, phản ứng mang tính phản xạ.
Tiền thao tác (2 – 7 tuổi):
Nhận thức hạn chế về xã hội: một cậu bé đánh vỡ 15 cái chén khi giúp mẹ dọn bàn được
coi như là có lỗi hơn là một cậu bé chỉ đánh vỡ một cái chén trong khi định ăn cắp bánh
bính qui để trên giá. Trẻ chỉ đánh giá những yếu tố bên ngoài, không nhận thấy bản chất bên trong. lOMoAR cPSD| 61622044
Lấy mình làm trung tâm (Tính duy kỷ): trẻ tặng ông bà bố mẹ một cái kẹo mút vì nghĩ
mình thích nên người lớn cũng sẽ thích. Trẻ nghĩ rằng người lớn sẽ thấy những gì mà trẻ
thấy. Trẻ luôn lấy mình làm trung tâm, cho rằng những gì mình làm là đúng nhất.
Tư duy cứng nhắc (Sự bảo thủ): Trong thí nghiệm người ta thấy khi đổ nước từ một chiếc
ly rộng và thấp sang một chiếc ly cao và hẹp, trẻ ở tuổi mẫu giáo cho rằng nước bây giờ có
nhiều hơn ở ly mới. Nó nhìn có vẻ nhiều hơn nên nó nhiều hơn. Nếu 2 bạn đứng cạnh nhau,
bạn nữ cao hơn bạn nam thì trẻ cho rằng bạn nữ nhiều tuổi hơn. Trẻ nhìn nhận và đánh giá
mọi vật theo nghĩa đen, theo vẻ bề ngoài của nó.
Thời kỳ thao tác cụ thể (7 – 11 tuổi).
Trong giai đoạn này, trẻ bắt đầu suy nghĩ logic về các sự kiện cụ thể:
Tích lũy nhiều kinh nghiệm hơn, trẻ đã được hình thành tư duy đảo ngược, được ứng dụng
trong trường hợp trẻ biết lần theo đường cũ để tìm đồ bị mất.
Trẻ bắt đầu hiểu khái niệm bảo tồn là một cái gì đó vẫn giữ nguyên về số lượng mặc dù
ngoại hình của nó thay đổi. Ví dụ, lượng chất lỏng trong một cốc ngắn, rộng bằng với ly cao, hẹp.
Trong giai đoạn này, trẻ em cũng trở nên ít bình thường hơn và bắt đầu suy nghĩ về cách
người khác có thể nghĩ và cảm nhận. Trẻ em trong giai đoạn vận hành cụ thể cũng bắt đầu
hiểu rằng suy nghĩ của chúng là duy nhất đối với chúng và không phải ai khác cũng nhất
thiết phải chia sẻ suy nghĩ, cảm xúc và ý kiến của chúng.
Giai đoạn hoạt động chính thức (12 tuổi – trưởng thành):
Trẻ ở giai đoạn này có tư duy cao hơn, trẻ đã biết lập luận, giả thiết: Nếu – thì. Trẻ tự đặt
ra câu hỏi: Nếu như nghỉ học thì điều gì xảy ra? Nếu như cho chất A vào lọ chứa chất B thì xảy ra hiện tượng gì? IV/ Ứng dụng:
- Thuyết nhận thức được áp dụng trong đào tạo trực tuyến theo cách người dạy xây
dựng bài giảng, bài thí nghiệm, bài thực hành mô phỏng có kết hợp âm thanh, hình
ảnh, hoạt hình, video và những nội dung mang tính tương tác nhằm kích thích sự
hưng phấn của người học thông qua hai kênh nghe và nhìn
- Những ứng dụng mà thuyết nhận thức mang lại thường phổ biến trong văn hóa nghệ
thuật, kinh tế, giaos dục, xây dựng y học,…
- Ứng dụng nhiều trong việc dạy học như: dạy học khám phá, dạy học giải quyết các
vấn đề, dạy học định hướng hành động, dạy học theo nhóm lOMoAR cPSD| 61622044
Ví dụ đối với môn hóa học, trong đợt dịch covid vừa rồi giáo viên không thể trực tiếp
thực hành các thí nghiệm hóa học mà phải sử dụng các clip được quay sẳn để mô phỏng
lại toàn bộ quá trình thí nghiệm để học sinh có được cái nhìn trực quan nhất V/ Hạn chế:
- Giới hạn về thuyết nhận thức là những hạn chế mà con người gặp phải khi cố gắng
hiểu biết về thế giới xung quanh, bao gồm giới hạn của nhận thức cá nhân, giới hạn
của kiến thức hiện có và giới hạn của ngôn ngữ và văn hoá. Điều này có thể ảnh
hưởng đến khả năng hiểu biết và tư duy của con người trong quá trình tiếp nhận
thông tin và xử lý kiến thức